Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

định hướng và một số kiến nghị nhằm phát triển chính phủ điện tử ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.65 KB, 51 trang )

Lời cảm ơn
Bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng thông tin truyền thông đặt ra nhiều
thách thức cho các nước trên thế giới. Một trong nhiều thách thức mà các nước
đang phải đối mặt là việc chuẩn bị sẵn sàng cho xã hội và chính phủ của mình.
Việc nâng cao sức mạnh của công nghệ thông tin sẽ giúp cho các quốc
gia khẳng định vị thế trên tường quốc tế.
Ngày nay, chính phủ điện tử được xem là nhân tố không thể thiếu đối
với sự phát triển của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, thực trạng chính phủ điện tử vẫn
đang nảy sinh nhiều vấn đề bất cập. Chính vì vậy tôi muốn nghiên cứu, tìm hiểu
sâu thêm về thực trạng, giải pháp cho chính phủ điện tử ở Việt Nam với mong
muốn nâng cao hơn nữa hiệu quả của chính phủ điện tử đối với sự phát triển
kinh tế- xã hội của đất nước.
Đầu tiên tôi xin gửi lời cảm ơn tới thầy Trần Cao Tùng - giảng viên bộ
môn Thông tin trong quản lý hành chính nhà nước, là người trực tiếp hướng dẫn
tôi nghiên cứu đề tài này. Tôi xin chân thành cảm ơn tấm lòng nhiệt huyết của
thầy!
Trong quá trình nghiên cứu tim hiểu chắc hẳn sẽ không tránh khỏi
những thiếu sót, sai lầm, kính mong thầy giáo cùng các bạn bổ sung, đóng góp ý
kiến cho bài nghiên cứu của tôi được hoàn thiện hơn!
Chân thành cảm ơn!
Hoàng Thị Bảo Trang.
Lời cảm ơn
Bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng thông tin truyền thông đặt ra nhiều
thách thức cho các nước trên thế giới. Một trong nhiều thách thức mà các nước
đang phải đối mặt là việc chuẩn bị sẵn sàng cho xã hội và chính phủ của mình.
Việc nâng cao sức mạnh của công nghệ thông tin sẽ giúp cho các quốc
gia khẳng định vị thế trên tường quốc tế.
Ngày nay, chính phủ điện tử được xem là nhân tố không thể thiếu đối với sự
phát triển của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, thực trạng chính phủ điện tử vẫn đang
nảy sinh nhiều vấn đề bất cập. Chính vì vậy tôi muốn nghiên cứu, tìm hiểu sâu
thêm về thực trạng, giải pháp cho chính phủ điện tử ở Việt Nam với mong


muốn nâng cao hơn nữa hiệu quả của chính phủ điện tử đối với sự phát triển
Phần mở đầu
1) Lý do chọn đề tài
Ngày nay, công nghệ thông tin đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với sự
phát triển của mỗi quốc qia. Nó giúp rút ngắn khoảng cách địa lý, rào cản văn
hóa của các nước trên khắp thế giới. Cùng với đó chính phủ điện tử được sử
dụng như một công cụ đắc lực hỗ trợ sự phát triển kinh tế- xã hội, văn hóa, giáo
dục…Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, vai trò của nhà nước ngày
càng trở nên quan trọng. Nhà nước đóng vai trò quyết định trong việc hoạch
định các chính sách về kinh tế, văn hoá, xã hội nhằm mục tiêu xây dựng một xã
hội công bằng, văn minh và đưa nền kinh tế phát triển sánh ngang với các
cường quốc kinh tế trên thế giới. Nhưng làm thế nào để các chủ trương chính
sách đó đến được với nhân dân mới là vấn đề mà Chính phủ cần phải suy tính.
Các nước phát triển trên thế giới đã tìm ra lời giải cho bài toán, đó là phát
triển Chính phủ điện tử. Hầu hết các nước này đã nhận thức được rằng Chính
phủ điện tử mang lại rất nhiều lợi ích cho đất nước. Trong tương lai, nước nào
có một nền Chính phủ điện tử phát triển, nước đó sẽ có lợi thế hơn các nước
khác. Không một nước nào muốn bị tụt hậu so với các nước, do đó, phát triển
Chính phủ điện tử đã trở thành xu hướng chung của các quốc gia trên toàn thế
giới. Thế nhưng, ở nước ta, khái niệm Chính phủ điện tử đối với hầu hết mọi
người là một khái niệm hoàn toàn mới mẻ và hết sức lạ lẫm. Hầu như chẳng ai
biết Chính phủ điện tử là gì chứ không nói gì đến việc liệu Chính phủ điện tử sẽ
mang lại lợi ích gì cho đất nước. Hiện nay có rất ít, nếu không nói là không có
tác giả trong nước nào đề cập đến vấn đề Chính phủ điện tử. Các nước phát
triển trên thế giới đã đề ra và thực hiện chiến lược Chính phủ điện tử từ nhiều
năm trước, vậy mà nước ta mới bắt đầu triển khai các đề án tin học hoá quản lý
nhà nước. Khởi động chậm như vậy thì nước ta còn rất lâu mới đuổi kịp các
nước khác.
Do vậy, nghiên cứu về Chính phủ điện tử là vấn đề rất cần thiết đối với nước
ta. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài

chính phủ điện tử- thực trạng và giải pháp để nghiên cứu.
2) Mục đích nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu thực trạng chính phủ điện tử ở Việt Nam hiện nay
để hiểu sâu sắc hơn và từ đó rút kinh nghiệm, tìm ra những giải pháp nhằm
nâng cao hơn nữa hiệu quả của chính phủ điện tử trong các giai đoạn tiếp theo.
Từ đó đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế- xã hội của nước ta.
3) Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu bài tiểu luận có nững nhiệm vụ sau:
- Định nghĩa chính phủ điện tử
- Thành phần
- Lợi ích của chính phủ điện tử mang lại
- Thực trạng
- Giải pháp và hướng phát triển
4. Phương pháp nghiên cứu
Với ý nghĩa chung nhất, phương pháp nghiên cứu được hiểu là cách thức đề
cập tới hiện thực, cách thức nghiên cứu các hiện tượng của tự nhiên và của cả
xã hội. Phương pháp là hệ thống các nguyên tắc điều chỉnh nhận thức và hoạt
động cải tạo thực tiễn xuất phát từ các quy luật vận động của khách thể hiện
được nhận thức.
Vì vậy tiếp cận chính phủ điện tử chúng ta vận dụng các phương pháp sau:
. Phân tích
. Phương pháp nghiên cứu tham khảo và tổng hợp tài liệu
. Phương pháp suy luận logic
.So sánh
.Tổng hợp
5) Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng ứng dụng chính phủ điện tử ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay.
6) Kết cấu bài
Chương 1: Khái quát chung về chính phủ điện tử

Chương 2: Thực trạng chính phủ điện tử ở nước ta
Chương 3: Giải pháp và hướng phát triển
Nội dung
Chương 1. Khái quát chung về Chính phủ điện tử
I) Một số vấn đề liên quan tới Chính phủ điện tử
1. Sự ra đời Chính phủ điện tử
Ngày nay người ta nói nhiều về Chính phủ điện tử (e-government). Một
khi mà Internet và thương mại điện tử ra đời, thì sự ra đời Chính phủ điện tử là
điều tất yếu. Trước kia, hầu hết Chính phủ các nước phải giải quyết các vấn đề
kinh tế xã hội theo cách cũ, tức là hoàn toàn không có sự tham gia của công
nghệ thông tin và viễn thông. Như đã thấy ở hầu hết các nước, cơ cấu bộ máy
Nhà nước bao gồm các Bộ như bộ Giáo dục, bộ Y tế, bộ Giao thông vận tải, bộ
Thương mại, bộ Khoa học và công nghệ…Trung bình mỗi Chính phủ có
khoảng 50 tới 70 bộ hay cơ quan khác nhau ở trung ương. Mỗi bộ như vậy đều
có các cơ quan chức năng riêng. Việc phát hiện một cơ quan làm không đúng
chức năng, nhiệm vụ của mình có thể là khó khăn. Tệ hơn, ngay cả các vấn đề
đơn giản như cấp giấy phép kinh doanh cho một doanh nghiệp, bán một số lớn
các cơ quan khác nhau đòi hỏi một số biểu mẫu khác nhau. Điều này là quá thừa
và không cần thiết. Hơn nữa, thủ tục giải quyết vấn đề về quản lý thường quá
rườm rà, gây khó khăn cho người dân khi có nhu cầu.
Một trong các lý do cơ bản làm cho khu vực công kém hiệu quả, quan
liêu là những việc xảy ra ở trên. Hệ thống tổ chức hàng dọc hay ngang của các
cơ quan có quá nhiều ban ngành tạo ra sự phức tạp cho cán bộ nhân viên trong
lúc thừa hành nhiệm vụ. Để giải quyết tình trạng trên, Chính phủ các nước trên
thế giới đã tìm ra giải pháp áp dụng Internet và các thành tựu khác của khoa học
công nghệ để cải thiện hoạt động của bộ máy nhà nước.
Khả năng áp dụng Internet để cung cấp thông tin Chính phủ tới mọi
người ở mọi nơi mà không cần bất cứ khâu trung gian nào sẽ ảnh hưởng rất lớn
tới bản thân các quan chức Chính phủ. Các doanh nghiệp nhỏ có thể thu thập
các quy tắc và các văn bản pháp luật dễ dàng hơn mà không cần phải thông qua

luật sư. Ngay cả người dân cũng có thể nộp thuế từ nhà riêng vừa đỡ tốn thời
gian tiền bạc và hiệu quả. Mặt khác, việc mọi người có thể chủ động hơn khi
truy cập các thông tin và sử dụng các dịch vụ của Chính phủ cũng góp phần hạn
chế hiện tượng lạm dụng quyền lực của các quan chức nhà nước, bảo vệ quyền
lợi cá nhân cho công dân và đảm bảo an toàn và bảo mật các thông tin quan
trọng của Chính phủ
2) Lý do ra đời Chính phủ điện tử
Có 4 lý do chính khiến Chính phủ các nước chuyển đổi sang Chính phủ
điện tử:
2.1) Tiết kiệm chi phí cho cả Chính phủ và dân chúng
Trên thế giới hầu hết các Chính phủ đều nằm trong tình trạng chịu gánh
nặng về chi phí. Mặc dù ở nhiều nước, khoản thu từ thuế tăng lên cùng với tốc
độ tăng của nền kinh tế, đặc biệt là ở các nước công nghiệp, các khoản chi tiêu
của Chính phủ vẫn tăng lên một cách nhanh chóng, nhất là khi dân số và các
yếu tố khác tăng làm cho các khoản chi dành cho lương hưu và các khoản trợ
cấp thất nghiệp, y tế tăng nhanh mỗi năm. Những khoản chi như vậy làm cho
ngân sách Nhà nước ngày càng cạn kiệt, khiến cho Chính phủ phải vắt óc nghĩ
cách giảm chi phí. Chính phủ các nước thấy rằng áp dụng công nghệ thông tin
và viễn thông vào quản lý hành chính Nhà nước và cung cấp dịch vụ của Chính
phủ vừa giúp giảm chi cho Nhà nước vừa tiết kiệm thời gian tiền bạc cho các
đối tượng sử dụng dịch vụ của Chính phủ. Rõ ràng là sử dụng dịch vụ thanh
toán bằng điện sẽ nhanh hơn và rẽ hơn rất nhiều so với việc dùng tiền mặt hay
các phương tiện thanh toán truyền thống khác. Chính phủ cũng tiết kiệm được
rất nhiều nếu đăng tải các thông tin mời thầu trên mạng thay vì phải đăng tải
trên báo.
2.2) Áp lực cạnh tranh từ khu vực tư nhân
Ngoài vấn đề chi phí, Chính phủ phải đối mặt với áp lực cạnh tranh ngày
càng tăng và phức tạp từ khu vực tư nhân. Trong nền kinh tế thị trường và môi
trường cạnh tranh tự do hiện nay, sản phẩm và dịch vụ khách hàng do khu vực
tư nhân cung cấp ngày càng tăng về cả lượng và chất. Các công ty đang rất tích

cực tìm hiểu thị hiếu và tâm lý khách hàng để tìm cách khác biệt hóa sản phẩm
và dịch vụ của mình so với các công ty khác. Mặc dù việc này mang lại nhiều
lợi ích cho người tiêu dùng và xã hội, song nó lại càng làm nảy sinh một vấn đề
quan trọng, đó là khi các khách hàng được hưởng dịch vụ ngày càng tốt từ khu
vực tư nhân thì họ lại càng mong đợi một dấu hiệu tương tự từ các dịch vụ của
Chính phủ. Trước đây, khi Chính phủ cung cấp thông tin và dịch vụ phục vụ
người dân, việc phải bỏ ra bao nhiêu chi phí để cung cấp thông tin và dịch vụ
phục vụ người dân, việc phải bỏ ra bao nhiêu chi phí để cung cấp dịch vụ đó
luôn là vấn đề được xem xét đầu tiên, sau đó mới đến chất lượng dịch vụ. Nếu
cứ trong tình trạng này thì chất lượng dịch vụ do Chính phủ cung cấp không bao
giờ cạnh tranh được với chất lượng dịch vụ tốt bao nhiêu từ khu vực tư nhân lại
càng yêu cầu bấy nhiêu từ các dịch vụ do Chính phủ cung cấp.
2.3) Công nghệ thông tin và viễn thông đang cải thiện chất lượng dịch vụ ở
khắp mọi nơi
Ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, Chính
phủ cũng nhận thấy áp dụng khoa học công nghệ là một biện pháp hữu hiệu để
cải thiện chất lượng dịch vụ. Nếu một sinh viên đại học có thể đăng ký lớp cho
mình qua mạng từ nhà hay từ ký túc xá thì tại sao Chính phủ lại không thể cho
phép công dân của mình nộp thuế theo cách tương tự như vậy? Khi công nghệ
góp phần cải thiện chất lượng dịch vụ Chính phủ theo hướng tích cực cả về tính
kinh tế lẫn tính kỹ thuật thì Chính phủ không còn sự lựa chọn nào khác là phải
đi theo chiều hướng chung đó. Sử dụng công nghệ hiện đại, thoạt tiên các viên
chức Chính phủ cần phải giải quyết với nhiều loại giao dịch phong phú hơn với
công dân và do đó phải có kiến thức sâu rộng hơn về công nghệ.
Các tổ chức Chính phủ cũng sẽ chịu nhiều ảnh hưởng. Trước kia, nếu một
công dân muốn xin giấy phép lái xe, đăng ký xe hay muốn nộp thuế, anh ta sẽ
phải đến ba cơ quan Nhà nước khác nhau. Chỉ để thực hiện một dịch vụ rất đơn
giản mà phải di đến rất nhiều nơi và thực hiện nhiều thủ tục rườm rà. Để giải
quyết tình trạng này, Chính phủ cần phải rút gọn lại bộ máy hành chính của
mình. Như vậy thì một công dân thất nghiệp khi muốn hướng tới trợ cấp thất

nghiệp, bồi thường hay trợ cấp về y tế có thể ngồi ở nhà và yêu cầu qua điện
thoại hay một máy tính cá nhân thay vì cứ phải đi đến 4, 5 cơ quan khác nhau
của Chính phủ để yêu cầu.
2.4) Tăng tính cạnh tranh của nền kinh tế
Các Chính phủ dân chủ tự do trên thế giới thấy rằng Chính phủ cũng là
một thành viên quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Chính
phủ ngày nay nhận thức rõ ràng Chính phủ cần thực hiện thêm chức năng tạo
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của công nghệ kỹ thuật số - một động lực
phát triển kinh tế của thế kỷ 21. Vai trò mới này của Chính phủ yêu cầu phải có
nhiều công cụ quản lý hơn ngoài các công cụ truyền thống.
Cơ sở hạ tầng vật chất cũ như hệ thống đường bộ, đường sắt, hệ thống
phân phối ga và điện vẫn quan trọng, song chúng cần phải được bổ sung thêm
các cơ sở hạ tầng mới như mạng điện thoại cố định, điện thoại không dây, vệ
tinh, Internet không dây… Nếu không có cơ sở hạ tầng viễn thông tiên tiến
cũng như hệ thống giáo dục và hệ thống kỹ thuất số hiện đại cho các dịch vụ
của Chính phủ thì nước đó sẽ không có lợi thế cạnh tranh so với các nước khác.
Trên đây là một số lý do chính khiến cho Chính phủ các nước, nhất là các
nước phát triển, phải nhanh chóng gấp rút tạo tiền đề, cơ sở vật chất kỹ thuật để
chuyển đổi sang Chính phủ điện tử và đặt ra mục tiêu cho chiến lược Chính phủ
điện tử của mình.
3) Các nhân tố thúc đẩy sự ra đời Chính phủ điện tử
3.1) Toàn cầu hóa
Trong điều kiện toàn cầu hóa diễn ra ngày diễn ra ngày càng mạnh mẽ
như hiện nay, các quốc gia trở nên gắn bó với nhau về kinh tế, văn hóa và xã
hội. Sự phụ thuộc lẫn nhau về văn hóa và xã hội giữa các nước khác nhau là cơ
sở cho việc hình thành nền văn hóa và xã hội giữa các nước khác nhau là cơ sở
cho việc hình thành nền văn hóa toàn cầu. Để tham gia vào sự hình thành nền
văn hóa toàn cầu này cũng như việc được thừa nhận những nét đặc sắc trong
văn hóa của mình, các quốc gia phải tìm cách giúp đỡ các công dân và các tổ
chức kinh doanh của mình cạnh tranh trong môi trường toàn cầu hóa. Do đó

việc cung cấp thông tin cho các công ty trong nước, giúp đỡ các công ty trong
nước cũng như các công ty nước ngoài hoạt động cần phải có sự tham gia của
Chính phủ. Nếu vẫn cứ tồn tại dưới hình thức Chính phủ cũ trước kia, tức là
không có sự trợ giúp của công nghệ hiện đại trong việc cung cấp thông tin và
dịch vụ, thì Chính phủ sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi thực hiện vai trò chính của
mình. Chính phủ điện tử ra đời có thể dễ dàng đáp ứng yêu cầu của toàn cầu của
toàn cầu hóa bằng cách áp dụng công nghệ hiện đại.
Hơn nữa, trong điều kiện toàn cầu hóa, quốc tế hóa, các quốc gia cần trao
đổi thông tin một cách hiệu quả để cùng giải quyết những vấn đề mang tính
toàn cầu như bảo vệ môi trường, chia sẻ các nguồn tài nguyên chiến lược và
những vấn đề khác không thể được giải quyết bởi từng quốc gia riêng lẻ. Chính
phủ điện tử hoàn toàn đáp ứng được các yêu cầu này bởi Chính phủ điện tử giúp
rút ngắn không gian và tiết kiệm thời gian, tạo ra khả năng kiểm soát các “rủi ro
toàn cầu’ một cách hiệu quả.
3.2) Thị trường hóa
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử, các công ty
đang tự tổ chức lại để trở thành các doanh nghiệp điện tử nhằm thu lợi nhuận tối
đa. Thông qua việc áp dụng công nghệ thông tin và viễn thông, các công ty có
thể giảm chi phí giá thành và tăng chất lượng dịch vụ từ đó thu hút được nhiều
khách hàng hơn. Như vậy nếu Chính phủ điện tử được nhìn nhận như một nhà
cung cấp dịch vụ, mà vẫn sử dụng các phương thức truyền thống thì sẽ gặp phải
sự cạnh tranh gay gắt từ khu vực tư nhân. Chính phủ cần phải áp dụng những
tiến bộ khoa học kỹ thuật để cải tiến chất lượng dịch vụ, xây dựng một cơ sở hạ
tầng quản lý và bảo hộ mật thông tin thì mới có khả năng đáp ứng được yêu cầu
của công dân và doanh nghiệp.
Qua một số phân tích ở trên chúng ta đã hiểu phần nào lý do khiến Chính
phủ điện tử lại là mơ ước chung của Chính phủ các nước trên thế giới. Tuy
nhiên, để trả lời câu hỏi Chính phủ điện tử là gì thì mỗi nước lại có một khái
niệm khác nhau. Vì vậy, đến nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về
Chính phủ điện tử.

4) Chính phủ điện tử là gì?
Các định nghĩa về CPĐT bao gồm từ việc “ sử dụng công nghệ thông tin để
giải phóng các luồng di chuyển thông tin nhằm khắc phục những rào cản vật
lý của các hệ thống vật lý dựa trên giấy tờ truyền thống” cho tới “ sử dụng
công nghệ thông tin để cải tiến việc tiếp cận và cung ứng các dịch vụ chính
phủ nhằm đem lại lợi ích cho người dân, các đối tác kinh doanh và người lao
động”. Hàm ý chung đằng sau những định nghĩa này là việc CPĐT bao gồm
việc tự động hóa hoặc vi tính hóa các thủ tục, giấy tờ hiện hành và qua đó sẽ
tạo ra phong cách lãnh đạo mới, các cách thức mới trong việc xây dựng và
quyết định chiến lược, giao dịch kinh doanh, lắng nghe người dân và cộng
đồng cũng như trong việc tổ chức và cung cấp thông tin.
Cuối cùng, CPĐT nhằm mục đích cải tiến việc tiếp cận và cung cấp các dịch
vụ chính phủ nhằm đem lại lợi ích cho người dân. Quan trọng hơn nữa, CPĐT
còn nhằm mục tiêu tăng cương năng lực của chính phủ theo hướng điều hành,
quản lý có hiệu quả và nâng cao tính minh bạch nhằm quản lý tốt hơn các
nguồn lực kinh tế- xã hội của đất nước vì mục tiêu phát triển.
5. Ba giai đoạn của Chính phủ điện tử
Chính phủ các nước có các chiến lược khác nhau để xây dựng Chính phủ điện
tử. Một số nước lập ra các kế hoạch dài hạn trên mọi lĩnh vực, một số lại chỉ tập
trung vào một vài lĩnh vực khi bắt đầu dự án xây dựng Chính phủ điện tử. Tuy
nhiên, hầu hết các nước đang xây dựng thành công Chính phủ điện tử chọn cách
chia dự án phát triển Chính phủ điện tử làm 3 giai đoạn nhỏ. Các giai đoạn này
không phụ thuộc lẫn nhau, tức là không cần phải giai đoạn này hoàn thành thì
giai đoạn kia mới bắt đầu.
5.1. Giai đoạn sử dụng công nghệ thông tin và viễn thông để mở rộng
truy cập thông tin của Chính phủ
Chính phủ tạo ra khối lượng lớn thông tin, hầu hết các thông tin này đều có
ích đối với cá nhân và doanh nghiệp. Internet và các công nghệ thông tin hiện
đại khác có thể chuyển các thông tin này nhanh chóng hơn và trực tiếp tới công
dân. Việc thực hiện giai đoạn này rất đa dạng về nội dung, do đó mỗi nước cần

dựa vào khả năng của mình để có cách triển khai phù hợp. Chẳng hạn đối với
các nước đang phát triển, cơ sở tầng phục vụ cho việc phát triển và triển khai
Chính phủ điện tử còn kém so với các nước công nghiệp, nên bắt đầu giai đoạn
này bằng việc phổ biến thông tin Chính phủ trên mạng, tập trung phổ biến các
điều lệ, quy tắc, các văn bản pháp luật… Đối với các quốc gia có nhiều hiện
tượng quan chức Chính phủ làm việc kém hiệu quả và tham nhũng thì việc tạo
cho công dân và doanh nghiệp khả năng truy cập thông tin Chính phủ mà không
cần phải tới các cơ quan hành chính, đứng xếp hàng hàng giờ và thậm chí đưa
hối lộ là một cuộc cách mạng thực sự.
Khi triển khai thực hiện giai đoạn này cần chú ý những điểm sau:
- Bắt đầu bằng việc pg tin có ích tới công chúng hàng ngày, chú ý tới ngôn ngữ
địa phương;
- Luôn cập nhật thông tin trên trang Web của Chính phủ
- Tập trung vào những nội dung phục vụ phát triển kinh tế, chống tham nhũng,
thu hút đầu tư nước ngoài…
5.2. Giai đoạn tăng cường sự tham gia của người dân vào Chính phủ
Như đã nói ở trên, các trang Web phổ biến thông tin Chính phủ chỉ là bước
đầu của Chính phủ điện tử. Chính phủ điện tử phải có khả năng lôi kéo, thu hút
dân chúng tham gia vào các hoạt động của Chính phủ, kết hợp với các nhà
hoạch định chính sách ở mọi cấp của Chính phủ. Củng cố, tăng cường sự tham
gia này sẽ tạo dựng được lòng tin từ phía công chúng vào Chính phủ.
Những điểm cần lưu ý khi xây dựng trang Web tương tác giữa Chính phủ và
dân chúng:
- Phải cho công chúng thấy kết quả của việc họ tham gia vào các hoạt động của
Chính phủ;
- Phân tích, lý giải những vấn đề chính sách phức tạp một cách dễ hiểu;
- Thuyết phục công chúng tham gia;
- Sử dụng các phương tiện truyền thông để phổ biến kiến thức về Internet.
Khi thực hiện giai đoạn này, các Chính phủ cần chú ý lập ra những diễn đàn
giữa Chính phủ và công dân. Những diễn đàn như vậy sẽ tạo ra những cuộc thảo

luận trực tuyến trong đó mọi người có thể tham gia trao đổi ý kiến về những vấn
đề chính sách của chính phủ.
5.3. Giai đoạn cung cấp rộng rãi các dịch vụ của Chính phủ qua mạng
Chính phủ có thể bắt đầu bằng việc cho phép người dân thực hiện giao dịch
qua mạng. Chính phủ chịu áp lực từ phía khu vực tư nhân khi khu vực này bắt
đầu thực hiện giao dịch kinh doanh trên mạng. Thêm vào đó, khả năng sử dụng
giao dịch qua mạng làm giảm chi phí, tăng năng suất cũng là một nguyên nhân
quan trọng khiến Chính phủ phải suy tính. Trước kia, các dịch vụ của Chính
phủ như đăng ký hộ tịch hay ra hạn thẻ căn cước phải mất một thời gian dài chờ
đợi hàng giờ để gặp được các quan chức chính phủ có trách nhiệm hay thậm chí
là phải đút lót. Bằng cách cung cấp dịch vụ trực tuyến, chỉ cần ngồi ở nhà hay
tại nơi làm việc, trạm điện thoại và bật máy vi tính lên để nối vào mạng của
Chính phủ, bạn sẽ nhận được nhiều dịch vụ do các cơ quan nhà nước có trách
nhiệm cung cấp.
Có lẽ động lực lớn nhất trong việc cung cấp các dịch vụ trên mạng là để rút
gọn, tinh giảm bộ máy nhà nước và quá trình thực hiện các thủ tục hành chính
từ đó tiết kiệm tiền bạc và nâng cao hiệu quả trong dài hạn. Thêm vào đó, bằng
cách tự động hoá các thủ tục hành chính đặc biệt là trong lĩnh vực thu thuế,
Chính phủ hi vọng sẽ hạn chế được hiện tượng tham nhũng, tăng thu cho ngân
sách nhà nước trong khi vẫn duy trì được lòng tin của dân chúng vào Chính
phủ.
Một ví dụ điển hình là hệ thống thu lệ phí xa lộ ở tỉnh Gujarat của Ấn độ. Đây
là tỉnh có hiện tượng đa số tiền lệ phí cầu đường đều chui vào túi của nhân viên
thu phí. Từ khi lập ra hệ thống tính và thu phí tự động, hiện tượng thất thu phí
đã giảm hẳn. Sau một năm áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, sự trì trệ và
hiện tượng tham nhũng đã giảm đáng kể trong khi doanh thu từ phí cầu đường
tăng 3 lần.
6. Sự khác nhau giữa Chính phủ điện tử và Chính phủ truyền thống
Mặc dù có rất nhiều khái niệm khác nhau về Chính phủ điện tử nhưng chúng
ta có thể rút ra một số đặc điểm chung về Chính phủ điện tử như sau:

_ Chính phủ điện tử là Chính phủ sử dụng công nghệ thông tin và viễn thông để
tự động hoá và triển khai các thủ tục hành chính.
_ Chính phủ điện tử cho phép các công dân có thể truy cập các thủ tục hành
chính thông qua các phương tiện điện tử như Internet, điện thoại di động, truyền
hình tương tác.
_ Chính phủ điện tử là Chính phủ làm việc với người dân 24/24 giờ, 7 ngày mỗi
tuần và 365 ngày mỗi năm, người dân có thể thụ hưởng các dịch vụ công dù họ
ở bất cứ đâu.
Từ những đặc điểm trên ta thấy rằng Chính phủ điện tử có nhiều điểm khác so
với Chính phủ truyền thống. Với Chính phủ truyền thống, quá trình quản lý
hành chính trong nội bộ các cơ quan nhà nước diễn ra thủ công, tốn nhiều công
sức, thời gian và tiền bạc. Dân chúng không thể liên lạc với Chính phủ ngoài
giờ hành chính, không thể ở bất cứ nơi nào ngoài trụ sở của các cơ quan nhà
nước. Người dân không thể đăng ký lấy giấy phép kinh doanh, làm khai sinh
cho con mình hay đóng thuế trước bạ 24/24 giờ, 7/7 ngày và ở bất cứ đâu.
Chính phủ điện tử có thể khắc phục được những hạn chế này của Chính phủ
truyền thống.
Ngoài ra, sự khác biệt chủ yếu giữa Chính phủ điện tử và Chính phủ truyền
thống là sự khác biệt về tốc độ xử lý giữa các thủ tục hành chính được tự động
hóa so với các thủ tục hành chính được xử lý thủ công. Việc tự động hoá thủ tục
hành chính của Chính phủ điện tử cho phép xử lý các thủ tục nhanh hơn, gọn
hơn, đơn giản hơn rất nhiều. Không những thế, thông tin được cung cấp cho
người dân còn đầy đủ, chính xác và dễ dàng hơn, người dân cũng đỡ mất nhiều
chi phí để thu thập các thông tin này.
Nói tóm lại Chính phủ điện tử là một Chính phủ hiện đại hơn nhiều so với
Chính phủ truyền thống. Chính phủ điện tử là mục tiêu mà các cơ quan Chính
phủ các cấp sẽ tiến dần từng bước tới và có lẽ không bao giờ có thể nói rằng
Chính phủ điện tử đã được xây dựng xong.
7) Các lợi ích CPĐT mang lại
Điểm chủ yếu của CPĐT là xây dựng chiến lược dài hạn, có phạm vi sâu rộng

nhằm liên tục cải tiến các hoạt động với mục đích cuối cùng là đáp ứng các
yêu cầu của người dân thông qua việc thay đổi các hoạt động như quản lý
cán bộ, công nghệ và quy trình công việc.
Do vậy, CPĐT cần mang lại kết quả là cung ứng hàng hóa và dịch vụ một
cách hiệu quả và kịp thời cho người dân, doanh nghiệp, các cơ quan và
nhân viên chính phủ.
Đối với người dân và doanh nghiệp, CPĐT là đơn giản hóa các thủ tục và tăng
tính hiệu quả của quá trình phê duyệt.
Đối với các cơ quan và nhân viên chính phủ, CPĐT là sự hỗ trợ hợp tác giữa
các cơ quan nhằm đảm bảo đưa ra các quyết định một cách chính xác và
kịp thời.
7.1. Lợi ích về dịch vụ của Chính phủ
Trong kỷ nguyên Chính phủ điện tử, mọi công dân có thể được hưởng các
dịch vụ của Chính phủ mọi lúc, mọi nơi, với chi phí thấp hơn và được phục vụ
nhiệt tình hơn. Chính phủ điện tử cũng ảnh hưởng rất lớn lên giới doanh nghiệp,
đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ. Các công ty giờ đây có thể hoàn thành các
yêu cầu của Chính phủ trên mạng, tìm kiếm các chương trình hỗ trợ doanh
nghiệp, thực hiện các giao dịch hoặc nộp thuế ngay trên mạng. Chính phủ điện
tử có thể khiến cho các cá nhân truy cập thông tin và dịch vụ liên quan đến
mình qua một cửa duy nhất. Các thông tin được cung cấp của Chính phủ điện tử
luôn đảm bảo đáp ứng mọi nhu cầu của từng cá nhân riêng lẻ.
Nói chung, Chính phủ điện tử mang lại rất nhiều lợi ích cho cá nhân cũng như
các doanh nghiệp, cụ thể bao gồm các lợi ích sau:
_ Cung cấp đầy đủ thông tin cho mọi đối tượng;
_ Đơn giản hoá các thủ tục hành chính;
_ Đảm bảo việc xử lý các thủ tục hành chính một các công khai, công bằng, tin
cậy, ổn định và kịp thời;
_ Tiết kiệm thời gian và tiền bạc;
_ Tăng tính thuận tiện khi sử dụng các dịch vụ của Chính phủ;
_ …

7.2. Lợi ích trong quản lý hành chính nhà nước
Chính phủ điện tử góp phần làm trong sáng bộ máy nhà nước, hạn chế và loại
trừ hiện tượng tham nhũng. Bảng dưới đây thể hiện các loại thông tin có thể đạt
được tính minh bạch thông qua Chính phủ điện tử, làm nản lòng các quan chức
quan liêu tham nhũng trong Chính phủ.
Loại thông tin Lợi ích Ví dụ
-Các quy tắc và thủ
tục về dịch vụ
Tên các quan chức
Chính phủ
-Thông tin về công
dân
-Tiêu chuẩn hóa các
thủ tục cung cấp
dịch vụ
-Hạn chế sự trì hoãn
-Giảm tính chuyên
quyền của các viên
chức Chính phủ
Công khai ngân sách
ở Argentina và
Kamataka, Ấn Độ
Kết quả của các
quyết định của
Chính phủ
Giảm tình trạng
tham nhũng
E-procurement ở
Chile, Philippines
Dữ liệu về nhà đất,

tiền thanh toán các
khoản thuế…
-Công khai tình
trạng ăn hối lộ và
tham nhũng
-Trao nhiều quyền
lực hơn cho công
dân tham gia vào các
Bhoomi, các báo cáo
nhà đất trực tuyến ở
Karnataka, Ấn Độ
hoạt động của Chính
phủ
Các quyết
định của Chính phủ
như cấp phép, cấp
giấy thông hành cho
hàng hóa…
Theo dõi các
hành động đút lót,
hối lộ, mua chuộc
Hải quan trực
tuyến, OPEN ở
Seoul, Hàn Quốc
OPEN: Online Procedures Enhancement for Civil Applications
Nguồn: “Administrative Corruption: How Does E-Government Help?”,
Professor Subhash bhatnagar, Indian Institute of Management, Ahmeda
Ngoài ra, bộ máy nhà nước có thể được tinh giảm nhờ áp dụng công
nghệ thông tin, giúp tiết kiệm ngân sách dành cho chi phí quản lý, tiết kiệm thời
gian và nâng cao hiệu quả trong các hoạt động của các cơ quan Chính phủ.

7.3. Tạo mối quan hệ hợp tác giữa chính phủ với chính phủ, giữa chính
phủ với doanh nghiệp và giữa chính phủ với công dân
Tương tự như thương mại điện tử cho phép các nghiệp giao thương với nhau
một cách có hiệu quả hơn (B2B) và tạo điều kiện cho khách hàng tiếp cận gần
hơn với doanh nghiệp (B2C), Chính phủ điện tử cũng hướng tới việc tạo ra mối
quan hệ tương hỗ Chính phủ - công dân (G2C), Chính phủ - doanh nghiệp
(G2B), và quan hệ giữa chính các cơ quan công quyền (G2G) ngày càng thân
thiện hơn, thuận lợi hơn và công khai hơn. Các mối quan hệ này có thể được
duy trì thường xuyên, liên tục nhờ có các phương tiện thông tin liên lạc hiện
đại, đỡ tốn thời gian. Trong dài hạn, các dịch vụ điện tử có thể giúp giảm chi
phí cung cấp dịch vụ của Chính phủ. Người dân cũng ngày càng có xu hướng sử
dụng nhiều dịch vụ điện tử của Chính phủ vì họ không cần phải đến, viết thư
hoặc gọi điện thoại tới một cơ quan Chính phủ để yêu cầu thực hiện một
dịch vụ cụ thể. Với ngày càng nhiều dịch vụ được cung cấp trực tuyến, Chính
phủ điện tử sẽ là một cuộc cách mạng trong mối quan hệ giữa Chính phủ và
công dân.
8)Các dạng giao dịch của CPĐT
Các dịch vụ của CPĐT tập trung vào 4 nhốm khách hàng chính: người dân,
cộng đồng doanh nghiệp, các công chức chính phủ và các cơ quan chính phủ.
Mục đích của CPĐT là làm cho mối quan hệ tác động qua lại giữa người dân,
doanh nghiệp, nhân viên chính phủ và các cơ quan chính phủ với chính phủ trở
nên thuận tiện, thân thiện, minh bạch, đỡ tốn kém và hiệu quả hơn.
Trong hệ thống CPĐT, từng cá nhân có khả năng đưa ra yêu cầu đối với một
dịch vụ cụ thể của chính phủ và nhận được dịch vụ đó thông qua Internet hoặc
một số cơ chế được vi tính hóa. Trong một số trường hợp các dịch vụ của chính
phủ được cung cấp thông qua một văn phòng chính phủ thay vì nhiều văn
phòng chính phủ. Trong một số trường hợp khác các giao dịch chính phủ được
hoàn tất mà không phải liên lạc với các nhân viên chính phủ.
9)Các dạng dịch vụ cụ thể được cung cấp thông qua CPĐT
Có 4 dạng dịch vụ chính phủ bao gồm: Chính phủ với công dân (G2C), Chính

phủ với doanh nghiệp (G2B), chính phủ với người lao động (G2E), chính phủ
với chính phủ (G2G).
9.1. Hình thức cung cấp dịch vụ từ Chính phủ đến Công dân - G2C
(Government to Citizen)
G2C bao gồm phổ biến thông tin với công chúng, các dịch vụ công dân cơ
bản như gia hạn giấy phép, cấp giấy khai sinh/ khai tử/ đăng ký kết hôn và kê
khai các biểu mẫu nộp thuế thu nhập cũng như hộ trợ người dân với các dịch vụ
cơ bản như giáo dục, chăm sóc y tế, thông tin bệnh viện, thư viện và rất nhiều
dịch vụ khác.
9.2. Hình thức cung cấp dịch vụ từ Chính phủ đến Doanh nghiệp - G2B
(Government to Business)
Các giao dịch G2B bao gồm nhiều dịch vụ khác nhau được trao đổi giữa
chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp bao gồm cả việc phổ biến các chính sách,
biên babr ghi nhớ, các quy định và thể chế. Các dịch vụ được cung cấp bao gồm
truy suất thông tin về kinh doanh, tải các mẫu đơn, gia hạn giấy phếp, đăng ký
kinh doanh, xin cấp phép và nộp thuế. Các dịch vụ được cung cấp qua G2B
cũng hỗ trợ việc phát triển kinh doanh, đặc biệt là việc phát triển các doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Việc đơn giản hóa các thủ tục xin cấp phép, hỗ trợ quá trình
phê duyệt đối với các yêu cầu của doanh nghiệp vưa và nhỏ sẽ thúc đẩy kinh
doanh phát triển.
Ở mức cao hơn, G2B bao gồm việc mua sắm điện tử và trao đổi trực tuyến
giữa nhà sản xuất và chính phủ để mua sắm hàng hóa và dịch vụ cho chính phủ.
Một ví dụ điển hình là các web- site mua sắm điện tử sẽ cho phép những người
dã đăng ký và được chấp nhận có thể tìm kiếm các người mua và người bán
hàng hóa, dịch vụ. tùy theo từng phương pháp các người mua và người bán có
thể xác định giá cả hoặc mở thầu. Việc mua sắm điện tử làm cho quá trình đấu
thầu trở nên minh bạch và giúp cho các doanh nghiệp nhỏ có thể tham gia đấu
thầu các dự án lớn của chính phủ. Hệ thống này cũng giúp cho chính phủ có thể
tiết kiệm chi tiêu nhiều hơn thông qua việc cắt giảm chi phí cho người môi giới
trung gian và giảm chi phí hành chính của các đại lý mua bán.

9.3. Hình thức cung cấp dịch vụ từ Chính phủ đến Chính phủ - G2G
(Government to Government)
Các giao dịch G2G được triển khai ở 2 cấp độ: ở địa phương hoặc trong nước
hoặc ở cấp độ quốc tế. Các dịch vụ G2G là các giao dịch chính phủ trung ương/
quốc gia và các chính quyền địa phương, giữa các vụ và các công ty cơ quan có
liên quan. Đồng thời các giao dịch G2G là các dịch vụ giữa các chính phủ và có
thể sử dụng như một công cụ của các mối quan hệ quốc tế và ngoại giao.
II) Các mục tiêu của CPĐT
1) Tạo môi trường kinh doanh tốt hơn
Công nghệ đã được chứng minh là một chất xúc tác để nâng cao năng suất lao
động và phát triển kinh tế nhất là ở khu vực nông thôn và các nơi xa xôi hẻo
lánh. Việc sử dụng công nghệ thông tin và xây dựng cơ sở hạ tầng CPĐT sẽ tạo
môi trường thúc đẩy kinh doanh thông qua việc cải thiện mối tác động qua lại
và tương tác giữa chính phủ và doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa
và nhỏ. Bằng việc giảm bớt các khâu rườm rà trong thủ tục và chú trọng tới việc
cung ứng các dịch vụ nhanh chóng và hiệu quả, CPĐT có thể tạo ra các điều
kiện thu đầu tư nhiều hơn.
Mục tiêu trên phụ thuộc vào từng nước vào sức mạnh công nghiệp và các lợi
thế cạnh tranh của nước đó trên phạm vi toàn cầu. Một khi đã được xác định các
mục tiêu trên có thể được kết hợp trong chiến lược CPĐT của đất nước cùng
với các bộ, ngành, bộ máy công quyền và các dịch vụ công sẽ được kết hợp
theo hướng thúc đẩy phát triển các ngành này. Ví dụ việc mua sắm điện tử có
thể tạo ra các thị trường mới cho các doanh nghiệp địa phương thông qua việc
công khai hóa các thủ tục mua sắm của chính phủ, làm cho các thủ tục này cạnh
tranh hơn và công bằng hơn.
2)Khách hàng trực tuyến không phải xếp hàng
Điều này liên quan tới việc cung ứng một cách hiệu quả hàng hóa và dịch vụ
công cộng cho người dân thông qua việc phản hồi nhanh chóng của chính phủ
với sự tham gia tối thiểu của nhân viên chính phủ.
3)Tăng cường sự điều hành có hiệu quả của chính phủ và sự tham gia rộng

rãi của người dân.
Nâng cao tính minh bạch và tin cậy cuả chính phủ thông qua việc đẩy mạnh
ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và điều hành cũng như mở ra các
cơ hội mới cho người dân được chủ động trong quá trình tham gia vào việc
hoạch định chính sách của chính phủ.
Như một công cụ chủ chốt trong việc xây dựng truyền thống điều hành minh
bạch hiệu quả, CPĐT có thể đi tiên phong trong cuộc đấu tranh chống lại nạn
tham nhũng. Tuy nhiên, CPĐT, bản thân nó không thể đặt dấu chấm hết cho
nạn tham nhũng. CPĐT phải được thực hiện cùng các cơ chế khác để trở nên có
hiệu lực một cách đầy đủ.
Đồng thời chính phủ điện tử cũng hỗ trợ việc cung cấp thông tin một cách
đầy đủ và nhanh chóng. Việc phổ biến thông tin rộng rãi hỗ trợ việc trao quyền
cho người dân cũng như quá trình dưa ra quyết định của chính phủ. Tính minh
bạch của thông tin sẽ không chỉ thể hiện tính dân chủ mà còn gây dựng dần dự
tin cậy của nhà lãnh đạo chính phủ và tính hiệu quả bắt buộc trong việc điều
hành chính phủ.
4)Nâng cao năng suất và hiệu quả của các cơ quan chính phủ
Việc tái lập lại các quy trình và thủ tục để giảm bớt nạn quan liêu, hỗ trợ việc
cung cấp dịch vụ nâng cao năng suất về mặt hành chính và tăng cường tích
kiệm là những lợi ích mà CPĐT mang lại. Ngoài ra, CPĐT còn giúp:
. Nâng cao năng suất lao động của các nhân viên chính phủ, giảm chi phí qua
việc cắt giảm văn phòng và chi phí quản lý giấy tờ, nâng cao năng lực quản lý
kế hoạch của chính phủ ( sử dụng công cụ tốt hơn và cải tiến việc truy cập tới
các thông tin quan trọng) và nâng cao ,doanh thu khi doanh nghiệp và người
dân xin cấp phép nhiều hơn do một thực tế là thủ tục đã trở lên dễ dàng và tình
trạnh tham nhũng cũng giảm bớt.
. Thực hiện tiết kiệm chi phí trong thời gian trung và dài hạn. Tuy nhiên trong
thời gian ngắn hạn, các chi phí về nhân viên vafcacs chi phí khác có khuynh
hướng tăng vì chính phủ phải tạo ra nhiều nền tảng cung cấp hàng hóa và dịch
vụ ( bao gồm cả theo cách truyền thống và cách CPĐT) trong suốt quá trình

chuyển dichhj ban đầu.
. Đơn giản hóa các thủ tục của chính phủ. Phần lớn các thue tục của chính
phủ đã được thực hiện trong nhiều năm qua thường bao gồm nhiều bước, nhiều
nhiệm vụ và nhiều bước hoạt động. Việc đơn giản hóa các thủ tục của chính phủ
thông qua việc ứng dụng công nghệ thông tin sẽ xóa bỏ bớt các thủ tục rườm rà
và nạn quan liêu.
5)Nâng cao chất lượng cộng đồng cho các vùng sâu vùng xa.
Công nghệ thông tin giúp cho chính phủ vươn tới các cộng đồng nhóm dân
tộc thiểu số và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân ở đó. Điều này
cũng đồng nghĩa với việc trao thêm quyền cho người dân bằng cách cho họ
tham gia vào các hoạt động chính trị cũng như cung cấp tối đa hàng hóa và dịch
vụ tối thiểu.
Cuối cùng mục tiêu của CPĐT là cải tiến tối đa mối quan hệ tác động qua lại
giữa 3 chủ thể chính của xã hội là chính phủ, người dân và doanh nghiệp nhằm
thúc đẩy tiến trình chính trị , xã hội và kinh tế của đất nước.
Chương 2. Thực trạng Chính phủ điện tử ở Việt Nam
I) Chủ trương và chính sách của Nhà nước
-Nhà nước ta rất quan tâm tới việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin
- Có nhiều văn bản pháp quy để thúc đẩy các hoạt động trong lĩnh vực này như
49/CP, 58, 112…
- Năm 2000 Thủ tướng chính phủ đã ký vào hiệp định khung ASEAN điện tử,
cam kết triển khai Chính phủ điện tử tại Việt Nam theo các lộ trình của
ASEAN.
II) Thực trạng xây dựng chính phủ điện tử ở Việt Nam
1. Quá trình tin học hoá quản lý hành chính nhà nước
1.1. Chương trình tin học hoá quản lý nhà nước giai đoạn 1996 - 2000
1.1.1. Một số thành quả của chương trình
Dự án ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động hành chính 1996 - 1998,
với tên gọi chính thức là Dự án tin học hoá quản lý nhà nước, là một bộ phận
quan trọng của Chương trình quốc gia về công nghệ thông tin giai đoạn 1996 -

2000. Trong ba năm 1996-1998, Nhà nước đã đầu tư cho chương trình 280 tỷ
với 4 nội dung lớn là đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin; xây dựng cơ
sở hạ tầng các mạng truyền thông máy tính; ứng dụng công nghệ thông tin trong
quản lý nhà nước và các hoạt động kinh tế-xã hội khác; phát triển công nghiệp
công nghệ thông tin, trong đó riêng dự án tin học hoá quản lý nhà nước được
đầu tư hơn 150 tỷ đồng. Trong chưa đầy 4 năm hoạt động (1996 - 1999),
chương trình đã đạt được kết quả đáng khích lệ cho sự phát triển công nghệ
thông tin ở nước ta như Internet, 7 khoa công nghệ thông tin tại 7 trường đại
học trọng điểm, Saigon Software Park ở Thành phố Hồ Chí Minh,… (Nguồn:
PCWORLDB Việt Nam số 01/2002)
Tin học hoá quản lý nhà nước là một phần trong nội dung quan trọng về ứng
dụng công nghệ thông tin. Tuy vậy, vào giai đoạn triển khai chương trình, hầu
hết chúng ta chưa biết tới khái niệm Chính phủ điện tử, càng chưa nhận thức
được rằng Chính phủ điện tử gồm hai mảng lớn là tin học hoá hoạt động hành
chính trong nội bộ các cơ quan nhà nước (G2G) và tin học hoá các dịch vụ công
(G2B, G2C). Ta đã đầu tư hơn 50% tổng kinh phí của chương tình cho mảng
G2G ở các bộ, ngành và các tỉnh, thành phố. Không phải bộ, ngành, tỉnh, thành
phố nào cũng sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư ban đầu tuy ít ỏi nhưng hết sức
quan trọng này, nhưng rõ ràng đó là bước khởi đầu quan trọng để hình thành
mạng diện rộng của Chính phủ sau này.
1.1.2. Hạn chế của chương trình tin học hoá quản lý nhà nước giai đoạn 1996 -
2000
* Hạn chế:
Về điều hành vi mô: Nhiều hạng mục lớn đã được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt trong kế hoạch tổng thể chưa triển khai được. Các dự án tin học hoá quản
lý hành chính nhà nước của các bộ và uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cũng mới chỉ
thực hiện được một phần. Vốn đầu tư cho tin học hoá 160 tỷ đồng trong ba năm
1996- 1998 mới chỉ đáp ứng 20%- 25% nhu cầu kinh phí của các đề án đã được
duyệt của 100 cơ quan hành chính cấp bộ, cấp tỉnh.
Theo điều tra của văn phòng Chính phủ, đa số các đề án tin học hoá bị ngừng

lại. Một số cơ quan có khả năng tiếp tục đầu tư cho các chỉ tiêu tin học hoá quản
lý nhà nước, nhưng phát triển theo hướng công nghệ riêng; một số cơ quan khác
thì chờ chủ trương phát triển thống nhất chung của Chính phủ. Các cơ sở dữ
liệu quốc gia mới chỉ được đáp ứng khoảng 10% nhu cầu vốn đầu tư (30 tỷ
đồng). Do vậy, các cơ sở dữ liệu quốc gia chỉ dừng lại ở giai đoạn hoàn thành
luận chứng khả thi và triển khai thử nghiệm, đang chờ vốn để tiếp tục đề án.
Thêm vào đó, nhiều bộ, ngành coi thông tin quản lý của mình là thông tin riêng
của ngành, không coi đó là tài sản quốc gia hoặc cung cấp dữ liệu tổng hợp
không đầy đủ để các cơ quan khác có đủ thông tin phục vụ cho việc hoạch định
chính sách và ra quyết định.
Dữ liệu trên mạng tin học: Thông tin phát sinh trong quá trình hoạt động quản
lý hành chính có nhiều nhưng việc tích luỹ thông tin dưới dạng điện tử chỉ mới
dừng ở mức độ thấp, đến nay mới tích luỹ trên mạng ở một số loại thông tin cơ
bản.
Về tổ chức bộ máy: Cho đến nay vẫn chưa có quy định chung về vị trí, chức
năng, nhiệm vụ đối với các đơn vị chủ trì các đề án tin học hoá quản lý hành
chính nhà nước trong hệ thống các cơ quan nhà nước, thậm chí không có ngạch
công chức, không có chức danh cho cán bộ làm công tác tin học. Vì lý do này
nên các cơ quan hành chính nhà nước đã không thu hút được chuyên gia kỹ
thuật giỏi, dẫn đến việc tiếp thu chuyển giao công nghệ, chỉ đạo triển khai các
dự án ứng dụng bị hạn chế rất nhiều.
Về cơ chế tài chính: từ năm 1998, kinh phí dành cho tin học hoá quản lý hành
chính nhà nước chuyển sang nguồn ngân sách chi thường xuyên, do vậy các bộ,
ngành, địa phương không đủ kinh phí đầu tư để hoàn thành các đề án tin học
hoá, không thể tiếp tục triển khai các ứng dụng cơ bản trong quản lý, điều hành.
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật tin học của nhiều cơ quan hành chính nhà nước, về cơ
bản, đến nay vẫn như tình trạng năm 1998.
*Nguyên nhân:
Đến đây xuất hiện một câu hỏi là nguyên nhân nào khiến cho các dự án ứng
dụng công nghệ thông tin trong quản lý hành chính nhà nước không thành công

như mong đợi?
Nguyên nhân đầu tiên và cũng là nguyên nhân quan trọng nhất là nhận thức
chưa đúng của các cấp lãnh đạo về vao trò của công nghệ thông tin trong việc
nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.
Tuy vẫn nói rằng công nghệ thông tin là quan trọng nhưng phần lớn lãnh đạo
các tổ chức đều không dành đủ thời gian, không dành đủ tiền bạc cho công nghệ
thông tin, không trực tiếp chỉ đạo hay tham gia ý kiến. Cán bộ phụ trách công
nghệ thông tin tại các đơn vị hầu như chẳng được trao quyền hạn gì đáng kể. Họ
không được tham gia vào định hướng chiến lược ứng dụng công nghệ thông tin,
không được tham gia vào quá trình tái cơ cấu các quy trình nghiệp vụ. Do vậy
việc các lãnh đạo không có nhận thức đúng mức về tầm quan trọng của công
nghệ thông tin đã ảnh hưởng xấu tới sự thành công của dự án.
Nhận thức đúng mức vai trò của công nghệ thông tin không phải là việc dễ
dàng và tự nhiên. Không phải vô cớ mà Chính phủ Pháp phải đầu tư 500 triệu
FRF cho chương trình nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp và dân chúng
về vai trò của công nghệ thông tin nói chung và Internet nói riêng. Nếu không
có biện pháp nâng cao nhận thức này của các cấp lãnh đạo, không thể nói đến
hiệu quả của các dự án ứng dụng công nghệ thông tin.
Nguyên nhân thứ hai: Môi trường ứng dụng công nghệ thông tin chưa tốt.
Môi trường ứng dụng công nghệ thông tin chưa tốt thể hiện ở trình độ quản lý
của lãnh đạo các cấp không cao. Do trình độ hạn chế, nhiều cán bộ lãnh đạo
ngại ứng dụng công nghệ thông tin, ngại học tin học vì sợ lộ ra những khiếm
khuyết về trình độ. Mặt khác, "tập quán" lãnh đạo theo kinh nghiệm tại nhiều
đơn vị đang làm giảm vai trò của công nghệ thông tin. Nếu lãnh đạo không sử
dụng thông tin để ra quyết định thì ý nghĩa của hệ thống thông tin không còn
nữa. Lãnh đạo không sử dụng thông tin thì cấp dưới cũng không cần thông tin,
cuối cũng dẫn đến tình trạng không có nhu cầu về thông tin trong toàn bộ hệ
thống. Môi trường ứng dụng công nghệ thông tin chưa tốt còn thể hiện ở các
quy trình nghiệp vụ lạc hậu hoặc không ổn định. Chúng ta đều biết không thể
ứng dụng công nghệ thông tin cho một quy trình nghiệp vụ không ổn định.

Ngoài ra, nếu ứng dụng công nghệ thông tin cho các quy trình cũ lạc hậu thì sự
cải thiện sẽ là không đáng kể (về hiệu quả đầu tư có thể cho kết quả âm).
Nguyên nhân thứ ba: Các tổ chức, và kể cả các doanh nghiệp Việt Nam, chưa
cảm thấy nguy cơ mất năng lực cạnh tranh khi Việt nam tham gia vào các khối
kinh tế thương mại khu vực và thế giới.
Tâm lý chung của rất nhiều lãnh đạo các cơ quan hiện nay là có ứng dụng
công nghệ thông tin cũng tốt, còn chưa ứng dụng cũng chẳng sao. Không có gì
bức bách cả. Thế nhưng thực tế ngày nay cho thấy không chỉ các doanh nghiệp
phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt, mà ngay cả các Chính phủ cũng phải
đối mặt với thử thách tương tự. Chính vì thế Chính phủ điện tử còn được gọi là
Chính phủ cạnh tranh. Những quốc gia có Chính phủ điện tử hoàn hảo có cơ hội
thu hút đầu tư tốt hơn những quốc gia quản lý giao dịch quan liêu trì trệ. Trong
nội bộ một nước, những tỉnh, thành phố có nền hành chính điện tử tốt cũng có
cơ hội thu hút đầu tư tốt hơn những "tỉnh quan liêu giấy tờ". Ứng dụng công
nghệ thông tin là biện pháp tốt nhất để nâng cao năng lực cạnh tranh của tất cả
các cơ quan nhà nước cũng như các doanh nghiệp trong bối cảnh hiện nay.
Nguyên nhân thứ tư: Các đề cương dự án công nghệ thông tin chất lượng kém
nhưng vẫn được triển khai.
Rất ít dự án ứng dụng công nghệ thông tin bắt đầu bằng những đánh giá chính
xác nhu cầu thực tế. Thiếu việc xác định và đánh giá nhu cầu một cách nghiêm
túc sẽ dẫn đến tình trạng nhiều nhu cầu không quan trọng và tốn kém lại được
đáp ứng trước cả những nhu cầu cấp thiết, thậm chí các nhu cầu cấp thiết này
còn bị bỏ qua. Hầu hết các dự án công nghệ thông tin được bắt đầu vì có ngân
sách. Hầu hết các dự án có mục tiêu chung chung, các sản phẩm của dự án
không được mô tả đầy đủ. Mà mục tiêu đầu ta không rõ ràng thì hiệu quả đầu tư
xấu là điều không tránh khỏi. Đa số các dự án có phạm vi không xác định, rất
khó nghiệm thu nên thường là trễ hạn, do vậy dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp. Rất
ít dự án có hệ thống chỉ tiêu đánh giá định lượng. Chính vì vậy khi dự án kết
thúc không thể đo được xem dự án thực hiện đến đâu, có hiệu quả không và nếu
có thì hiệu quả là bao nhiêu. Thêm vào đó, phần lớn các dự án đều thiếu sự

kiểm soát nghiêm ngặt theo lộ trình. Nhiều dự án chỉ được kiểm tra lúc hình
thành và khi nghiệm thu tổng thể, nên những sai sót xảy ra trong quá trình thực
hiện dự án không được phát hiện kịp thời. Do sai sót tích tụ qua nhiều giai đoạn
nên khi chúng được phát hiện thì phần nhiều đã "vô phương cứu chữa".
Hầu hết các dự án đánh đồng các nguồn lực kinh phí, tức là thay vì phải yêu
cầu đầy đủ nguồn lực cần thiết để đảm bảo thực hiện thành công dự án, thì hầu
hết các bản đề cương chỉ đưa ra một dự toán kinh phí hết sức chủ quan và sơ
sài. Trong đề cương của một dự án, nội dung "các nguồn lực đảm bảo cho dự
án" phải là một chương riêng nói rõ trách nhiệm của nhà đầu tư dự án.
Nguyên nhân cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng khiến cho các dự
án kém chất lượng nhưng vẫn được thông qua là do một hội đồng thẩm tra dự
án yếu kém. Nhiều thành viên trong hội đồng là người có chức vụ và học vị cao
nhưng không có thời gian, ngay cả thời gian đi họp, không có tâm huyết và
thậm chí không có kinh nghiệm, không đúng chuyên môn. Sự tham gia của họ
vì thế nhiều khi lại cản trở chứ không phải là thúc đẩy quá trình thực hiện dự án.
Nguyên nhân thứ năm: Thiếu cán bộ có đủ trình độ.
Để triển khai công nghệ thông tin trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng cần sự tích
hợp hai mảng: kiến thức công nghệ thông tin và kiến thức chuyên ngành của
lĩnh vực đó. Nhiều dự án ứng dụng công nghệ thông tin không thành công là do
thiếu cán bộ trầm trọng: thiếu cán bộ hiểu biết nghiệp vụ có kiến thức tin học,
thiếu cán bộ có kinh nghiệm triển khai dự án, thiếu cán bộ có kinh nghiệm quản
lý dự án….Ngoài ra trình độ của người sử dụng khai thác các ứng dụng cũng
đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả của các dự án ứng
dụng công nghệ thông tin. Cộng thêm công tác đào tạo, huấn luyện và bồi
dưỡng việc ứng dụng, sử dụng công nghệ thông tin tiến hành còn chậm, chưa
đồng bộ với việc xây dựng và triển khai các hệ thống công nghệ thông tin. Vì
vậy đã dẫn đến hiện tượng hệ thống thông tin đã được lắp đặt nhưng chưa được
sử dụng ngay gây lãng phí trong việc đầu tư. Thêm vào đó, có đôi chỗ việc đầu
tư các trang thiết bị phần cứng, phần mềm và nối mạng vượt quá năng lực của
người sử dụng.

Ngoài năm nguyên nhân cơ bản trên còn một số nguyên nhân khác, mặc dù ít
quan trọng hơn, nhưng cũng ảnh hưởng ít nhiều tới kết quả của chương trình tin
học hoá quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 1996 - 2000. Đó là những
nguyên nhân sau:
_ Nhận thức của các nhà đầu tư còn phiến diện, coi trọng phần cứng, coi nhẹ
phần mềm, chưa chú trọng đúng mức đến việc xây dựng các hệ thống thông tin
thực sự cấp bách cho công tác nghiệp vụ, quản lý và điều hành. Do đó có tình
trạng một số mạng xây dựng xong mà thông tin thiếu rất nhiều, chẳng khác nào
làm đường giao thông xong mà không có xe chạy.
_ Đa số chưa coi trọng công tác tổ chức thực hiện.
_ Chưa gắn kết chặt chẽ giữa công tác cải cách hành chính nhà nước với công
tác tin học hoá. Cải cách hành chính chưa dựa vào tin học hoá, nên thiếu một
động lực mạnh mẽ và công cụ hữu hiệu để cải cách. Mặt khác, quy trình công
tác quản lý, lề lối làm việc vẫn lạc hậu, tư duy không đổi mới thì tin học cũng
không thể áp dụng một cách có hiệu quả được.
_ Rất ít lãnh đạo coi trọng việc cấu trúc lại các quy trình cũ để nâng cao hiệu
quả của ứng dụng công nghệ thông tin.
_ Không đánh giá đúng tầm quan trọng trong mối quan hệ tương tác với người
sử dụng. Nhiều thiết kế hình thành mà không có ý kiến đóng góp của người sử
dụng.
_ Công các tổ chức thầu hiện nay chủ yếu dựa vào giá bỏ thầu. Cáctiêu chí về
kỹ thuật, kinh nghiệm triển khai, đội ngũ thực hiện, quy trình thực hiện ít được
chú ý.
_ Một số các dự án không hiệu quả do không có kinh phí để duy trì hệ thống sau
khi nghiệm thu như cập nhật dữ liệu, khắc phục sự cố…
1.2. Đề án tin học hoá quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2005
Theo nhiều chuyên gia đánh giá, mặc dù có tiến bộ do rút kinh nghiệm từ dự
án tin học hoá giai đoạn 1996 - 2000, đề án tin học hoá quản lý hành chính nhà
nước chưa được chuẩn bị thật sự kỹ càng dẫn tới nhiều thiếu sót.
* Nhận thức chưa đầy đủ về vai trò của hạ tầng thông tin quản lý hành chính

quốc gia. Điều này thể hiện rõ nét ở:
- Trang 6: "do cước phí truyền thông quá cao nên nhiều bộ, ngành, địa phương
phải hạn chế sử dụng mạng…". Để thực thi Chính phủ điện tử thì việc sử dụng
mạng là hết sức thường xuyên và cần thiết, vậy mà nhà nước ta lại quy định các
bộ, ngành và địa phương phải hạn chế sử dụng mạng. Cần nhận thức rõ việc
điều hành của Chính phủ là trên hết và truyền thông phải phục vụ sự điều hành
đó.
- Trang 15: "Mạng tin học diện rộng của Chính phủ gồm: Một trục truyền thông
Bắc - Nam tốc độ 64KB kiểu X25, 35, ISDN…". Lẽ ra phải
viết là "64 Kbps", nghĩa là "64 kilobit một giây". Tuy vậy 64 Kbps chỉ là tốc độ
đủ dùng cho một doanh nghiệp chứ không thể nào đủ cho Chính phủ điều hành
cả nước. Thêm vào đó, X25 là kỹ thuật truyền thông đã rất lạc hậu, không còn
nước nào trên thế giới dùng nữa mà chỉ dùng cáp quang hay vô tuyến điện cho
trường hợp này.
* Sự chậm trễ:
Kế hoạch triển khai cho giai đoạn 2001 - 2005 mà đến nửa cuối năm 2002 mới
hoàn thành xong phần soạn thảo đề án. Như vậy thì chỉ còn 4 năm để thực hiện
đề án.
* Thiếu hoàn toàn thiết kế tổng thể:
Đề án còn nhiều vấn đề chưa được hướng dẫn rõ ràng, gây khó hiểu cho người
đọc và gây khó khăn cho người thực hiện, ví dụ như:
- Kết cấu thông tin quản lý hành chính từ Chính phủ đến bộ, ngành, địa phương
gồm những nội dung gì, theo tiêu chuẩn gì, có cấu trúc như thế nào?
- Hệ thống phần mềm ứng dụng thống nhất gồm những phần mềm gì, hoạt động
như thế nào?
- Hạ tầng thông tin quản lý nhà nước gồm những gì?
- Các trung tâm tích hợp dữ liệu thực hiện tích hợp thông tin theo các tiêu chuẩn
nào, ai xây dựng, và khi nào cung cấp?
- Lực lượng nào sẽ thực hiện đề án?
Đây là những sai sót không đáng có, do vậy cần phải được sửa chữa kịp thời

để tránh kết cục giống như đề án tin học hoá hành chính nhà nước giai đoạn
1996 - 2000.
2. Một số dịch vụ hành chính công qua Website của Chính phủ
2.1. Mạng Cityweb TP. HCM
Từ tháng 2/2001, UBND TP. HCM ban hành quyết định nội dung thông tin
cho các sở, ngành nối mạng HCM Cityweb của toàn thành phố. Trang Web này
cung cấp tất cả các thông tin liên quan đến thành phố, phục vụ nhiều đối tượng,
trong đó có cả các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Qua mục "Tổng quan về
thành phố" và mục "Đầu tư", doanh nghiệp có thể nhận được đầy đủ thông tin
về kinh tế - xã hội, môi trường đầu tư, các dự án đang kêu gọi đầu tư, các địa
chỉ cần thiết để giao dịch, các văn bản pháp luật của Việt nam và thành phố để
chuẩn bị quyết định đầu tư. Hiện nay, ngoài phần tiếng Việt, mục đầu tư đã có
thêm phần tiếng Anh và đang thực hiện chuyển thể sang tiếng Trung, tiếng
Nhật. Đây là công cụ phục vụ đắc lực cho các nhà đầu tư.
Người dân Việt nam ở mọi miền đất nước hoặc người nước ngoài có thể truy
cập các thông tin về lịch sử thành phồ, về văn hoá, du lịch, về các hệ thống giáo
dục, y tế, về nhiệm vụ, chức năng của các sở, ngành của thành phố, về các quyết
định của các UBND thành phố liên quan đến phát triển kinh tế, về đền bù và
giải toả, về quy hoạch đô thị… Bên cạnh trang thông tin tích hợp trên Internet,
thành phố cũng đang triển khai hệ thống thông tin đối thoại trên mạng cục bộ
của thành phố. Hệ thống này tạo ra kênh đối thoại qua mạng giữa người dân,
doanh nghiệp và các sở, ngành của thành phố. Thông qua hệ thống đối thoại qua
mạng, người dân có thể phản ánh kịp thời các khó khăn trong cuộc sống. Lãnh
đạo các cấp, các ngành có thể trả lời trực tiếp cho người dân, đồng thời thông
qua kênh đối thoại có thể biết được cấp dưới thực hiện sự chỉ đạo của cấp trên
ra sao.
2.2. Hệ thống thông tin tin học hoá tại Quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh
Quận 1 đã ứng dụng công nghệ thông tin từ năm 1990. Đến nay, nhìn chung
việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dịch vụ hành chính và quản lý nhà nước
tại Quận 1 đã đạt được nhiều kết quả khả quan; trong đó có một số chương trình

hoạt động tốt, ổn định như chương trình cấp giấy chứng nhận kinh doanh, cấp
phép xây dựng, xử lý vi phạm hành chính, giải quyết đơn khiếu nại, quản lý dân
số và lao động, quản lý cán bộ và đặc biệt là kết nối với mạng diện rộng của
Văn phòng Chính phủ, Văn phòng UBND thành phố, giúp tra cứu một cách
thuận tiện các văn bản phục vụ quản lý và điều hành.
Kết quả này có được là do UBND Quận 1 có một hệ thống thông tin đảm bảo
phục vụ tốt mô hình tiếp dân và công tác xử lý hồ sơ liên quan đến công dân, tổ
chức… một cách hiệu quả nhất. Tất cả các văn bản pháp luật của Trung ương
do Văn phòng Chính phủ đưa xuống được đưa vào cơ sở dữ liệu và cài đặt máy
ở các đơn vị trực thuộc. Thông qua mạng nội bộ, các phòng ban và các đơn vị
trực thuộc để có thể tra cứu các thông tin này khi cần thiết. Các văn bản pháp
quy được sắp xếp sẵn theo hệ thống và cho phép truy cập, tra cứu dễ dàng với
kiến thức sơ đẳng về máy tính. Có thể mở thêm nhiều trạm tra cứu để người dân
truy cập vào. Đây là phương tiện thông tin để người dân thông hiểu pháp luật và
các chỉ thị văn bản được công bố.
2.3. Đăng ký kinh doanh qua mạng
Vào năm 1997, Sở KH&ĐT TP. HCM đã tiến hành xây dựng một mạng thông
tin diện rộng và lập cơ sở dữ liệu của hơn 10.000 doanh nghiệp đã đăng ký, xây
dựng quy trình đăng ký kinh doanh khép kín. Tiếp đến, từ tháng 8/2000, Sở đã
khai trương "Trang thông tin doanh nghiệp" bao gồm thông tin về tất cả doanh
nghiệp trên địa bàn thành phố. Hệ thống thông tin của Sở KH&ĐT đã phát huy
tác dụng. Theo Luật Doanh nghiệp, cơ quan đăng ký kinh doanh phải cung cấp
thông tin cho các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức và thậm chí là cả các
cá nhân. Nhờ hệ thống thông tin của mình, Sở đã đáp ứng thông tin kịp thời,
tổng hợp các báo cáo của cơ quan đăng ký kinh doanh với các ngành chức năng
theo từng thời kì hoặc đột xuất. Đặc biệt, Sở KH&ĐT dễ dàng báo cáo cho lãnh
đạo thành phố biết được có bao nhiêu doanh nghiệp theo ngành nghề hoạt động
trên từng địa bàn, tổng vốn đã đăng ký, số lượng lao động… hoặc giúp doanh
nghiệp tìm hiểu về một doanh nghiệp khác đang hoạt động hay giải thể, cung
cấp các thông tin cần thiết khác để họ có thể ký kết hợp đồng với đối tác.

×