Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

một số ý kiến về việc mở và sử dụng các loại tài khoản của khách hàng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn quận ba đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.2 KB, 98 trang )

M c l cụ ụ
Chương I: Một số vấn đề lý luận về mở và sử dụng tài khoản của
khách hàng tại ngân hàng.
I Tổng quan về NHTM trong nền kinh tế thị trường.
1.Khái niệm NHTM.
2. Vai trò của NHTM.
3. Chức năng của NHTM.
4. Các nghiệp vụ cơ bản của NHTM.
4.1. Nghiệp vụ tài sản nợ.
4.2. Nghiệp vụ tài sản có.
4.3. Nghiệp vụ trung gian.
II Một số vấn đề lý luận về mở và sử dụng tài khoản của khách hàng tại ngân hàng.
1. ý nghĩa của việc mở và sử dụng tài khoản tại ngân hàng.
1.1 ý nghĩa đối với quản lý vĩ mô nền kinh tế.
1.2 . Đối với ngân hàng.
1.3. Đối với khách hàng.
2.Các loại tài khoản của khách hàng.
2.1Tài khoản tiền gửi không kỳ hạn.
2.2. Tài khoản tiền gửi có kỳ hạn.
2.3.Tài khoản tiền gửi tiết kiệm.
2.4.Tài khoản vãng lai.
2.5.Tài khoản tiền vay.
1
3.Các vấn đề chung về thủ tục mở và sử dụng tài khoản của khách hàng tại ngân
hàng.
3.1.Thủ tục mở và sử dụng tài khoản của khách hàng.
3.2. Nguyên tắc mở và sử dụng tài khoản của khách hàng.
Chương II: Tình hình mở và sử dụng tài khoản của khách hàng tại
chi nhánh NHNo&PTNT quận Ba Đình.
I Khái quát hoạt động của NHNo Ba Đình.
1. Đặc điểm về điều kiện tự nhiên - kinh tế xã hội quận Ba Đình.


2. Khái quát hoạt động của NHNo Ba Đình.
2.1. Sự hình thành và phát triển.
2.2. Cơ cấu hoạt động của bộ máy NHNo Ba Đình.
2.3.Hoạt động huy động vốn.
2.4. Sử dụng nguồn.
2.5. Kết quả tài chính.
2.6. Công tác kế toán và ngân quĩ.
2.7. Định hướng công tác hoạt động kinh doanh năm 2002 và những giải pháp.
II Tình hình mở và sử dụng các loại tài khoản của khách hàng tại NHNo Ba Đình.
1. Tình hình mở và sử dụng tài khoản tiền gửi của TCKT.
2. Tình hình mở và sử dụng tài khoản tiền gửi tiết kiệm.
3. Tình hình mở và sử dụng tài khoản tiền gửi cá nhân.
4. Một số ưu điểm và tồn tại trong việc mở và sử dụng tài khoản của khách hàng tại
NHNo Ba Đình.
2
Chương III: Một số kiến nghị mở và sử dụng tài khoản của khách
hàng tại chi nhánh NHNo&PTNT quân Ba Đình.
I. Kiến nghị chung:
1. Về phía nhà nước.
2. Về phía NHNN và NHNo Việt Nam.
2.1. Cần có 1 chế độ mới về việc mở và sử dụng tài khoản của khách hàng tại ngân
hàng.
2.2. Biện pháp hỗ trợ khác nhằm khuyến khích dân cư mở tài khoản.
II. Một số kiến nghị cụ thể về việc mở và sử dụng các loại tài khoản tiền gửi
1. Đối với tài khoản tiền gửi của TCKT.
2. Đối với tài khoản tiền gửi tiết kiệm.
3. Đối với tài khoản tiền gửi cá nhân.
III. Một số kiến nghị đối với NHNo Ba Đình.
1. Đa dạng hóa các hình thức thanh toán để khuyến khích khách hàng mở tài khoản.
2. Mở rộng mạng lưới giao dịch để thu hút thêm khách hàng.

3. Tuyên truyền quảng cáo.
4. Nâng cao chất lượng công tác cán bộ.
5. Chiến lược khách hàng.
6. Đổi mới công nghệ ngân hàng.
7. Biện pháp tâm lý và kinh tế.
3
Bảng ký hiệu chữ viết tắt
CNH-HĐH : Công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
NHTM : Ngân h ng thà ương mại.
NHNN : Ngân h ng nh nà à ước.
NHNo&PHNT: Ngân h ng nông nghià ệp v phát trià ển nông thôn
NHCT : Ngân h ng công thà ương.
NHĐT : Ngân h ng à đầu tư.
NHNT : Ngân h ng ngoà ại thương.
QPPL : Qui phạm pháp luật.
TCTD : Tổ chức tín dụng.
TCKT : Tổ chức kinh tế.
DNNN : Doanh nghiệp nh nà ước
GTCG : Giá trị có giá
4
Lời nói đầu
Nhu cầu vốn để đầu tư phát triển kinh tế đang là vấn đề bức xúc cần được
quan tâm hàng đầu trong mọi thời kỳ, đặc biệt trong xu thế toàn cầu hoá và thương
mại quốc tế phát triển mạnh mẽ nền kinh tế Việt Nam đang trên đà đổi mới theo
hướng kinh tế thị trường thì vốn được coi là một yếu tố quan trọng có ý nghĩa
quyết định đến sự thành công của cuộc đổi mới này .Vốn có thể huy động từ nhiều
nguồn khác nhau từ trong nước từ ngoài nước trong đó vốn để đầu tư nền kinh tế
thông qua NHTM đóng một vai trò hết sức quan trọng.
NHTM là trung gian tài chính quan trọng nhất hoạt động kinh doanh trên thị
trường tiền tệ với lợi nhuận là mục tiêu chủ yếu. Nền kinh tế càng phát triển hoạt

động NHTM càng đi sâu vào tận cùng ngõ ngách của nền kinh tế và đời sống nhân
dân bởi NHTM làm chức năng cầu nối giữa người có vốn và người cần vốn, hoạt
động với phương châm là đi vay và cho vay, huy động từ nền kinh tế, sử dụng cho
vay có hiệu quả và không ngừng phát triển vốn .
Để tồn tại v phát trià ển các NHTM phải không ngừng ho n thià ện hoạt
động kinh doanh của mình, nếu như nguồn vốn tự có l tià ền đề l nhà ững viên
gạch đầu tiên đặt nền móng cho hoạt động kinh doanh, mức độ tự chủ v anà
to n kinh doanh thì nguà ồn vốn huy động l và ốn chủ yếu đảm bảo cơ sở t ià
chính cho kinh doanh v thà ể hiện mức độ mở rộng kinh doanh của ngân h ng.à
Như vậy để có thể mở rộng liên doanh liên kết tham gia v o thà ị trường quốc tế
thì chiến lược huy động vốn v chià ến lược khách h ng mang tính liên tà ục và
thường xuyên của NHTM. Một trong những công cụ thực hiện mục tiêu trên là
đa dạng hoạt động kinh doanh, khuyến khích mở v sà ử dụng các loại t i khoà ản
tại ngân h ng nhà ằm thoả mãn tối đa nhu cầu phong phú của khách h ng gà ửi
tiền. Với công cụ n y không nhà ững có ý nghĩa trong việc mở rộng nguồn vốn
huy động của ngân h ng m nó còn l cà à à ơ sở giúp cho sự phát triển các hình
thức thanh toán không dùng tiền mặt.
5
Xuất phát từ những suy nghĩ trên, nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc
mở và sử dụng tài khoản của khách hàng tại ngân hàng, sau một thời gian thực tập
tại NHNo&PTNT quận Ba Đình kết hợp với những kiến thức đã được trang bị ở
Học Viện Ngân Hàng em mạnh dạn chọn đề tài để viết khoá luận là:”Một số ý
kiến về việc mở và sử dụng các loại tài khoản của khách hàng tại NHNo&PTNT
quận Ba Đình” trong đó phạm vi của đề tài em xin nghiên cứu sâu về các loại tài
khoản tiền gửi của khách hàng vì loại tài khoản tiền gửi có ý nghĩa quan trọng
trong việc mở rộng nguồn vốn huy động và thúc đẩy thanh toán qua ngân hàng .
Nội dung gồm 3 chương:
Chương I : Một số lý luận về mở và sử dụng tài khoản tiền gửi của khách
hàng tại ngân hàng.
Chương II: Tình hình mở và sử dụng tài khoản của khách hàng tại

NHNo&PTNT quận Ba Đình.
Chương III: Một số kiến nghị mở và sử dụng tài khoản của khách hàng tại
NHNo&PTNT quận Ba Đình.
Là một sinh viên với năng lực nghiên cứu còn hạn chế, sự hiểu biét chưa
sâu nên nội dung của khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót. Song với
nguyện vọng em muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình giúp NHNo Ba Đình
nói riêng và ngành ngân hàng nói chung ngày càng mở rộng thu hút nhiều khách
hàng mở và sử dụng tài khoản góp phần vào việc thanh toán qua ngân hàng, giảm
chi phí lưu thông và không ngừng phát triển nguồn vốn huy động. Em kính mong
nhận được sự chỉ bảo của thầy cô trong hội đồng bảo vệ luận văn, ban lãnh đạo
cùng tập thể công nhân viên NHNo Ba đình và đặc biệt là thầy Phạm Hoàng Đức
vụ phó vụ KT-TC NHNN Việt Nam nguyên là thầy giáo của Học Viên Ngân
Hàng để bài viết khoá luận của em được hoàn chỉnh hơn .
Em xin chân thành cảm ơn
6
Sinh viên :Lại Thanh Tú
Chương I: Một số vấn đề lý luận về mở và sử dụng tài khoản
tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng
I. Tổng quan về Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị
trường
1. Khái niệm ngân h ng thà ương mại
Nghề kinh doanh tiền tệ ra đời gắn liền với sự phát triển của quan hệ thương
mại, lúc đầu được hình thành dưới các tổ chức đơn giản như nhà thờ, tư nhân
với hoạt động dơn giản là các dịch vụ đổi tiền song với sự phát triển của kinh tế
hàng hoá các quan hệ tiền tệ ngày càng được mở rộng và thúc đẩy các tổ chức
kinh doanh tiền tệ phát tiển cả về số lượng và qui mô hoạt động. Trong đó ngân
hàng thương mại là một trong những tổ chức kinh doanh tiền tệ đặc biệt quan
trọng, là một trong những phát kiến vĩ đại nhất của con người .
Để đưa ra được một định nghĩa về Ngân hàng thương mại, người ta thường
phải dựa vào tính chất và mục đích của nó trên thị trường tài chính, và đôi khi còn

kết hợp tính chất, mục đích và đối tượng hoạt động. Dựa vào tính chất và mục
đích một số nước trên thế giới định nghĩa NHTM như sau:
Luật Ngân hàng của Pháp, năm 1941 định nghĩa: “Ngân hàng là những xí
nghiệp hay cơ sở hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký
thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ
chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính”
7
Luật Ngân hàng của ấn Độ 1950, được bổ sung 1959 đã nêu ”Ngân hàng là
cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ, đầu tư”.
Dựa vào sự kết hợp tính chất mục đích và đối tượng hoạt động thì Luật Ngân
hàng của Đan Mạch năm 1930 định nghĩa: “Những nhà băng thiết yếu gồm các
nghiệp vụ nhận tiền ký thác, buôn bán vàng bạc hành nghề thương mại và các giá
trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các nghiệp vụ chuyển
ngân, đứng ra bảo hiểm
Mặc dù có nhiều cách thể hiện khác nhau, nhưng phân tích, khai thác nội
dung của các định nghĩa đó, người ta dễ dàng nhận thấy các ngân hàng thương mại
đều có chung một tính chất đó là nhận tiền ký thác- tiền gửi không kỳ hạn và có
kỳ hạn, để sử dụng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh
khác của ngân hàng.
ở Việt Nam, trong bước chuyển đổi sang kinh tế thị trường có sự quản lý của
nhà nước, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được
bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp, các hình thức sở hữu có thể hỗn hợp,
đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh doanh đa dạng. Các doanh nghiệp,
không phân biệt quan hệ sở hữu đều tự chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với
nhau, bình đẳng trước pháp luật.
Theo hướng đó, nền kinh tế hàng hoá phát triển tất yếu sẽ tạo ra những tiền đề
cần thiết và đòi hỏi sự ra đời của nhiều loại hình ngân hàng và các tổ chức tín
dụng khác. Cho nên để tăng cường quản lý, hướng dẫn hoạt dộng của các ngân
hàng và các tổ chức tín dụng khác, tạo thuận lợi cho sự phát triển nền kinh tế đồng

thời bảo vệ lợi ích hợp pháp của các tổ chức và cá nhân. Theo điều 20 Luật các Tổ
chức tín dụng của Việt Nam có nêu: “ Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được
8
thành lập theo qui định của luật này và các qui định khác của pháp luật để hoạt
động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vị ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử
dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”
Từ định nghĩa chung đó cũng trong Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng có nêu
”Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ ngân hàng và
hoạt động kinh doanh khác có liên quan.Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các
loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân
hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng
khác.”
Ngày nay, trong thế giới hiện đại, hoạt động của các tổ chức tài chính là môi
giới trên thị trường tài chính ngày càng phát triển về số lượng và qui mô hoạt
động, đa dạng và phong phú, hoạt động đan xen lẫn nhau. Người ta phân biệt
NHTM với các tổ chức môi giới tài chính khác là ở chỗ NHTM là ngân hàng kinh
doanh tiền gửi, chủ yếu là tiền gửi không kỳ hạn, chính từ hoạt động đó tạo cơ hội
cho ngân hàng thương mại có thể làm tăng bội số tiền gửi của khách hàng trong hệ
thống NHTM của mình. Đó là đặc trưng cơ bản để phân biệt NHTM với các Ngân
hàng và TCTD khác .
2. Vai trò của Ngân hàng thương mại
Giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế thị trường làm trung gian thanh
toán tiền tệ cho toàn bộ nền kinh tế thì hoạt động của ngân hàng ngày càng phát
triển về số lượng và qui mô hoạt động, đa dạng và phong phú với một số vai trò
quan trọng sau:
- Ngân hàng không những làm nhiệm vụ kinh doanh mà ngân hàng còn là một
trong những công cụ quan trọng để nhà nước thực thi chính sách tiền tệ nhằm điều
9
tiết vĩ mô nền kinh tế để có nền kinh tế phát triển mạnh mẽ vững chắc.Thông qua
hoạt động tín dụng và thanh toán NHTM thực hiện dẫn dắt luồng tiền, tập hợp

phân chia vốn của thị trường, điều khiển chúng một cách có hiệu quả, thực thi vai
trò điều tiết vĩ mô “nhà nước điều tiết ngân hàng, ngân hàng điều tiết thị trường “.
- NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế: xuất phát là một trung gian tài
chính, NHTM đứng ra huy động các nguồn vốn nhàn dỗi và tạm thời ở mọi tổ
chức cá nhân, mọi thành phần kinh tế trong xã hội và thông qua nghiệp vụ tín
dụng NHTM cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế, đáp ứng các nhu cầu vốn
một cách kịp thời cho quá trình tái sản xuất từ vốn huy động của mình .
- NHTM là cầu nối giữa các doanh nghiệp với thị trường thể hiện: trong điều
kiện kinh tế thị trường cạnh tranh là vấn đề tất yếu, để có thể đứng vững trong
thương trường các doanh nghiệp phải chịu tác động và hiểu được các qui luật kinh
tế khách quan (như qui luật cung cầu, qui luật giá trị , ). Tất cả những hoạt động
của các nhà doanh nghiệp đòi hỏi một khối lượng lớn vốn đầu tư nhiều khi vượt
khả năng vốn tự có của doanh nghiệp, giải quyết khó khăn này doanh nghiệp tìm
đến ngân hàng xin vay vốn thoả mãn nhu cầu đầu tư của mình. Thông qua nghiệp
vụ tín dụng ngân hàng là chiếc cầu nối doanh nghiệp với thị trường
- NHTM là cầu nối tài chính quốc gia với tài chính quốc tế. Khi mối quan hệ
hàng hoá thương mại và tiền tệ ngày càng được mở rộng nhu cầu giao lưu kinh tế -
xã hội các nước trên thế giới ngày trở nên cần thiết. Việc phát triển kinh tế mỗi
nước gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế thế giới là thiết yếu. NHTM đóng
một vai trò vô cùng quan trọng trong sự hoà nhập này. Thông qua hoạt động thanh
toán thương mại giữa các quốc gia, mua bán ngoại hối NHTM đã thực hiện vai trò
điều tiết nền tài chính trong nước cho phù hợp với sự vận động nền tài chính quốc
tế.
10
3. Chức năng của ngân h ng thà ương mại
Theo sự phát triển của nền kinh tế hoạt động của ngân hàng ngày càng rộng lớn
và đa dạng. Ngày nay tầm quan trọng của hệ thống NHTM và cơ cấu hoạt động
của nó đóng một vai trò quan trọng trong thể chế tài chính của mỗi nước được thể
hiện thông qua các chức năng cơ bản sau:
*Chức năng trung gian tín dụng: Ngay từ khi mới hình thành các ngân hàng

luôn tìm kiếm những cơ hội để thực hiện cho vay. Với nghiệp vụ huy động nhưng
nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội tạo nên quĩ cho vay từ đó có thể thoả
mãn nhu cầu về vốn vay cho các chủ thể cần vốn bổ sung. Như vậy ngân hàng đã
góp phần giảm thiểu những chi phí thông tin và chi phí giao dịch trong nền kinh
tế. Chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản của ngân hàng thương mại
nên đã góp phần không nhỏ vào điều hoà vốn trong nền kinh tế, đảm bảo sự vận
động liên tục của guồng máy kinh tế xã hội, cải thiện đời sống nhân dân .
*Chức năng trung gian thanh toán: Hàng ngày trong nền kinh tế có hàng triệu
cuộc giao dịch thanh toán, nếu các chủ thể thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt thì sẽ
gặp rất nhiều khó khăn. Với phương thức thanh toán này sẽ gây nhiều phức tạp và
chi phí tốn kém, không đảm bảo an toàn. Vì vậy khi hệ thống NHTM ra đời và
phát triển trong quá trình thực hiện chức năng trung gian tín dụng hệ thống NHTM
đã thu hút đại bộ phận các TCKT và dân cư mở tiền gửi thanh toán tại ngân hàng
và khi đó những nghiệp vụ thanh toán này được uỷ thác cho ngân hàng thông qua
các tài khoản tiền gửi. Nhờ có quá trình này ngân hàng đã tiết kiệm cho xã hội
được nhiều chi phí lưu thông, đẩy mạnh tốc độ luân chuyển vốn, thúc đẩy quá
trình lưu thông hàng hoá và giảm chi phí phát hành tiền.
*Chức năng tạo tiền: Với việc hình thành ngân hàng 2 cấp và sự hoạt động theo
tổ chức hệ thống các NHTM khác nhau, thông qua hoạt động tín dụng, thanh toán
11
không dùng tiền mặt hệ thống ngân hàng thương mại và trong mối quan hệ với
NHTW, đặc biệt trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ đã tạo ra “bút tệ” thay
thế cho tiền mặt .
Việc cung ứng tiền cần được đảm bảo bình thường cho lưu thông. Nếu cung
ứng tiền quá nhanh sẽ gậy tác động tiêu cực cho nền kinh tế. Mục đích của chính
sách tiền tệ là thông qua các NHTM đưa ra khối lượng tiền cung ứng phù hợp với
chính sách ổn định giá cả, thực hiện tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm. Các
NHTM đóng vai trò quan trọng trong thực thi chính sách tiền tệ, được coi là kênh
dẫn vốn mà qua đó tăng giảm lượng tiền lưu thông phù hợp với từng thời kỳ của
nền kinh tế. Đây là một trong những chức năng cơ bản để hoạt động tín dụng của

ngân hàng được mở rộng hơn về phạm vi và qui mô hoạt động, đảm bảo an toàn
trong cả hệ thống ngân hàng.
Các chức năng của NHTM có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung hỗ trợ cho nhau
trong đó chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản và quan trọng nhất, nó
tạo cơ sở cho việc thực hiện các chức năng sau. Đồng thời khi ngân hàng thực
hiện tốt chức năng thanh toán và tạo tiền sẽ góp phần làm tăng nguồn vốn tín
dụng, mở rộng hoạt động tín dụng của ngân hàng.
4. Các nghiệp vụ cơ bản của ngân h ng thà ương mại
NHTM có hoạt động gần gũi nhất với đời sống nhân dân và nền kinh tế. Nền
kinh tế càng phát triển cao thì hoạt động của NHTM càng đi vào tận cùng ngõ
nghách của đời sống kinh tế đất nước. Để hiểu được sự liên đới của NHTM với
đời sống nhân dân và nền kinh tế cần nghiên cứu các nghiệp vụ kinh doanh của
NHTM có thể khác nhau về phạm vi và công nghệ nhưng nói chung hoạt động của
ngân hàng thương mại bao gồm 3 lĩnh vực nghiệp vụ :
12
_Nghiệp vụ tài sản nợ
_Nghiệp vụ tài sản có
_Nghiệp vụ trung gian
Đó là các nghiệp vụ trong bảng tổng kết tài sản, ngoài ra còn có các dịch vụ
khác không phản ánh trên bảng Tổng kết tài sản như bảo lãnh, cho thuê két sắt, tư
vấn Các nghiệp vụ NHTM có quan hệ chặt chẽ hỗ trợ lẫn nhau trong suốt quá
trình hoạt động tạo một chỉnh thể thống nhất. Dưới đây sẽ trình bày lần lượt 3
nghiệp vụ cơ bản của NHTM:
4.1. Ngiệp vụ tài sản nợ: Đây là nghiệp vụ khởi đầu tạo điều kiện cho sự hoạt
động của ngân hàng. Về sau khi ngân hàng thương mại đã hành thành ổn định, các
nghiệp vụ của nó được xen kẽ lẫn nhau trong suốt quá trình hoạt động, tài sản nợ
của ngân hàng thương mại tập trung vào vốn tự có (vốn pháp định hay vốn điều
lệ) và vốn huy động. Tài sản nợ là những khoản mà nhân dân gửi vào hay chính
NHTM đi vay các đối tượng khác trong nền kinh tế như NHTW, ngân hàng khác,
TCTD khác Đứng bên tài sản nợ NHTM là người đi vay là con nợ, đối tượng kia

là người cho vay, là chủ nợ của NHTM.
Tài sản nợ bao gồm :
+Vốn tự có (Vốn pháp định, vốn tự có bổ sung)
+ Vốn huy động (nghiệp vụ tiền gửi, nghiệp vụ phát hành giấy tờ có
giá, nghiệp vụ đi vay )
#Vốn tự có: Không có tổ chức kinh tế nào hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh
có thể tồn tại được khi thiếu vốn hay không có vốn. Do vậy vốn là nhu cầu cần
thiết quyết định sự tồn tại và phát triển của một đơn vị kinh doanh tiền tệ .
13
Vốn tự có của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập được,
thuộc sở hữu của ngân hàng. Tuy chiếm tỷ trọng nhỏ trong nguồn vốn hoạt động
kinh doanh song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi mới hình thành và thể hiện
thực lực, qui mô của ngân hàng.
+Vốn tự có cơ bản là vốn pháp định -vốn điều lệ: là phần vốn thực có
trong quá trình hoạt động để đảm bảo ngân hàng hoạt động một cách bình
thường.Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập ngân hàng do
pháp luật qui định.
+Vốn tự có bổ sung: Nguồn vốn này tăng lên theo tốc độ tăng trưởng
kinh doanh của ngân hàng theo các thời kỳ khác nhau bao gồm:
-Quĩ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: được hình hành trong quá trình
hoạt động thông qua trích lập quĩ. Căn cứ vào kết quả lợi nhuận ngân hàng trích
lập một phần để bổ sung vốn tự có .
-Quĩ dự trữ đặc biệt: để dự phòng bù đắp rủi ro
-Ngoài ra còn có lợi nhuận chưa chia và các quĩ đặc biệt khác
Tầm quan trọng của vốn tự có thể hiện thông qua các chức năng
cơ bản sau
+Chức năng bảo vệ: thể hiện ở khả năng duy trì thanh toán với khách hàng
trong trường hợp ngân hàng thua lỗ kinh doanh
+ Chức năng hoạt động: thể hiện ở sự ổn định của vốn tự có mà ngân hàng có
thể sử dụng nguồn này vào các mục đích khác nhau như trang bị cơ sở vật chất,

tạo tài sản cố định
14
+ Chức năng điều chỉnh: thể hiện ở sự cân đối các điều kiện hoạt động của
ngân hàng với thực lực của ngân hàng mà có thể hoạt động được
#Vốn huy động:
Nguồn vốn n y chià ếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của NHTM, đây
chính l nguà ồn vốn chủ yếu đáp ứng nhu cầu tín dụng của khách h ng. Và ốn
huy động bao gồm: - Nghiệp vụ tiền gửi
- Nghiệp vụ phát h nh già ấy tờ có giá
- Nghiệp vụ đi vay
- Nghiệp vụ huy động vốn khác
Thứ nhất, nghiệp vụ tiền gửi: là nghiệp vụ phản ánh khoản tiền từ các chủ thể
kinh tế gửi vào ngân hàng để thanh toán hoặc với mục đích bảo quản tài sản hoặc
để hưởng lãi bao gồm:
+Tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi thanh toán ) là loại tiền gửi ký thác vào ngân
hàng để thực hiện các khoản chi trả thường xuyên của khách hàng. Đây không
phải là khoản tiền tiết kiệm mà là một bộ phận tiền đang chờ thanh toán. Vì vậy
khách hàng có thể rút ra bất kỳ lúc nào theo yêu cầu, đối với loại tiền gửi này tuỳ
theo qui định của từng quốc gia mà không được phép tính lãi hoặc tính lãi suất
thấp .
+Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi được uỷ thác vào ngân hàng trên cơ sở có sự
thoả thuận về thời gian rút tiền giữa khách hàng và ngân hàng. Huy động nguồn
vốn này ngân hàng có được sự chủ động hơn về thời hạn hoàn trả tiền cho khách
hàng, loại tiền gửi này ngân hàng phải trả lãi suất huy động.
15
+ Tiền gửi tiết kiệm là tiền để dành của người dân gửi vào ngân hàng nhằm mục
đích tích luỹ tiền một cách an toàn và hưởng một phần lãi từ số tiền đó. Tiền gửi
tiết kiệm chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng nguồn vốn huy động (60-70%) bao
gồm: -Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là khoản tiền gửi có thể rút ra bất kỳ lúc
nào song không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người khác .

-Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là loại tiền gửi tiết kiệm gửi vào
ngân hàng trên cơ sở có sự thoả thuận về thời hạn, lãi suất giữa khách hàng và
ngân hàng, trong đó lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
Thứ 2, Nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá
Thực chất nghiệp vụ này là ngân hàng huy động vốn tiền tệ thông qua việc
phát hành giấy tờ có giá mà trong đó chứng chỉ tiền gửi là phiếu nợ ngắn hạn với
mệnh giá qui định, trái phiếu là phiếu nợ trung dài hạn. Khách với hình thức huy
động trên thì hình thức này huy động chủ yếu trên thị trường tài chính. Với nghiệp
vụ này NHTM chỉ tiến hành khi thiếu vốn mà vốn tự có và vốn huy động không
đủ, với cách huy động này ngân hàng phải căn cứ vào đầu ra vốn tự có để quyết
định khối lượng, thời hạn, lãi suất và phương pháp huy động
Thứ 3, nghiệp vụ đi vay
- NHTM có thể vay NHTW dưới các hình thức hạn mức tín dụng, tái chiết khấu
thương phiếu song NHTW có cho vay hay không còn phụ thuộc vào khối lượng
tiền cung ứng trong năm, phụ thuộc vào chính sách tiền tệ đang áp dụng
- NHTM có thể vay NHTM khác, TCTD khác trên thị trường tiền tệ nhưng chi
phí cho nghiệp vụ n y cao, thà ường ngân h ng chà ỉ vay trong trường hợp giải toả
khó khăn về t i chính .à
16
Thứ 4, nghiệp vụ huy đông khác thông qua các hoạt động như l m uà ỷ
thác, uỷ thác vốn cho các TCTD, cá nhân trong v ngo i nà à ước NHTM cũng huy
động được nguồn vốn n y tuy không là ớn nhưng nguồn n y không mà ất chi phí,
do đó ngân h ng cà ần lợi dụng điều n y à để đa dạng hoá các dịch vụ thu hút tối
đa nguồn vốn n y à
4.2. Nghiệp vụ tài sản có là nghiệp vụ phản ánh quá trình sử dụng vào các
mục đích nhằm đảm bảo an toàn cũng như tìm kiếm lợi nhuận của NHTM, nội
dung bao gồm:
+Nghiệp vụ ngân quĩ: là nghiệp vụ phản ánh khả năng thanh toán thường
xuyên của khách hàng, phản ánh các khoản vốn của ngân hàng được dùng vào
mục đích nhằm đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán và thực hiện qui định về

dự trữ bắt buộc do NHTW đề ra.
+ Nghiệp vụ tín dụng: là nghiệp vụ tạo khả năng sinh lời chính trong hoạt
động kinh doanh của các NHTM. Nghiệp vụ này bao gồm các khoản đầu tư sinh
lời của ngân hàng thông qua việc cho vay ngắn hạn trung dài hạn đối với nền kinh
tế.
+Nghiệp vụ về đầu tư t i chínhà : l nghià ệp vụ m các ngân h ng thà à ương
mại thực hiện quá trình đầu tư bằng vốn của mình thông qua các hoạt động
hùn vốn góp vốn, kinh doanh chứng khoán trên thị trường t i chính. à ở Việt Nam
theo luật tổ chức tín dụng, ngo i vià ệc đầu tư chứng khoán các TCTD được
dùng vốn sở hữu của mình để góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp v cà ủa
các TCTD khác.
+ Nghiệp vụ khác: là các hoạt động khác trên thị trường như: kinh doanh
ngoại tệ, vàng bạc, kim khí, đá quí, thực hiện các dịch vụ tư vấn, các dịch vụ liên
17
quan đến hoạt động ngân hàng như dịch vụ bảo quản hiện vật quí, giấy tờ có giá
cho thuê két
4.3. Nghiệp vụ trung gian:
Nền kinh tế càng phát triển các dịch vụ ngân hàng theo đó cũng phát triển
theo để đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng. Nhờ việc thực hiện nghiệp vụ trung
gian mang tính dịch vụ ngân hàng nhận những khoản thu nhập dưới dạng hoa
hồng. Là nghiệp vụ có liên quan đến bên nợ, bên có hoặc ngoại bảng của ngân
hàng như: nghiệp vụ chuyển tiền, bảo quản tài sản, tư vấn nghiệp vụ uỷ thác đại
lý, do vậy ngân hàng không ngừng tạo ra sự phong phú cho các hoạt động kinh
doanh để lợi nhuận thu về lớn nhất.
Qua quá trình nghiên cứu các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại ta có thể
hình dung được hoạt động cơ bản của ngân hàng. Để thực hiện tốt nghiệp vụ cho
vay để cho vay các NHTM ngày nay không ngừng đổi mới các mặt hoạt động: lý
luận và nghiệp vụ. Vì mục đích cuối cùng là lợi nhuận và hùng mạnh của các ngân
hàng, các nhà quản lý đã tìm những biện pháp hiệu quả nhất nhằm thu hút nguồn
vốn vào và lấy đó làm cơ sở vật chất để tiến hành các nghiệp vụ đầu ra thích hợp.

II. Một số vấn đề lý luận về mở và sử dụng tài khoản của
khách hàng tại ngân hàng
1. ý nghĩa của việc mở và sử dụng tài khoản tại ngân hàng
1.1. ý nghĩa đối với quản lý vĩ mô nền kinh tế
Sự phát triển và mở rộng tài khoản tại ngân hàng là cơ sở giúp cho sự phát
triển của các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Nếu mọi việc thanh toán
chi trả đều thực hiện thông qua Ngân hàng sẽ giúp cho NHTW quản lý, điều tiết
18
khối lượng tiền cung ứng một cách dễ dàng hơn. Hơn nữa, còn đảm bảo cho việc
chi trả giữa các chủ thể trong nền kinh tế được thực hiện một cách an toàn, chính
xác, nhanh chóng với chi phí thấp nhất góp phần làm tăng tốc độ chu chuyển vốn
tạo đà cho sự phát triển của nền kinh tế.
1.2. Đối với ngân hàng.
Nếu có khách hàng mở và sử dụng tài khoản tiền gửi tại ngân hàng sẽ giúp
cho nguồn vốn huy động của ngân hàng được tăng trưởng mà trong đó chi phí vốn
huy động thấp hơn so với việc huy động từ nguồn khác tạo điều kiện cho ngân
hàng mở rộng qui mô hoạt động kinh doanh và mở rộng việc cung ứng dịch vụ
ngân hàng thông qua tài khoản tiền gửi, việc này làm tăng uy thế của ngân hàng
trên thị trường. Hơn nữa đối với ngân hàng tài khoản là một công cụ kỳ diệu thực
hiện cơ chế tạo tiền, làm tăng sức mạnh ngân hàng lên gấp nhiều lần. Chính tài
khoản ngân hàng mới tạo cho đồng tiền ghi sổ có khả năng tương ứng với giấy bạc
ngân hàng, nó cho phép lưu thông đồng tiền ghi sổ có nghĩa là số dư trên tài khoản
tiền gửi của khách hàng. Tài khoản tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng là cơ sở
cho sự phát hành séc hay thanh toán qua chuyển khoản.
1.3. Đối với khách hàng
Sau khi mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng khách hàng được hưởng nhiều
dịch vụ tiện ích mà ngân hàng cung ứng thông qua tài khoản ngân hàng, ví dụ
khách hàng được sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt (đối với
tài khoản tiền gửi thanh toán ). Đảm bảo việc thanh toán được tiến hành nhanh
chóng, chính xác an toàn mà bản thân khách hàng tự làm sẽ rất tốn kém và khó

khăn. Nếu khách hàng mở tài khoản tiền gửi thì họ sẽ được đảm bảo về sự an toàn
vốn và được hưởng lãi từ số tiền đó tuỳ thuộc vào từng loại hình tài khoản (tài
19
khoản tiết kiệm, tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, tài khoản tiền gửi không kỳ hạn)
trong khi làm việc để tiền ở nhà có khả năng an toàn thấp lại không sinh lời.
2. Các loại tài khoản khách hàng
2.1.Tài khoản tiền gửi không kỳ hạn: là khoản tiền mà người gửi có thể rút ra sử
dụng bất cứ lúc nào và Ngân hàng phải thỏa mãn yêu cầu đó của khách hàng. Tiền
gửi không kỳ hạn có lãi suất thấp hoặc không được trả lãi bao gồm 2 loại sau:
+ Tiền gửi thanh toán: Đó là các khoản tiền gửi không kỳ hạn trước hết
được sử dụng để tiến hành thanh toán, chi trả cho các hoạt động hàng hóa dịch vụ
và các khoản chi phí khác phát sinh trong quá trình kinh doanh một cách thường
xuyên, an toàn, thuận tiện. Tiền gửi thanh toán thường được bảo quản tại Ngân
hàng trên hai loại tài khoản: tài khoản tiền gửi thanh toán và tài khoản vãng lai.
Đối với tài khoản tiền gửi thanh toán, việc rút tiền hoặc chi trả cho bên thứ ba
thường được thực hiện bằng séc hoặc chuyển khoản. Khách hàng mở tài khoản
này nhằm mục đích “đảm bảo thế năng” và sử dụng dễ dàng thuận tiện đồng vốn
khi cần. Tài khoản vãng lai là tài khoản có lúc dư nợ , có lúc dư có. Với tài khoản
này, khách hàng còn có thể được Ngân hàng đáp ứng nhu cầu tín dụng trong một
khoảng thời gian nhất định. Đứng trên góc độ ngân hàng, tiền gửi không kỳ hạn là
khoản nợ mà ngân hàng luôn phải chủ động trả cho khách hàng vào bất cứ lúc
nào. Tuy nhiên, trong mỗi ngân hàng do có sự không khớp nhịp giữa xuất và nhập
trên mỗi tài khoản thanh toán của doanh nghiệp hay giữa các tài khoản của các
doanh nghiệp làm cho nhập lớn hơn xuất, tạo nên tồn khoản mà Ngân hàng được
phép sử dụng một phần làm vốn kinh doanh.
+ Tài khoản không kỳ hạn thuần tuý: là khoản tiền được ký gửi với mục
đích an toàn tài sản, không mang tính chất phục vụ thanh toán. Khi cần khách
hàng có thể đến ngân hàng rút ra để chi tiêu. Cũng giống như trường hợp trên,
20
Ngân hàng phải thỏa mãn yêu cầu của khách hàng khi họ có nhu cầu rút tiền và

chỉ được phép sử dụng tồn khản đã đảm bảo khả năng thanh toán chi trả.
2.2.Tài khoản tiền gửi có kỳ hạn: Đây là loại tiền gửi có sự thỏa thuận trước
giữa khách hàng và Ngân hàng về thời gian rút tiền. Đại bộ phận nguồn tiền gửi
này có nguồn gốc từ tích lũy và xét về bản chất chúng được ký thác với mục đích
hưởng lãi. Các NHTM nhận hai loại; là tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi báo rút (tức
khi muốn rút ra phải báo trước). Về cơ bản, các khoản tiền gửi có kỳ hạn không
được sử dụng để tiến hành thanh toán như các khoản chi trả bằng vốn trên tài
khoản vãng lai. Thông thường, tiền gửi có kỳ hạn là các khoản tièn gửi có thời hạn
dài và có lãi suất cao.
Tiền gửi có kỳ hạn giữ vị trí trung gian giữa tiền gửi thanh toán và tiền gửi
tiết kiệm. Đây là nguồn tiền tương đối ổn định, Ngân hàng có thể sử dụng phần
lớn tồn khoản vào kinh doanh. Chính vì vậy, các NHTM luôn tìm cách đa dạng
hóa loại tiền này bằng cách áp dụng nhiều kỳ hạn khác nhau với mức lãi suất khác
nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của mọi khách hàng.
2.3.Tài khoản tiền gửi tiết kiệm: Về bản chất tiền gửi tiết kiệm là phần thu nhập
chưa sử dụng cho tiêu dùng trong hiện tại của các cá nhân, hộ gia đình được gửi
vào với mục đích để dành tiền một cách an toàn và được hưởng lãi. Tiền gửi tiết
kiệm là một dạng đặc biệt để tích lũy tiền tệ trong lĩnh vực tiêu dùng cá nhân .
Nhiều nước ngân hàng cho phép khách hàng sử dụng tài khoản này để thanh
toán với các thể thức thanh toán thông dụng như séc thanh toán, ngân phiếu thanh
toán, thẻ thanh toán nên được coi là tài khoản thanh toán hay tài khoản tiền gửi
các nhân.
21
Các NHTM ở nước ta huy động tài khoản tiền gửi tiết kiệm trong dân chúng
hiện nay vào khoảng 50% tiền mặt trong lưu thông. Con số này ở các nước phát
triển thì ngược lại, tức là số dư tài khoản tiền gửi của dân cư gấp nhiều lần tiền
mặt trong lưu thông. Như vậy thói quen thanh toán của chúng ta hiện nay vẫn chủ
yếu là tiền mặt. Trên thực tế, trong nền kinh tế thị trường tiền gửi tiết kiệm phát
triển dưới hai loại hình tiết kiệm sau:
-Tài khoản tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: là khoản tiền gửi có thể rút ra

bất cứ lúc nào song không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho
người khác.
-Tài khoản tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: là khoản tiền có sự thỏa thuận về thời
hạn gửi và rút tiền, có mức lãi suất cao hơn so với tiền gửi không kỳ hạn.
2.4. Tài khoản vãng lai (tài khoản séc)
Là loại tài khoản tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng và thông qua tài
khoản này ngân hàng cung cấp dịch vụ thanh toán thu hộ chi hộ cho khách hàng,
dịch vụ rút tiền, chuyển hộ tiền. Việc sử dụng séc thanh toán rất tiện lợi với nhiều
thể loại như séc rút tiền mặt, séc chuyển tiền cầm tay, séc chuyển khoản, séc bảo
chi , séc du lịch, nên có tên gọi khác là tài khoản séc. Ngoài ra chủ tài khoản còn
có thể sử dụng tất cả các thể thức thanh toán không dùng tiền mặt theo qui định
của ngân hàng nhà nuớc.
Tài khoản vãng lai có thể sử dụng để vay tạm thời của ngân hàng khi cần
thiết (lúc đó tài khoản dư nợ ) được gọi là thấu chi. Như vậy tài khoản này có thể
dư nợ có thể dư có. Nhờ đặc điểm này nên tài khoả vãng lai rất thông dụng với các
nước phát triển trên thế giới , các doanh nghiệp và các cá nhân sử dụng rất tiện lợi,
linh hoạt phù hợi với điều kiện kinh tế thị trường . Tài khoản này ở nước ta hiện
22
nay không áp dụng do nhiều nguyên nhân, với tài khoản thấu chi phải được thoả
thuận và chấp nhận của nhân hàng đưa vào kế hoach nguồn vốn cho thấu chi theo
hạn mức. Thông thường không phải mọi khách hàng đều được phép thấu chi, đối
với khách hàng không được phép thấu chi mà phát hành séc quá số dư hoặc khách
hàng được phép thấu chi mà phát hành quá hạn mức sẽ ảnh hưởng lớn đến hoạt
động của ngân hàng thì cần có chế độ tài phạt, thu hồi quyền thấu chi hoặc đóng
tài khoản nến cần thiết. Theo dõi tình hình thu chi trên tài khoản vãng lai được ghi
trên bảng kê cung cấp cho khách hàng cá nhân hàng tháng, cho doanh nghiệp hàng
tuần, hàng ngày nếu giao dịch nhiều dễ đối chiếu kiểm tra.
Khối lượng dịch vụ đối với tài khoản vãng lai nhiều phức tạp, vất vả nên có
mức thu phí định kỳ, từng lần. Cũng có nước miễn phí không trả lãi hoặc miễn phí
có trả lãi nhằm mục đích thu hút khách hàng vào gửi tiền.

Như vậy việc mở và sử dụng tài khỏan này lai mang nhiều thuận tiện cho khách
hàng nhưng Việt nam lại chưa áp dụng. Đây là vấn đề đáng các nhà NHTM Việt
Nam lưu tâm xem xét, nghiên cứu sớm đưa loại tài khoản này vào ứng dụng tại
ngân hàng mình.
2.5.Tài khoản tiền vay
Tài khoản tiền vay là tài khoản phản ánh toàn bộ số tài sản của ngân hàng
cho các tổ chức kinh tế, cá nhân vay. Số tài sản này chiếm tỷ trọng cao trong tổng
tài sản có của ngân hàng nên bộ phận tài khoản này có vị trí quan trọng trong bảng
cân đối kế toán của ngân hàng.
• Số tiền vay trên tài khoản là một số tiền mà ngân hàng cho khách hàng vay để
họ thanh toán lại bằng cách trả dần, có thể hàng tháng hàng nửa năm hoặc chỉ một
23
lần quyết toán, điều này được ghi rõ trong thông báo tín dụng mà ngân hàng gửi
cho khách hàng.
• Người đi vay phải là người có tài khoản tại ngân hàng, nếu như vậy mới có thể
quản lý được việc thanh toán nợ và điều hành được việc tái xét cho vay.
• Tài khoản tiền vay có 3 loại chính: Ngắn hạn , trung hạn và dài hạn :
+Cho vay ngắn hạn thường chỉ kéo dài tối đa là một tháng và có xu hướng dành
cho khách hàng là người tiêu dùng. Tóm lại, lượng tiền cho vay sẽ được tính sao
cho thu nhập cá nhân hàng năm của người vay tiền có đủ khả năng thanh toán nợ.
+ Cho vay trung hạn thường có qui mô hơn, nhằm phục vụ cho các mục đích công
nghiệp đơn cử như tạo điều kiện cho các nhà doanh nghiệp mua máy móc, nhà
xưởng. Theo đó ngân hàng thường yêu cầu khách hàng đảm bảo thanh toán bằng
cách thế chấp tài sản.
+ Cho vay dài hạn: theo nghiệp vụ ngân hàng, hầu hết các khoản tiền ứng trước
dài hạn trên 3 năm sẽ được đảm bảo thanh toán, và được trù tính theo các nguồn
thu ổn định thường xuyên được gửi vào tài khoản của khách hàng.
3.Các vấn đề chung về thủ tục mở và sử dụng tài khoản tiền gửi của khách hàng
tại ngân hàng.
3.1.Thủ tục mở và sử dụng tài khoản tiền gửi.

Căn cứ vào quyết định số 22/QĐ/NH1 của Thống đốc ngân hàng nhà nước
ngày 21/02/1994 qui định về mở sử dụng tài khoản tiền gửi tại ngân hàng như sau:
24
Để mở tài khoản tiền gửi các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức đoàn thể, đơn vị
vũ trang, công nhân Việt nam và người nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt
Nam (gọi tắt là khách hàng) gửi cho ngân hàng nơi mở tài khoản những giấy tờ
sau:
*Đối với khách hàng là doanh nghiệp cơ quan, tổ chức đoàn thể, đơn vị vũ
trang có:
_Giấy đăng ký mở tài khoản do chủ tài khoản (chủ tài khoản là chủ giám đốc,
Giám đốc, chủ doanh nghiệp, thủ trưởng đơn vị) ký tên và đóng dấu trong đó ghi rõ
:
+Tên đơn vị (doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, đoàn thể, đơn vị vũ trang)
+Họ tên chủ tài khoản
+Địa chỉ giao dịch của đơn vị
+ Ngày tháng cấp chứng minh thư nhân dân của chủ tài khoản .
+Tên ngân hàng mở tài khoản
-Bản đăng ký mẫu chữ ký và mẫu giao dịch với ngân hàng nơi mở tài khoản gồm:
+ Chữ ký mẫu của chủ tài khoản và người được uỷ quyền thay chủ tài khoản
trên các chứng từ thanh toán giao dịch với ngân hàng.(Chữ ký 1)
+ Chữ ký mẫu của kế toán trưởng và người được uỷ quyền thay kế toán
trưởng(Chữ ký 2)
+Một dấu đơn vị
25

×