Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Luận văn thạc sỹ đặc điểm thơ văn nôm của phạm thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (817.52 KB, 100 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN

NGUYỄN THỊ DIỄM

ĐẶC ĐIỂM THƠ VĂN NÔM CỦA PHẠM THÁI

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8220121

Ngƣời hƣớng dẫn: TS. TRẦN THỊ TÚ NHI


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan cơng trình luận văn này là của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả được trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
cơng bố trong bất kì cơng trình nào khác.
Tác giả luận văn


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 9
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 9
5. Cấu trúc luận văn ..................................................................................... 10
Chƣơng 1. NHỮNG CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG ....................................... 11
1.1. Thơ văn Nôm thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX ..................................... 11
1.1.1. Quá trình phát triển ........................................................................ 11


1.1.2. Đặc điểm nội dung tư tưởng........................................................... 15
1.1.3. Đặc điểm thể loại văn học .............................................................. 19
1.2. Con người và sự nghiệp thơ văn Phạm Thái ........................................ 22
1.2.1. Con người ....................................................................................... 22
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác.......................................................................... 25
Tiểu kết Chương 1 ....................................................................................... 27
Chƣơng 2. CÁC KHUYNH HƢỚNG CẢM HỨNG VÀ CON NGƢỜI CÁ
NHÂN TRONG THƠ VĂN NÔM PHẠM THÁI ...................................... 29
2.1. Các khuynh hướng cảm hứng ............................................................... 29
2.1.1. Cảm hứng thế sự............................................................................. 29
2.1.2. Cảm hứng nhân văn........................................................................ 37
2.1.3. Cảm hứng tôn giáo ......................................................................... 42
2.1.4. Cảm hứng thiên nhiên, danh lam, thắng tích .................................. 48
2.2. Con người cá nhân................................................................................ 54
2.2.1. Con người cá nhân đa tài, đa tình ................................................... 54


2.2.2. Con người cá nhân ngông ngênh, kiêu bạc .................................... 57
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 62
Chƣơng 3. NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN TRONG THƠ VĂN NÔM
PHẠM THÁI ................................................................................................. 64
3.1. Sự đa dạng trong hệ thống thể loại ....................................................... 64
3.1.1. Sử dụng điêu luyện hệ thống thể loại vay mượn ............................ 64
3.1.2. Sử dụng sáng tạo hệ thống thể loại nội sinh ................................... 68
3.2. Ngôn ngữ nghệ thuật ............................................................................ 74
3.2.1. Hệ thống ngôn ngữ gốc Hán .......................................................... 74
3.2.2. Ngôn ngữ dân dã, bình dị ............................................................... 78
3.3. Giọng điệu thơ văn ............................................................................... 84
3.3.1. Giọng điệu ngông nghênh, kiêu bạc ............................................... 85
3.3.2. Giọng điệu trữ tình, tha thiết .......................................................... 88

Tiểu kết Chương 3 ....................................................................................... 90
KẾT LUẬN ................................................................................................... 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 93
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN (BẢN SAO)


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong bối cảnh khốc liệt của xã hội Việt Nam những năm cuối thế kỷ
XVIII – đầu thế kỷ XIX, Phạm Thái xuất hiện trên văn đàn như một ánh sáng
lạ. Lạ từ văn chương cho đến lối sống. Trong phận vị một kẻ sĩ, giữa biến cố
Tây Sơn kéo quân ra Bắc, phế truất chúa Trịnh rồi vua Lê, Phạm Thái theo lý
tưởng của cha chống lại Tây Sơn. Lựa chọn này đưa ông vào hàng ngũ “trung
thần bất sự nhị quân”, một lý tưởng có phần cố chấp nhưng được nhiều nhà
Nho bảo thủ đề cao. Thế nhưng, trong nhiều tác phẩm văn chương, Phạm
Thái lại tỏ ra là con người đầy phá cách, tiêu biểu là thơ văn khóc Trương
Quỳnh Như, thơ tự trào, tự thuật…
Theo khảo sát, số lượng tác phẩm của Phạm Thái không nhiều. Trải qua
bao biến cố lịch sử những tác phẩm còn lại đến nay khá khiêm tốn. Theo công
bố của Sở Cuồng Lê Dư, Phạm Thái chỉ có 56 tác phẩm, mà dài hơi nhất là Sơ
kính tân trang. Phạm Thái khơng thể sánh với Nguyễn Du về tầm mức, không
thể sánh với Hồ Xuân Hương về tính đặc dị của đề tài, ơng cũng khơng thể
sánh với Phạm Đình Hổ với số lượng tác phẩm khảo cứu thấm đẫm tinh thần
khảo chứng. Nhưng Phạm Thái vẫn có một chỗ đứng riêng trên văn đàn. Ở
bất kì thể loại nào, Phạm Thái cũng có những tác phẩm thành công về mặt nội
dung cũng như nghệ thuật. Về nội dung, tác phẩm của ông là tiếng nói tiến
bộ, rất riêng, thể hiện cái tơi cá tính, một nhân cách nhất quán trong cách hành
xử. Về mặt nghệ thuật, Phạm Thái là một trong những nhà thơ có khả năng

Việt hóa cao độ các loại hình thi ca gốc Hán. Ơng là người đã có cơng đưa
khả năng tự sự vào thơ Nôm Đường luật, là người biết kết hợp đa thể loại
trong truyện thơ Nôm.
Trải qua thời gian, hậu thế cần phải có một sự nhìn nhận đúng đắn về


2
Phạm Thái cùng những thành tựu mà ơng đóng góp cho nền văn học dân tộc.
Đặc biệt ở bộ phận sáng tác chữ Nôm, Phạm Thái đã thể hiện được tài năng và
nhân cách độc đáo của mình nhưng vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu đầy đủ.
Với mong muốn góp vào q trình nghiên cứu về Phạm Thái, chúng tôi chọn đề
tài “Đặc điểm thơ văn Nôm của Phạm Thái” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn
thạc sĩ của mình. Qua cơng trình, chúng tơi mong muốn sẽ đưa ra sự đánh giá
đầy đủ, chân thực về bộ phận sáng tác thơ văn Nôm của Phạm Thái.
2. Lịch sử vấn đề
Trong nền văn học Việt Nam nói chung và văn học trung đại Việt Nam
nói riêng, thơ văn của Phạm Thái có giá trị lớn trên nhiều phương diện. Rất
nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến Phạm Thái ở khía cạnh con người, thời
đại, cá tính sáng tạo, cuộc bút chiến văn chương với Nguyễn Huy Lượng, mối
tình thâm sâu với Trương Quỳnh Như và các tác phẩm thơ văn của Phạm Thái
chủ yếu là Chiến tụng Tây Hồ phú, Văn tế Trương Quỳnh Như và Sơ kính tân
trang… Vẫn chưa có cơng trình nào tập hợp nghiên cứu đầy đủ về tồn bộ di
sản thơ văn Nơm của Phạm Thái. Với phạm vi tư liệu hiện có, chúng tơi có
thể phân chia các vấn đề nghiên cứu về Phạm Thái và thơ văn Nôm của ông
như sau:
2.1. Nghiên cứu về con người, cuộc đời và nhận định chung về thơ văn
Phạm Thái
Khởi đầu là Sở Cuồng Lê Dư với cơng trình Phổ chiêu Thiền sư thi tập
(1932), đã tập hợp những sáng tác của Phạm Thái gồm 56 tác phẩm cùng với
bài tựa giới thiệu khái quát về tác giả, nội dung thơ văn của ông: “Phạm Thái

là một nhà thơ nổi tiếng trong giai đoạn cuối thể kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX.
Ông chiếm một vị trí độc đáo trong lịch sử văn học bởi lẽ các tác phẩm của
ơng cịn lại đều là thơ Nơm, mà phần lớn đều đạt đến ngưỡng “thi trung hữu
tình” [7;152].


3
Tiếp nối sau đó, Dương Quảng Hàm trong hai bộ văn học sử Việt Nam
thi văn hợp tuyển (1943) và Việt Nam văn học sử yếu (1944) đã tuyển chọn
một số tác phẩm của Phạm Thái và đưa ra đánh giá bước đầu về tài năng văn
chương của ông.
Lịch sử văn học Việt Nam (1962) của Lê Trí Viễn, Văn học Việt Nam từ
thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX của Nguyễn Lộc đều nhắc đến Phạm Thái
và sáng tác văn chương của ông. Nguyễn Lộc khẳng định văn tài của Phạm
Thái ở thể loại truyện thơ Nôm và nhận định khuynh hướng cảm hứng chính
trong thơ ca Phạm Thái: “Có thể nói mối tình thắm thiết giữa hai người là
nguồn cảm hứng chính cho phần lớn thơ văn Phạm Thái. Về sau tình u
khơng thành, Quỳnh Như bị ép lấy người khác, nàng không chịu đã tự vẫn.
Cái chết của Quỳnh Như khắc sâu thêm những đau khổ làm nát lịng Phạm
Thái” [43;233]
Hồng Hữu n khi hiệu đính, chú giải tác phẩm Sơ kính tân trang của
Phạm Thái và ra mắt năm 2002 đã có bài giới thiệu công phu về cuộc đời, sự
nghiệp của Phạm Thái, đánh giá nội dung và nghệ thuật thơ văn của ơng.
Hồng Hữu n cho rằng: “Khơng cịn là chuyện ngẫu nhiên, những thành tự
mà Phạm Thái gặt hái được là những bông hoa đẹp trong vườn hoa văn học
cổ điển đang nở rộ dưới ánh nắng trời xuân của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa,
của chủ nghĩa nhân văn Việt Nam đương thời” [46;11].
Nguyễn Văn Xung trong cơng trình “Phạm Thái và Sơ kính tân trang”
xuất bản năm 1973 tại ấn qn Phong Phú, Sài Gịn, đã có một bài giới thiệu
khái quát về Phạm Thái trong phần mở đầu cơng trình. Nguyễn Văn Xung đã

tìm hiểu bối cảnh thời đại, thân thế và tác phẩm. Về đặc điểm văn chương,
Phạm Thái được tác giả nhìn nhận như một đấng anh hùng say mê giấc mộng,
say mê tình ái, say mê giang hồ, một tráng sĩ khoác áo thiền sư. Qua cơng
trình, Nguyễn Văn Xung đã có những nhận định, đánh giá về địa vị của Phạm


4
Thái trong nền văn học cuối Lê đầu Nguyễn: “Phạm Thái là tác giả tên tuổi
của một thời kỳ văn học quan trọng. Khác hơn vai trò nhân tố mang chở thụ
động của nhân vật chinh phu ra đời nửa thế kỷ trước, ông đã là một chứng
nhân sống động và có ý thức của một trào lưu văn học mới mẻ, phản ánh
những xao xuyến xã hội và tự vấn về những giá trị cổ truyền. Ông vừa làm
chứng cho lịch sử vừa làm lịch sử: trên cương vị nhà văn, ông ghi chép những
diễn biến của tâm tư con người thời đại; và trên cương vị làm người, ông đã
tích cực tham dự vào những hoạt động của thế hệ ông. Phạm Thái vừa là một
giá trị văn học vừa là một giá trị nhân văn lớn” [40;50]
Nguyễn Phạm Hùng trong cơng trình Văn học Việt Nam (Từ thế kỷ X
đến thế kỷ XX) đã nhắc đến Phạm Thái ở giai đoạn “Văn học thời Lê Trung
Hưng – Nguyễn (Thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX)”. Ở phần viết về truyện
Nôm và phú Nôm, tác giả đã nói qua về tiểu sử Phạm Thái, tư tưởng chính trị
và tư tưởng thơ văn của ông: “Những câu thơ tình của Phạm Thái thực sự có
thể coi là những câu thơ mới trước khi có phong trào thơ Mới hơn một thế
kỷ” [20;145]
Năm 2019, Trần Trọng Dương kế thừa kết quả nghiên cứu của Sở
Cuồng Lê Dư để tổng hợp thành cuốn “Phạm Thái tồn tập”. Ở cơng trình
này, Trần Trọng Dương đã giới thiệu lại toàn bộ sáng tác của Phạm Thái do
Sở Cuồng Lê Dư sưu tập được và tập hợp những bài viết về Phạm Thái đã
được công bố của tác giả và một số nhà nghiên cứu trong nước. Cơng trình
được chia thành 2 phần: phần 1: Khảo cứu; phần 2: Tác phẩm. Trần Trọng
Dương đã phác họa về cuộc đời, con người, quá trình sáng tác của Phạm Thái

và bước đầu đánh giá về giá trị văn chương của ông. Giá trị lớn nhất của cơng
trình này đó là cơng lao tập hợp tư liệu của tác giả để cho người đọc có được
cái nhìn khái quát về con người, sự nghiệp của Phạm Thái.
Ngồi ra, một số cơng trình bên cạnh việc giới thiệu tiểu sử, trích dẫn


5
một vài tác phẩm thơ văn Phạm Thái còn đưa ra nhận xét về nội dung, nghệ
thuật như Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (tập 2, tái bản 1997). Phạm
Thế Ngũ xếp Phạm Thái vào hàng ngũ những văn gia Bắc hà có thái độ phản
đối Tây Sơn. Trong cơng trình, Phạm Thế Ngũ phác thảo sơ lược tiểu sử
Phạm Thái, khảo sát nội dung một số tác phẩm như Chiến tụng Tây Hồ, Văn
tế Trương Quỳnh Như, các bài thơ tỏ tình thương nhớ người yêu, truyện Nơm
Sơ kính tân trang, những bài thơ ngẫu cảm… Phạm Thế Ngũ nhận định:
“Phạm Thái ở địa hạt hành động khơng nên trị trống gì nhưng dưới con mắt
nhà văn học, hình ảnh của ơng thật quyến rũ. Người trai thời loạn ấy đã đeo
gươm tráng sĩ, đã khoác áo thiền sư, lại đóng vai tình lang nồng nhiệt, để rồi
đương tuổi thanh xuân, đeo nặng cuộc đời như một cùm xích, con người ấy
quả đã hội hợp được tất cả những gì gọi là lãng mạn trong quan niệm của
chúng ta nay” [32;316]
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đã tìm hiểu tương đối kỹ càng về tiểu
sử Phạm Thái và bước đầu nêu những nhận định mang tính định hướng về đặc
điểm thơ văn Phạm Thái. Hầu hết các nhà nghiên cứu đều đánh giá rất cao
khả năng văn chương của Phạm Thái và nhìn nhận ơng như một nhà Nho có
cá tính sáng tạo rất riêng.
2.2. Nghiên cứu về Sơ kính tân trang
Sơ kính tân trang của Phạm Thái ra đời những năm cuối của thế kỷ
XVIII, đầu thế kỷ XIX. Là tác phẩm khá đặc biệt, thiên truyện thơ Nôm này
đã được một số nhà nghiên cứu trong giới học thuật và độc giả yêu văn thơ
chọn làm đối tượng khảo cứu. Đáng chú ý là một số bộ văn học sử, giáo trình

lịch sử văn học ở các trường đại học, chuyên khảo, tiểu luận nghiên cứu, đánh
giá về Sơ kính tân trang của Triêu Dương, Nguyễn Nghiệp, Trần Nghĩa, Tế
Hanh, Trần Nho Thìn, Lại Nguyên Ân, Phạm Thế Ngũ, Vũ Tiến Quỳnh, Đặng
Thanh Lê, Nguyễn Lộc, Nguyễn Thị Nhàn, Nguyễn Phạm Hùng, Trần Đình


6
Sử, Phạm Nam Trung, Đặng Thị Hảo...
Phạm Thái sống vào giai đoạn cuối của nền văn học trung đại nên ông
cũng sớm tiếp thu được sự chuyển biến này. Tác phẩm của ơng ở bất kỳ thể
loại nào ít nhiều đều lấy cảm hứng từ câu chuyện tình của chính mình. Do đó,
đọc truyện thơ Nơm Sơ kính tân trang của Phạm Thái, các nhà nghiên cứu
văn học luôn thống nhất đây “là một thiên tự truyện” [25;134]. Thanh Lãng
khẳng định với Sơ kính tân trang, “Phạm Thái đã đem hết tâm tư thầm kín
của ơng ra mà bộc lộ ở đấy: nó là một cuốn truyện tự thuật truyện đời ông và
đời của người yêu ông” [23;570]. Nguyễn Lộc cho rằng tác phẩm đã “cố gắng
diễn tả lại câu chuyện tình của chính bản thân tác giả” [25;311] để giãi bầy
nỗi vui, buồn, được, mất, bi phẫn và giấc mộng đẹp của bản thân.
Hồng Hữu n, người dày cơng nghiên cứu, hiệu đính, chú giải Sơ
kính tân trang cũng khẳng định: “Tính độc đáo trước tiên của Sơ kính tân
trang cần được nhấn mạnh là tính tự truyện của tác giả. Phạm Thái không vay
mượn cốt truyện ở đâu cả. Ơng viết lại chuyện của chính bản thân mình”
[46;161]. Đồng tình với quan điểm trên, Kiều Thu Hoạch nhận ra tính tự thuật
rất rõ trong Sơ kính tân trang. Ông khẳng định“Sơ kính tân trang là một
trường hợp khá thú vị. Đây là một tác phẩm có tính chất tự truyện của Phạm
Thái, nhằm ghi lại mối tình bi thảm giữa nhà thơ tài hoa này với Trương
Quỳnh Như. Những nhân vật chính trong tác phẩm như Phạm Kim, Trương
Quỳnh Thư… chỉ là bản sao chép từ những nguyên mẫu có thật trong hiện
thực là Phạm Thái và Trương Quỳnh Như” [18;170].
Viết Sơ kính tân trang dù với mục đích “nhằm thuật lại mối tình lỡ dở

với Trương Quỳnh Như nhưng đồng thời tự an ủi mình bằng một giấc mơ”
[2;18] hay “khơng nhằm mục đích dãi bầy bi kịch của đời mình bằng việc tái
sinh lại đoạn đời buồn đau đó qua những trang viết” [1;82] thì cũng khơng thể
phủ nhận tính tự thuật của tác phẩm. Rõ ràng, đây là việc “sử dụng đời tư của


7
bản thân như chất liệu để nhận thức, khám phá toàn bộ sự đa dạng và phức tạp
trong hoạt động tâm lý và tình cảm của mỗi cá nhân con người [17;330] như
nhận xét của nhóm tác giả Từ điển thuật ngữ văn học. Vì thế, tính chất tự
thuật của Sơ kính tân trang đã đánh dấu bước đột phá trong phong cách khai
thác đề tài của văn học trung đại Việt Nam.
Nguyễn Huệ Chi đã đánh giá đây là hiện tượng chưa từng có trong văn
học trung đại: Phạm Thái “là người duy nhất trong các nhà văn cổ điển xây
dựng truyện thơ bằng chất liệu đời sống dân tộc, và bằng chính câu chuyện
thầm kín của riêng mình” [31;1369]. Cùng từ góc nhìn này, nhà nghiên cứu
Lại Ngọc Cang đánh giá rất cao việc làm của Phạm Thái khi đem đến cho văn
chương cổ điển có thêm một tiếng nói rất táo bạo về tình u: “lần đầu tiên
trong lịch sử văn học Việt Nam, có nhà văn đã cơng khai thuật lại mối tình
ngồi vịng lễ giáo của chính mình” [2;18].
Nghiên cứu Sơ kính tân trang, tác phẩm tiêu biểu nhất trong sự nghiệp
sáng tác của Phạm Thái khơng phải lúc nào cũng có những nhận định thống
nhất, thậm chí trái ngược nhau. Áp chiếu lập trường, tư tưởng của Phạm Thái
vào nội dung nghệ thuật Sơ kính tân trang, Nguyễn Nghiệp chỉ thấy những
điểm yếu và đánh giá rất thấp tác phẩm: “Xét về toàn bộ tác phẩm mà nói, thử
hỏi tác dụng giáo dục Sơ kính tân trang đối với thế hệ chúng ta phỏng được
bao nhiêu. Một con người với tư tưởng căn bản là phản động và tiêu cực như
Phạm Thái làm sao có thể tạo ra những giá trị nhân đạo cao cả, có tác dụng
cho thế hệ được” [2;57]. Ý kiến của Nguyễn Nghiệp không nhận được sự
đồng thuận của khá nhiều nhà nghiên cứu, vẫn biết Sơ kính tân trang còn

những hạn chế, song các nhà nghiên cứu đều nhận thấy vẫn có những nét khả
thủ nhất là những dấu ấn mà tác giả đã để lại trong tiến trình phát triển truyện
thơ Nôm.
Không chỉ là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của tác giả, Hoàng Hữu


8
n cịn cho rằng “có thể coi đó là một hiện tượng văn học hiếm có trong thể
loại truyện thơ, một thể loại lớn, phong phú, đa dạng về nội dung và nghệ
thuật của nền văn học cổ điển rực rỡ” [46;18]. Xuất phát từ những lý do đó,
trong bài giới thiệu Sơ kính tân trang, Hồng Hữu n đã nhìn nhận tác phẩm
là “bản tình ca độc đáo” [46;16].
Lại Ngọc Cang cũng đánh giá cao vị trí của Sơ kính tân trang. Ơng
viết: “Tơi nghĩ rằng bên cạnh những lệch lạc mà ta vẫn cần phải vạch rõ ra,
Sơ kính tân trang vẫn xứng đáng có một vị trí đặc biệt trong văn học nước
nhà”. Sau này, Lại Ngọc Cang cũng có những đánh giá tương tự: “Với Sơ
kính tân trang, văn chương cổ điển có thêm một tiếng nói rất táo bạo về tình
u. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam, có nhà văn đã cơng khai
thuật lại mối tình “ngồi vịng lễ giáo” của chính mình... Ở Sơ kính tân trang,
khơng phải chỉ có những cuộc tình duyên của những người “ngọc diệp, kim
chi”, “hào hoa, trâm hốt”. Xếp hàng đôi sau Quỳnh Thư, Phạm Kim, Thụy
Châu cịn có những cặp vợ chồng Hồng - Yến, Oanh - Nhạn” [2;18-24]. Từ
đó, Lại Ngọc Cang nhận định: “Ý định của Phạm Thái đã rõ rệt. Trước sau,
Sơ kính tân trang chỉ là một câu chuyện tình bắt nguồn từ thực tế và đó là một
mối tình tự do, trong trắng, chung thủy, vượt ra ngồi vịng thao túng của lễ
giáo phong kiến. Sơ kính tân trang, vì vậy có thể coi là tác phẩm lãng mạn
đầu tiên của văn học Việt Nam. Nó là kết quả của quá trình đấu tranh của văn
chương cổ điển chống sự đè nén của lễ giáo phong kiến và có thể xem như
dấu hiệu báo trước sự xuất hiện một sớm một chiều của Đoạn trường tân
thanh. Vị trí đặc biệt của nó trong lịch sử văn học nước ta là ở chỗ đó” [2;27].

Như vậy, Phạm Thái là một nhân vật văn hóa đã được giới nghiên cứu
quan tâm tìm hiểu từ rất sớm. Việc nghiên cứu về ông qua bao thời gian đã
làm sáng rõ phần lớn những chi tiết về cuộc đời, con người và sưu tập phần
lớn thơ văn của ơng hiện cịn vào một tập, dày dặn để phổ biến cho đời. Tập


9
trung nghiên cứu về Phạm Thái nhiều nhất là ở truyện Nơm Sơ kính tân trang,
tác phẩm là thành tựu lớn nhất trong sự nghiệp văn chương của ông và cũng
thu hút được sự quan tâm của đông đảo độc giả. Tuy nhiên, việc tập hợp để
đưa ra kết luận nghiên cứu về đặc điểm thơ văn Nôm của Phạm Thái cũng vẫn
cịn là vấn để bỏ ngõ. Chính vì vậy, chúng tôi đã lựa chọn để đi sâu vào
nghiên cứu mảng thơ văn này Phạm Thái để thấy hết được con người, tình
cảm và quan niệm nghệ thuật của ông.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng mà chúng tôi quan tâm ở đây là thơ văn Nôm của Phạm Thái
giai đoạn cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX.
Văn bản khảo sát “Phạm Thái toàn tập”, Nhà xuất bản Văn học, Sở
Cuồng Lê Dư phiên chú, Trần Trọng Dương khảo cứu, hiệu chú. Đây được
xem là cuốn sách tập hợp đầy đủ các bài thơ của Phạm Thái nhất hiện nay
được thực hiện bởi những nhà nghiên cứu đáng tin cậy. Những trích dẫn về
thơ Phạm Thái cả phần phiên âm, dịch nghĩa và dịch thơ trong luận văn này
đều được dẫn từ cơng trình này. Người viết thừa hưởng thành quả của những
người đi trước và khơng sáng tạo gì thêm về phiên âm dịch nghĩa của văn bản.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu và kế thừa những cơng trình nghiên cứu trước
đây, chúng tơi muốn tổng kết các đặc điểm cơ bản trong sáng tác chữ Nôm
của Phạm Thái. Bên cạnh đó, luận văn góp phần hiểu thêm về tâm hồn, tư
tưởng tình cảm và những đóng góp đặc sắc trong sáng tạo nội dung và nghệ

thuật của Phạm Thái trong thơ văn Nôm.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu văn học sử


10
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp so sánh đối chiếu
- Phương pháp hệ thống
Cùng với những phương pháp trên khóa luận kết hợp các thao tác phân
tích, đánh giá, miêu tả… để hoàn thiện tốt hơn đề tài.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Thư mục tài liện tham khảo và Phụ lục,
Luận văn kết cấu theo 3 chương:
Chương 1: Những cơ sở lí luận chung.
Chương 2: Các khuynh hướng cảm hứng và con người cá nhân trong
thơ văn Nôm Phạm Thái.
Chương 3: Nghệ thuật biểu hiện trong thơ văn Nôm Phạm Thái


11

Chƣơng 1
NHỮNG CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG
1.1. Thơ văn Nơm thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX
1.1.1. Quá trình phát triển
Một trong những đặc trưng cơ bản của văn học thời trung đại là tính
song ngữ. Điều này khơng chỉ đúng với văn học trung đại Việt Nam mà còn
đúng với văn học của nhiều nước trên thế giới. Tính song ngữ làm cho văn

học trung đại trở nên phong phú, đa dạng, giàu có hơn nhưng đồng thời cũng
nảy sinh hiện tượng bất bình đẳng giữa hai bộ phận văn học. Đối với văn học
Việt Nam, hiện tượng bất bình đẳng này thể hiện rõ ở thái độ xem trọng văn
chương viết bằng chữ Hán còn xem thường văn chương viết bằng chữ Nôm.
Truyện Kiều xứng tầm kiệt tác là thế, nhưng do áp lực của cả một thời đại
“bất bình đẳng” đối với tình trạng song ngữ trong một nền văn học, khi kết
thúc nó, Nguyễn Du đành phải viết “Lời quê chắp nhặt dông dài/ Mua vui
cũng được một vài trống canh” còn Cao Bá Quát thì lâm vào băn khoăn, khó
xử, khi nhận thấy Hoa Tiên và Kim Vân Kiều là những áng văn hay chưa
từng có nhưng lại chưa dám lấy quốc ngữ làm văn chương… Tuy nhiên cả
Nguyễn Du và Cao Bá Quát cũng như các tác gia khác, đặc biệt là các tác gia
tiêu biểu như Nguyễn Trung Ngạn, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tơng, Nguyễn
Bỉnh Khiêm trước đó, Nguyễn Văn Siêu, Phan Huy Chú, Hồ Xuân Hương,
Nguyễn Công Trứ cùng thời, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Dương
Kh, Tú Xương về sau… khơng hề coi thường việc sáng tác bằng chữ Nôm
(tiếng Việt).
Văn học chữ Nôm ra đời cùng với ý thức tự lập tự cường của dân tộc
Việt. Trải qua một quá trình phát triển lâu dài, văn học Nơm đã định hình và
phát triển lớn mạnh song song cùng văn học chữ Hán. Từ những tác phẩm văn


12
học bằng chữ Nôm đầu tiên của những tên tuổi như Nguyễn Thuyên, Trần
Nhân Tông đến những đại diện tiêu biểu cuối cùng như Nguyễn Khuyến, Tú
Xương… văn học Nôm đã đi được một chặng đường khá dài để trở nên tồn
bích. Kho tàng thư tịch về chữ Nơm và văn học chữ Nôm, hiện được lưu giữ
tương đối đầy đủ nhất và phong phú nhất ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm thuộc
Viện Khoa học xã hội Việt Nam, với số lượng tác phẩm khoảng 1500 tên sách
(trong đó sách viết tồn chữ Nơm khoảng 500 tác phẩm, sách chữ Hán diễn
Nôm khoảng 200 tác phẩm, sách chữ Hán lẫn Nơm khoảng 800 tác phẩm), đó

là chưa kể tới hàng vạn thác bản văn bia có chữ Nơm (trong đó văn bia tồn
khắc chữ Nơm khoảng gần 200 đơn vị).
Ở giai đoạn đầu tiên của văn học viết Việt Nam, từ thế kỷ X – XIV, đây
là giai đoạn đi lên của giai cấp phong kiến, có vai trị tích cực đối với sự phát
triển của dân tộc. Với ý thức làm chủ quốc gia trong sự phân biệt với phong
kiến phương Bắc, giai cấp phong kiến mang tinh thần dân tộc, đại diện cho
dân tộc trên mọi phương diện. Ở bình diện văn hóa, giai cấp phong kiến nhà
Lý – Trần đã xây dựng cơ sở cho việc hình thành ngôn ngữ của dân tộc. Chữ
Nôm ra đời và bắt đầu có những sáng tác văn học. Những tác phẩm văn học
Nơm đầu tiên đến nay vẫn cịn là Cư trần lạc đạo phú, Đắc thú lâm tuyền
thành đạo ca của Trần Nhân Tơng. Ngồi ra, các bộ sử lớn của Việt Nam,
như Đại Việt sử ký tiền biên (q.5, t.37) và Khâm định Việt sử thông giám
cương mục (q.7, t.26) đều ghi: “Mùa thu tháng 8 năm Nhâm Ngọ niên hiệu
Thiên Bảo thứ 4 (1282), có cá sấu đến sơng Lơ, Vua sai quan Thượng thư Bộ
Hình là Nguyễn Thuyên làm bài văn ném xuống sông, cá sấu tự bỏ đi. Vua
cho việc ấy giống việc làm Hàn Dũ (đời nhà Đường) nên ban cho ông họ Hàn.
Thuyên giỏi thơ phú quốc ngữ, nhiều người bắt chước làm. Nay gọi thơ quốc
âm là Hàn luật bắt đầu từ đây”. Rất tiếc bài văn của Nguyễn (Hàn) Thuyên đã
bị thất truyền, cịn tập thơ của ơng là Phi sa tập cũng đã thất truyền, nhưng


13
theo Phan Huy Chú ghi trong Lịch triều hiến chương loại chí (phần Văn tịch
chí) thì “Tập này có nhiều thơ quốc âm”. Như vậy, theo các tư liệu lịch sử thì
Nguyễn (Hàn) Thuyên là người giỏi về văn và thơ Nôm, rất tiếc các tác phẩm
của ông hiện không còn. Căn cứ vào ghi chép của Phan Huy Chú trong Lịch
triều hiến chương loại chí thì Chu Văn An (?-1370) có Tiều ẩn quốc ngữ thi
tập (đã bị thất truyền), sau này các nhà nghiên cứu cho rằng có thể trong tập
thơ này có thơ chữ Nơm. Theo Khâm định Việt sử thơng giám cương mục
(Chính biên, q.7, t.44) thì Nguyễn Sĩ Cố (thế kỷ XIV) cũng giỏi làm văn thơ

quốc âm, để cho mọi người theo và cũng theo Khâm định Việt sử thơng giám
cương mục (Chính biên, q.11, t.3 và t.22) có chép việc Hồ Q Ly (cuối thế kỷ
XIV - đầu thế kỷ XV) có làm thơ quốc âm để tặng vua Trần Nghệ Tông và
dịch thiên Vô dật trong Kinh Thư ra quốc ngữ để dạy cho các quan gia (nhưng
đều thất truyền). Theo Nguyễn Đổng Chi trong Việt Nam cổ văn học sử thì Hồ
Tơng Thốc (thế kỷ XIV) có soạn cuốn Phú học chỉ nam và Nguyễn Phi
Khanh (1355-1428) cùng nhiều nho sĩ có làm bài phú Con ngựa lá.
Đến thế kỷ XV, sau khi đánh đuổi được giặc Minh, giai cấp phong kiến
tiến đến mức phát triển cực thịnh. Cuộc kháng chiến giành được thắng lợi là
vì dựa vào lực lượng nhân dân. Trong khí thế thắng lợi vang dội của tinh thần,
ý thức dân tộc, giai đoạn này chứng kiến sự phát triển lớn mạnh của văn học
chữ Hán lẫn chữ Nơm. Nguyễn Trãi đã có cơng lao to lớn trong việc đưa thơ
văn Nôm phát triển mạnh mẽ với tập thơ Quốc âm thi tập bao gồm 254 bài
thơ mang âm điệu, hồn cốt dân tộc. Bên cạnh đó, những tác gia trong hồng
tộc giai đoạn này cũng có vai trị rất lớn để đưa văn học Nơm lớn mạnh, đại
diện tiêu biểu nhất là Lê Thánh Tông. Với tác phẩm Hồng Đức quốc âm thi
tập, Lê Thánh Tông và 28 vì tinh tú trong Tao đàn đã đem đến cho đời những
tác phẩm thơ Nôm mang hơi thở của cc sống, tâm tình của người dân đất
Việt. Ngồi ra cịn có các tác phẩm Thập giới cơ hồn quốc ngữ văn chép


14
trong Thiên Nam dư hạ tập tương truyền là của Lê Thánh Tông, Kim lăng
ký và Phan Trần tương truyền là của Đỗ Cận (thế kỷ XV), Hồng Châu quốc
ngữ thi tập của Lương Như Hộc (thế kỷ XV); rất tiếc, những tác phẩm này
hầu hết đã thất truyền.
Đến thế kỷ XVII, văn học Nôm tiếp tục chinh phục những đỉnh cao
mới. Sự phát triển của văn học chữ Nôm về mọi mặt đã phản ánh sự thắng lợi
vang dội của phong trào nhân dân chống phong kiến trên địa hạt văn chương.
Hàng loạt tác phẩm diễn ca lịch sử, ngâm khúc Nôm dài hơi được ra đời, cho

thấy sự phát triển lớn mạnh của ngôn ngữ thơ ca dân tộc: Thiên Nam minh
giám, Thiên Nam ngữ lục, Tứ thời khúc vịnh, Nghĩ hộ bát giáp thưởng đào
văn… Đặc biệt, sự xuất hiện của Nguyễn Bỉnh Khiêm với Bạch Vân quốc ngữ
thi đã khẳng định sự hiện diện vững chắc của thơ văn chữ Nôm bên cạnh thơ
văn chữ Hán.
Nhưng có lẽ văn học chữ Nơm thực sự tạo nên những giá trị đặc biệt là
ở giai đoạn từ thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX. Ở giai đoạn này, những
mâu thuẫn của chế độ phong kiến đã lên đến đỉnh điểm. Những cuộc tranh
quyền đoạt lợi giữa giai cấp phong kiến diễn ra thường xuyên, nhân dân
không chịu nổi áp bức đã vùng lên quyết liệt chống trả. Những thắng lợi của
quần chúng nhân dân trên mặt trận vũ trang đã lật đổ toàn diện các tập đoàn
phong kiến Lê, Trịnh, Nguyễn. Những biến động lớn lao của lịch sử cùng với
sự khẳng định sức mạnh của quần chúng nhân dân đã ảnh hưởng lớn trên lĩnh
vực văn hóa, văn học. Chưa bao giờ ngơn ngữ dân tộc lại thăng hoa để hình
thành nên những kiệt tác có giá trị bất hủ như ở giai đoạn này. Hàng loạt tác
giả, tác phẩm thơ văn Nôm đặc sắc về nội dung, nổi bật về nghệ thuật đã hình
thành như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Phan Huy Ích,
Phạm Nguyễn Du, Nguyễn Cơng Trứ… Đến giai đoạn này, thơ văn Nơm đã
có bước phát triển ngoạn mục để vượt lên trên thơ văn chữ Hán về mọi


15
phương diện.
Thơ văn chữ Nơm vì sử dụng ngơn ngữ dân tộc nên có thể miêu tả một
cách linh hoạt và cụ thể hơn văn học chữ Hán. Những nét phong phú, mỹ lệ
của thiên nhiên, tính cách, tâm hồn, cuộc sống, suy nghĩ của con người Việt
được thơ văn Nôm chuyển tải sâu sắc và ý nhị hơn cả. Đặc biệt, trong một
giai đoạn mà ý thức, tinh thần của nhân dân lao động trỗi dậy một cách mạnh
mẽ như cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX thì ngơn ngữ, tiếng nói của quần
chúng nhân dân trở thành tiếng nói đại diện cho cả dân tộc. Điều này đã làm

cho văn học chữ Nơm có tính dân tộc đậm đà hơn văn học chữ Hán. Hơn nữa,
văn học chữ Nơm vì chưa bao giờ có một địa vị chính thức trong đời sống
chính trị và văn hóa nên chưa bao giờ được dùng để tạo nên những tác phẩm
mang tính điển chế nhà nước hay những tác phẩm sử học, triết học, chính
trị… Chính vì vậy tác phẩm Nơm tách rời tính học thuật. Văn học chữ Nôm
chủ yếu bao gồm những tác phẩm thuần túy văn học. Điều này lý giải vì sao
những tác phẩm văn học Nơm nói chung, văn học Nơm ở giai đoạn phát triển
rực rỡ của nó, cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX, nói riêng đã trở thành
những kiệt tác vượt thời gian, tồn tại và phát triển lớn mạnh cùng văn hóa
Việt trong suốt trường kỳ lịch sử.
1.1.2. Đặc điểm nội dung tư tưởng
Văn học chữ Nôm giai đoạn thế kỷ X – XIV phát triển với khuynh
hướng gắn bó giữa đạo và đời trong xu hướng phát triển mạnh mẽ của Phật
giáo. Hai tác phẩm chữ Nôm của Phật hồng Trần Nhân Tơng đều ca ngợi
Phật giáo Thiền tông. Bài Cư trần lạc đạo phú và bài Đắc thú lâm tuyền
thành đạo ca. Cả hai bài này đều do người đời sau cho vào tập Thiền tông bản
hạnh, khắc ván in lần đầu vào năm Cảnh Hưng 6 (1745). Đó là những bài ca
ngợi cảnh thiền và lịng thiền, trong đó con người an nhiên tự tại, sống giữa
đời trần mà cũng hòa vui trong đạo. Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca của Trần


16
Nhân Tông hướng đến ca ngợi con người trong niềm vui với đạo, đạo ở đây
phải được tu dưỡng, rèn luyện cùng núi cao sông rộng, nơi thâm sơn cùng cốc
để đạt đến cảnh giới cao nhất và có thể truyền bá được cho nhiều người. Cư
trần lạc đạo phú của Phật hoàng lại cổ vũ các cư sĩ vui với đạo tại gia, sống
giữa trần đời vẫn có thể đắc đạo. Những tác phẩm chữ Nôm khác của các tác
gia đời Trần Hồ như Mạc Đĩnh Chi, Hồ Quý Ly, Nguyễn Phi Khanh lại gắn
bó với khuynh hướng Nho giáo, ca ngợi nghĩa quân thần, đạo lý thánh hiền,
bách gia chư tử. Nhưng hầu hết đã thất truyền nên khó có thể khái lược những

nội dung cụ thể.
Những tác phẩm chữ Nôm ở thế kỷ XV- XVII của Nguyễn Trãi, Lê
Thánh Tơng, Nguyễn Bỉnh Khiêm… có nội dung phong phú, đa dạng, cơ bản
gắn liền với tâm tình của người Việt. Thơ Nơm Nguyễn Trãi thể hiện tình u
tha thiết của ông dành cho nước cho dân với tinh thần nhân nghĩa sâu sắc,
đồng thời cũng có cả nỗi thao thức dằn vặt từ cảnh ngộ riêng tư, một cái tơi
trữ tình mang màu sắc của cả Nho, Phật và Lão. Hồng Đức quốc âm thi
tập viết theo thể Đường luật thất ngơn bát cú, nhưng cũng có bài pha “lục
ngôn” theo kiểu “Hàn luật” của Việt Nam. Nội dung nặng về những đề tài
“cao quý”, vịnh người vịnh cảnh, thấm đậm tư tưởng Nho gia. Tuy nhiên, đây
là thời thái bình thịnh trị, nên tập thơ cũng tốt lên niềm lạc quan, tự hào dân
tộc và thiện chí trau giồi ngôn ngữ dân tộc của vua tôi nhà Lê. Thơ Nôm của
Nguyễn Bỉnh Khiêm được viết khi tác giả ở ẩn nên bao trùm khơng khí an
nhàn ẩn dật, yêu quý thiên nhiên, xa lánh bụi đời, tuy khơng dứt lịng thương
nước lo đời, quan tâm thế sự. Ngoài ra, những tác phẩm diễn ca lịch sử giai
đoạn này như Việt sử diễn âm, Thiên Nam minh giám, Thiên Nam ngữ lục…
cũng khơi gợi được tinh thần tự hào dân tộc, khát vọng hịa bình.
Văn học chữ Nơm ở giai đoạn từ thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX phát
triển vượt bậc và đạt được những thành tựu lớn. Giá trị của văn học Nôm giai


17
đoạn này là ở sự quan tâm sâu sắc đến nhiều vấn đề của đời sống xã hội
đương thời và cả những góc khuất trong đời sống con người thời đại. Sự quan
tâm này không thể hiện ở một hiện tượng đơn lẻ mà là đồng loạt, xuyên suốt ở
nhiều tác giả, tác phẩm. Chủ nghĩa nhân đạo, nhân văn, nhân bản trong văn
học Nôm được thể hiện sâu sắc, đầy giá trị qua nhiều tác phẩm của các tác gia
nổi tiếng như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Đoàn Thị
Điểm, Nguyễn Gia Thiều, Lê Ngọc Hân, Phan Huy Ích, Phạm Nguyễn Du,
Phạm Thái, Nguyễn Hữu Chỉnh… Điểm khác biệt của văn học Nôm khi thể

hiện vấn đề này so với văn học chữ Hán đó là văn học Nôm đã bỏ qua tất cả
giáo điều, định kiến xã hội để đi sâu vào những ngóc ngách sâu kín nhất của
đời sống tâm hồn con người thời đại, đã quan tâm đến những con người nhỏ
bé nhất, bị chà đạp nhiều nhất để vì họ mà lên tiếng. Hơn nữa, văn học Nơm
cịn mạnh mẽ đả phá tồn bộ thể chế phong kiến, giáo điều Nho gia mà bọn
phong kiến vẫn rêu rao trong các tác phẩm của mình mà văn học chữ Hán
khơng dám đề cập đến. Nói cách khác, văn học chữ Nơm giai đoạn này đã có
xu hướng ly tâm khỏi quan điểm chính thống mà văn học chữ Hán chưa thể
vượt qua.
Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII-XIX phát triển trong bối cảnh lịch sử
đầy biến động, vừa có nội chiến vừa hướng tới thống nhất đất nước, vừa xuất
hiện phong trào nông dân khởi nghĩa vừa có chống ngoại xâm, vừa có những
trang văn đạt tới đỉnh cao của giá trị nhân văn nhân đạo. Đội ngũ tác giả chủ
yếu là nhà nho nhưng đã có sự phân hóa mạnh mẽ, bao gồm các tầng lớp vua
quan và nho sĩ, bác học và bình dân. Sáng tác bằng chữ Nơm đạt thành tựu
vượt trội so với chữ Hán. Các thể loại văn học in đậm bản sắc dân tộc phát
triển lên một tầm cao mới, đưa đến những giá trị thẩm mỹ giàu tính nhân văn.
Hiện thực xã hội được phản ánh đầy đủ, sâu sắc và toàn diện hơn, mở rộng
hơn các sắc thái tình cảm. Ý thức con người cá nhân được khai thác từ nhiều


18
góc độ và thể hiện trong nhiều nhân vật điển hình sinh động. Tính chức năng,
giáo huấn và những quy phạm hình thức ngày càng giảm nhẹ trong khi chất
văn chương và kiểu văn học hình tượng ngày càng được phát huy.
Viết về tình u, văn học chữ Nơm đã thể hiện được khát vọng tự do,
giải phóng tình dục, giải phóng cá tính con người vốn đã bị kèm cặp quá lâu.
Trong ngâm khúc lẫn truyện Nôm đều thể hiện được điều này. Các tác phẩm
đều tập trung khẳng định những giá trị nhân văn, in đậm sắc thái bi kịch trữ
tình, phản ánh số phận người phụ nữ bị bỏ rơi nơi cung cấm và nỗi cô đơn khi

chồng ra trận... Với tư cách là con người, họ có đủ mọi cung bậc tâm trạng vui
buồn. Quan trọng hơn, người cung nữ trong Cung oán ngâm khúc dám bộc lộ
rõ nhu cầu tình cảm và ước vọng quan hệ thân xác với nhà vua:
Cái đêm hôm ấy đêm gì,
Bóng dương lồng bóng đồ mi trập trùng.
Hoặc như người chinh phụ khao khát nhớ chồng trong Chinh phụ
ngâm, không hứa hẹn gặp gỡ ở một cõi trời nào khác, mà mong được chung
sống, tận hưởng hạnh phúc ngay giữa cuộc đời trần thế này:
Đành mn kiếp chữ tình đã vậy,
Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau.
Nếu như thơ văn Nôm thế kỷ XV đến hết thế kỷ XVII căn bản hướng
đến xác lập các phạm trù thẩm mỹ qui phạm như văn thơ chữ Hán (ngay cả
khi có sự phê phán cũng chủ yếu nhằm phê phán để khẳng định chứ khơng
nhằm phủ nhận, phủ định) thì văn học Nơm thế kỷ XVIII-XIX lại hướng đến
ly tâm chính thống, giải phóng con người cá nhân, khẳng định trào lưu nhân
văn, thực hiện “giải Hán hóa”, chống cơng thức, khn phép, lễ nghĩa Nho
giáo. Điều này thể hiện rõ ở hệ thống chủ đề tình u, mơ típ “tài tử giai
nhân” và việc đề cao quyền sống con người. Nói riêng trong chủ đề tình yêu,
vẻ đẹp hình thể người phụ nữ được coi trọng và được miêu tả trực diện như


19
nàng Thúy Kiều trong Truyện Kiều:
Rõ ràng trong ngọc trắng ngà,
Rày rày sẵn đúc một tòa thiên nhiên.
Quan niệm về cái đẹp thuộc về phẩm chất con người cũng có những
thay đổi đáng kể so với đạo đức Nho giáo truyền thống. Thúy Kiều bán mình
lấy tiền chuộc cha, sau 15 năm lưu lạc, hai lần phải vào lầu xanh, hai lần trú
ngụ nơi cửa chùa, rút cuộc vẫn được người yêu là Kim Trọng đánh giá cao:
Như nàng lấy hiếu làm trinh,

Bụi nào cho đục được mình ấy vay.
Thế giới nhân vật trong Truyện Kiều khơng chỉ có hai màu sáng tối
tương phản mà đã trở nên đa dạng, sinh động hơn, có cả nhân vật chính diện,
phản diện và nhiều nhân vật trung gian khác nữa. Thậm chí ngay nhân vật
chính diện Thúy Kiều, trong tình thế nhất định, cũng có những mặt hạn chế
như cả tin, tham tiền, ăn cắp chuông vàng khánh bạc nhà Hoạn Thư… Tất cả
những điều này làm nên nhiều những nét tươi mới, khác biệt so với thơ văn
chữ Hán hay thơ văn Nôm các giai đoạn văn học trước đây.
1.1.3. Đặc điểm thể loại văn học
Văn học Nôm giai đoạn thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX có nhiều đổi
thay vượt bậc về phương diện nghệ thuật, đặc biệt ở hệ thống thể loại văn học
có nhiều điểm khác biệt so với các giai đoạn trước. Bộ phận thơ Nôm luật
Đường với tên tuổi Phạm Đình Hổ, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Cơng Trứ… đã
đạt tới trình độ nghệ thuật điêu luyện, đồng thời xuất hiện ba dịng thể loại thơ
Nơm “đặc sản” (ngâm khúc, truyện thơ và hát nói) đã góp phần quyết định
làm nên linh hồn trào lưu nhân văn cũng như lịch sử văn học Việt Nam thế kỷ
XVIII-XIX. Đó là đóng góp lớn lao của văn học Nơm đối với lịch sử văn học
giai đoạn này nói riêng cho văn học trung đại Việt Nam nói chung.
Thơ chữ Nôm Đường luật ở giai đoạn này xuất hiện nhiều tập thơ hay


20
như Càn nguyên ngự chế thi tập có 231 bài thơ của Trịnh Doanh (?-1767);
ngoài ra phải kể đến nhiều tác giả khác có sáng tác thơ Nơm, như Nguyễn Cư
Trinh (1716-1763), Mạc Thiên Tích (1706-1780), Nguyễn Tơng Kh (16931767), Hồ Xuân Hương (thế kỷ XVIII), Bà huyện Thanh Quan (thế kỷ
XIX)… Sau này xuất hiện nhiều nhà thơ sáng tác thơ Nôm và thơ Nôm theo
thể ca trù, như: Nguyễn Công Trứ (1778-1858), Cao Bá Quát (?-1854),
Nguyễn Hàm Ninh (1808-1867)… Tuy nhiên, thơ Nôm Đường luật giai đoạn
này vẫn chiếm địa vị quan trọng hơn cả so với các thể thơ khác. Ngơn ngữ,
nghê thuật đạt đến trình độ cao, nội dung tác phẩm hướng đến diễn đạt tự

nhiên tâm tình, cảm xúc của con người thời đại. Thơ Nơm Đường luật ngày
càng gắn bó hơn
Về thể phú Nơm, tiếp nối thành tựu từ thời Trần, phú Nôm giai đoạn
này phát triển ngày càng nhiều về số lượng, như Ngã ba Hạc phú và Giai
cảnh hứng tình của Nguyễn Bá Lân (1701-1785), Tụng Tây Hồ của Nguyễn
Huy Lượng (?-1808), Chiến tụng Tây Hồ của Phạm Thái (1777-1813)...
Nhiều kịch bản tuồng viết chữ Nơm theo lối văn biền ngẫu (có xen chữ Hán)
đã ra đời trong giai đoạn này, như Sơn Hậu (khuyết danh), Tam nữ đồ
vương (khuyết danh), Sãi Vãi của Nguyễn Cư Trinh (1716-1763). Nhìn
chung, xét về phong cách thể hiện và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ dân tộc,
tuồng có sự thay đổi từ ngơn ngữ điển cố sang ngôn ngữ tả thực, từ phong
cách khoa trương sang phong cách bình dị.
Văn học Việt Nam giai đoạn này, với sự đóng góp của văn học chữ
Nơm đã xuất hiện những thể loại văn học mới, như: ca trù, diễn ca, truyện thơ
lục bát, song thất lục bát và truyện thơ luật Đường, đây là những thể loại sử
dụng ngôn ngữ thi ca dân tộc.
Thể truyện Nôm lục bát phải kể đến là những tác phẩm truyện thơ Nôm
lục bát được lưu hành sâu rộng trong nhân dân và được nhiều người học thuộc


21
lòng, như: Truyện Kiều của Nguyễn Du (1765-1820), Truyện Hoa tiên của
Nguyễn Huy Tự (1743-1790), Sơ kính tân trang của Phạm Thái (17771813)… Ngồi ra cịn hàng loạt các tác phẩm thơ Nôm lục bát khuyết danh,
như: Nhị độ mai, Phạm Tải Ngọc Hoa, Tống Trân Cúc Hoa, Phương Hoa, Lý
Cơng Hồng Trừu, Phan Trần ...
Đặc biệt, giai đoạn này xuất hiện các tác phẩm Nôm thể lục bát diễn ca
lịch sử, điển hình là Đại Nam Quốc sử diễn ca của Lê Ngô Cát (1827-1875).
Tiếp thể diễn ca lịch sử là các tác phẩm diễn ca truyện cổ tích, đặc điểm của
loại truyện này là nhiều tác phẩm khuyết danh, như: Ỷ Lan phu nhân của
Trương Thị Ngọc Trong (thế kỷ XVIII), Lý triều đệ tam Hoàng thái hậu cổ

lục thần tích quốc ngữ diễn ca, Chúa Thao cổ truyện, Ông Ninh cổ truyện,
Tấm Cám, Thạch Sanh, Trương Chi v.v... Rồi loại ký sự lục bát cũng ra đời,
như: Mai Đình mộng ký của Nguyễn Huy Hổ (1783-1841), Bất phong lưu
truyện của Lý Văn Phức (1875-1849), v.v...
Thể ca khúc viết theo lối song thất lục bát ở giai đoạn này cũng phát
triển và thành thể ngâm, như các tác phẩm: Chinh phụ ngâm khúc của Đoàn
Thị Điểm (1705-1748) và của Phan Huy ích (1750-1822), Cung ốn ngâm
khúc của Nguyễn Gia Thiều (1741-1798), Ai tư vãn của Lê Ngọc Hân (thế kỷ
XVIII), Chức cẩm hồi văn của Hoàng Quang (?-1801), Văn triệu linh của
Phạm Thái (1777-1813), Văn chiêu hồn của Nguyễn Du (1765-1820), Tự tình
khúc của Cao Bá Nhạ (thế kỷ XIX), Tỳ bà hành của Phan Huy Thực (17781844), Bần nữ thán (khuyết danh) ...
Thể truyện thơ Nôm luật Đường, như: Vương Tường, Tô công phụng
sứ, Lâm tuyền kỳ ngộ, Tam quốc thi… đều là những truyện khuyết danh cũng
lần lượt xuất hiện.
Có thể nói, nền văn học chữ Nôm và đặc biệt là thơ Nôm đã đạt được
những thành tựu rực rỡ, sánh ngang tầm với thơ chữ Hán vốn đã có thành lũy


×