Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

đổi mới đào tạo, bồi dưỡng công chức cơ quan tổng liên đoàn lao động việt nam giai đoạnhiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (534.33 KB, 118 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự cố gắng của bản thân, tôi còn nhận
được sự giúp đỡ quý báu của Ban giám đốc, các giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ,
các thầy, cô giáo của Học viện Hành chính, đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn
và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và làm luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc với TS. Trần Trọng Toàn, người
hướng dẫn khoa học đã rất nhiệt tình và trách nhiệm để tôi hoàn thành được
luận văn.
Tôi cũng xin cảm ơn Lãnh đạo Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, các
Ban, đơn vị trực thuộc Tổng Liên đoàn, tổ chức và cá nhân tại Hà Nội, bạn bè
đồng nghiệp và gia đình đã tạo điều kiện thuận lợi trong thời gian tôi tìm hiểu
tình hình thực tế và cung cấp tài liệu, số liệu để tôi hoàn thành luận văn.
Do hạn chế về mặt thời gian nên trong quá trình nghiên cứu luận văn có
thể còn nhiều thiếu sót. Tôi mong được sự góp ý và chỉ bảo của các thầy, các
cô và các bạn đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả
Lê Khắc Á
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, Luận văn Thạc sỹ quản lý hành chính công: “Đổi mới
đào tạo, bồi dưỡng công chức cơ quan Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
giai đoạnhiện nay” là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn
của TS. Trần Trọng Toàn.
Các thông tin, số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ một luận văn nào trước đây.
Tác giả
Lê Khắc Á
MỤC LỤC
BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
BCH : Ban chấp hành
BMNN : Bộ máy nhà nước


CBCC : Cán bộ, công chức
CNH- HĐH : Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
CNVC LĐ : Công nhân viên chức và Lao động
CVC : Chuyên viên chính
CV : Chuyên viên
ĐTBD : Đào tạo bồi dưỡng
HCNN : Hành chính nhà nước
HCSN : Hành chính sự nghiệp
HTCT : Hệ thống chính trị
LLCT : Lý luận chính trị
NCKH : Nghiên cứu khoa học
NCĐT : Nghiên cứu đào tạo
QLNN : Quản lý nhà nước
QLKT : Quản lý kinh tế
SXKD : Sản xuất kinh doanh
TCLL : Trung cấp lý luận
Tr : Trang
XHCN : XHCN
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đang chuyển sang giai đoạn phát triển mới, giai đoạn đẩy
mạnh CNH – HĐH, giai đoạn "ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ
rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân tạo nền tảng để đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm
lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường,
định hướng XHCN được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường
quốc tế được nâng cao" [14; tr159].
Phấn đấu để đạt được những mục tiêu trên là sự nghiệp của toàn dân,

dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, mà nòng cốt là đội ngũ cán
bộ, công chức, đảng viên của Đảng. Có cán bộ tốt, cán bộ ngang tầm thì từ
việc xây dựng đường lối, chính sách đến việc lãnh đạo, tổ chức, thực hiện
đường lối chính sách sẽ trở thành hiện thực.
Sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng được tiến hành đổi mới
một cách toàn diện, từ đổi mới về kinh tế, từng bước đổi mới hệ thống chính
trị và cải cách bộ máy hành chính nhà nước. Đất nước ta đã đạt được những
thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống KT-XH.
Đội ngũ cán bộ, công chức chính là yếu tố quan trọng quyết định cho sự thành
công đó.
Tuy nhiên, trong lĩnh vực cải cách hành chính "việc cải cách bộ máy nhà
nước còn chậm và kém hiệu quả". Thủ tục hành chính còn bộc lộ nhiều nhược
điểm như: còn rườm rà về thủ tục hành chính, trùng lắp, thậm chí còn mâu
thuẫn, vướng mắc lẫn nhau, chưa đáp ứng được yêu cầu công dân và tổ chức.
Từ vấn đề đó có thể cho ta thấy xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ công chức
1
là khâu quan trọng nhất, quyết định nhất đối với sự thành công của cải cách
hành chính, của sự nghiệp đổi mới đất nước.
Hiện nay, công cuộc đổi mới kinh tế đã và đang đi vào chiều sâu thì việc
cải cách BMNN và hệ thống hành chính trở thành một nhiệm vụ cấp bách và
có tầm quan trọng đặc biệt. Nó là điều kiện cần thiết để thúc đẩy và nâng cao
hiệu quả đổi mới kinh tế và phát triển xã hội. Nghị quyết Hội nghị Trung
ương Đảng lần thứ 8 chỉ rõ "Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng
hoà XHCN Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính" đã
khẳng định việc xây dựng đội ngũ CBCC có đủ phẩm chất và năng lực là yếu
tố quyết định hiệu lực, hiệu quả hoạt động của BMNN. Quan điểm đó đã
được Đảng ta khẳng định trong Nghị quyết Hội nghị BCH Trung ương lần thứ
3 khoá VIII về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước
"Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận
mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ".

Phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Đồng thời nhân tố quyết định cho sự thắng
lợi của sự nghiệp CNH - HĐH chính là đội ngũ CBCC. Để nâng cao dân trí,
phải chú ý quan tâm đến ĐTBD đội ngũ CBCC.
Đội ngũ CBCC, viên chức nước ta hiện nay là một lực lượng khá đông đảo,
đang tích cực đóng góp sức mình vào hoạt động của các cơ quan nhà nước, có
vai trò quan trọng và quyết định đối với thắng lợi của sự nghiệp đổi mới.
Tuy nhiên, chúng ta còn thiếu những cán bộ giỏi và chuyên gia đầu
ngành, việc quy hoạch ĐTBD, bố trí, sử dụng cán bộ làm chưa tốt. Vì vậy, nhìn
chung đội ngũ cán bộ hiện nay xét về chất lượng, số lượng và cơ cấu có nhiều
mặt chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước.
Giải quyết vấn đề này đòi hỏi phải quan tâm đến ĐTBD đội ngũ CBCC,
trong đó có đội ngũ CBCC của cơ quan Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam,
một thành viên quan trọng trong HTCT nước ta.
2
Nhìn một cách tổng thể của công tác ĐTBD cán bộ, công chức trong các
cơ quan Nhà nước nói chung và cơ quan Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
nói riêng có thể cho ta thấy những vấn đề nổi cộm: Nó vừa trùng lắp, chồng
chéo, vừa phân tán thiếu tập trung thống nhất, ngay cả giữa Đảng và Nhà
nước, giữa cấp trên và cấp dưới, chưa có sự liên kết và hợp tác chặt chẽ giữa
các cơ quan làm công tác tổ chức cán bộ. Công tác quản lý, sử dụng, đánh giá,
quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng CBCC chưa khoa học, không toàn diện, không
thống nhất, còn chắp vá. Nhiều CBCC chưa đáp ứng được yêu cầu của nhiệm
vụ chính trị đặt ra trong giai đoạn mới, đặc biệt là về trình độ, năng lực. Do
vậy, chưa phát huy hết tiềm năng của mỗi tổ chức, mỗi cá nhân trong công
tác. Đó phải chăng là một trong những nguyên nhân quan trọng của những
hạn chế trong công tác ĐTBD cán bộ, công chức hiện nay của cơ quan Tổng
Liên đoàn Lao động Việt Nam.
Những bất cập về ĐTBD cán bộ, công chức ở cơ quan Tổng Liên đoàn
Lao động Việt Nam, đang đặt ra nhiều vấn đề cần được nghiên cứu trên

phương diện lý thuyết cũng như thực tiễn. Ý thức được tầm quan trọng của cả
vấn đề lý luận và thực tiễn, cùng với sự hướng dẫn khoa học của TS. Trần
Trọng Toàn, tôi chọn đề tài: “Đổi mới đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức trong cơ quan Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam giai đoạn hiện
nay” làm luận văn tốt nghiệp cao học. Hy vọng kết quả nghiên cứu của luận
văn sẽ góp phần nhỏ bé vào tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC cơ
quan Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam giai đoạn hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
+ Mục đích:
Từ thực trạng và nguyên nhân tồn tại của công tác ĐTBD cán bộ, công
chức cơ quan Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đề ra những khuyến nghị
và giải pháp hoàn thiện công tác ĐTBD cán bộ, công chức cơ quan Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam trong thời gian tới.
3
+ Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, Luận văn tập trung vào các vấn
đề sau đây:
- Làm rõ cơ sở lý luận về ĐTBD cán bộ, công chức giai đoạn hiện nay;
- Đánh giá thực trạng và nguyên nhân tồn tại của đào tạo, bồi dưỡng
CBCC cơ quan Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam;
- Đề ra một số khuyến nghị và giải pháp đổi mới ĐTBD CBCC cơ quan
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
+ Đối tượng nghiên cứu: Là cơ sở lý luận, các nhân tố tác động và các
giải pháp về đổi mới đào tạo, bồi dưỡng CBCC cơ quan Tổng Liên đoàn Lao
động Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
+ Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu đào tạo, bồi dưỡng
CBCC cơ quan Tổng Liên đoàn trong những năm gần đây.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác

- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà
nước ta về công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC. Luận văn sử dụng các phương
pháp cụ thể: Phương pháp tiếp cận hệ thống; phương pháp thống kê, nghiên
cứu và phân tích tài liệu, khảo sát thực tế, phương pháp chuyên gia, phương
pháp phân tích tổng hợp so sánh, khái quát hoá để rút ra nhận xét kết luận và
khuyến nghị cụ thể.
5. Đóng góp của đề tài
Đề tài "Đổi mới đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trong cơ quan
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam giai đoạn hiện nay" có ý nghĩa lý luận
và khả năng vận dụng vào thực tiễn. Kết quả của đề tài luận văn có thể dùng
làm tư liệu tham khảo trong các khoá ĐTBD cán bộ lãnh đạo và quản lý các
4
cấp, các ngành, các địa phương. Đồng thời góp phần vào việc sửa đổi, xây
dựng, bổ sung những chính sách, chế độ đối với ĐTBD CBCC nói chung và
CBCC cơ quan Tổng Liên đoàn nói riêng trong thời gian tới.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức giai đoạn hiện nay
Chương 2: Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức trong cơ
quan Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp nhằm đổi mới đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cơ quan Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
giai đoạn hiện nay
5
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÀO TẠO,
BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1. Những khái niệm cơ bản

1.1.1. Khái niệm công vụ
Trong suốt quá trình phát triển của lịch sử nhân loại đã cho chúng ta
thấy, có nhiều chế độ công vụ khác nhau được hình thành phù hợp với những
đặc trưng chính trị, chế độ chính trị, xã hội và bản chất nhà nước. Chúng ta có
thể xem xét một số quan niệm sau đây:
Quan niệm công vụ của nhà nước tư sản:
Nhà nước tư sản quan niệm công vụ là sự phục vụ cho quyền lực công.
Công chức là người đại diện cho nhà nước để thực thi quyền hành pháp. Vì
thế, công vụ là một chức nghiệp. Với quan niệm này, công vụ được duy trì và
ổn định không phụ thuộc vào sự thay đổi của chính trị.
Từ quan niệm về công vụ như vậy, người công chức được tuyển chọn
một cách cẩn thận vào công vụ thông quan thi tuyển và căn cứ vào tài năng để
sắp xếp vào các ngạch, bậc khác nhau. Công chức được coi như là một loại
người chuyên làm công việc nhà nước, địa vị của họ được tôn vinh trọng
vọng. Hệ thống công vụ này được gọi là hệ thống chức nghiệp (career
system), nó rất ổn định, liên tục và là chỗ dựa vững chắc của chính trị. Các
nước theo chế độ chức nghiệp điển hình là Cộng hoà Liên bang Đức, Cộng
hoà Pháp, Vương quốc Anh
Sự phát triển của xã hội đã xuất hiện một quan niệm mới: nền công vụ
của một nền hành chính phát triển. Theo quan niệm này, công vụ là một việc
làm chứ không phải là một nghề nghiệp bất biến. Việc tuyển chọn công chức
vào công vụ theo nhu cầu của công việc. Nhà nước có thể thay đổi vị trí công
6
chức theo nhu cầu của công việc và theo công trạng của bản thân từng người.
Trong đội ngũ công chức diễn ra sự cạnh tranh nội bộ; đồng thời, có sự cạnh
tranh giữa những người trong công vụ với những người ngoài công vụ. Sự
thăng tiến tuỳ thuộc vào tài năng của những con người cụ thể. Do đó, công
chức phải tự học tập, rèn luyện để giữ vững vị trí. Hệ thống công vụ này được
gọi là hệ thống theo việc làm (Jobsystem), nó có đặc điểm không tạo ra sự ổn
định cần thiết cho nền hành chính. Đội ngũ công chức không có tính liên tục

và kế thừa. Điển hình cho hệ thống này là nền công vụ của Hoa Kỳ, Hà Lan,
Tổ chức Liên hợp quốc
Quan niệm công vụ của các nhà nước phong kiến phương Đông:
Theo ý kiến của nhiều nhà khoa học thì dưới chế độ phong kiến, Vua là
người đứng đầu quốc gia, đại diện cho vương quyền và thần quyền để cai
quản muôn dân. Mọi quyền lực đều tập trung vào tay Vua. Nền công vụ được
tạo dựng để phò Vua, thực hiện ý chí nhà Vua. Công vụ được xem như một sứ
mạng thiêng liêng cao cả để phục vụ Vua. Tuân thủ mệnh lệnh nhà Vua tức là
thực thi bổn phận công vụ. Dưới triều đại phong kiến, không có khái niệm
công chức. Thực thi công vụ là các quan và nha lại. Quan là người giữ cương
vị chỉ huy, Nha lại là người thừa hành công việc, công vụ được xem như là
một sứ mệnh cao cả và được xem như mục tiêu của kẻ sĩ. Tuy lương ít nhưng
được nhiều bổng lộc, lại có sự cổ vũ tinh thần, được miễn trừ công việc lao
dịch, được mọi người kính nể, cho nên các nho sĩ ham muốn gia nhập công
vụ.
Quan niệm công vụ ở Việt Nam:
Sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã chấm dứt nền công vụ
theo kiểu thực dân - phong kiến. Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/05/1950 của chủ
tịch Hồ Chí Minh về ban hành quy chế công chức là văn bản đầu tiên mang
đầy đủ tính pháp lý cho nền công vụ nước ta. Do hoàn cảnh kháng chiến nên
7
những quy định trong sắc lệnh trên không được thực hiện đầy đủ. Kháng
chiến chống Pháp thắng lợi, trong công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc và
đấu tranh thống nhất nước nhà. Nhà nước ta đã thực hiện chính sách "cán bộ,
công nhân viên chức". Đặc điểm của thời kỳ này là mọi hoạt động của bộ máy
hành chính Nhà nước được điều chỉnh bằng các văn bản pháp quy, để hoạt
động công vụ thường xuyên được điều chỉnh thích nghi với từng giai đoạn
phát triển của đất nước.
Tuy nhiên, cho đến khi nhà nước ta ban hành Pháp lệnh CB, CC chức thì
khái niệm "công vụ" vẫn chưa được xác định chính xác. Tại các điều 1, 2, 6,

7, 10, 11, 13, 14, 15, 28, 29, 37, 38, 39 của Pháp lệnh CBCC, Pháp lệnh bổ
sung và sửa đổi một số điều của Pháp lệnh CBCC; các Điều 1, 28, 29 của
Nghị định 95/1998/NĐ - CP ngày 17/11/1998 của Chính phủ về tuyển dụng,
sử dụng và quản lý công chức chúng ta bắt gặp đồng thời hai khái niệm "công
vụ" và "nhiệm vụ".
Trong điều kiện nước ta, hoạt động quản lý Đảng, Nhà nước, các tổ chức
chính trị - xã hội đóng vai trò chủ yếu. Hoạt động quản lý đó được thực hiện
thông qua đội ngũ CBCC trong HTCT. Thực chất đó là hoạt động phục vụ lợi
ích công, mang tính chuyên nghiệp, thường xuyên, được bảo đảm bằng ngân
sách nhà nước.
Từ cách tiếp cận đó, chúng ta có thể thấy CBCC thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của mình để thực thi công quyền, tức là thực thi quyền lực nhà
nước, suy cho cùng là thực hiện quyền lực của nhân dân. Nói một cách khác,
hoạt động công vụ là hoạt động của những người làm việc công, tức là hoạt
động của mọi CBCC làm việc trong mọi tổ chức cấu thành của HTCT nước ta.
Mặc dù khái niệm "công vụ" ở nước ta vẫn chưa có một định nghĩa chính
thức, song dựa vào các văn bản pháp luật hiện hành đều điều chỉnh chung đối
với cán bộ và công chức và sự tồn tại của nó trên thực tế, chúng ta có thể thấy
8
công vụ là chức năng tổ chức và hoạt động QLNN nhằm ổn định, phát triển
xã hội và đời sống công dân thông qua các công sở, đơn vị phục vụ và toàn
thể CBCC, viên chức nhà nước. Hoạt động công vụ là một dạng hoạt động
đặc thù. Nét đặc trưng của nó thể hiện ở các điểm sau:
- Là hoạt động của nhà nước để trực tiếp thực hiện các chức năng, nhiệm
vụ của nhà nước, vì vậy nó mang tính quyền lực nhà nước;
- Hoạt động này không trực tiếp làm ra của cải vật chất cho xã hội mà chỉ
hỗ trợ, tổ chức quản lý hay tạo điều kiện cho các hoạt sản xuất kinh doanh.
Đó là hoạt động nhằm tác động lên con người hoặc phục vụ con người, đó
chính là hoạt động quản lý con người;
- Phương tiện phục vụ hoạt động là toàn bộ những cơ sở vật chất, trang

thiết bị được huy động trực tiếp vào hoạt động công vụ và những thông tin
"đầu vào". CBCC thực hiện các chức năng thu thập, xử lý, truyền đạt, bảo
quản và tạo ra các nguồn thông tin để quyết định quản lý. Bản thân các quyết
định quản lý cũng là một loại nguồn thông tin và là nguồn thông tin quan
trọng bậc nhất;
- Lao động công vụ là lao động phục vụ nhà nước, phục vụ nhân dân.
Người thực hiện công vụ được trả lương theo ngạch, bậc và chức vụ ngân
sách nhà nước;
Những đặc điểm này xác định hoạt động công vụ như một dạng hoạt
động riêng biệt, khác những dạng hoạt động khác trong xã hội.
1.1.2. Khái niệm cán bộ
Cán bộ là một khái niệm được du nhập từ Trung Quốc và được dùng phổ
biến trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Ở Trung Quốc, từ cán bộ để chỉ
chung những nhân viên, công chức để phân biệt với những nhân viên tạp vụ,
binh lính, công nhân, lãnh đạo các đoàn thể. Dần dần, từ cán bộ dùng để chỉ tất
cả những người hoạt động kháng chiến thoát ly, để phân biệt với nhân dân.
9
Trong từ điển Nhật - Việt, từ cán bộ cũng được dùng để chỉ lãnh đạo của
các đoàn thể. Hiện nay ở Nhật, từ cán bộ phần lớn được dùng trong quân đội để
chỉ những người đóng vai trò bộ khung, còn để chỉ công chức hay viên chức
người ta dùng từ quan liêu, theo nghĩa phổ biến là những người làm việc trong
BMNN. Nghĩa của từ cán bộ ở Nhật trung thành nhiều hơn với từ gốc mà nó
được dịch ra (Cadre). Trong tiếng Anh cũng như trong tiếng Pháp, từ này có
nghĩa là người nòng cốt, những người chỉ huy trong quân đội, trong một tổ
chức làm thành một nòng cốt.
Ở nước ta, theo cách hiểu thông thường, trước đây: Cán bộ đựơc coi là tất
cả là những người thoát li, làm việc trong bộ máy chính quyền, đảng, đoàn thể,
quân đội. Trong quan niệm hành chính, cán bộ được coi như những người có
mức lương cán sự một. Trong Từ điển tiếng Việt, cán bộ được định nghĩa là:
- Người làm công tác nghiệp vụ, chuyên môn trong cơ quan, Nhà nước,

Đảng, và đoàn thể;
- Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân
biệt với người không có chức vụ.
* Trong tổ chức Đảng và Đoàn thể, từ cán bộ được dùng với nghĩa:
- Chỉ những người được bầu vào các cấp lãnh đạo, chỉ huy từ cơ sở đến
trung ương (cán bộ lãnh đạo) để phân biệt với đảng viên, đoàn viên, hội viên
thường (không giữ chức vụ trong tổ chức);
- Những người làm công tác chuyên trách có hưởng lương trong các tổ
chức Đảng và Đoàn thể.
* Trong quân đội cán bộ thường được chỉ các đối tượng:
- Là những người chỉ huy từ tiểu đội trở lên;
- Là sỹ quan từ cấp uý trở lên.
* Trong hệ thống Nhà nước, từ cán bộ được hiểu cơ bản là trùng với từ
công chức, được chỉ:
- Những người làm việc trong các cơ quan nhà nước thuộc ngành hành
chính, tư pháp, kinh tế, văn hoá và xã hội;
10
- Những người có chức vụ chỉ huy, phụ trách, lãnh đạo;
Như vậy, từ những vấn đề ở trên, chúng ta có thể đi đến một quan niệm
đầy đủ hơn: Cán bộ là khái niệm chỉ những người có chức vụ, vai trò và
cương vị nòng cốt trong một tổ chức, có tác động ảnh hưởng đến hoạt động
của tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp
phần định hướng sự phát triển của tổ chức.
Từ nghĩa gốc của từ cán bộ có yếu tố là "bộ khung", là "nòng cốt" là "chỉ
huy", cho nên khi bàn về chất lượng, về đào tạo đội ngũ cán bộ phải tính đến
những yếu tố "cần" và "đủ" để đội ngũ cán bộ này thể hiện rõ vai trò và chức
trách là bộ khung, là nòng cốt, là chỉ huy, điều khiển, người quản lý. Điều nay
càng có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn hiện nay - thời kỳ đẩy mạnh CNH
- HĐH đất nước. Xét về loại hình có thể phân thành: Cán bộ đảng và đoàn
thể; Cán bộ nhà nước; Cán bộ kinh tế và quản lý kinh tế; khoa học - kỹ thuật,

văn hoá, giáo dục, y tế, thể thao, xã hội; Cán bộ lực lượng vũ trang.
Từ trước, để cho đơn giản, người ta đã xếp nhóm cán bộ KH - KT, văn
hoá giáo dục, y tế, thể thao xã hội (thường gọi là cán bộ trong các đơn vị sự
nghiệp) vào cùng với cán bộ HCNN, gọi chung là cán bộ HCSN. Cũng có
cách phân loại cán bộ theo "chiều dọc", nghĩa là theo thành phần cốt yếu cấu
trúc tạo nên đội ngũ cán bộ ở từng loại tổ chức. Việc phân loại này sẽ giúp
cho từng tổ chức thấy rõ hơn những yêu cầu chất lượng của cán bộ. Chẳng
hạn như, trong hệ thống đảng thì có đảng viên và cán bộ. Cán bộ trong hệ
thống này là tất cả những người được bầu vào cấp uỷ từ chi uỷ đến BCH
Trung ương. Trong đó có: Loại không hưởng lương theo ngân sách; hưởng
lương theo ngân sách (được xác định là cán bộ, công chức); một bộ phận là
chuyên gia công tác Đảng và các lĩnh vực; cán bộ quản lý (các Vụ trưởng,
trưởng, Phó ban, Viện trưởng, Tổng biên tập,); cán bộ lãnh đạo.
11
Nước ta khi bước vào thời kỳ mới vừa đẩy mạnh CNH - HĐH vừa xây
dựng và hoàn chỉnh nhà nước pháp quyền XHCN, vừa tiến hành xây dựng
nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, không thể không hoàn chỉnh
chính sách để có một đội ngũ cán bộ có chất lượng đồng bộ, phù hợp với
những yêu cầu mới đang đặt ra.
- Khoản 1 Điều 4 Luật cán bộ, công chức năm 2008, quy định rõ như sau:
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân
sách nhà nước.
Theo đó, bao gồm cán bộ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện.
Cơ quan có thẩm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam căn cứ vào điều lệ
của Đảng Cộng sản Việt Nam, của tổ chức chính trị - xã hội và quy định của

Luật cán bộ, công chức quy định cụ thể chức vụ, chức danh cán bộ làm việc
trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, của tổ chức chính trị - xã hội.
Chức vụ, chức danh cán bộ làm việc trong cơ quan nhà nước được xác
định theo quy định của Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ,
Luật Tổ chức Toà án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật
Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Luật Kiểm toán nhà nước và
các quy định khác của pháp luật có liên quan.
- Khoản 3 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức năm 2008, quy định rõ như sau:
Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân
Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội
đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ, người đứng đầu
tổ chức chính trị - xã hội.
12
Như vậy, đã trả lời được câu hỏi: Ai là cán bộ? và cán bộ gắn với tiêu chí
bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ.
1.1.3. Khái niệm công chức
Tác giả Tô Tử Hạ, trong "Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức hiện nay" khẳng định: "chế độ công chức ra đời ở các nước tư bản
phương Tây vào nửa cuối thế kỷ XIX, nó phản ánh nhu cầu khách quan của
lịch sử phát triển nhà nước. "Nhân vật" trung tâm của chế độ công chức là đội
ngũ công chức với tiêu chuẩn, số lượng, cơ cấu hợp lý, đáp ứng hoạt động của
nền hành chính thông suốt, hiệu lực và hiệu quả"[8;tr09].
Chế độ công chức của mỗi quốc gia là do đặc điểm lịch sử, kinh tế, văn
hoá, chính trị, xã hội quy định. Trên thực tế, ở các quốc gia khác nhau không
có sự giống hệt nhau về chế độ công chức. Có nước chỉ giới hạn công chức
trong phạm vi QLNN, thi hành pháp luật; cũng có nước quan niệm công chức
bao gồm cả những người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp thực hiện dịch
vụ công. Nhìn chung, tuỳ theo cách hiểu về công vụ rộng hay hẹp mà khái
niệm về công chức cũng có nội hàm rộng hay hẹp tương ứng. Nhưng nói
chung, quan niệm ở phần lớn các nước, công chức là những người làm việc

trong bộ máy hành chính, thực thi quyền hành pháp.
Ở nước ta trước đây không có sự phân biệt rành rọt về khái niệm công
chức. Tất cả những người làm việc trong cơ quan hành chính, sự nghiệp, thậm
chí trong cả các đơn vị SXKD đều được điều chỉnh trong một khái niệm
chung là cán bộ, công nhân viên. Với phạm vi này, khái niệm công chức
không xác định.
Từ khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, vấn đề công chức được bàn bạc
và xuất hiện nhiều ý kiến khác nhau, một số ý kiến cho rằng công chức bao
gồm những người làm việc trong bộ BMNN nói chung, kể cả những cán bộ,
chiến sĩ trong lực lượng vũ trang như quân đội nhân dân, bộ đội biên phòng
và các cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong các tổ chức SXKD của Nhà nước.
13
Cũng có lúc chúng ta giới hạn công chức trong khuôn khổ của bộ máy
hành chính và xem công chức là "công dân Việt Nam được tuyển dụng và bổ
nhiệm, giữ một công vụ thường xuyên trong một công sở nhà nước ở trung
ương hay địa phương, ở trong nước hay ngoài nước, đã được xếp vào một
ngạch, hưởng lương do ngân sách nhà nước cấp". Quan điểm này cho rằng
công chức gồm những người hoạt động trong các cơ quan hành chính sự
nghiệp của nhà nước và bộ máy phục vụ của các cơ quan nhà nước khác.
Xuất phát từ những đặc thù của đất nước, Đảng ta đã khẳng định: "Ở
nước ta, sự hình thành đội ngũ cán bộ, viên chức có đặc điểm khác các nước.
Cán bộ làm việc ở các cơ quan Nhà nước, Đảng và đoàn thể là một khối thống
nhất trong HTCT do Đảng lãnh đạo. Bởi vậy, cần có một văn bản pháp luật có
phạm vi điều chỉnh chung đối với cán bộ trong toàn bộ HTCT bao gồm: các
công chức nhà nước (trong đó có công chức làm việc ở cơ quan quân đội,
cảnh sát, an ninh ) cán bộ làm việc chuyên trách trong các cơ quan Đảng,
đoàn thể"[36;tr36].
Điều đó đã được thể hiện trong điều 1 của Pháp lệnh CBCC do Quốc hội
nước cộng hoà XHCN Việt Nam ban hành ngày 26/02/1998: "CBCC quy
định tại Pháp lệnh này là công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương

từ ngân sách nhà nước”, bao gồm:
1. Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong
các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
2. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ
thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
3. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao giữ một
công vụ thường xuyên được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên
môn, được xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp trong các cơ quan nhà
nước; mỗi ngạch thể hiện chức và cấp về chuyên môn nghiệp vụ, có chức
danh tiêu chuẩn riêng;
14
4. Thẩm phán toà án nhân dân, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân;
5. Những người được tuyển dụng , bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ
thường xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân mà
không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; làm
việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc công an nhân dân mà không phải là sĩ
quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp".
Như vậy, "cán bộ, công chức" được hoà quyện trong định nghĩa nói trên
và chưa thể phân biệt đâu là công chức, đâu là cán bộ. Hơn nữa, thuật ngữ
"cán bộ" có nội hàm rất rộng. Phạm vi làm việc của cán bộ từ các cơ quan
Đảng, Nhà nước, các đoàn thể, các tổ chức xã hội, các đơn vị SXKD, lực
lượng vũ trang, công an nhân dân từ trung ương đến địa phương
Theo điều 1 Nghị định số 95/1998/NĐ - CP ngày 17/11/1998 của Chính
phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức thì "công chức" là những
người được quy định tại khoản 3 và 5 điều 1 của Pháp lệnh CBCC. Bằng
phương pháp loại trừ, có thể hiểu tất cả những người còn lại (nói tại các khoản
1, 2 và 4 của điều 1 Pháp lệnh CBCC) đều là "cán bộ". Đồng thời, xét theo
danh sách các cơ quan, tổ chức có biên chế công chức được liệt kê tại điều 1
Nghị định số 95 thì các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội không có
công chức (trừ các công chức được biệt phái sang công tác tại các tổ chức đó).

Căn cứ vào hai văn bản nói trên, có một vài nhận xét sau:
- CBCC có ba đặc điểm chung đó là: công dân Việt Nam, trong biên chế
và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
- Công chức nhà nước có thêm các đặc điểm riêng sau đây:
Thứ nhất: công chức nhà nước tham gia vào các hoạt động bằng hình
thức tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên hoặc giao
giữ một công vụ thường xuyên.
15
Thứ hai: được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn.
Thứ ba: được xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp.
Tại điểm C khoản 1 điều 2 Nghị định 97 và khoản 2 điều 1 Pháp lệnh,
vẫn có những "công chức biệt phái sang làm việc tại các tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp mà các tổ chức này đã được cơ
quan có thẩm quyền giao chỉ tiêu biên chế".
Luật Cán bộ, công chức năm 2008 đưa ra khái niệm công chức (Khoản 2
Điều 4) như sau:
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch,
chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước,
tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, trong cơ quan,
đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên
nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân
dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh
đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập),
trong biên chế và hưởng lương ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ
máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ
quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
Như vậy, Luật đã phân biệt được cán bộ và công chức, không có công
chức dự bị, không điều chỉnh viên chức làm việc trong các đơn vị sự nghiệp
công lập. Trả lời được câu hỏi: Ai là công chức? và công chức gắn với tiêu

chí tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh.
1.1.4. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng
Thông thường, đối với nhiều quốc gia trên thế giới thì đào tạo là quá
trình diễn ra trước khi trở thành công chức. Đào tạo rồi mới sử dụng, người ta
gọi là giai đoạn tiền công vụ. Ở các nước đó người ta sử dụng thuật ngữ "tu
16
nghiệp" thay vì "ĐTBD". Một số nhà nghiên cứu, quản lý ở nước ta cũng
đồng tình với quan niệm này. Ở trường Maxuel của Mỹ người ta còn gọi đào
tạo công chức giữa nhiệm kỳ chức nghiệp, tức là bồi dưỡng những công chức
đang làm việc. Mặc dù quá trình đào tạo thường diễn ra đối với phần lớn số
người trước khi trở thành công chức, song cũng không có nghĩa trong quá
trình tham gia công vụ không có đào tạo.
Bồi dưỡng thường diễn ra sau đào tạo, nghĩa là sau khi người lao động đã
có một nghề về một lĩnh vực chuyên môn để có thể lập nghiệp.
Bồi dưỡng có thể coi là quá trình cập nhật hoá kiến thức còn thiếu hoặc
đã lạc hậu, bổ túc nghề nghiệp, đào tạo thêm hoặc củng cố các kỹ năng nghề
nghiệp theo các chuyên đề. Các hoạt động này nhằm tạo điều kiện cho người
lao động có cơ hội để củng cố và mở mang một cách có hệ thống những tri
thức, kỹ năng, chuyên môn, nghiệp vụ sẵn có để lao động nghề nghiệp một
cách có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay, kỹ thuật, công nghệ
thay đổi nhanh chóng, nhiều lĩnh vực tiếp cận với nhau để hình thành những
lĩnh vực mới thì mặc dầu không đổi nghề, nhưng người lao động vẫn cần
được trang bị thêm những kiến thức và kỹ năng của một lĩnh vực chuyên môn
mới thì mới có thể tiếp cận hành nghề. Chẳng hạn công chức được tuyển về
làm việc trong các đơn vị của cơ quan Tổng Liên đoàn, trước khi chuyển về
cơ quan, mặc dù đã được đào tạo các chuyên ngành nhưng khi được tuyển
chọn vào làm việc ở cơ quan của hệ thống Công đoàn đều phải được bồi
dưỡng thêm các kiến thức, kỹ năng về công tác công đoàn.
Khái niệm "đào tạo" trong ĐTBD cán bộ, công chức có những nội hàm
khác với khái niệm đào tạo thuần tuý, bởi lẽ ngoài nghĩa đào tạo thông thường,

nó còn có ý nghĩa trang bị những kiến thức, kỹ năng mới mà trước đó, có thể
người cán bộ, công chức chưa được biết đến hoặc chưa đựơc đào tạo.
17
Luật cán bộ, công chức năm 2008 nêu rõ:
Đào tạo là quá trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ
năng theo quy định của từng cấp học, bậc học.
Bồi dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng
làm việc.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải căn cứ vào tiêu chuẩn, chức vụ, chức
danh cán bộ, yêu cầu nhiệm vụ và phù hợp với quy hoạch cán bộ.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ do cơ quan có thẩm quyền của Đảng Cộng
sản Việt Nam, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ quy định.
Bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch là trang bị kiến thức, kỹ năng hoạt
động theo chương trình quy định theo ngạch công chức.
Đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý là trang bị
kiến thức, kỹ năng, phương pháp làm việc theo chương trình quy định cho
từng chức vụ lãnh đạo, quản lý.
Bồi dưỡng theo vị trí việc làm là trang bị, cập nhật kiến thức, kỹ năng,
phương pháp cần thiết để làm tốt công việc được giao.
ĐTBD thường đan xem và có khi là thành tố của nhau. Bởi lẽ, nó đều
nhằm mục đích là đáp ứng nhu cầu phát triển của cá nhân trong tổ chức và sự
phát triển của tổ chức trong sự phát triển chung.
1.2. Tầm quan trọng của đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, công chức
1.2.1. Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn hiện nay
Từ Đại hội Đảng lần thứ VI đến nay, Đảng ta luôn khẳng định phải cải
cách hành chính. Đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đòi hỏi phải xây
dựng một Nhà nước vững mạnh, một đội ngũ CBCC có đủ bản lĩnh và năng
lực, phục vụ đắc lực sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX chỉ rõ: "Nhiệm vụ của chúng ta trong
giai đoạn hiện nay là đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao

18
rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân tạo nền tảng để đến năm
2010 nước ta cơ bản trở thành 1 nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm
lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường,
định hướng XHCN được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường
quốc tế được nâng cao" [14;tr159].
Đội ngũ CBCC của chúng ta có mặt mạnh chủ yếu là được rèn luyện thử
thách trong quá trình đấu tranh cách mạng, có bản lĩnh chính trị vững vàng,
kiên định mục tiêu, con đường mà Đảng, Bác Hồ đã lựa chọn, năng động sáng
tạo, hăng hái thực hiện đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước. Nhưng khi đất nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH với
những nhiệm vụ chính trị mới rất nặng nề, khó khăn và phức tạp thì đội ngũ
CBCC đang bộc lộ không ít nhược điểm, có những mặt bất cập. Điều này
được thể hiện trên các mặt sau đây:
Một là, những kiến thức về pháp luật. Do trong một quá trình dài và đặc
biệt là do chuyển sang cơ chế mới, chúng ta chưa có điều kiện xây dựng hệ
thống pháp luật hoàn chỉnh và phù hợp, việc điều chỉnh các quan hệ xã hội
còn chủ yếu dựa vào những quy tắc chính trị, đạo đức và các văn bản dưới
luật, nên đội ngũ CBCC chưa được trang bị hoàn chỉnh mảng kiến thức này.
Điều đó đã dẫn đến hiện tượng hoặc nơi này hoặc nơi khác phát sinh tuỳ tiện,
thiếu kỷ cương trật tự, ảnh hưởng đến quá trình phát triển.
Hai là, những kiến thức về hành chính, nhất là những kỹ năng, quy trình
công nghệ của một nền hành chính còn hạn chế. Từ việc soạn thảo văn bản,
bố trí lao động, sắp xếp công việc đến những việc quan trọng như hoạch định
chính sách, điều hành bộ máy, sử dụng nguồn tài chính công và công sản của
Nhà nước chưa được thực hiện một cách khoa học và có hiệu quả. Từ đó, dẫn
đến sự chắp vá, chồng chéo, trùng lắp, gây ra không ít ách tắc cho các hoạt
động khác.
19

Ba là, những tri thức ứng dụng KHKT hiện đại trong các cơ quan Đảng,
Nhà nước, Đoàn thể chưa đáp ứng đầy đủ. Phần lớn CBCC chưa quen và
chưa thành thạo với những phương tiện hiện đại như máy vi tính, phương
pháp lập trình, xây dựng dự án, v.v đang là trở ngại không nhỏ cho việc đáp
ứng được những đòi hỏi của nhiệm vụ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH
đất nước.
Bốn là, nền kinh tế của nước ta đang đổi mới, chuyển sang cơ chế thị
trường, hội nhập quốc tế. Thực tiễn QLNN về kinh tế rất sôi động và phức
tạp. Nhiều vấn đề mới xuất hiện, đặc biệt là những phạm trù kinh tế vĩ mô và
vai trò của Nhà nước trong việc quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường.
Năm là, sự tiếp cận với nền hành chính thế giới còn hạn chế, do đó chưa
nghiên cứu, tìm hiểu có hệ thống những kinh nghiệm của các nước.
Giai đoạn hiện nay nhằm đẩy mạnh CNH - HĐH ở Việt Nam chính là
quá trình làm biến đổi trạng thái kinh tế, văn hoá, xã hội, mà nội dung cơ
bản là:
Thứ nhất, đó là sự biến đổi chất lượng của lực lượng sản xuất làm cho
lao động thủ công được thay thế phần lớn bằng lao động cơ khí hoá, điện khí
hoá và một phần quan trọng tự động hoá; công nghiệp hoá nông nghiệp; tỷ
trọng công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ lệ cao trong cấu tạo GDP và trong lao
động xã hội.
Thứ hai, khoa học, kỹ thuật và công nghệ phát triển có khả năng tiếp cận
và vận dụng những thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ. Khoa học
xã hội và nhân văn phát triển tạo nên diện mạo tinh thần mới của đất nước,
của xã hội, mặt bằng dân trí nâng cao, chất lượng của nguồn lực con người
đạt được trình độ tương đương trong khu vực mà vẫn giữ được cốt cách, bản
sắc văn hoá Việt Nam, con người Việt Nam.
20

×