Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

đánh giá quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở việt nam và các giải pháp đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.49 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 2
I.MỤC TIÊU CỦA TIỂU LUẬN 2
II.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2
III.PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3
PHẦN NỘI DUNG 4
ITỔNG QUAN VỀ CỔ PHẦN HÓA 4
I.1Lý luận về cổ phần hóa và công ty cổ phần 4
I.1.1Quan niệm về cổ phần hóa 4
I.1.2Quan niệm về công ty cổ phần 4
I.1.3Mục tiêu và đối tượng của cổ phần hóa 5
I.2Sự cần thiết phải cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 6
I.2.1Thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước hiện nam 6
I.2.2Vai trò của cổ phần hóa và sự cần thiết phải tiến hành cổ phần hóa ở Việt Nam 7
I.3Kinh nghiệm cổ phần hóa của Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 8
I.4Cơ sở pháp lý về cổ phần hóa tại Việt Nam 9
IITHỰC TRẠNG CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM 9
II.1Thực trạng cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam 9
II.1.1Giai đoạn thí điểm (1992-5/1996) 9
II.1.2Giai đoạn thí điểm mở rộng (5/1996-6/1998) 10
II.1.3Giai đoạn triển khai từ tháng 7/1998 đến nay 10
II.2Thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực hiện CPH 12
II.2.1Thuận lợi 12
II.2.2Khó khăn 13
II.3Những thành tựu đạt được từ việc CPH 14
II.4Những hạn chế trong công tác CPH 15
IIIGIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA 19
III.1Thách thức trong quá trình thực hiện cổ phần hóa DNNN hiện nay 19
III.2Giải pháp 20
III.2.1Giải pháp vĩ mô: 20
III.2.2Giải pháp vi mô: 21


KẾT LUẬN 21
LỚP: K19 ĐÊM 8 Trường ĐH kinh tế Tp.HCM
LỜI NÓI ĐẦU
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về cải cách kinh tế, các chính sách về tự do hóa
thương mại – đầu tư và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã và đang hoàn thiện dần cơ chế
nhằm đảm bảo cho nền kinh tế phát triển phù hợp với quá trình toàn cầu hóa và khu vực hóa.
Song song với việc cải cách kinh tế, Việt Nam đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, gia nhập tổ chức WTO, một sân chơi nhiều thuận lợi nhưng cũng đầy thách thức và khó
khăn.
Thực tiễn đặt ra như vậy, đòi hỏi nền kinh tế của VN trong những năm tiếp theo phải thực sự
vững mạnh và phát triển. Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhà nước vốn được biết đến là giữ
vị trí chủ đạo, hoạt động trong lĩnh vực then chốt của nền kinh tế nước ta nhưng lại có cơ chế
quản lý thiếu chặt chẽ, trình độ công nghệ sản xuất tụt hậu, thiếu năng động trong kinh doanh, bộ
máy quản lý cồng kềnh, không hiệu quả từ nhiều năm nay. Chính vì vậy mà Hội nghị Trung ương
Đảng lần thứ ba (Khóa IX) đã khẳng định: “Đẩy mạnh cổ phần hóa những doanh nghiệp nhà
nước mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn, xem đó là khâu quan trọng để tạo chuyển biến cơ
bản trong việc nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước”
Trước chủ trương đúng đắn và rất cần thiết đối với tiến trình phát triển của đất nước về việc đổi
mới và sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, chúng tôi đã chọn đề tài “Đánh giá quá trình cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam và các giải pháp đẩy mạnh quá trình cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới”
Ι. MỤC TIÊU CỦA TIỂU LUẬN
Từ năm 1991 đến nay, nhiều công ty cổ phần VN đã ra đời và được phân bố dọc theo chiều dài
đất nước, và theo thời gian chính sự tồn tại và phát triển không ngừng của chúng đã mang lại
nhiều thành quả đáng kể như hiệu quả hoạt động của DN được nâng cao, cơ cấu quản lý doanh
nghiệp đi dần đến hoàn thiện, doanh thu và lợi nhuận không ngừng nới rộng, đời sống của người
lao động ngày càng cải thiện theo mức thu nhập ngày một gia tăng, và doanh thu cho ngân sách
nhà nước từ những khoản thuế của DN ngày được chất chồng thêm, cũng có nghĩa là uy tín và tên
tuổi của chúng đang dần lan xa, và tại sao chúng trở thành những mục tiêu chính yếu luôn nằm
trong tằm ngắm của nhiều nhà đầu tư nước ngoài . Điều đó đã chứng tỏ rằng: “CPH DNNN ở

Việt Nam” trở thành một tất yếu khách quan, một xu hướng phù hợp với thời đại. Song bên cạnh
những thành tựu đã đạt được thì nhìn chung tiến độ thực thi còn chậm, vẫn còn nhiều vấn đề tồn
tại cần phải giải quyết. Chính vì vậy, việc nghiên cứu lý luận, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để
tìm ra giải pháp thúc đẩy tiến trình CPH ở nước ta có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Do đó, qua đề
tài này chúng tôi muốn mang đến cho các bạn cái nhìn tổng quan về thực trạng quá trình cổ phần
hóa DNNN ở VN và cùng nhau thảo luận về các giải pháp nhằm nâng cao tính hiệu quả của các
công ty cổ phần hóa DNNN xứng tầm với vị thế vốn có của nó, đóng góp vào nền tăng trưởng
kinh tế của nước nhà ngày một phồn vinh sung mãn.
ΙΙ. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
 Phương pháp thống kê: Chỉ tiêu thống kê là sự biểu hiện một cách tổng hợp đặc điểm về
mặt lượng trong sự thống kê về mặt chất của tổng thể hiện tượng trong điều kiện về thời
gian và địa điểm cụ thể. Phương pháp thống kê được sử dụng chủ yếu là thu thập các số
liệu và tổng hợp lại theo trình tự để thuận lợi cho quá trình đánh giá.
 Phương pháp so sánh: Đây là phương pháp được áp dụng rất phổ biến. So sánh là đối
chiếu các chỉ tiêu, các hiện tượng kinh tế đã được lượng hóa có cùng một nội dung, có
tính chất tương tự để xác đinh xu hướng biến động của các chỉ tiêu. Trên cơ sở đó ta có
NHÓM 5 Trang 2
LỚP: K19 ĐÊM 8 Trường ĐH kinh tế Tp.HCM
thể đánh giá một cách khách quan, những mặt phát triển hay chưa phát triển, hiệu quả hay
kém hiệu quả, để từ đó đưa ra cách giải quyết, các biện pháp nhằm đạt được hiệu quả tối
ưu.
ΙΙΙ. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Do thời gian nghiên cứu ngắn, phạm vi và lĩnh vực nghiên cứu còn cần nhiều cải cách, định
hướng cho nên đề tài nghiên cứu của chúng tôi tập trung vào việc tìm hiểu khái quát về:
 Cổ phần hóa và các lí do dẫn đến cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam
cũng như các quy định hiện hành của khung pháp lý về cổ phần hóa.
 Thực trạng cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước và đánh giá những thành tựu, cũng
như các hạn chế còn tồn tại trong quá trính cổ phần hóa thời gian qua.
 Nhận thức những thách thức cho quá trình cổ phần hóa và đưa ra các giải pháp đẩy nhanh
tiến độ cổ phàn hóa hiện nay.

NHÓM 5 Trang 3
LỚP: K19 ĐÊM 8 Trường ĐH kinh tế Tp.HCM
PHẦN NỘI DUNG
Ι TỔNG QUAN VỀ CỔ PHẦN HÓA
I.1 Lý luận về cổ phần hóa và công ty cổ phần
I.1.1 Quan niệm về cổ phần hóa
Theo tài liệu của hầu hết các học giả nước ngoài thì việc xem xét vấn đề cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước đều đặt nó trong một quá trình rộng lớn hơn đó là quá trình tư nhân hóa. Tư
nhân hóa theo như định nghĩa của Liên Hiệp Quốc là sự biến đổi tương quan giữa Nhà nước và
thị trường trong đời sống kinh tế của một nước ưu tiên thị trường. Theo cách hiểu này thì toàn bộ
các chính sách, thể chế, luật lệ nhằm khuyến khích, mở rộng, phát triển khu vực kinh tế tư nhân
hay các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, giảm bớt quyền sở hữu và can thiệp trực tiếp của
nhà nước vào các hoạt động kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, giành cho thị trường vai trò
điều tiết hoạt động sản xuất kinh doanh đáng kể thông qua tự do hóa giá cả, tự do lựa chọn đối
tác và ngành nghề kinh doanh.
Xét về mặt hình thức, thì cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là việc nhà nước bán một phần hay
toàn bộ giá trị tài sản của mình cho các cá nhân hay tổ chức kinh tế trong hoặc ngoài nước, hoặc
bán trực tiếp cho cán bộ, công nhân của chính doanh nghiệp nhà nước thông qua đấu thầu công
khai, hay thông qua thị trường chứng khoán để hình thành nên các công ty cổ phần.
Như vậy cổ phần hóa chính là phương thức thực hiện xã hội hóa sơ hữu – chuyển hình thức kinh
doanh từ một chủ sở hữu là doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần với nhiều chủ sở hữu
để tạo ra một mô hình doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế thị trường và đáp ứng được với nhu
cầu kinh doanh hiện đại.
Từ quan niệm trên, kết hợp với điều kiện cụ thể với nước ta, có thể đưa ra khái niệm cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước là việc chuyển doanh nghiệp mà chủ sở hữu là nhà nước (doanh nghiệp
đơn sở hữu) thành công ty cổ phần (doanh nghiệp đa sở hữu), chuyển doanh nghiệp từ chỗ hoạt
động theo Luật doanh nghiệp nhà nước sang hoạt động theo Luật doanh nghiệp
I.1.2 Quan niệm về công ty cổ phần
Xét về mặt pháp lý : công ty Cổ phần là một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân độc lập,
được hưởng quy chế pháp lý của Nhà nước, có tư cách bên nguyên để kiện các pháp nhân khác

đồng thời cũng có thể bị các pháp nhân khác kiện. Công ty Cổ phần có vốn kinh doanh do nhiều
người đóng góp dưới hình thức cổ phần. Các cổ đông trong công ty chỉ phải chịu trách nhiệm về
các khoản nợ của công ty trong phạm vị vốn góp của mình cho công ty chứ không chịu trách
nhiệm vô hạn như hình thức kinh doanh một chủ hay hình thức kinh doanh chung vốn. Nhờ đó
mà khả năng thu hút vốn đầu tư và khả năng mạo hiểm cao hơn.
• Thuận lợi và khó khăn của công ty cổ phần
Thuận lợi của công ty Cổ phần phải kể đến là :
 Thứ nhất, việc thu hút và sử dụng vốn nhàn rỗi trong dân cư nhờ vào việc phát hành cổ
phiếu thông qua thị trường chứng khoán và các nguồn vốn nhàn rỗi từ khu vực dân cư,
các nhà đầu tư nhỏ lẽ.
 Thứ hai, việc đầu tư vào các công ty Cổ phần thường đem lại lợi ích lớn hơn so với việc
gửi tiền vào các quỹ tín dụng hay ngân hàng. Thông thường lợi tức do cổ phiếu đem lại
cao hơn lãi suất tiền gửi, dẫn đến hiệu quả kinh doanh cao, góp phần phát triển kinh tế đất
nước.
NHÓM 5 Trang 4
LỚP: K19 ĐÊM 8 Trường ĐH kinh tế Tp.HCM
 Thứ ba, các cổ đông trong công ty không được phép rút vốn ra khỏi công ty mà chỉ có thể
mua, bán, chuyển nhượng phần vốn góp của mình cho những người khác. Do vậy số vốn
kinh doanh của công ty luôn luôn ổn định cho dù có những biến động lớn về nhân sự
trong công ty .
 Thứ tư, điều kiện áp dụng những tiến bộ của khoa học công nghệ trong họat động sản xuất
kinh doanh nhằm nâng cao năng suất lao động dễ dàng hơn do nguồn vốn dự phòng cho
đầu tư phát triển được mở rộng và tính tự chủ cao về mặt quản lý điều hành DN
Với những thuận lợi trên, công ty Cổ phần đã có vai trò thúc đẩy sự ra đời và phát triển của thị
trường chứng khoán; tạo điều kiện thực hiện xã hội hoá các hình thức sở hữu.
Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi, công ty Cổ phần vừa chuyển đổi từ DNNN cũng phải đối
mặt với những khó khăn như:
 Sự ảnh hưởng nặng nề của tư duy kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ trong điều kiện
chiến tranh kéo dài. Trong tư duy cũng như trong thực tiễn xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật , người ta vẫn thường xem nhẹ các quy luật kinh tế khách quan của thị trường , coi

kinh tế thị trường là của riêng Chủ nghĩa tư bản, từ đó dẫn đến hậu quả là việc hạch toán
kinh tế trong các doanh nghiệp là mang tính hình thức,.
 Hơn nữa, lực lượng sản xuất của ta còn quá yếu kém; cơ sở hạ tầng còn nghèo nàn, lạc
hậu; hệ thống pháp luật, chính sách quản lý còn chưa thống nhất đồng bộ, thủ tục hành
chính còn quá rườm rà, quan liêu; cơ cấu kinh tế chưa hợp lý…
Tóm lại, những thuận lợi và khó khăn của công ty Cổ phần là một mâu thuẫn lớn , song bắt buộc
phải kiên quyết đổi mới, phải có những giải pháp và bước đi phù hợp với trình độ thực tế cơ sở.
Do vậy mà mục tiêu và quan điểm đổi mới doanh nghiệp Nhà nước thông qua Cổ phần hoá là
đúng đắn và cần thiết
I.1.3 Mục tiêu và đối tượng của cổ phần hóa
Theo Nghị định số 109/2001/NĐ-CP ngày 26/06/2007 về chuyển doanh nghiệp nhà nước thành
công ty cổ phần thì mục tiêu, đối tượng là:
• Mục tiêu:
 Chuyển đổi những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn sang loại hình
doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu; huy động vốn của các nhà đầu tư trong nước và nước
ngoài để nâng cao năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý
nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
 Đảm bảo hài hoà lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động trong
doanh nghiệp.
 Thực hiện công khai, minh bạch theo nguyên tắc thị trường; khắc phục tình trạng cổ phần
hóa khép kín trong nội bộ doanh nghiệp; gắn với phát triển thị trường vốn, thị trường
chứng khoán.
Như vậy mục tiêu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước của nước ta được xác định rất rõ nhằm:
 Thứ nhất: chuyển hoá từ đơn sở hữu sang đa sở hữu doanh nghiệp, đảm bảo quyền làm
chủ thực sự của những người góp vốn và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Có điều kiện huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc
làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu doanh nghiệp nhà
nước.
NHÓM 5 Trang 5

LỚP: K19 ĐÊM 8 Trường ĐH kinh tế Tp.HCM
 Thứ ha, thay đổi căn bản về tổ chức các quan hệ quản lý nội bộ doanh nghiệp. Với cơ cấu
tổ chức mới, có sự phân công, phân cấp và giám sát lẫn nhau chặt chẽ. Thay đổi phương
thức quản lý tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản nhà
nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước.
 Thứ ba, thay đổi căn bản về quan hệ quản lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp. Từ chỗ
doanh nghiệp bị chi phối toàn diện trong quá trình sản xuất kinh doanh bởi Nhà nước với
tư cách là chủ sở hữu duy nhất, sang quyền tự chủ kinh doanh được mở rộng và tính chịu
trách nhiệm được đề cao.
• Đối tượng cổ phần hóa:
 Công ty nhà nước độc lập thuộc các Bộ, ngành, địa phương.
 Công ty mẹ của Tập đoàn kinh tế (sau đây gọi tắt là tập đoàn), Tổng công ty nhà nước
(kể cả Ngân hàng Thương mại nhà nước).
 Công ty mẹ trong tổ hợp công ty mẹ - công ty con.
 Công ty thành viên hạch toán độc lập thuộc Tổng công ty do Nhà nước quyết định đầu tư
và thành lập.
 Đơn vị hạch toán phụ thuộc của công ty nhà nước độc lập, tập đoàn, tổng công ty nhà
nước, công ty mẹ, công ty thành viên hạch toán độc lập của Tổng công ty.
 Công ty trách nhiệm hữu hạn do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
I.2 Sự cần thiết phải cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
I.2.1 Thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước hiện nam
• Vai trò của DNNN
Trong đổi mới kinh tế, một vấn đề lớn được đặt ra là phải phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất
và từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất. Để giải
phóng lực lượng sản xuất, tất yếu phải phát triển mạnh mẽ nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường và xây dựng thể
chế kinh tế thị trường, đa dạng hóa các hình thức sở hữu, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò
chủ đạo, thể hiện ở những mặt sau:
 DNNN có vị trí rất quan trọng, góp phần để khu vực kinh tế Nhà nước thực hiện được vai
trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là động lực thúc đẩy sự phân bố lại dân cư theo

hướng công nghiệp hóa, hình thành các trung tâm kinh tế, văn hóa, đô thị mới, đào tạo
cán bộ kĩ thuật, công nhân lành nghề và tạo thêm điều kiện hạ tầng cho quá trình phát
triển.
 DNNN là công cụ vật chất để Nhà nươc điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế thị trường
theo định hướng XHCN.
 DNNN đang đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chính sách xã hội và ổn
định chính trị- xã hội, định hướng công bằng, văn minh, góp phần cùng khu vực kinh tế
khác giải quyết vấn đề việc làm, thu nhập cho người lao động, xóa đói giảm nghèo, phát
triển văn hóa giáo dục, y tế làm cơ sở và nền tảng cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
• Những tồn tại của DNNN
NHÓM 5 Trang 6
LỚP: K19 ĐÊM 8 Trường ĐH kinh tế Tp.HCM
Ngoài một số những thành quả đạt được, nhìn chung hiện nay hiệu quả hoạt động của khu vực
kinh tế nhà nước nói chung và hệ thống doanh nghiệp nhà nước nói riêng vẫn chưa cao, chưa thể
hiện vai trò đầu tàu của mình trong nền kinh tế. Những tồn tại yếu kém cụ thể là:
 Thứ nhất, hiệu quả sản xuất kinh doanh chưa cao, chưa tương xứng với vị trí và sự đầu tư
của ngân sách.
 Thứ hai, DNNN có quy mô nhỏ. Do quy mô doanh nghiệp còn rất nhỏ nên khả năng đầu
tư mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ rất hạn chế.
 Thứ ba, DNNN lạc hậu về công nghệ sản xuất, về trình độ quản lí.
 Thứ tư, cơ cấu phân bố chưa hợp lí. Còn khá nhiều DNNN hoạt động trong các lĩnh vực
mà trong đó chúng khó có thể cạnh tranh được trong những dịch vụ thông thường. Bên
cạnh đó, có thể nhận thấy DNNN được phân bổ không hợp lí theo địa phương, theo
ngành. Có những địa phương, ngành như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng,
ngành công nghiệp, thương mại DNNN tập trung với số lượng lớn trong lúc đó nhiều địa
phuơng lại có rất ít các DNNN.
 Thứ năm, cơ chế quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp cũng như cơ chế quản lý trong
bản thân doanh nghiệp cồng kềnh và thiếu hiệu quả. Quản lý vĩ mô DNNN chưa hiệu
quả, chưa theo kịp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế, của việc nâng cao hiệu quả của

DNNN.
Chế độ chủ quản đối với DNNN, chế độ chức năng đối với DNNN rất nhiều tầng cấp
khiến chúng bị ràng buộc bởi quá nhiều yêu cầu và đòi hỏi khác nhau. Trong lúc đó, lợi ích
của người lao động trong DNNN chưa trở thành động lực thúc đẩy họ lao động tốt hơn, gắn
với doanh nghiệp một cách chặt chẽ hơn.
 Thứ sáu, như là hệ quả của những điểm yếu trên, DNNN có ít khả năng cạnh tranh trên
thị trường. Trong bối cảnh đất nước ta đang chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia
nhiều hơn về các khu vực tự do mậu dịch hoặc các hiệp định thương mại song phương,
đa phương, tính cạnh tranh thấp của DNNN là một thách thức sống còn đối với nền kinh
tế nước ta.
Để các DNNN hoạt động có hiệu quả, cơ chế quản lí tốt, khả năng cạnh tranh trên thị trường tốt
hơn, người lao động gắn bó hơn với doanh nghiệp thì DNNN cần sắp xếp, đổi mới một trong
những giải pháp tốt nhất là cổ phần hóa, đây là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta.
I.2.2 Vai trò của cổ phần hóa và sự cần thiết phải tiến hành cổ phần hóa ở Việt
Nam
Xuất phát từ thực tế nêu trên, thực hiện CPH là một nhiệm vụ rất cần thiết và quan trọng trong
quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam, CPH sẽ giải quyết được các vấn đề sau:
 Thứ nhất, thực hiện CPH là để giải quyết mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng
sản xuất. CPH góp phần thực hiện chủ trương đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Trước
đây chúng ta xây dựng một cách cứng nhắc chế độ công hữu, thể hiện ở một số lượng quá
lớn các DNNN mà không nhận thấy quan hệ sản xuất này không phù hợp với lực lượng
sản xuất còn nhiều yếu kém, lạc hậu. Vì vậy CPH sẽ giải quyết được mâu thuẫn này, giúp
lực lượng sản xuất phát triển.
 Thứ hai, thực hiện CPH nhằm xã hội hoá lực lượng sản xuất, thu hút thêm nguồn lực sản
xuất. Khi thực hiện CPH , người lao động sẽ gắn bó , có trách nhiệm với công việc hơn,
họ trở thành người chủ thực sự của doanh nghiệp. Ngoài ra, phương thức quản lý được
NHÓM 5 Trang 7
LỚP: K19 ĐÊM 8 Trường ĐH kinh tế Tp.HCM
thay đổi, doanh nghiệp sẽ trở nên năng động, tự chủ hơn trong sản xuất kinh doanh, nâng
cao hiệu quả sản xuất.

 Thứ ba, bên cạnh đó, CPH là một yếu tố thúc đẩy sự hình thành và phát triển thị trường
chứng khoán, đưa nền kinh tế hội nhập với kinh tế khu vực và trên thế giới.
 Thứ tư, thực hiện CPH là một trong những giải pháp quan trọng nhằm huy động các
nguồn lực trong và ngoài nước vào phát triển kinh tế. Với việc huy động được các nguồn
lực, các công ty cổ phần có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư đổi mới công
nghệ, nâng cao được khả năng cạnh tranh trên thị trường, tạo cơ sở để nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh.
 Thứ năm, cổ phần hoá tác động tích cực đến đổi mới quản lý ở cả tầm vĩ mô và vi mô.
Chuyển từ DNNN sang công ty cổ phần không những chỉ là sự thay đổi về sở hữu, mà
còn là sự thay đổi căn bản trong công tác quản lý ở cả phạm vi doanh nghiệp và ở cả
phạm vi nền kinh tế quốc dân.
 Thứ sáu, cổ phần hoá là một giải pháp quan trọng để cơ cấu lại nền kinh tế trong quá
trình đổi mới.
Như vậy, đứng trước thực trạng hoạt động yếu kém của hệ thống DNNN, CPH với những ưu
điểm và mục tiêu của mình đã chứng tỏ đó là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với quá trình đổi
mới, phù hợp với giai đoạn quá độ đi lên CHXH ở nước ta.
I.3 Kinh nghiệm cổ phần hóa của Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Chương trình thí điểm cổ phần hoá nhằm cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước được tiến
hành ở Trung Quốc vào tháng 12/1986 và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Theo con số thống
kê cuối năm 1992, Trung Quốc có khoảng 3.700 xí nghiệp cổ phần hoá trong đó 750 xí nghiệp
nguyên là quốc doanh được chuyển đổi.
Từ năm 1994, quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc chuyển sang một giai
đoạn mới với nhiều biện pháp mới như thành lập Công ty quản lý doanh nghiệp trung ương và
biến các công ty cổ phần hoá thành công ty con của Công ty quản lý; tách hoạt động quan trọng
ra khỏi doanh nghiệp nhà nước và chuyển doanh nghiệp thành công ty cổ phần; đẩy mạnh thu hút
vốn nước ngoài vào các xí nghiệp cổ phần hoá
Tính đến cuối năm 1996, Trung Quốc đã cổ phần hoá và thành lập mới được khoảng 9.200 Công
ty cổ phần với tổng vốn đăng ký khoảng 600 tỷ NDT, trong đó cổ phần nhà nước chiếm 43%.
Như vậy sau 10 năm thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, Trung Quốc đã thu được
nhiều thắng lợi, tuy cũng có những vấp váp, thất bại, nhưng nhìn chung con đường cải cách của

Trung Quốc là đúng đắn và được sự ủng hộ của nhân dân.
• Bài học kinh nghiệm từ quá trình cổ phần hoá ở Trung Quốc:
 Xây dựng và quán triệt một quan niệm, một mục tiêu đúng đắn về cổ phần hoá, phù hợp
với bản chất của chế độ xã hội : Chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần là
để thu hút vốn từ bên ngoài vào, chứ không bán toàn bộ tài sản Nhà nước.
 Hình thức cổ phần hoá áp dụng chủ yếu đối với các doanh nghiệp vừa và lớn, có khả
năng phát triển.
 Áp dụng tỷ lệ bán cổ phần đa dạng. Chẳng hạn như ở Thẩm Quyến, cổ đông tư nhân
chiếm tới 12%, ở Thượng Hải chỉ có 8,5% trong đó tư nhân ở nước ngoài chiếm tới 41%.
NHÓM 5 Trang 8
LỚP: K19 ĐÊM 8 Trường ĐH kinh tế Tp.HCM
 Cổ phần hoá muốn phát triển và mở rộng phải có sự gắn kết với thị trường chứng khoán.
Đặc biệt, Trung Quốc đã xoá bỏ sự phân biệt giữ cổ phiếu Nhà nước (cổ phiếu A) và cổ
phiếu của các cá nhân, pháp nhân (cổ phiếu B) gọi chung là cổ phiếu đầu tư, tạo một sân
chơi bình đẳng cho các nhà đầu tư.
 Chính phủ Trung Quốc chú trọng đến giải pháp kích cầu và tạo cơ sở ban đầu cho việc
hình thành thị trường vốn trong nước. Bên cạnh việc mở rộng đối tượng bán để các công
dân có thể tham gia chương trình cổ phần hoá, chính phủ còn có biện pháp hỗ trợ vốn ban
đầu cho người lao động trong doanh nghiệp, có các chính sách lãi suất, chính sách tài
chính đúng, mở rộng thị trường mua, kể cả việc bán cho người nước ngoài và chuyển nợ
thành vốn đầu tư.
 Thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài.
I.4 Cơ sở pháp lý về cổ phần hóa tại Việt Nam
Để quá trình cổ phần hóa ngày càng phát triển và hoàn thiện, trong nhiều năm qua, Đảng, Chính
phủ đã ban hành nhiều Nghị quyết, Quyết định và các văn bản về cổ phần hóa. Trong đó nổi lên
các văn bản sau đây:
 Quyết định số 202- CT, ngày 8/6/1992 của chủ tịch HĐBT “Về việc tiếp tục làm thí điểm
chuyển một số DNNN thành CTCP ”
 Nghị định số 44/1998/NĐ-CP, ngày 27/06/1998 của thủ tướng chính phủ “ Về việc
chuyển DNNN thành CTCP ”

 Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 24/09/2001 của hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX “ về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu
quả DNNN”.
 Nghị định số 64/2002/NĐ-CP, ngày 19/06/2002 của chính phủ “Về việc chuyển DNNN
thành CTCP.
 Nghị định 187/2004/NĐ-CP, ngày16/11/2004 của Chính phủ về chuyển DNNN thành
CTCP thay thế cho Nghị định số 64/2002/NĐ-CP ngày19/06/2002 với nhiều sửa đổi và
bổ sung phù hợp với tình hình của nước ta.
 Nghị định số 109/2007/NĐ-CP của Chính phủ về việc chuyển doanh nghiệp 100% vốn
nhà nước thành công ty cổ phần.
 Thông tư 146/2007/TT-BTC ngày 06 tháng 12 năm 2007 về Hướng dẫn thực hiện một số
vấn đề về tài chính khi thực hiện chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty
cổ phần theo quy định tại Nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của Chính phủ.
ΙΙ THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM
II.1 Thực trạng cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam
II.1.1 Giai đoạn thí điểm (1992-5/1996)
Quá trình Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam được bắt đầu từ năm 1992, Nhà nước
chỉ chọn một số Doanh nghiệp nhà nước có quy mô vừa và nhỏ, kinh doanh có lãi và tự nguyện
Cổ phần hoá để thực hiện thí điểm.
Suốt bốn năm 1992- 1996, tuy chỉ Cổ phần hoá được 5 doanh nghiệp nhưng cả 5 đơn vị này đều
hoạt động có hiệu quả hơn trước. Đó là các doanh nghiệp:
NHÓM 5 Trang 9
LỚP: K19 ĐÊM 8 Trường ĐH kinh tế Tp.HCM
 Công ty Đại lý liên hiệp vận chuyển thuộc Bộ GTVT- ngày thực hiện Cổ phần hoá:
01/07/1993
 Công ty Cơ điện lạnh thuộc UBND TPHCM- ngày thực hiện Cổ phần hoá: 01/10/1993
 Xí nghiệp giày Hiệp An thuộc Bộ Công nghiệp- ngày thực hiện Cổ phần hoá: 01/10/1994
 Xí nghiệp Chế biến hàng xuất khẩu thuộc UBNN tỉnh Long An- ngày thực hiện Cổ phần
hoá: 01/07/1995
 Xí nghiệp Chế biến thức ăn gia súc thuộc Bộ NN & PTNT- ngày thực hiện Cổ phần hoá:

01/07/1995
II.1.2 Giai đoạn thí điểm mở rộng (5/1996-6/1998)
Sau khi đạt được thành công ban đầu của giai đoạn thí điểm, ngày 07/05/1996 Chính phủ đã ban
hành nghị định số 28/CP về chuyển một số Doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Trong
nghị định chính phủ yêu cầu các bộ, ngành TW và các chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc
TW lập danh sách các doanh nghiệp do mình quản lý sẽ được Cổ phần hoá cho đến năm 1997.
Đối tượng chính là những Doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn và
có phương án kinh doanh hiệu quả.
Nghị định số 25/CP ngày 26/3/1997 của Chính phủ cho phép các lãnh đạo bộ, ngành, địa phương
có thêm quyền hạn trong việc tiến hành cổ phần hóa các doanh nghiệp được chọn làm thử. Theo
đó, đối với doanh nghiệp có vốn từ 10 tỷ đồng trở xuống thì lãnh đạo bộ, ngành, địa phương có
quyền tự tổ chức thực hiện cổ phần hóa trên cơ sở Nghị định số 28/CP.
Chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần nhằm các mục tiêu sau :
 Huy động vốn của công nhân viên chức trong doanh nghiệp; cá nhân, các tổ chức kinh tế
trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp.
 Tạo điều kiện để những người góp vốn và công nhân viên chức trong doanh nghiệp có cổ
phần, nâng cao vai trò làm chủ thực sự, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh
doanh có hiệu quả.
Kết quả của giai đoạn mở rộng này là có 25 Doanh nghiệp nhà nước đã được Cổ phần hoá. Như
vậy từ năm 1992 đến tháng 06/1998 cả nước có 30 Doanh nghiệp nhà nước đã hoàn thành Cổ
phần hoá với vốn điều lệ ban đầu là: 281 tỷ đồng và gần 6.000 lao động.
II.1.3 Giai đoạn triển khai từ tháng 7/1998 đến nay
Ngày 27/06/1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 44/1998/NĐ-CP về chuyển Doanh nghiệp
nhà nước thành công ty cổ phần đã tạo cơ sở pháp lý để các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hóa.
Nghị định này quy định rằng đối với cổ phần phát hành lần đầu của doanh nghiệp được chuyển
đổi nhưng Nhà nước vẫn muốn nắm quyền chi phối, cá nhân không được phép mua quá 5% và
pháp nhân không được phép mua quá 10%. Đối với doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm
quyền chi phối, cá nhân được phép mua tới 10% và pháp nhân được phép mua tới 20% tổng cổ
phần phát hành lần đầu. Riêng đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước hoàn toàn không còn
muốn sở hữu, cá nhân và pháp nhân được phép mua không hạn chế. Tiền thu được từ bán cổ phần

sẽ được sử dụng để đào tạo lại lao động, sắp xếp việc làm cho lao động dư thừa, bổ sung vốn cho
các doanh nghiệp nhà nước khác.
Sự ra đời của nghị định này đã đẩy mạnh tốc độ Cổ phần hoá. Tuy nhiên, Nhà nước chỉ tập trung
tiến hành Cổ phần hóa ở một số ngành, lĩnh vực then chốt trong xã hội. Do đó, quá trình Cổ phần
hóa chưa có được sự phân bố đồng đều giữa các ngành, lĩnh vực. Theo số liệu tính đến hết tháng
6/2009 thì cơ cấu ngành nghề, lĩnh vực được Cổ phần hóa, như sau:
NHÓM 5 Trang 10
LỚP: K19 ĐÊM 8 Trường ĐH kinh tế Tp.HCM
Phần lớn các doanh nghiệp được Cổ phần hoá có quy mô nhỏ, các doanh nghiệp có vốn nhỏ hơn
5 tỷ chiếm trên 50%, trong khi đó số doanh nghiệp có số vốn trên 10 tỷ chỉ chiếm khoảng 12%.
Đa số các doanh nghiệp thực hiện Cổ phần hoá theo hình thức bán một phần vốn của Nhà nước
nắm giữ trong doanh nghiệp.
Tiến trình Cổ phần hoá được thực hiện chủ yếu 2 thành phố lớn là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh
nơi tập trung nhiều Doanh nghiệp nhà nước và sau đó lan sang các tỉnh thành phố khác như: Hải
Phòng, Nam Định, Thanh Hóa, Đà Nẵng…
Cuối năm 2004, Chính phủ ra Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về chuyển công ty nhà nước thành
công ty cổ phần, theo đó cả các công ty thành viên của các tổng công ty nhà nước và ngay cả
chính tổng công ty nhà nước nào mà Nhà nước không muốn chi phối đều có thể trở thành đối
tượng cổ phần hóa. Điểm mới quan trọng nữa trong Nghị định này là quy định việc bán cổ phần
lần đầu phải được thực hiện bằng hình thức đấu giá tại các trung tâm giao dịch chứng khoán nếu
là công ty có số vốn trên 10 tỷ đồng, tại các trung tâm tài chính nếu là công ty có số vốn trên 1 tỷ
đồng, và tại công ty nếu công ty có số vốn không quá 1 tỷ đồng. Bán đấu giá khiến cho giá cổ
phiếu phát hành lần đầu của nhiều công ty nhà nước được đẩy vọt lên, đem lại những nguồn thu
rất lớn cho Nhà nước.
Ngày 26/6/2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định 109/2007/NĐ-CP về chuyển doanh nghiệp
100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần nhằm thay thế Nghị định 187/2004/NĐ-CP
ngày 16/11/2004. Sự ra đời của Nghị định 109/2007/NĐ-CP là một tất yếu khách quan, phù hợp
với thực tế và đồng bộ với các quy định mới nhất của Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Chứng
khoán 2006.
Khác với Nghị định 187/2004/NĐ-CP, Nghị định mới đã mở rộng đối tượng nhà đầu tư chiến

lược, không chỉ có các nhà đầu tư trong nước, mà bao gồm cả nhà đầu tư nước ngoài. Đặc biệt,
Nghị định lần này đã tập trung chủ yếu vào xác định giá trị Doanh nghiệp, điều mà bấy lâu luôn
là vấn đề bức xúc trong dư luận về việc xác định giá trị Doanh nghiệp khi Cổ phần hoá quá thấp,
gây thiệt hại cho Nhà nước và làm lợi cho một bộ phận cá nhân. Nghị định 109 đã khắc phục vấn
đề này bằng những quy định rõ ràng, cụ thể với các quy định về xác định giá trị Doanh nghiệp
theo phương pháp tài sản, phương pháp dòng tiền chiết khấu và với quy định Doanh nghiệp Cổ
phần hoá có tổng giá trị tài sản theo sổ kế toán từ 30 tỷ đồng trở lên hoặc giá trị vốn nhà nước
theo sổ kế toán từ 10 tỷ đồng trở lên hoặc có vị trí địa lý thuận lợi phải thuê các tổ chức có chức
năng định giá thuộc danh sách do Bộ Tài chính công bố. Nếu như hiện nay mới chỉ quy định
phương thức bán đấu giá thì Nghị định mới đã đưa thêm các hình thức bán cổ phần lần đầu khác
như bảo lãnh phát hành, và thoả thuận trực tiếp. Nếu áp dụng phương thức đấu giá công
khai, Doanh nghiệp có khối lượng cổ phần bán ra dưới 10 tỷ đồng thì được đấu giá tại các tổ
NHÓM 5 Trang 11
LỚP: K19 ĐÊM 8 Trường ĐH kinh tế Tp.HCM
chức tài chính trung gian. Ngược lại, nếu khối lượng cổ phần bán ra trên 10 tỷ đồng thì nhất thiết
phải đấu giá tại các Sở giao dịch chứng khoán.
Nghị định cũng yêu cầu những Doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết, đăng ký giao dịch trên thị
trường chứng khoán theo quy định của pháp luật có liên quan về chứng khoán phải thực hiện
niêm yết, đăng ký giao dịch ngay trên các Sở Giao dịch chứng khoán trong quá trình cổ phần
hoá. Quy định này được đưa ra nhằm gắn kết quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước với
việc phát triển thị trường chứng khoán, tăng số lượng và chất lượng các công ty thực hiện đăng
ký niêm yết, giao dịch và đảm bảo yêu cầu nâng cao tính công khai, minh bạch thông tin theo
nguyên tắc thị trường.
Nếu năm 1995 cả nước còn 12.400 Doanh nghiệp nhà nước thì đến nay cả nước chỉ còn 2.176
doanh nghiệp 100% vốn nhà nước với tổng số vốn nhà nước gần 260.000 tỷ đồng. Trong đó
1,546 doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh; 335 doanh nghiệp quốc phòng an ninh sản
xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, 295 nông lâm trường quốc doanh. Phân theo cơ
quan chủ sở hữu, có 301 doanh nghiệp thuộc tổng công ty 91; 408 doanh nghiệp thuộc tổng công
ty 90; 307 doanh nghiệp thuộc các Bộ, ngành; 1.160 doanh nghiệp thuộc địa phương.
Theo báo cáo của các Bộ, ngành địa phương của 850 doanh nghiệp Cổ phần hoá đã hoạt động

trên một năm cho thấy: vốn điều lệ bình quân tăng 44%, doanh thu bình quân tăng 23.6%, lợi
nhuận thực hiện bình quân tăng 139,76 %, trên 90% doanh nghiệp sau khi Cổ phần hoá hoạt động
kinh doanh có lãi, nộp ngân sách bình quân tăng 24,9%, thu nhập của người lao động bình quân
tăng 12%.
Với những bối cảnh nêu trên, phấn đấu đến cuối năm 2009, cơ bản hoàn thành việc sắp xếp
Doanh nghiệp nhà nước cụ thể là:
 Tiếp tục Cổ phần hoá các công ty nhà nước độc lập thuộc các Bộ, địa phương
 Đẩy mạnh sắp xếp, Cổ phần hoá các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước
 Cổ phần hóa các ngân hàng thương mại, các công ty bảo hiểm : Tính đến thời điểm hiện
nay một số ngân hàng thương mại nhà nước như Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam,
Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long, Ngân hàng Đầu tư & Phát triển
Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam đã thực hiện Cổ phần hoá và chuyển thành
ngân hàng thương mại cổ phần.
Như vậy các doanh nghiệp sau khi thực hiện Cổ phần hoá phần lớn hoạt động có hiệu quả, vượt
qua những khó khăn trong tình hình kinh tế thị trường nhiều biến động, tăng lợi nhuận và tạo việc
làm cho người lao động.
II.2 Thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực hiện CPH
II.2.1 Thuận lợi
 Kinh nghiệm của các nước trên thế giới
Bài học kinh nghiệm của các nước đi trước cần phải được xem xét. Cách làm của một số
nước xã hội chủ nghĩa trước kia là chia đều tài sản của doanh nghiệp cho mọi công dân. Nhà
nước mất trắng tài sản, công bằng cũng không đạt được. Khuyến khích chủ sở hữu với rất
nhiều công dân nay trở thành ông chủ là không đủ mạnh, nên họ bán phần của mình lấy tiền,
tạo cơ hội cho một số ít người mua với giá thấp, nắm tài sản, tạo ra bất công nghiêm trọng.
NHÓM 5 Trang 12
LỚP: K19 ĐÊM 8 Trường ĐH kinh tế Tp.HCM
Trung Quốc trong tiến trình cải cách và mở cửa, nhất là trong cải cách kinh tế, xây dựng thể
chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đã chú ý thử nghiệm chế độ cổ phần và có những tìm
tòi lý luận về vấn đề này, chúng ta có thể học tập.
Việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước của các quốc gia trên thế giới có nơi thành công, có

nơi chưa thành công, nhưng từ đó ta có thể thấy được nguyên nhân cũng như những bài học
kinh nghiệm có thể áp dụng cho Việt Nam.
 Chính phủ có những phản ứng đối với việc cổ phần hóa theo các điều kiện kinh tế, hoàn
cảnh lịch sử băằngác chính sách kịp thời và phù hợp
Sau nhiều năm tìm tòi và thử nghiệm trong thực tế, Đảng ta đã lựa chọn cổ phần hóa như một
phương thức có hiệu quả để đổi mới các doanh nghiệp nhà nước như các Nghị quyết 3 và
Nghị quyết 9 của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đã chỉ rõ.
Từ nghị quyết của Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành TW Đảng khoá VII(6/1992), tiếp theo
đó là quyết định số 202/CT(6/1992) của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng
Chính phủ), rồi tới các nghị định số 28/CP(7/5/1996), 25/CP(23/7/1997) và nghị định
44/CP(27/6/1998), cổ phần hoá luôn được Đảng và Nhà nước xác định là việc chuyển các
Doanh nghiệp nhà nước thành các Công ty cổ phần nhằm giải quyết những tồn tại và tình
trạng sản xuất, kinh doanh kém hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước, đang gây trở ngại
cho tiến trình phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
II.2.2 Khó khăn
Tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam được hình thành trong quá trình thực
hiện công hữu hóa, tập thể hóa nền kinh tế trước đây. Điều này khác với các doanh nghiệp thực
hiện cổ phần hóa ở các nước phát triển: là kết quả của quá trình phát triển lực lượng sản xuất đã
vượt quá tầm của sở hữu tư nhân, đòi hỏi phải mở rộng quan hệ sở hữu.
 Các doanh nghiệp mà nước ta thực hiện cổ phần hóa vốn tồn tại lâu năm trong cơ chế bao
cấp và kế hoạch của Nhà nước và mới làm quen với cơ chế thị trường, khác với các
doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa ở các nước là đã tồn tại và phát triển trong cơ chế thị
trường, cạnh tranh.
 Các doanh nghiệp mà nước ta tiến hành cổ phần hóa chủ yếu được tổ chức và hoạt động
theo yêu cầu và kế hoạch của Nhà nước, khác với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần
hóa ở các nước là tổ chức và hoạt động vì lợi nhuận tối đa của bản thân và tuân theo quy
luật thị trường.
 Lý do chính của chủ trương cổ phần hóa ở nước ta là các doanh nghiệp nhà nước hoạt
động kém hiệu quả, nhiều doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản, khác với lý do thực
hiện cổ phần hóa doanh nghiệp ở các nước phát triển là chuyển từ giai đoạn tập trung tư

bản sang giai đoạn tập trung vốn xã hội (trong và ngoài doanh nghiệp) để nâng cao chất
lượng và quy mô sản xuất trong cạnh tranh.
Do đó về đối tượng, quy trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam… khác so với các
nước, gặp một vấn đề phát sinh thường sẽ lúng túng, chưa có kinh nghiệm giải quyết, nên phải
vừa làm, vừa tìm hiểu, xây dựng, vừa rút kinh nghiệm.
 Sự yếu kém của khu vực kinh tế nhà nước
Đảng và Nhà nước đã xác định xây dựng và phát triển nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó khu vực
kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo nhằm chi phối nền kinh tế quốc dân đồng thời giúp đỡ các
NHÓM 5 Trang 13
LỚP: K19 ĐÊM 8 Trường ĐH kinh tế Tp.HCM
thành phần khác. Tuy nhiên một thực tế là hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế nhà nước nói
chung và các doanh nghiệp nhà nước nói riêng tồn tại rất nhiều yếu kém. Những yếu kém này có
thể thấy được ở các mặt là vốn – công nghệ - trình độ, khả năng quản lý:
 Thứ nhất, về vốn. Các doanh nghiệp luôn trong trạng thái đói vốn. Tình trạng doanh
nghiệp phải ngừng hoạt động do thiếu vốn kinh doanh đã xuất hiện. Tình trạng doanh
nghiệp không có vốn và không đủ khả năng huy động vốn để đổi mới công nghệ được coi
là phổ biến. Trong khi đó, hiệu quả sử dụng vốn thấp kém, thất thoát vốn của Nhà nước
ngày càng trầm trọng. Năm 1998 chỉ tính riêng số nợ khó đòi và lỗ luỹ kế của các Doanh
nghiệp nhà nước đã lên đến 5.005 tỷ đồng . Tổng cộng, có tới trên 59,6% Doanh nghiệp
nhà nước hoạt động kém hiệu quả.
 Thứ hai, về công nghệ. Công nghệ của các Doanh nghiệp nhà nước lạc hậu so với trình
độ chung của khu vực và của thế giới (thường từ 2-3 thế hệ, cá biệt có công nghệ lạc hậu
tới 5-6 thế hệ), 76% máy móc thiết bị thuộc thế hệ những năm 50-60 và chủ yếu do Liên
Xô cũ và các nước Đông Âu cung cấp. Đó chính là nguyên nhân làm cho khả năng cạnh
tranh của các doanh nghiệp trên thị trường nội địa cũng như quốc tế hết sức thấp kém.
 Thứ ba, về trình độ, khả năng quản lý. Ở các doanh nghiệp nhà nước xảy ra tình trạng
“cha chung không ai khóc” đối với tài sản thuộc sở hữu của nhà nước, tài sản là của
chung tức không là của ai cả. Do đó việc khai thác, sử dụng tài sản kém hiệu quả, thậm
chí là thất thoát. Đội ngũ nhân viên, lao động trong doanh nghiệp nhà nước nhiều nhưng

lại vừa thiếu vừa yếu. Mặt khác, có một số người chần chừ không muốn cổ phần hóa để
cố trì hoãn sự tồn tại của doanh nghiệp nhà nước với mục đích đeo bám lấy "bầu sữa" của
bao cấp, không dám nghĩ, dám làm, mặc dù hiệu quả hoạt động thấp, kéo dài trong nhiều
năm.
Ngoài ra, cơ chế quan liêu bao cấp đã ăn sâu vào suy nghĩ của nhiều người gắn bó lâu với mô
hình kinh tế cũ, đối với họ thì càng nhều quốc doanh thì càng xã hội chủ nghĩa. Do đó, họ lo sợ
cổ phần hóa sẽ thủ tiêu hoặc làm suy yếu vai trò điều tiết nền kinh tế của nhà nước. Vì sợ nên sẽ
chần chừ, thiếu quyết đoán khi tiến hành.
II.3 Những thành tựu đạt được từ việc CPH
• Về phía Nhà nước:
Nói đến thành công của cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước là nói đến một thành công “kép”
nghĩa là nó làm cho lực lượng sản xuất không chỉ phát triển theo hướng hiện đại mà còn theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta cũng định hướng phát triển theo con
đường này. Ngoài ra, cổ phần hoá cũng giữ vai trò quan trọng, đặt cơ sở cho thị trường vốn ra đời
bằng việc ra mắt Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và các Sở giao dịch chứng khoán, làm cơ sở để
nhà nước kiểm soát lạm phát.
Trong thời kỳ đầu thực hiện cổ phần hoá, đối tượng Cổ phần hoá chỉ tập trung vào các doanh
nghiệp quy mô nhỏ nhưng đến nay, cổ phần hoá đang được mở rộng sang các doanh nghiệp hoạt
động trong các lĩnh vực then chốt, quy mô lớn, có khả năng sinh lời cao như: ngân hàng, bảo
hiểm, viễn thông, hàng không, dầu khí,… và song hành với nó là những phương thức thực hiện
ngày càng công khai và minh bạch, IPO được tiến hành theo hình thức đấu giá rộng rãi ra công
chúng. Như vậy, thực tế cổ phần hoá doanh nghiệp vừa qua tiếp tục minh chứng cho tính đúng
đắn của chủ trương cổ phần hoá của Đảng và Nhà nước trong quá trình đổi mới và hội nhập của
nền kinh tế Việt Nam, khắc phục được những hạn chế của hình thức sở hữu toàn dân theo kiểu
“vô chủ”.
NHÓM 5 Trang 14
LỚP: K19 ĐÊM 8 Trường ĐH kinh tế Tp.HCM
Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước giúp phát huy mọi nguồn nội lực của đất nước kết hợp với
hợp tác quốc tế hiệu quả, mở rộng, phát triển thị trường, xoá bỏ những lĩnh vực độc quyền Doanh
nghiệp, chuyển mạnh sang thị trường cạnh tranh, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham

gia các hoạt động dịch vụ như viễn thông, internet,… trong mối quan hệ giữ vững vai trò chủ đạo
của kinh tế nhà nước.
• Về phía doanh nghiệp:
Cổ phần hoá giúp huy động vốn cho Doanh nghiệp vì tiền thu về do bán cổ phần vẫn được NN
tiếp tục đầu tư vào Doanh nghiệp nhà nước, đồng thời Doanh nghiệp sau Cổ phần hoá hoạt động
hiệu quả hơn. Nhiều Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao so với khi Doanh
nghiệp chưa Cổ phần hoá:
 CTCP Dược Hậu Giang (DHG) là một dẫn chứng: Vốn điều lệ tại thời điểm Cổ phần hoá
là 80 tỷ đồng (trong đó nhà nước chiếm 51%) nhưng đạt đến 200 tỷ đồng vào tháng
7/2009 (nhà nước chiếm 44,61%); doanh thu năm 2008 đạt 295% và lợi nhuận sau thuế
đạt 359 % so với năm liền kề trước khi Cổ phần hoá. Bên cạnh đó, vốn chủ sở hữu cũng
tăng lên đáng kể, từ hơn 96,5 tỷ đồng trước khi Cổ phần hoá (năm 2004) đã tăng lên hơn
775,8 tỷ đồng tại thời điểm cuối tháng 6/2009 (Theo báo Cần Thơ).
Cổ phần hoá buộc các Doanh nghiệp nhà nước phải tích cực chủ động đổi mới phương thức quản
trị kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, đồng thời giúp Doanh nghiệp lành mạnh hóa được
tài chính thông qua việc cơ cấu lại các khoản nợ; xử lý tài sản là vật tư, hàng hóa ứ đọng, tồn kho,
máy móc thiết bị cũ, Nhờ vậy, các Doanh nghiệp dần khẳng định được thương hiệu của mình
trên thị trường trong và ngoài nước như: CTCP Nhựa Đà Nẵng, CTCP Cao su Đà Nẵng, CTCP
Thuỷ sản và thương mại Thuận Phước, CTCP Dệt may 29-3,…
• Đối với người lao động:
Cổ phần hoá tạo điều kiện cho người lao động làm chủ Doanh nghiệp, được bảo đảm quyền sở
hữu trực tiếp trong Doanh nghiệp cổ phần, có sở hữu thực sự dưới hình thức “tham dự” cổ phiếu
đối với sở hữu xã hội về vốn và tư liệu sản xuất. Bên cạnh đó, người lao động trong Doanh
nghiệp được tham gia vào quá trình đào tạo và đào tạo lại, đời sống ngày càng được cải thiện,
nâng cao. Thu nhập bình quân đến cuối tháng 6/2009 của người lao động tại CTCP Dược Hậu
Giang là 9,45 triệu đồng/người/tháng, tăng gần 3 lần so với năm liền kề trước khi Cổ phần hoá
(3,26 triệu đồng/người/tháng); hay như trong năm đầu tiên chuyển sang hình thức cổ phần, Công
ty Bê tông – thép Ninh Bình nộp ngân sách 2,8 tỷ đồng, thu nhập người lao động tăng 20% so với
năm trước và đều đặn tăng ở các năm sau, bên cạnh việc, công ty thực hiện đầy đủ chế độ nộp
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trang bị phòng hộ lao động, ăn ca, bồi dưỡng độc hại, khám sức

khoẻ định kỳ cho hơn 500 công nhân; giải quyết chế độ nghỉ dưỡng, tham quan, nghỉ mát cho cán
bộ, công nhân,…
II.4 Những hạn chế trong công tác CPH
II.4.1 Về pháp luật, cơ chế chính sách
Các doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình tiến hành cổ phần hóa. Đó là: quy trình
cổ phần hóa rườm rà, phức tạp, có phần còn cứng nhắc; khó xác định đúng được giá trị của doanh
nghiệp khi chuyển sang công ty cổ phần bởi chưa có chế tài cụ thể tính giá trị quyền sử dụng đất
vào giá trị doanh nghiệp, ngay cả các cơ quan chức năng nhiều khi cũng không thống nhất được
các mức giá khác nhau về tài sản của doanh nghiệp. Thêm nữa, nếu như trường hợp giá trị quyền
NHÓM 5 Trang 15
LỚP: K19 ĐÊM 8 Trường ĐH kinh tế Tp.HCM
sử dụng đất được tính vào giá trị của doanh nghiệp thì lại kéo theo những tranh chấp mà các
doanh nghiệp phải đương đầu trong quá trình sử dụng.
Các doanh nghiệp còn khó định được giá trị của các lợi thế kinh doanh như là một phần giá trị tài
sản vô hình của doanh nghiệp: Việc xác định giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp, dựa
trên cơ sở tỷ suất lợi nhuận sau thuế/giá trị vốn Nhà nước trước khi cổ phần hóa và lãi suất trả
trước của trái phiếu Chính phủ là chưa hợp lý. Vì lợi nhuận của doanh nghiệp tạo ra không phải
chỉ có bộ phận vốn Nhà nước tại doanh nghiệp mà là toàn bộ vốn kinh doanh nói chung của
doanh nghiệp, nên tính như vậy là không chính xác, từ đó dẫn đến việc xác định giá trị doanh
nghiệp cũng không chính xác.
Còn khá nhiều doanh nghiệp sau cổ phần hóa vẫn vận hành theo cung cách cũ, chưa cải thiện
nâng cao phát triển doanh nghiệp, cũng như không mở rộng được quy mô huy động nguồn vốn xã
hội vào đầu tư, đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh để sẵn sàng hội nhập kinh tế thế giới.
II.4.2 Công tác chỉ đạo cổ phần hóa
Công tác chuẩn bị cổ phần hóa ở một số đơn vị chưa tốt, dẫn tới việc các tổng công ty thực hiện
cổ phần hóa trong khi nhiều đơn vị thành viên chưa cổ phần hóa. Việc chỉ đạo cổ phần hóa chưa
kiên quyết, mang tính hình thức và chưa tạo sự nhất trí cao trong ban lãnh đạo và người lao động,
dẫn tới khiếu kiện ở nhiều nơi.
Khiếm khuyết khác là tình trạng nhiều doanh nghiệp chưa chủ động xử lý những tồn tại về tài
chính, lao động dôi dư theo chế độ, dẫn đến những rắc rối kéo dài khi tiến hành cổ phần hóa, đặc

biệt là công nợ khó đòi.
Bên cạnh đó, các cơ quan tư vấn cổ phần hóa trong nước còn thiếu kinh nghiệm và trình độ, đặc
biệt việc tư vấn phát hành cổ phần quy mô lớn, tư vấn lựa chọn nhà đầu tư chiến lược, tư vấn xử
lý những vấn đề tài chính… còn nhiều hạn chế. Trong khi đó, các cơ quan tư vấn nước ngoài hoạt
động ở Việt Nam chưa nhiều dẫn đến công tác tư vấn cũng lúng túng, bị kéo dài.
II.4.3 Tốc độ cổ phần hóa
Tiến độ cổ phần hóa còn chậm thể hiện qua những số liệu về số lượng các doanh nghiệp nhà
nước đã được cổ phần hóa đều thấp hơn chỉ tiêu đề ra. Chẳng hạn, dự kiến trong 3 năm từ 2000-
2002 sẽ tiến hành cổ phần hóa 1.056 doanh nghiệp nhà nước, nhưng đến tháng 12 năm 2002 mới
chỉ cổ phần hóa được 523 doanh nghiệp, bằng 50% số doanh nghiệp dự kiến; trong 6 tháng đầu
năm 2004 cũng mới đạt được 20% kế hoạch.
Theo phương án đã được Thủ tướng Chính phủ duyệt thì giai đoại 2007-2010 cả nước cần sắp
xếp 1.553 doanh nghiệp nhà nước, trong đó 950 doanh nghiệp sẽ cổ phần hóa và mục tiêu mà
Chính phủ đặt ra là chỉ giữ lại 700-800 doanh nghiệp nhà nước sau năm 2010. cả năm 2007 chỉ
sắp xếp được 271 doanh nghiệp trong số 550 doanh nghiệp theo kế hoạch, trong đó cổ phần hóa
được 116 doanh nghiệp. Năm 2008 chỉ sắp xếp được 119 doanh nghiệp, trong đó cổ phần hóa chỉ
đạt một phần tư kế hoạch với 74/262 doanh nghiệp.
Tình hình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước tính đến 31/12/2008
(số doanh nghiệp cổ phần hóa nằm trong số doanh nghiệp sắp xếp lại)
Tổng số DN Số DN đã sắp xếp
Cả nước
5.414 3.836
NHÓM 5 Trang 16
LỚP: K19 ĐÊM 8 Trường ĐH kinh tế Tp.HCM
Các bộ, ngành
1.354 1.164
Các tổng công ty 91
554 440
Các địa phương
3.506 2.232

Nguồn: Bộ Công Thương
Vậy, trong hai năm 2009 và 2010 sẽ phải cổ phần hóa xong trên 750 doanh nghiệp nếu muốn
hoàn thành kế hoạch. Điều này gần như bất khả thi.
Trong một báo cáo mới trình Chính phủ, Bộ Tài chính cho rằng nguyên nhân chính cản trở tiến
trình cổ phần hóa trong năm 2009 là do “tình hình nền kinh tế có nhiều khó khăn, thị trường
chứng khoán có nhiều biến động nên hoạt động sắp xếp và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
thời gian qua bị ảnh hưởng”.
Trong năm 2009, việc thực hiện cổ phần hóa gắn liền với niêm yết trên thị trường chứng khoán
gần như bị làm lơ, bỏ lửng (tính đến 6 tháng đầu năm 2009 chỉ có 20 doanh nghiệp được cổ phần
hoá.). Việc thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các tập đoàn, tổng công ty còn
phân tán, vẫn còn sự can thiệp mệnh lệnh hành chính trong quá trình cổ phần hóa, ảnh hưởng đến
việc thực hiện quyền cổ đông của Nhà nước tại các đơn vị này.
Theo kế hoạch, trong năm 2010, những tập đoàn, tổng công ty lớn sẽ tiếp tục được tiến hành Cổ
phần hoá như: Công ty Thông tin di động VMS (Mobifone), Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt
Nam (BIDV), Tổng công ty Thép Việt Nam, Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam.
II.4.4. Tư tưởng
Còn nhiều vướng mắc về tư tưởng, nhận thức của lãnh đạo, đảng viên và người lao động trong
các doanh nghiệp. Những vướng mắc này xuất phát từ nhận thức về việc cổ phần hóa còn hạn chế
và trên hết là tâm lý lo ngại lợi ích của mình sẽ không được bảo đảm. Nhiều lãnh đạo các doanh
nghiệp không muốn doanh nghiệp chuyển sang hình thức cổ phần bởi vị trí quản lý của họ có thể
sẽ bị thay đổi, và ngay cả khi còn nắm giữ vị trí quản lý, cũng khó có thể điều hành công ty theo
lối cũ mà phải chịu sự giám sát mới chặt chẽ hơn của hội đồng quản trị và các cổ đông. So với
khi chưa cổ phần hóa, người lãnh đạo ở các doanh nghiệp cổ phần hóa còn phải đương đầu và
chịu trách nhiệm nhiều hơn, trong khi sự hiểu biết về cách thức điều hành một công ty cổ phần
còn hạn chế. Điều đó sẽ làm cho họ lúng túng ngay cả đối với những vấn đề tưởng đơn giản.
Người lao động trong các doanh nghiệp cũng có nhiều điều phải lo lắng như sau cổ phần hóa họ
sẽ làm gì nếu như trở thành lao động dôi dư. Bản thân doanh nghiệp khó có đủ kinh phí để giải
quyết chính sách hay tìm việc làm mới cho người lao động….
Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, đảng viên các cấp , người lao động trong doanh nghiệp chưa nhận
thức đúng đắn về công cuộc đổi mới, sắp xếp và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Một số

khác còn mang nặng tư tưởng bao cấp, lo ngại sau cổ phần hóa mất đặc quyền, đặc lợi .
Một số Bộ ngành, địa phương, tổng công ty nhà nước chưa quán triệt sâu sắc và nghiêm chỉnh
chấp hành nghị quyết của Đảng, quy định của nhà nước, thiếu chương trình kế hoạch cụ thể, chưa
tích cực sâu sát trong chỉ đạo thực hiện đã làm ảnh hưởng đến tiến độ cổ phần hóa doanh nghiệp.
II.4.5. Bản thân doanh nghiệp
NHÓM 5 Trang 17
LỚP: K19 ĐÊM 8 Trường ĐH kinh tế Tp.HCM
Nhiều doanh nghiệp không muốn chuyển sang cổ phần hóa bởi chưa có được môi trường thật sự
bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Trong thực tế, khi các doanh nghiệp đã được cổ phần hóa
thì thường được coi là doanh nghiệp ngoài quốc doanh, không được đối xử ngang hàng như
những những doanh nghiệp nhà nước khác. Điều này thể hiện rất rõ qua khả năng tiếp cận các
nguồn vốn của những tổ chức tín dụng nhà nước. Nếu như khi còn là doanh nghiệp nhà nước,
những doanh nghiệp này không chỉ nhận được nguồn vốn từ nhiều kênh khác nhau như đầu tư cơ
bản, bổ sung vốn lưu động, được xóa nợ, hay bảo lãnh nợ, thì nay không những không còn các
nguồn vốn trên, mà lại còn bị rơi vào tình trạng khó được vay vốn bởi tâm lý lo ngại họ là các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh, không có người bảo đảm (Chính phủ, các Bộ hay Uỷ ban nhân
dân các cấp) khi không có khả năng trả được nợ.
Trong lĩnh vực thuế, cách tính thuế đối với một số tài sản của doanh nghiệp nhà nước được cổ
phần hóa cũng chứa đựng những bất hợp lý. Chẳng hạn, nếu tài sản được chuyển giao khi còn là
doanh nghiệp nhà nước thì không bị tính thuế trước bạ, nhưng sau khi doanh nghiệp đã cổ phần
hóa thì phải chịu thuế này… Sự phân biệt đối xử như kiểu “con cùng cha khác mẹ” đã tạo lên tâm
lý lo ngại trong lãnh đạo doanh nghiệp khi phải đương đầu với nhiều khó khăn phía trước, nên rất
lưỡng lự trước việc lựa chọn phương án cổ phần hóa doanh nghiệp.
II.4.6. Chính sách đối với người lao động
Vấn đề lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa hiện đang nổi lên hai vướng mắc chủ yếu,
đó là:
 Thứ nhất, một số người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa chưa được hương đầy
đủ chế độ ưu đãi theo Nghị định số 44/1998/NĐ-CP.
Trên thực tế, việc thực hiện chế độ ưu đãi cho người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần
hóa theo Nghị định số 44/1998/NĐ-CP đã dẫn đến hiện tượng người lao động ở doanh nghiệp

này được mua đủ 10 cổ phần ưu đãi cho 1 năm làm việc, còn người lao động ở doanh nghiệp
khác lại chỉ được mua số cổ phần ưu đãi cho 1 năm làm việc ít hơn, có thể là 8, là 6 hoặc thậm
chí ít hơn nữa. Hiện tượng không công bằng đã nảy sinh. Sơ dĩ có hiện tượng này là vì ở những
doanh nghiệp khác nhau thì giá trị phần vốn nhà nước là rất khác nhau, số người lao động cũng
rất khác nhau và thâm niên công tác của họ lại càng khác nhau. Với những doanh nghiệp được
thành lập đã vài chục năm, số vốn nhỏ, số công nhân đông, thâm niên công tác lâu thì chắc chắn
người lao động sẽ không được nhận đủ phần ưu đãi mà nhà nước dành cho họ theo Nghị định
này.
 Thứ hai, xuất hiện tình trạng lao động dôi dư không chỉ sau khi tiến hành cổ phần hóa mà
ngay cả khi đang tiến hành cổ phần hóa.
Hàng trăm doanh nghiệp đã cổ phần hóa trước đây nhưng không có hiện tượng lao động dôi dư.
Hơn thế nữa tại các doanh nghiệp đã cổ phần hóa được hơn 1 năm, số lao động không những
không bị cắt giảm mà còn tăng lên đáng kể. Song trong thời gian gần đây đã bắt đầu xuất hiện lao
động dôi dư không chỉ sau cổ phần hóa mà ngay cả trong khi doanh nghiệp đang tiến hành cổ
phần hóa. Theo báo cáo của Bộ Công Thương, khi tiến hành cổ phần hóa, toàn ngành sẽ dôi dư
9.000 lao động, trong đó khối xây dựng chiếm 44%, khối cơ khí 25% và khối vận tải, dịch vụ là
31%. Cả nước với kế hoạch cổ phần hóa 1/3 số doanh nghiệp nhà nước hiện có (khoảng 2.000
doanh nghiệp) thì sẽ có khoảng 50 - 60 vạn lao động bị mất việc làm. Hầu hết số lao động này là
lao động phổ thông, trong đó khoảng 40% số lao động ơ độ tuổi dưới 40. Đây là vấn đề xã hội
nảy sinh khi cổ phần hóa, không thể không giải quyết.
NHÓM 5 Trang 18
LỚP: K19 ĐÊM 8 Trường ĐH kinh tế Tp.HCM
ΙΙΙ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA
III.1 Thách thức trong quá trình thực hiện cổ phần hóa DNNN hiện nay
 Định hướng đến năm 2010 phải hoàn tất việc quá trình CPH các DNNN khó thực hiện được:
Trong giai đoạn 2007-2010 sẽ có 1.553 doanh nghiệp được sắp xếp, trong đó 950 doanh
nghiệp sẽ cổ phần hóa. Nhưng năm 2007 chỉ sắp xếp được 271 doanh nghiệp trong số 550
doanh nghiệp theo kế hoạch, trong đó CPH được 116 doanh nghiệp. Năm 2008 chỉ sắp xếp
được 119 doanh nghiệp, trong đó CPH chỉ đạt một phần tư kế hoạch với 74/262 doanh
nghiệp. Vậy trong hai năm 2009 và 2010 sẽ phải CPH xong trên 750 doanh nghiệp nếu muốn

hoàn thành kế hoạch.
 Mặc dù thời gian xác định giá trị doanh nghiệp và tiến trình cổ phần hóa kéo dài nhưng
chúng ta vẫn chưa có một chế tài với các đơn vị chưa hoàn thành.
 Quá trình cổ phần hóa gặp nhiều khó khăn do những nguyên nhân như quy trình, quy định
phức tạp, thủ tục hành chính rườm rà, sự can thiệp hành chính của cơ quan quản lý nhà nước
vào quá trình Thời gian bình quân để thực hiện cổ phần hóa một doanh nghiệp mất hơn 1
năm, với các tổng công ty, thời gian này mất gần 2 năm. Sự kéo dài thời gian khiến cho việc
định giá doanh nghiệp không còn chính xác. Quá trình cổ phần hóa kéo dài đồng nghĩa với
việc doanh nghiệp phải đối mặt với khó khăn khi phải xử lý những vấn đề phát sinh về tài
chính từ khi xác định giá trị doanh nghiệp đến thời điểm có đăng ký kinh doanh lần đầu. Giá
trị doanh nghiệp có thể tăng hoặc giảm vì tính theo thời điểm khác nhau khiến cho tiến
trình cổ phần hóa nhiều doanh nghiệp trở nên bế tắc khi các bên không thể thoả thuận chia sẻ
lợi ích từ quá trình trên
 Mặc dù trong năm 2007, BTC đã ban hành nghị định 109/2007/NĐ-BTC và thông tư
146/2007/TT-BCT quy định khá chi tiết về các quy trình và thủ tục chuyển đổi doanh nghiệp
100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần. Tuy nhiên theo chúng tôi nhận định việc xác
định giá trị tài sản vẫn chưa được quy định cụ thể và khó áp dụng, cụ thể như sau:
- “Giá trị thực tế của tài sản = Nguyên giá tính theo giá thị trường tại thời điểm tổ
chức định giá (x) Chất lượng còn lại của tài sản tại thời điểm định giá”. Tuy nhiên
những DNNN có máy móc, công nghệ cũ thì việc xác định theo giá thị trường cũng
như chất lượng còn lại của các tài sản này là vấn đề hết sức khó khăn và có nhiều
tranh cải giữa cơ quan định giá và doanh nghiệp. Mặc khác việc xác định giá đất tính
vào giá trị doanh nghiệp cũng khá bất cập khi giá thị trường theo bảng giá của UBNN,
thành phố ban hành không bám sát theo giá thị trường đang giao dịch làm thất thoát
khá lớn tài sản của nhà nước đặc biệt khi có tiêu cực trong quá trình này thường xuyên
sảy ra
- Giá trị lợi thế kinh doanh, đia lý, thương hiệu được phép tính vào giá trị doanh nghiệp
khi tiến hành định giá tuy nhiên vấn đề xác định lợi thế kinh doanh này như thế nào và
cơ quan chủ quản nào được phép và tiến hành như thế nào vẫn chưa được quy định cụ
thể.

 Bên cạnh đó việc xử lý tài chính cũng gây không ít khó khăn cho việc xác định giá trị doanh
nghiệp cổ phần hoá. Mặc dù đã có nhiều văn bản hướng dẫn vấn đề tài chính khi chuyển
doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần nhưng đến nay vấn đề này vẫn chưa được giải
quyết triệt để. Các khoản nợ tồn đọng, dây dưa khó đòi đã qua nhiều năm, tài sản không cần
dùng, vật tư hàng hoá tồn kho lâu ngày, trải qua nhiều đời giám đốc không còn chứng từ,
không sổ sách nên không thể xác nhận được.
NHÓM 5 Trang 19
LỚP: K19 ĐÊM 8 Trường ĐH kinh tế Tp.HCM
 Tỷ trọng vốn nhà nước trong các doanh nghiệp sau cổ phần vẫn còn khá cao, đa số nhân sự
quản lý được chuyển từ cơ quan nhà nước quản lý hoặc từ doanh nghiệp cũ, kế thừa tư duy
bao cấp từ nhà nước chuyển qua nên tình trạng “bình mới rượu cũ” hậu cổ phần hóa khá phổ
biến.
 Các doanh nghiệp đã tiến hành cổ phần hóa tự nguyện có những lợi thế mà các doanh nghiệp
sẽ cổ phần hóa trong tương lai ít có được ví dụ: ít mắc nợ, ít dịch vụ xã hội, ít lao động dư
thừa …Các doanh nghiệp càng về sau sẽ càng ít lợi thế này do đó quá trình CPH sẽ khó khăn
hơn nhiều và tốn thời gian hơn
 Khi tiến hành đầu tư vào một doanh nghiệp, điều mà các nhà đầu tư quan tâm là khả năng
sinh lợi của doanh nghiệp và xu thế của tăng trưởng lợi nhuận trong tương lai của doanh
nghiệp đó cũng như sự lành mạnh về tài chính của các doanh nghiệp. Có thể nói thực chất
nhà đầu tư không mua tài sản mà muốn sở hữu dòng thu nhập do tài sản đó mang lại cho họ
trong tương lai và yêu cầu đảm bảo an toàn vốn khi đầu tư. Trong khi đó các DNNN tại Việt
Nam hiện nay đa số quản lý khá lõng lẽo về tài chính và chưa phát huy hết được thế mạnh
kinh doanh của mình, do đó gây khó khăn cho quá trình thương lượng cũng như tìm kiếm các
đối tác đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài khi muốn tìm kiếm cơ hội đầu tư vào Việt Nam
và thách thức cho khả năng thành công trong quá trình IPO lần đầu với giá phản ánh đúng
giá trị của doanh nghiệp trong tương lai.
 Thị trường chứng khoán đã được thành lập gần 10 năm, quy mô từ 2 đơn vị đến nay đã có
hơn 300 doanh nghiệp niêm yết, song sự phát triển của thị trường vẫn chưa đi vào ổn định,
tâm lý đám đông vẫn đang chiếm lĩnh trên thị trường làm cho thị trường phát triển không bền
vững do đó vẫn chưa tạo động lực và là một kênh tạo vốn hữu hiệu cho lần đầu phát hành cổ

phiếu của các doanh nghiệp cũng như huy động vốn thông qua thị trường. này
 Mặc khác tác động của cuộc khủng hoảng toàn cầu đến sự phát triển của thị trường chứng
khoán các nước giai đoạn 2008-2009 vừa qua và dư âm của nó trong thời gian đến sẽ không
hỗ trợ tốt cho thị trường vốn phát triển.
III.2 Giải pháp
Dựa vào những đánh giá trên chúng tôi xin kiến nghị một số giải pháp sau đây nhằm giúp thúc
đẩy và hoàn thiện quá trình cổ phần hóa trong thời gian tới:
III.2.1 Giải pháp vĩ mô:
 Các cơ quan quản lý các doanh nghiệp nhà nước hiện hành nghiên cứu và đánh giá thực trạng các
doanh nghiệp nhà nước đang nắm giữ, lên kế hoạch về tiến độ cổ phần hóa các doanh này
trình bộ tài chính phê duyệt và ra quyết định lộ trình thực hiện. Thành lập một bộ phận
chuyên trách, giám sát và điều phối linh hoạt những vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Đồng thời với nó là đề ra chế tài xử phạt lien đới đến những đối tượng lien quan nếu không
theo đúng lộ trình cam kết.
 Điều chỉnh phương hướng đầu tư từ ngân sách nhà nước, thay vì cấp phát chi ngân sách về
cho các doanh nghiệp mà điều phối theo cơ chế tự thu tự chi, đề ra chỉ tiêu lợi nhuận cho
từng ngành nghề đối với những doanh nghiệp buộc nhà nước nắm quyền chi phối.
 Khuyến khích sự tham gia của các thành phần kinh tế khác nhau, đặc biệt là khuyến khích
luồng vốn từ những nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào một số ngành trọng điểm tạo nền
tảng cho sự phát triển của một quốc gia như cơ sở hạ tầng, viễn thông, tài chính ngân hàng,
giáo dục, tạo cơ chế cạnh tranh trên thị trường, hạn chế tình trạng độc quyền nhà nước.
NHÓM 5 Trang 20
LỚP: K19 ĐÊM 8 Trường ĐH kinh tế Tp.HCM
 Quy trình cổ phần hóa có thể cải thiện bằng cách bán cho các đối tác chiến lược trước để trở
thành công ty cổ phần và sau đó đấu giá công khai trên thị trường vốn hoặc ngược lại tùy vào
tình hình thực tế.
 Khuyến khích các doanh nghiệp tham gia vào thị trường chứng khoán và yêu cầu các doanh
nghiệp đáp ứng các điều kiện niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán phải niêm yết theo
một lộ trình cam kết thực hiện. Góp phần tạo tính minh bạch về tài chính và quản trị doanh
nghiệp cho các doanh nghiệp sau một thời gian cổ phần hóa.

 Tăng cường công tác quản lý thị trường chứng khoán, đặc biệt là giám sát cơ chế công bố
thông tin trên thị trường nhằm tạo dựng một thị trường vốn cạnh tranh lành mạnh giữa các
doanh nghiệp.
 Hỗ trợ về tài chính cho các doanh nghiệp hậu cổ phần hóa đầu tư mới và phát triển thị trường
nhằm tạo tính cạnh tranh cho các doanh nghiệp.
III.2.2 Giải pháp vi mô:
 Xác định giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa:
 Việc xác định giá trị doanh nghiệp phải khách quan do một tổ chức chuyên nghiệp
thực hiện, tránh ủy quyền cho một Hội đồng hoặc doanh nghiệp tự đảm nhận.
 Các tổ chức này phải liên đới chịu trách nhiệm trước pháp luật và hình thức xử phạt
mạnh nếu kiểm toán nhà nước phát hiện sai sót trong quá trình CPH.
 Việc xác định giá các tài sản như máy móc thiết bị, giá trị đất theo cơ chế thị trường
phải có kèm bảng điều tra thị trường danh mục tài sản đó do một tổ chức điều tra thị
trường uy tín.
 Các khoản nợ tồn đọng: nếu không xử lý được khi cổ phần hóa sẽ được chuyển qua cho công
ty quản lý và mua bán nợ nhà nước tiếp quản và xử lý trong những thời gian tiếp theo, không
nên giảm giá trị nhà nước hay chuyển nợ qua cho công ty cổ phần mới thành lập.
 Sau khi cổ phần hóa, nên thay đổi hệ thống quản lý cho phù hợp với mô hình doanh nghiệp
mới theo hướng tích tực, tránh giữ nguyên bộ máy quản lý ì ạch. Trao quyền điều hành
doanh nghiệp cho ban lãnh đạo, Nhà Nước đứng trên quan điểm của một cổ đông: đặt ra chỉ
tiêu và giám sát đánh giá trên hiệu quả điều hành của ban lãnh đạo.
 Ưu đãi và khuyến khích người lao động tại doanh nghiệp tham gia góp vốn mua cổ phần
nhằm gắn bó trách nhiệm của họ với doanh nghiệp. Lập 1 quỹ hỗ trợ cổ phần hóa, quỹ này sẽ
hỗ trợ nguồn vốn cho các doanh nghiệp cho người lao động vay mua cổ phần.
KẾT LUẬN
Từ những phân tích trên đã cho ta thấy cái nhìn tổng quát về tiến trình cổ phần hóa của nước ta từ
những giai đọan đầu tiên cho đến ngày nay. Qua đó ta có thể thấy chủ trương của Đảng và nhà
nước ta về cổ phần hoá là hoàn toàn đúng đắn. Hiệu quả mà cổ phần hóa đem lại là không thể
phủ nhận được và hoàn toàn có thể tăng trong tương lai. Bên cạnh đó còn có những hạn chế trong
tiến trình cổ phần hóa xuất phát từ nguyên nhân chủ quan hoàn toàn có thể khắc phục được trong

thời gian tới nếu toàn Đảng, toàn dân ta cùng nỗ lực, đồng lòng. Vả chúng ta tin tưởng rằng chủ
NHÓM 5 Trang 21
LỚP: K19 ĐÊM 8 Trường ĐH kinh tế Tp.HCM
trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước sẽ được thực hiện ngày càng thành công, góp phần
vào những thắng lợi chung của sự phát triển kinh tế đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Các văn bản pháp luật nêu trên,
2. Quyết định 1729/QĐ- TTg, ngày 29/12/2006 phê duyệt danh sách các Tập Đoàn, Tổng Công
ty Nhà Nước thực hiện CPH giai đoạn 2007-2010
3. “Nhìn lại tiến trình cổ phần hóa DNNN qua số liệu 2001-2005”- Nguồn Tổng Cục Thống Kê
NHÓM 5 Trang 22
LỚP: K19 ĐÊM 8 Trường ĐH kinh tế Tp.HCM
4. Báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX.
5. />6. />ty-nha-nc-mt-s-gii-phap-c-th.niics
7. />8. />NHÓM 5 Trang 23

×