Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Bài thu hoạch diễn án hành chính hồ sơ 17 khiếu kiện quyết định hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.87 KB, 13 trang )

BỘ TƯ PHÁP
HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHOA ĐÀO TẠO LUẬT SƯ

BÀI THU HOẠCH
MÔN: KỸ NĂNG CƠ BẢN CỦA LUẬT SƯ KHI THAM GIA
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
(Mã số: LS-HC 12/DA2 Khiếu kiện Quyết định xử phạt vi phạm hành chính)

Họ và tên

:A

Số báo danh

:A

Lớp

:A

Ngày diễn

:A
Tp. Hồ Chí Minh, ngày A tháng A năm A

1


I. TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Đương sự tham gia vụ án:


- Người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị Tuyết, sinh ngày 1982
Địa chỉ: số 241 Lê Lai, tổ 9, phường Đông Lân, thành phố P, tỉnh GL.
Đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện: Ông Mai Tuấn Anh, sinh năm 1977.
Địa chỉ: số 33 Minh Khai, phường Bùi Thị Xuân, thành phố P, tỉnh GL.
- Người bị kiện: Ông Trần Ngọc Minh - Chánh Thanh tra Sở Văn hoá, thế thao và du
lịch tỉnh GL
Địa chỉ: Số 06 Trần Hưng Đạo, thành phố P, tỉnh GL.
Đại diện theo ủy quyền của người bị kiện: Ông Dương Văn Thành – Phó Chánh Thanh
tra Sở Văn hoá, thế thao và du lịch tỉnh GL.
- Người làm chứng:
1. Ông Nguyễn Văn Thường, CMND số 95017163
Điạ chỉ: Trung đoàn X tỉnh G.L
2. Bà Nguyễn Thị Lành, CMND số 230547723
3. Ông Phan Văn, sinh năm 1984
Địa chỉ: 03 Trần Bình Trọng, Thị xã K
4. Bà Nguyễn Thị Thùy, sinh năm 1989
Điạ chỉ: Xã Vinh Quang, tỉnh K.

2


2. Tóm tắt nội dung:
Vào lúc 21giờ 10 phút ngày 23/12/2013, Đoàn kiểm tra của Thanh tra Sở Văn hoá, thế
thao và du lịch tỉnh GL đã đến kiểm tra cơ sở kinh doanh của bà Nguyễn Thị Tuyết tại số
241 đường Lê Lai, thành phố P, tỉnh GL. Sau khi kiểm tra Đoàn đã lập biên bản vi phạm
hành chính trong hoạt động văn hoá, thế thao và du lịch số 11/BB-VPHC có nội dung như
sau:
“Tại thời điểm kiểm tra nhà trọ Hồng Lan phịng số 11 có ơng Nguyễn Văn Thường
và bà Nguyễn Thị Lành khơng có giấy kết hơn, đang quan hệ vợ chồng (quan hệ tình dục),
phịng số 09 có ơng Phan Văn và bà Nguyễn Thị Thùy khơng có giấy kết hơn đang xem tivi.

Vào thời điểm kiểm tra tại phòng số 11, chủ cơ sở kinh doanh phịng trọ Hồng Lan khơng
vào sổ bà Nguyễn Thị Lợi”.
Ngày 10/3/2014 ơng Trần Ngọc Minh (Phó giám đốc kiêm Chánh Thanh tra Sở Văn
hoá, thể thao và du lịch tỉnh GL) đã ban hành Quyết định số 23/QĐ-XP xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực Văn hoá, thể thao và du lịch đối với bà Tuyết, hình thức phạt tiền
là 15.000.000 đồng với lý do vi phạm tại khoản 1, Điều 25, Nghị định 167/2013/NĐ-CP:
“thiếu tinh thần trách nhiệm, tạo điều kiện cho người khác lợi dụng cơ sở kinh doanh có
điều kiện về an ninh trật tự để tổ chức hoạt động mại dâm”.
Ngày 17/3/2014, Thanh tra Sở Văn hoá, thể thao và du lịch giao Quyết định số 23/QĐXP cho bà Nguyễn thị Tuyết. Ngày 18/3/2014, phía Thanh tra Sở cho rằng do sơ sót về mặt
hình thức nên có cơng văn đính chính Quyết định số 23/QĐ-XP.
Ngày 24/3/2014, bà Tuyết làm Đơn khiếu nại (lần đầu), vì không đồng ý với nội dung
Quyết định số 23/QĐ-CP do vi phạm thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính,
khơng ghi đầy đủ về mặt nội dung và trên thực tế bà Tuyết không vi phạm nội dung như
quyết định đã nêu.
Ngày 07/04/2014, Sở Sở Văn hoá, thể thao và du lịch tỉnh GL đã có Cơng văn số
167/CV-VHTTDL về việc trả lời đơn khiếu nại của bà Tuyết đối với Quyết định xử phạt vi
phạm hành chính số 23.
3


Ngày 20/4/2014, Thanh tra Sở đã ban hành Quyết định số 01/QĐ-TTr với nội dung
“giữ nguyên mức phạt 15.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm của bà Nguyễn Thị Tuyết”.
Nhận thấy việc ra Quyết định giữ nguyên nội dung như trên là không đúng pháp luật,
xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Tuyết nên ngày 02/5/2014, bà Tuyết đã làm
đơn khởi kiện Chánh Thanh tra Sở Văn hoá, thể thao và du lịch ra Tòa án nhân dân tỉnh GL,
yêu cầu Tòa hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Văn hoá, thể thao và
du lịch số 23/QĐ-XP của Chánh Thanh tra Sở Văn hoá, thể thao và du lịch ban hành ngày
10/3/2014.
3. Đối tượng khởi kiện:
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Văn hoá, thể thao và du lịch số

23/QĐ-XP của Chánh Thanh tra Sở Văn hoá, thể thao và du lịch ban hành ngày 10/3/2014.
4. Yêu cầu khởi kiện:
Yêu cầu Tòa hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Văn hoá, thể
thao và du lịch số 23/QĐ-XP của Chánh Thanh tra Sở Văn hoá, thể thao và du lịch ban hành
ngày 10/3/2014.
5. Ý kiến phản đối của người bị kiện:
Đề nghị Tòa xem xét và giữ nguyên Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực Văn hoá, thể thao và du lịch số 23/QĐ-XP của Chánh Thanh tra Sở Văn hoá, thể
thao và du lịch ban hành ngày 10/3/2014.
II. KẾ HOẠCH XÉT HỎI.
1. Nội dung hỏi Người bị kiện: ông Dương Văn Thành (đại diện theo ủy quyền của ông
Minh)
1. Ông cho biết căn cứ vào đâu để ra Quyết định số 23 xử phạt vi phạm của bà
Nguyễn Thị Tuyết?
2. Có phải Thanh tra Sở đã áp dụng Nghị định 158/2013 để xác định hành vi vi
phạm của bà Tuyết khơng?
3. Nghị định 158/2013 có hiệu lực từ ngày 01/01/2014 đúng không?

4


4. Vậy việc lập Biên bản số 11 là vào ngày 23/12/2013, trước 07 ngày Nghị định
158 có hiệu lực đúng khơng?
5. Có phải đến ngày 10/3/2014 ra Quyết định xử phạt đúng khơng?
6. Có phải Nghị định 167/2013 có hiệu lực kể từ ngày 28/12/2013 đúng không?
7. Biên bản số 11 lập trước 05 ngày Nghị định 167/2013 có hiệu lực đúng không?
8. Quyết định số 23 áp dụng khoản 1 Điều 25 NĐ 167/2013 để xử phạt bà Tuyết
đúng không?
9.


Hành vi vi phạm của bà Tuyết được xác định trong Quyết định số 23 là:

“thiếu trách nhiệm tạo điều kiện cho người khác lợi dụng cơ sở kinh doanh có điều
kiện để tổ chức hoạt động mại dâm” đúng không?
10. Tại sao trong Biên bản vi phạm hành chính do Đồn kiểm tra của thanh tra sở
lập ngày 23/12/2013 khi kiểm tra nhà trọ Hoàng Lan 23/12/2013 áp dụng Nghị định
số 158/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 và trong Quyết định số 23 lại áp dụng Nghị
định sớ 167/NĐ-CP?
11. Ơng cho biết như thế nào gọi là hoạt động “mại dâm”?
12. Tại thời điểm kiểm tra, các ơng có thấy việc giao nhận tiền bạc hoặc giá trị vật
chất của các đối tượng trên khơng?
13. Trong các bản tường trình về sự việc ngày hơm đó các đối tượng trên có khai
nhận về việc giao tiền, bạc hay không?
14. Các ông giao quyết định số 23 cho bà Tuyết vào ngày tháng năm nào?
15. Có phải Quyết định số 23/QĐ-XP có quy định trong thời hạn 03 ngày Quyết
định này được gửi cho bà Tuyết để chấp hành đúng không?
16. Có phải Quyết định 23 lại được lập vào ngày 10/3/2014, tức là đã quá hơn 60
ngày kể từ ngày lập Biên bản vi phạm hành chính vào ngày 23/12/2013 đúng khơng ?
Ơng giải thích sao về điều này?
17. Tại sao khi phát hiện ra có các thiếu sót nêu trên, Phía Thanh tra Sở khơng tiến
hành thưc hiện thu hồi mà lại ban hành một cơng văn hành chính?
2. Nợi dung hỏi Người khởi kiện: ông Mai Tuấn Anh (đại diện theo ủy quyền của bà
Tuyết)
5


1. Ơng cho biết tại sao phía người khởi kiện lại yêu cầu hủy QĐ số 23 ngày
10/3/2014 của ông Chánh Thanh tra Sở VH-TT-DL?
2. Ông cho biết bà Tuyết nhận Quyết định số 23 vào ngày 17/3/2014 đúng
khơng?

3. Đồn kiểm tra đến nhà trọ của bà Tuyết ngày tháng năm nào? Khi lập biên bản
có đọc cho bà Tuyết nghe khơng?
4. Quyết định số 23 có ghi ngày tháng năm phải thực hiện không?
5. Bà nhận được Quyết định đính chính vào thời gian nào?
3. Nợi dung hỏi Người làm chứng:
3.1.

Hỏi ơng Ngũn Văn Thường:
-

Ơng có mới quan hệ như thế nào với bà Ngũn Thị Lành?

-

Ơng có đưa hoặc nhận tiền hoặc tài sản khác để quan hệ vợ chồng với bà
Nguyễn Thị Lành không?

-

Khi đoàn Thanh tra vào kiểm tra thì họ có lấy hoặc giữ tiền hay tài sản
khác của Ông để làm chứng cứ lập biên bản hoặc khơng?

-

Ơng có ý kiến gì về Nợi dung tại Biên bản số 11/BB-VPHC ngày
23/12/2013 do đoàn kiểm tra của Sở văn hoá, thể thao và du lịch?

3.2.

Hỏi bà Nguyễn Thị Lành:

-

Bà và Ông Nguyễn Văn Thường có mối quan hệ như thế nào?

-

Khi đoàn Thanh tra vào kiểm tra thì họ có lấy hoặc giữ tiền hay tài sản
khác của bà để làm chứng cứ lập biên bản hoặc khơng?

-

Bà có đưa hoặc nhận tiền hoặc tài sản khác để quan hệ vợ chồng với ông
Nguyễn Văn Thường không?

-

Bà có ý kiến gì về Nội dung tại Biên bản số 11/BB-VPHC ngày 23/12/2013
do đoàn kiểm tra của Sở văn hoá, thể thao và du lịch ?

3.3.

Hỏi ông Phan Văn:
-

Ơng có mới quan hệ như thế nào với bà Nguyễn Thị Thuỳ?

-

Khi đoàn Thanh tra vào kiểm tra phòng 9 thì Ông đang làm gì?


-

Khi đoàn Thanh tra vào kiểm tra thì họ có lấy hoặc giữ tiền hay tài sản
khác của ông để làm chứng cứ lập biên bản hoặc không?
6


-

Ơng có ý kiến gì về Nợi dung tại Biên bản số 11/BB-VPHC ngày
23/12/2013 do đoàn kiểm tra của Sở văn hoá, thể thao và du lịch?

3.4.

Hỏi bà Nguyễn Thị Thuỳ:
-

Bà và ông Phan Văn có mối quan hệ như thế nào?

-

Khi đoàn Thanh tra vào kiểm tra thì họ có lấy hoặc giữ tiền hay tài sản
khác của bà để làm chứng cứ lập biên bản hoặc không?

-

Khi đoàn Thanh tra vào kiểm tra phòng 9 thì bà đang làm gì?

-


Bà có ý kiến gì về Nội dung tại Biên bản số 11/BB-VPHC ngày 23/12/2013
do đoàn kiểm tra của Sở văn hoá, thể thao và du lịch ?

III. BẢN LUẬN CỨ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO NGƯỜI KHỞI
KIỆN LÀ BÀ NGUYỄN THỊ TUYẾT
Kính thưa Hội đồng xét xử;
Thưa vị đại diện Viện kiểm sát;
Thưa Luật sư đồng nghiệp!
Tôi là Luật sư A thuộc Công ty TNHH A, Đồn Luật sư Thành phố Hờ Chí Minh. Hôm
nay, được sự chấp thuận của Hội đồng xét xử và theo yêu cầu của người khởi kiện, tôi tham
gia phiên tòa với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng của tơi
là bà Nguyễn Thị Tuyết cũng là người khởi kiện trong vụ án hành chính này.
Qua phần trình bày của các đương sự và phần xét hỏi công khai tại phiên tịa hơm nay
đã thể hiện rõ nội dung vụ án, tơi xin phép khơng tóm tắt lại nội dung vụ án này.
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án và diễn biến của phiên tịa hơm nay, tơi xin nêu một số
quan điểm để bảo vệ quyền lợi cho thân chủ mình như sau:
Về thẩm quyền thụ lý: Bà Tuyết yêu cầu Tòa án hủy bỏ Quyết định số 23/QĐ-XP của
Chánh thanh tra Sở văn hoá, thể thao và du lịch tỉnh GL, đây là quan hệ pháp luật về xử lý vi
phạm hành chính, quyết định này do Chánh thanh tra Sở văn hoá, thể thao và du lịch tỉnh GL
ban hành. Căn cứ tại khoản 1, Điều 30; khoản 3 Điều 32 Luật Tố tụng Hành chính 2015 thì
7


vụ án này thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân tỉnh GL do đó Toà án nhân dân tỉnh GL
thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.
Về đối tượng khởi kiện: Bà Tuyết cho rằng Chánh thanh tra Sở văn hoá, thể thao và
du lịch tỉnh GL ban hành Quyết định số 23/QĐ-XP Xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt
động Văn hoá, thể thao và du lịch làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp
của bà Tuyết, do đó bà Tuyết có quyền khởi kiện theo quy định tại Điều 5 và khoản 1 Điều
115 Luật tố tụng hành chính.

Về thời hiệu khởi kiện: Ngày 02/5/2014 bà Tuyết khởi kiện Quyết định Số 23/QĐ-XP
của Chánh thanh tra Sở văn hoá, thể thao và du lịch tỉnh GL ban hành ngày 10/3/2014. Theo
quy định tại Điều 116 Luật tố tụng hành chính thì thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính
là 01 năm. Do đó vẫn còn thời hiệu khởi kiện nên Toà án thụ lý giải quyết là có căn cứ.
Về tuân theo pháp luật tố tụng của thẩm phán: Từ khi thụ lý đến thời điểm này thấy
rằng: Thẩm phán đã thực hiện đúng quy định theo Điều 38 Luật tố tụng hành chính, như
thông báo cho đương sự biết về thụ lý vụ án hành chính, thông báo nộp tiền tạm ứng án phí
theo quy định tại Điều 125, Điều 126 Luật tố tụng hành chính; tổ chức đối thoại giữa các
đương sự được quy định tại Điều 20 Luật Tố tụng hành chính.
Về yêu cầu khởi kiện: Người khởi kiện là bà Nguyễn Thị Tuyết (đại diện theo ủy
quyền là ông Mai Tuấn Anh) yêu cầu Tòa án hủy bỏ Quyết định số 23/QĐ-XP trên là có căn
cứ và có cơ sở để chấp nhận vì những lý do sau đây:
Thứ nhất: Biên bản số 11/BB-VPHC ngày 23/12/2013 do đoàn kiểm tra của Sở văn
hoá, thể thao và du lịch lập không đúng quy định của pháp luật. Biên bản căn cứ Nghị định
158/2013/NĐ-CP làm căn cứ xử phạt nhưng Nghị định này có hiệu lực vào ngày 01/01/2014
trước ngày xảy ra hành vi vi phạm của bà Tuyết là 07 ngày. Việc áp dụng Nghị định này làm
căn cứ xử phạt là trái với điều 83 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 có quy
định:
“1. Văn bản quy phạm pháp luật áp dụng từ thời điểm bắt đầu có hiệu lực.

8


Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng đối với hành vi xảy ra tại thời điểm mà văn
bản đó đang có hiệu lực. Trong trường hợp văn bản có hiệu lực trở về trước thì áp dụng
theo quy định đó…”
Như vậy qua sự phân tích trên đã chứng minh rằng Biên bản số 11 mà đoàn kiểm tra
của Sở lập là không đúng theo quy định, trái nguyên tắc áp dụng pháp luật. Nên biên bản
này hoàn toàn khơng có giá trị pháp lý do đó khơng thể làm căn cứ ra Quyết định xử phạt bà
Tuyết.

Thứ hai: Quyết định số 23/QĐ-XP ngày 23/12/2013 có nội dung không đầy đủ và
không phù hợp theo quy định của pháp luật.
Tại Điều 2 của Quyết định không ghi ngày tháng năm giao Quyết định xử phạt đồng
thời tại Điều 3 cũng khơng ghi thời điểm có hiệu lực của Quyết định. Theo như phía người
bị kiện trình bày tại phiên Tịa hơm nay do có những sai sốt về mặt hình thức nên đã có
Cơng văn số 02/2014 ngày 18/3/2014 để đính chính. Nhưng theo lời trình bày của thân chủ
tơi thì ngày nhận Quyết định đính chính là ngày 31/3/2014 (Cơng văn số 167 ngày
07/4/2014 phía người bị kiện cũng khẳng định là ngày 31 mới gởi Quyết định đính chính).
Bên cạnh đó, Quyết định số 23/QĐ-XP khơng xác định ngày có hiệu lực thi hành. Điều
3 của Quyết định ghi là “trong thời hạn 3 ngày” nhưng không rõ là 03 ngày kể từ ngày nào.
Nếu cho là 03 ngày kể từ ngày ra quyết định thì quy định như vậy là trái với quy định tại
Điều 70 Luật Xử lý vi phạm hành chính: “Trong thời hạn 2 ngày làm việc, kể từ ngày ra
quyết định xử phạt vi phạm hành chính có lập biên bản, người có thẩm quyền đã ra quyết
định xử phạt phải gửi cho cá nhân, tổ chức bị xử phạt, cơ quan thu tiền phạt và cơ quan liên
quan khác (nếu có) để thi hành”.
Thứ ba: Nội dung của Quyết định số 23/QĐ-XP xác định rằng bà Tuyết “thiếu tinh
thần trách nhiệm tạo điều kiện cho người khác lợi dụng cơ sở kinh doanh có điều kiện an
ninh trật tự để tổ chức hoạt động mại dâm” là không đúng sự thật khách quan.
Biên bản số 11/BB-VPHC ghi nhận hành vi vi phạm của bà Tuyết như sau: “Tại thời
điểm kiểm tra nhà trọ Hồng Lan phịng 11 có ơng Nguyễn Văn Thường và bà Nguyễn Thị
9


Lành khơng có giấy kết hơn đang quan hệ vợ chồng (quan hệ tình dục); phịng 09 có ơng
Phan Văn và bà Nguyễn Thị Thùy khơng có giấy kết hơn đang xem tivi. Tại thời điểm kiểm
tra khơng có vào sổ bà Nguyễn Thị Lành”. Thanh tra Sở Văn hoá, thể thao và du lịch đã trả
lời trong các công văn gửi cho Tịa án cũng như trình bày tại phiên Tịa hơm nay khẳng định
hành vi quan hệ tình dục của ông Thường bà Lành là hoạt động mại dâm là khẳng định
khơng có cơ sở. Bởi theo Pháp lệnh phòng chống mại dâm 2003 của Uỷ ban thường vụ Q́c
hợi khóa XI:

“1. Bán dâm là hành vi giao cấu của một người với một người khác để được trả tiền
hoặc lợi ích vật chất khác.
2. Mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác trả cho người
bán dâm để được giao cấu.
3. Mại dâm là hành vi mua dâm, bán dâm.”
Nếu xác định đây là hành vi mại dâm thì đồng thời phải làm rõ họ có hành vi mua dâm,
bán dâm phải chứng minh họ có hành vi giao cấu để trả tiền, nhận tiền hay cho, nhận lợi ích
vật chất khác. Tại biên bản số 11 cũng như các bản tường trình của ơng Thường và bà Lành
hồn tồn khơng có ghi nhận sự việc có trao đởi tiền hay cho nhận, lợi ích vật chất khác.
Tại bản tường trình ngày 29/5/2014 của Chánh thanh tra đã nhiều lần yêu cầu bà Tuyết
chứng minh các đối tượng trên là vợ, chồng để làm căn cứ không xử phạt đối với hoạt động
mại dâm. Theo quy định cũ tại Mục 8.5 Phần IV  02/2001/TT-BCA (đã hết hiệu lực vào
ngày 20/11/2010) thì tổ chức, cá nhân hoạt động ngành nghề cho thuê lưu trú (trong trường
hợp này là kinh doanh nhà nghỉ) “phải bố trí phịng nghỉ nam riêng, nữ riêng (trừ trường
hợp là gia đình, vợ chồng”. Tuy nhiên, Thơng tư 33/2010/TT-BCA thay thế Thông tư
02/2001/TT-BCA đã hủy bỏ quy định này. Do đó, bà Tuyết khơng có trách nhiệm u cầu
các khách thuê phòng nêu trên chứng minh họ là vợ chồng hợp pháp. Bên cạnh đó, theo
điểm đ, khoản 1, Điều 3 Luật xử ý vi phạm hành chính 2012 thì “Người có thẩm quyền
XPVPHC có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt có
quyền tự mình hoặc thơng qua người đại diện chứng minh mình khơng vi phạm hành chính”.
Vì vậy việc Chánh thanh tra đã nhiều lần yêu cầu bà Tuyết chứng minh các đối tượng trên là
10


vợ, chồng là trái với nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính, vì rõ ràng Luật khơng buộc bà
Tuyết có nghĩa vụ là tự mình chứng minh mình khơng vi phạm mà nghĩa vụ chứng minh vi
phạm thuộc về cơ quan xử lý vi phạm.
Chính vì vậy Quyết định số 23/QĐ-XP áp dụng nội dung trích dẫn như trên để xử phạt
bà Tuyết là khơng có cơ sở, khơng đúng sự thật khách quan của vụ việc.
Thứ tư: Việc Quyết định số 23/QĐ-XP áp dụng Khoản 1 Điều 25 Nghị định sớ

167/2013/NĐ-CP chưa có hiệu lực tại thời điểm vi phạm để xử phạt bà Tuyết là không đúng
pháp luật.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 72 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP thì Nghị định này
có hiệu lực thi hành kể từ ngày 28/12/2013, còn thời điểm mà đoàn kiểm tra lập biên bản xử
phạt bà Tuyết là vào ngày 23/12/2013, tức là trước 05 ngày Nghị định sớ 167/2013/NĐ-CP
có hiệu lực.
Căn cứ khoản 1, Điều 73 NĐ 167/2013/NĐ-CP quy định điều khoản chuyển tiếp quy
như sau:
“Đối với hành vi vi phạm trong các lĩnh vực an ninh trật tự, an tồn xã hội phịng
chống tệ nạn xã hội xảy ra trước ngày Nghị định này có hiệu lực mà sau đó mới bị phát hiện
hoặc đang xem xét giải quyết thì áp dụng các quy định có lợi cho cá nhân, tổ chức vi phạm.”
Tại khoản 1, điều 25 Nghị định sô 167/2013/NĐ-CP quy dịnh xử phạt đối với hành vi
thiếu trách nhiệm để xảy ra hoạt động mại dâm là phạt tiền từ 15.000.000 đồng - 20.000.000
đồng, trong khi đó tại khoản 2 Điều 20 Nghị định 178/2004/NĐ-CP là nghị định cũng xử
phạt hành vi này nhưng có hiệu lực trước Nghị định 167/2013/NĐ-CP thì quy định phạt tiền
10.000.000 đồng-15.000.000 đồng. Việc áp dụng quy định xử phạt tại Nghị định
167/2013/NĐ-CP chưa có hiệu lực rõ ràng là không đúng quy định của pháp luật, vi phạm
Khoản 1 Điều 83 Luật ban hành Văn bản quy phạm pháp ḷt 2008 mà tơi đã phân tích ở
trên.

11


Thứ năm: Chánh thanh tra Sở văn hoá, thể thao và du lịch khơng có thẩm quyền ban
hành Quyết định số 23/QĐ-XP. Vì căn cứ theo Điều 69 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy
định về thẩm quyền xử phạt hành chính của Thanh tra, Quản lý thị trường:
“Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội có thẩm quyền xử phạt theo quy định
của Luật xử lý vi phạm hành chính đối với những hành vi quy định tại Mục 2 Chương II;
Thanh tra Văn hóa, Thể thao và Du lịch có thẩm quyền xử phạt theo quy định của Luật
xử lý vi phạm hành chính đối với những hành vi quy định tại Mục 4 Chương II ; các lực

lượng Thanh tra chuyên ngành, Quản lý thị trường có thẩm quyền xử phạt theo quy định của
Luật xử lý vi phạm hành chính đối với các hành vi quy định tại Điều 20 Nghị định này theo
chức năng, nhiệm vụ trong phạm vi, lĩnh vực mình quản lý.”
Mà quy định về “Hành vi lợi dụng kinh doanh, dịch vụ để hoạt động mua dâm, bán
dâm” nằm ở Mục 2 Chương II thuộc thẩm quyền của Thanh tra Lao động -Thương binh và
Xã hội. Còn mục 4 Chương II của Nghị đỉnh 167/2013/NĐ-CP quy định về vi phạm hành
chính về phịng chống bạo lực gia đình, khơng đề cập về hành vi trên. Do đó,Thanh tra Sở
Văn hoá, thể thao và du lịch khơng có thẩm quyền xử phạt bà Tút về Hành vi lợi dụng
kinh doanh, dịch vụ để hoạt động mua dâm, bán dâm.
Thứ sáu: Quyết định số 23/QĐ-XP ban hành trong khi đã hết thời hạn ra Quyết định
Xử phạt vi phạm hành chính. Điều 66 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 có quy định
về thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính:
“1. Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải ra quyết định xử phạt vi
phạm hành chính trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính. Đối
với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp mà khơng thuộc trường hợp giải trình hoặc đối với vụ
việc thuộc trường hợp giải trình theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 61 của Luật này
thì thời hạn ra quyết định xử phạt tối đa là 30 ngày, kể từ ngày lập biên bản.
Trường hợp vụ việc đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp và thuộc trường
hợp giải trình theo quy định tại đoạn 2 khoản 2 và khoản 3 Điều 61 của Luật này mà cần có
thêm thời gian để xác minh, thu thập chứng cứ thì người có thẩm quyền đang giải quyết vụ
12


việc phải báo cáo thủ trưởng trực tiếp của mình bằng văn bản để xin gia hạn; việc gia hạn
phải bằng văn bản, thời hạn gia hạn không được quá 30 ngày”.
Căn cứ vào quy định như trên thì thời hạn tối đa để ra quyết định xử phạt đối với bà
Tuyết (kể cả thời gian xin gia hạn thêm) là 60 ngày. Trong khi, bà Tuyết bị lập biên bản vào
ngày 23/12/2013 đến ngày 10/3/2014 mới ban hành Quyết định số 23 xử phạt vi phạm hành
chính. Vậy tổng cộng thời gian ban hành quyết định xử phạt là 77 ngày vượt quá 17 ngày so
với thời hạn luật định. Do đó, Quyết định này đã vi phạm nghiêm trọng thời hạn ra quyết

định xử phạt vi phạm hành chính.
Từ những phân tích nêu trên có thể chứng minh Quyết định số 23/QĐ-XP ngày
10/3/2014 của Chánh thanh tra Sở Văn hoá, thể thao và du lịch ban hành trái pháp luật. Do
đó, tơi kính đề nghị Hợi đờng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Tuyết:
- Tuyên hủy toàn bộ Quyết định số 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014 của Chánh thanh tra Sở
Văn hoá, thể thao và du lịch tỉnh GL.
Cám ơn Hội đồng xét xử đã lắng nghe.

13



×