Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Quản lý thiết bị dạy học ở các trường trung học cơ sở trên địa bàn huyện tuy phước, tỉnh bình định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 101 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thiết bị dạy học (TBDH) là điều kiện quan trọng góp phần bảo đảm
chất lượng dạy học của nhà trường bên cạnh các điều kiện như nội dung
chương trình, đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất (CSVC) khác. Hoạt động dạy
học đòi hỏi phải có những TBDH thích hợp cho từng loại hình giáo dục ở các
cấp học và ngành đào tạo khác nhau như: mầm non, phổ thông, chuyên
nghiệp, đại học. Các trang thiết bị phục vụ cho các hoạt động dạy học rất đa
dạng từ các loại bảng, bàn ghế, dụng cụ dạy học đơn giản đến các thiết bị hiện
đại như máy phim ảnh, vi tính, đèn chiếu,…
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ:
“Tăng cường cơ sở vật chất và từng bước hiện đại hoá nhà trường (lớp học,
sân chơi, bãi tập, phịng thí nghiệm, máy tính nối mạng Internet, phương tiện
dạy học hiện đại, thư viện, ký túc xá…)” [24]. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng lần thứ 8 (khóa XI) nêu ra các mục tiêu đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo (GD&ĐT), khẳng định: “Tiếp tục thực hiện
mục tiêu kiên cố hóa trường, lớp học; có chính sách hỗ trợ để có mặt bằng
xây dựng trường. Từng bước hiện đại hóa cơ sở vật chất - kỹ thuật (CSVCKT), đặc biệt là hạ tầng công nghệ thông tin (CNTT)” [26].
Thực tiễn giáo dục nước ta khẳng định: “Không thể đào tạo con người
theo u cầu nếu khơng có CSVC-KT tương ứng”. CSVC nói chung, TBDH
nói riêng là yếu tố tác động trực tiếp đến q trình dạy học và góp phần quan
trọng đối với chất lượng giáo dục của nhà trường. Trong những năm gần đây,
ngành Giáo dục nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước, chính
quyền các cấp ở địa phương và nhân dân có nhiều cố gắng để đạt được những
kết quả đáng kể trong việc xây dựng trường, lớp và mua sắm TBDH nhằm


2


phát triển sự nghiệp GD&ĐT. Tuy nhiên, nếu CSVC nói chung, TBDH nói
riêng của nhà trường được trang bị đầy đủ nhưng người quản lý còn hạn chế
về năng lực, thiếu trách nhiệm thì chất lượng giáo dục cũng sẽ bị ảnh hưởng.
Thực tế cho thấy, TBDH ở một số trường trung học cơ sở (THCS) trên
địa bàn huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định cịn thiếu và việc quản lý TBDH
cũng chưa được quan tâm đúng mức. Công tác bảo quản vẫn cịn bị coi nhẹ,
dẫn đến tình trạng TBDH mau xuống cấp, việc đầu tư mua sắm TBDH còn
chưa được chú ý đúng trọng tâm. Ở một số trường, việc sử dụng TBDH chưa
hợp lý nên hiệu quả còn thấp, gây lãng phí. Trước tình hình đó, Phịng
GD&ĐT huyện Tuy Phước đã lập kế hoạch tham mưu với Huyện uỷ, Ủy ban
nhân dân (UBND) huyện quy hoạch lại mạng lưới trường, lớp học giai đoạn
2019 - 2025, trong đó có việc bổ sung TBDH phục vụ Chương trình giáo dục
phổ thông mới 2018 nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giáo dục ở địa
phương trong những năm tới.
Bản thân là viên chức trong ngành GD&ĐT, đang công tác trên địa bàn
huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định; vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu về quản
lý giáo dục nói chung, quản lý TBDH nói riêng ở các trường THCS của địa
phương là cần thiết. Qua đó, giúp cho tơi có điều kiện nắm chắc tình hình
thực tế về quản lý TBDH ở các trường THCS huyện Tuy Phước, tỉnh Bình
Định, trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp phù hợp, góp phần nâng cao hiệu
quả quản lý, sử dụng TBDH ở các trường học của địa phương.
Xuất phát từ những lý do chủ yếu nêu trên, chúng tôi chọn nghiên cứu
đề tài: Quản lý thiết bị dạy học ở các trường trung học cơ sở trên địa bàn
huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản
lý giáo dục (QLGD), góp phần nâng cao chất lượng dạy học nói chung, quản
lý TBDH nói riêng ở các trường THCS tại địa phương.


3


2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, khảo sát thực trạng quản lý TBDH ở các
trường THCS trên địa bàn huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định, đánh giá những
thành công, hạn chế và bài học kinh nghiệm; từ đó đề xuất những biện pháp
nhằm nâng cao hiệu quả quản lý TBDH trong các nhà trường THCS tại địa
phương đúng quy định, đồng bộ và khả thi.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1 Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của đề tài là TBDH ở các trường THCS.
3.2 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực trạng và biện pháp quản lý
TBDH ở các trường THCS trên địa bàn huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.
4. Giả thuyết khoa học
Việc quản lý TBDH nói chung và quản lý TBDH của Hiệu trưởng ở các
trường THCS trên địa bàn huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định nói riêng trong
thời gian qua đã đạt được một số thành quả nhất định, giúp nâng cao khả năng
sư phạm của giáo viên; tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập như khâu
bảo quản, sử dụng,… do một số nguyên nhân chủ quan và khách quan.
Nếu tìm hiểu, phân tích, đánh giá đúng thực trạng, chỉ ra chính xác
những ưu điểm, hạn chế của quản lý TBDH ở các trường THCS trên địa bàn
huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định; từ đó đề xuất các biện pháp khoa học,
khách quan, đồng bộ, phù hợp với lý luận và thực tiễn thì cơng tác quản lý
TBDH ở các nhà trường THCS nói trên đạt được những kết quả tích cực, góp
phần nâng cao chất lượng dạy học tại địa phương.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài sẽ tập trung vào các nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Khái quát, hệ thống cơ sở lý luận về quản lý TBDH ở trường THCS.


4


- Khảo sát, đánh giá thực trạng TBDH và quản lý TBDH ở các trường
THCS trên địa bàn huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.
- Đề xuất biện pháp quản lý TBDH ở các trường THCS trên địa bàn
huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định; đồng thời tiến hành khảo nghiệm tính cấp
thiết và tính khả thi của các biện pháp đó.
6. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn:
- Về nội dung nghiên cứu: Trên cơ sở khái quát hệ thống lý luận về
quản lý TBDH, đề tài luận văn tập trung khảo sát thực trạng và đề xuất biện
pháp liên quan đến quản lý TBDH ở các trường THCS trên địa bàn huyện
Tuy Phước, tỉnh Bình Định.
- Về khơng gian nghiên cứu: Tiến hành khảo sát thực trạng quản lý
TBDH của hiệu trưởng và các cộng sự của hiệu trưởng ở 13 trường THCS
trên địa bàn huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.
- Về thời gian: từ năm học 2019 - 2020 đến năm học 2020 - 2021.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Đọc, phân tích, tổng hợp những sách, tài liệu lý luận cơ bản liên quan
đến TBDH và quản lý TBDH làm cơ sở cho nghiên cứu thực tiễn và đề xuất
các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý TBDH ở các trường THCS
trên địa bàn huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Quan sát, tìm hiểu thực trạng TBDH và thực trạng quản lý TBDH ở
các trường THCS trên địa bàn huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.
- Điều tra cán bộ quản lý (CBQL), giáo viên và nhân viên thiết bị
(GV&NVTB) về các nội dung liên quan đến quản lý TBDH của hiệu trưởng ở
các trường THCS trên địa bàn huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.



5

Ngồi ra, chúng tơi cịn thực hiện trị chuyện với một số chuyên gia về
quản lý TBDH, tham khảo các văn bản chỉ đạo, đánh giá, tổng kết và rút kinh
nghiệm của các cấp thẩm quyền trên địa bàn huyện; từ đó phân tích, tổng hợp
và đánh giá thực trạng, tạo tiền đề cho việc đề xuất các biện pháp quản lý để
tăng cường, cải thiện công tác quản lý TBDH ở các trường THCS trên địa bàn
huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định trong giai đoạn hiện nay.
7.3. Phương pháp thống kê số liệu
Vận dụng cơng thức tốn học thống kê, kỹ thuật tin học để xử lý, phân
tích số liệu thu được về mặt định tính và định lượng các kết quả khảo sát.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ
lục; nội dung luận văn được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý thiết bị dạy học ở trường trung học
cơ sở.
Chương 2: Thực trạng quản lý thiết bị dạy học ở các trường trung học
cơ sở trên địa bàn huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định
Chương 3: Biện pháp quản lý thiết bị dạy học ở các trường trung học
cơ sở trên địa bàn huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.


6

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THIẾT BỊ DẠY HỌC
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Tổng quan các cơng trình nghiên cứu liên quan đề tài
TBDH là phương tiện vật chất để phục vụ quá trình đổi mới PPDH,
giúp giáo viên và học sinh thực hiện có hiệu quả mục tiêu dạy học. TBDH

cũng tạo điều kiện trực tiếp cho học sinh phát huy tính tích cực, chủ động, độc
lập, sáng tạo trong việc tiếp thu kiến thức, phát triển năng lực góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục tồn diện ở nhà trường phổ thơng. Khi xã hội phát
triển, yêu cầu giáo dục ngày càng cao, đòi hỏi việc mua sắm, sử dụng quản lý
TBDH được đặt ra cấp thiết. Vì vậy, vấn đề TBDH và quản lý TBDH được
nhiều tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu.
1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngồi
Nhà giáo dục học, J.A. Cơ-men-xki (1592 - 1670) được coi là một
trong những ông tổ về lĩnh vực nghiên cứu sư phạm ở châu Âu và thế giới.
Ông là người nêu lên “nguyên tắc vàng” trong dạy học - nguyên tắc trực quan,
chủ trương giảng dạy bằng hoạt động, bằng sự quan sát trực tiếp, bằng sự tiếp
xúc với sự vật trong đời sống hàng ngày. Theo ông: “Việc dạy học phải bằng
sự vật, hiện tượng. Vì sự vật là thân thể, lời nói là cái ảo… lời nói mà khơng
có sự vật là vỏ khơng có nhân, bao khơng có kiếm, bóng khơng có hình, thân
khơng có hồn” [21].
Sau này, các nhà giáo dục Xô viết như K.Đ. U-sin-xki; A.N. Leontiev
hay J.H. Pestalossi người Thụy Sĩ đã phát triển quan điểm dạy học trực quan
của J.A. Cô-men-xki để đạt hiệu quả cao. Nội dung của quan điểm dạy học
trực quan này là thay lối dạy học cũ, kinh viện, nhồi nhét tri thức bằng lối dạy
học mới có căn cứ khoa học, thơng qua các sự vật hoặc hình ảnh của chúng và


7

được người học chứng thực trên cơ sở cảm nhận của các giác quan.
C. Mác cho rằng, yếu tố quyết định trình độ hoạt động khơng phải là
tạo ra cái gì, mà là tạo ra cái đó bằng cách nào và bằng phương tiện nào [45].
Theo Xu-khôm-lin-xki: “Nghệ thuật giáo dục là chỗ không chỉ giáo dục bằng
các quan hệ giữa người với người, bằng gương sáng và lời nói của nhà giáo
dục, bằng những truyền thống được trân trọng giữ gìn trong tổ chức mà cịn

giáo dục bằng các đồ vật, những của cải vật chất và tinh thần, giáo dục bằng
mơi trường và cảnh trí do chính học sinh xây dựng nên, đó là cách làm phong
phú cuộc sống tâm hồn của học sinh” [56].
Tổ chức lao động quốc tế ADB/ILO (Bangkok 1997) đưa ra 9 tiêu
chuẩn và điểm đánh giá cơ sở GD&ĐT để kiểm định các nước thuộc tiểu
vùng sơng Mê Kơng. Trong đó các điều kiện cơ sở hạ tầng của nhà trường:
khuôn viên, CSVC-KT và thư viện chiếm 125/500 tổng điểm chung. Country
Report on Quality Assurrance in Higher Education, Bangkok - Thailand
(1998), đưa ra tỉ lệ đánh giá các điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục của
Malaysia với 6 chỉ số trong đó các điều kiện đảm bảo CSVC-KT cho công tác
đào tạo chiếm 20% tổng điểm đánh giá chung.
Bước vào thế kỷ XXI, hầu hết các nước đều có khuynh hướng hồn
thiện CSVC trường học cho phù hợp với việc hiện đại hóa về nội dung,
phương pháp và hình thức dạy học. Tùy theo hồn cảnh KT-XH mà mỗi nước
có hướng nghiên cứu và phát triển CSVC trường học riêng. Đặc biệt, ở các
nước có nền kinh tế phát triển rất quan tâm nghiên cứu thiết kế, sản xuất các
TBDH hiện đại, đạt chất lượng cao, cần thiết cho nhu cầu giáo dục. Ở Nga,
Hà Lan người ta chú ý trang bị những phương tiện truyền thống cho các
phịng học bộ mơn; còn ở Đức, Ba Lan, Pháp vấn đề nổi lên là các phương
tiện kỹ thuật (PTKT) hiện đại, những bộ thí nghiệm đa năng. Nhật, Triều
Tiên, Singapore thì đầu tư rất nhiều cho việc trang bị đầy đủ và hiện đại, nhất


8

là các phương tiện nghe nhìn. Ở Mỹ, có giai đoạn phổ biến là dùng máy thay
giáo viên trong giảng dạy, nên việc nghiên cứu và việc trang bị các PTDH
hiện đại rất quan trọng,… [41, tr. 56-63].
1.1.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam
Thực trạng và kinh nghiệm trong việc nghiên cứu, thiết kế CSVC

trường học nói chung và TBDH nói riêng ở các nước là một trong những cơ
sở thực tiễn quan trọng giúp chúng ta trong việc nghiên cứu, thiết kế và định
hướng hệ thống CSVC trường học ở Việt Nam.
Những năm gần đây, việc đầu tư CSVC nói chung, TBDH nói riêng ở
các cấp học phổ thơng của nước ta có nhiều chuyển biến tích cực nhằm nâng
cao chất lượng dạy và học theo tinh thần đổi mới chương trình, sách giáo
khoa. THCS là cấp học nối tiếp bậc tiểu học của hệ thống giáo dục quốc dân,
nhằm củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục tiểu học; có trình độ
học vấn phổ thơng cơ sở và hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để
tiếp tục học ở trung học phổ thông (THPT), trung học chuyên nghiệp, học
nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động. Cho nên, việc trang bị TBDH đối với
cấp học này cần được coi trọng.
Nguyễn Văn Lê với cơng trình: Khoa học quản lý nhà trường [42], tập
trung giới thiệu chung về các phương pháp tổ chức và quản lý nhà trường,
trong đó có đề cập đến quản lý CSVC. Riêng về nội dung quản lý CSVC
trường học, tác giả đưa ra năm nguyên tắc tổ chức và quản lý cơ sở vật chất
trường học, như vấn đề bố trí tối ưu khu trường; việc tổ chức khoa học trong
một lớp học; phịng học bộ mơn và trang thiết bị phịng học bộ mơn; thư viện,
phịng thí nghiệm và trang thiết bị,… [42, tr. 243-282].
Chu Mạnh Nguyên với giáo trình: Bồi dưỡng hiệu trưởng trường
THCS, tập III [47], đề cập đến quản lý CSVC của hiệu trưởng trường THCS,
bao gồm các nội dung: những vấn đề chung về cơ sở vật chất trường học;


9

những vấn đề chung về quản lý cơ sở vật chất trường học; quản lý trường sở;
quản lý TBDH; quản lý thư viện trường học và quản lý đồ dùng học sinh. Đây
là những nội dung giúp người Hiệu trưởng có thể áp dụng trong cơng tác quản
lý CSVC và TBDH ở trường của mình.

Nhóm tác giả do Trần Quốc Đắc làm chủ biên với tài liệu: Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn của việc xây dựng, sử dụng CSVC và TBDH ở trường
phổ thông Việt Nam [28], đã hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn của việc
sáng tạo và nâng cao hiệu quả sử dụng CSVC ở trường phổ thơng; trong đó đi
sâu trình bày những yêu cầu về chất lượng và nâng cao hiệu quả sử dụng
TBDH, góp phần đổi mới PPDH các môn học ở trường phổ thông. Các tác giả
khẳng định: Sử dụng có hiệu quả TBDH là một nhiệm vụ nặng nề, khó khăn
của người thầy giáo, địi hỏi người thầy giáo phải có trình độ chun mơn
nghiệp vụ cao với yêu cầu sử dụng TBDH. Người giáo viên không những cần
hiểu biết về TBDH, về kỹ thuật sử dụng chúng mà còn hiểu sâu về PPDH với
yêu cầu sử dụng TBDH: sử dụng TBDH với mục đích gì, lúc nào, liều lượng
bao nhiêu; học sinh cần tham gia hoạt động như thế nào khi sử dụng TBDH;
sử dụng TBDH như thế nào để khơi dậy lòng say mê học tập, phát huy tính
tích cực, sáng tạo và bồi dưỡng nhân cách cho học sinh [28, tr. 29].
Tác giả Tô Xn Giáp với cơng trình: Phương tiện dạy học - Hướng
dẫn chế tạo và sử dụng [30], đã đưa ra cơ sở phân loại và phân loại phương
tiện dạy học (PTDH), cách thức lựa chọn, thiết kế, chế tạo, sử dụng PTDH và
các điều kiện để đảm bảo sử dụng có hiệu quả PTDH. Theo tác giả: “Phương
tiện dạy học được sử dụng đúng, có tác dụng làm tăng hiệu quả sư phạm của
nội dung và phương pháp dạy học lên rất nhiều” [30, tr. 43].
Trong cuốn: Quản lý giáo dục [35]do Bùi Minh Hiền (chủ biên), đề cập
đến vai trò của TBDH trong sự phát triển giáo dục, phân loại các nhóm
TBDH mà người quản lý cần bao quát và đưa ra một số nguyên tắc cùng giải


10

pháp quản lý TBDH ở trường học trong giai đoạn hiện nay.
Một số luận văn thạc sĩ quản lý cũng nghiên cứu vần đề này. Tiêu biểu
như: Lê Thanh Giang với đề tài: Thực trạng và giải pháp quản lý việc sử dụng

thiết bị dạy học của giáo viên trường trung học phổ thông tỉnh Cà Mau [29].
Trần Duy Hân với đề tài: Biện pháp quản lý phương tiện dạy học của Hiệu
trưởng các trường THCS trên địa bàn thành phố Huế đáp ứng yêu cầu đổi
mới chương trình giáo dục phổ thông hiện nay [33]. Đặng Phúc Tịnh với đề
tài: Thực trạng và một số biện pháp quản lý thiết bị dạy học ở các trường
trung học cơ sở huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ [53]. Trần Đức Hùng
với đề tài: Biện pháp quản lý thiết bị dạy học ở các trường trung học phổ
thông tỉnh Quãng Ngãi trong giai đoạn hiện nay [37]...
Những cơng trình nghiên nêu trên đã xây dựng hệ thống lý luận về vị
trí, vai trò của TBDH cùng một số yêu cầu sử dụng nó trong q trình dạy
học. TBDH được xác định là một thành tố quan trọng trong quá trình dạy học,
nhất là ở cấp THCS, nó đóng vai trị to lớn trong việc đổi mới PPDH hiện
nay. Như vậy, TBDH và quản lý TBDH trong nhà trường phổ thông được đề
cập trong các giáo trình, cơng trình nghiên cứu, ḷn văn thạc sĩ về QLGD
nhưng chưa có cơng trình nào đề cập cụ thể đến việc quản lý TBDH ở các
trường THCS tại địa bàn huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Đây là cơ sở để
chúng tôi kế thừa, tiếp thu và vận dụng vào nghiên cứu đề tài này.
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài luận văn
1.2.1. Khái niệm quản lý
Trong quá trình phát triển của xã hội loài người từ xưa đến nay, từ thời
xã hội nguyên thủy lạc hậu, thấp kém cho đến thời đại cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, con người biết tập hợp nhau lại để tự vệ, chinh phục thiên
nhiên, lao động phục vụ nhu cầu sinh sống. Từ hoạt động lao động cùng nhau
của mọi người đã xuất hiện hàng loạt các loại quan hệ (con người với con


11

người, con người với thiên nhiên, con người với xã hội); qua đó dần dần hình
thành những hoạt động có tổ chức, phối hợp và điều khiển đối với họ. Những

hoạt động này tồn tại và phát triển một cách tất yếu khách quan, làm cơ sở
đảm bảo cho mọi hoạt động lao động chung của con người đạt được kết quả
mong muốn, dẫn đến làm nảy sinh hoạt động quản lý.
Xã hội loài người trải qua nhiều thời kỳ phát triển từ thấp đến cao với
nhiều hình thái KT-XH khác nhau cho nên trong quản lý cũng xuất hiện nhiều
hình thức khác nhau. Quản lý trở thành một hoạt động phổ biến, diễn ra trong
mọi lĩnh vực, liên quan đến mọi người. Hoạt động quản lý bắt nguồn từ phân
cơng lao động của xã hội lồi người nhằm đạt mục đích, hiệu quả, năng suất
cao hơn. Hoạt động quản lý chính là hoạt động giúp cho người đứng đầu tổ
chức phối hợp được sự nỗ lực các thành viên trong nhóm, trong cộng đồng
nhằm đạt mục tiêu đề ra.
Từ thời cổ đại đến nay, các triết gia, các chính trị gia đều coi trọng vai
trò của quản lý trong sự ổn định và phát triển của xã hội, quản lý là một phạm
trù tồn tại khách quan, là sự tất yếu của lịch sử. Các Mác coi quản lý là một
đặc điểm vốn có, bất biến về mặt lịch sử của đời sống xã hội. Ông viết: “Tất
cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy
mơ tương đối lớn thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa
những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ
vận động của toàn bộ cơ thể khác với sự vận động của những khí quan độc lập
của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự điều khiển lấy mình, cịn một dàn nhạc
thì cần phải có nhạc trưởng” [45, tr. 480].
Từ trước đến nay, khái niệm “quản lý” được các nhà khoa học đưa ra
khác nhau, nó thường phụ thuộc vào từng lĩnh vực nghiên cứu của họ.
Theo quan niệm của Paul Hersey và Ken Blanc Heard trong cuốn sách
Quản lý nguồn nhân lực, khi đề cập về vai trò của quản lý trong xã hội, hai


12

ơng cho rằng: “Quản lý là một q trình cùng làm việc giữa nhà quản lý với

người bị quản lý, nhằm thơng qua hoạt động của cá nhân, của nhóm, huy
động các nguồn lực khác để đạt mục tiêu của tổ chức” [34, tr. 19].
Còn Hanold Koontz: “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo sự
phối hợp những nỗ lực của cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm. Mục
tiêu của mọi nhà quản lý là nhằm hình thành một mơi trường mà trong đó con
người có thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc vật chất và
sự bất mãn cá nhân ít nhất. Với tư cách thực hành thì cách quản lý là một nghệ
thuật, còn kiến thức tổ chức về quản lý là một khoa học [40, tr. 33].
Ở Việt Nam, nhà nghiên cứu Đặng Quốc Bảo trong sách: Những vần đề
cơ bản về quản lý giáo dục cho rằng: “Quản lý là một quá trình tác động gây
ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu
chung” [1, tr. 176]. Cịn Hồ Thế Vĩnh trong: Giáo trình khoa học quản lý thì
cho rằng: “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản
lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đã đề ra” [55, tr. 11]. Các tác giả
Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc trong sách: Đại cương về khoa học
quản lý thì cho rằng: “Hoạt động quản lý là tác động có định hướng, có chủ
đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị
quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục
đích của tổ chức” [16, tr. 16].
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đã nêu quan niệm của mình về quản lý
với những cách tiếp cận khác nhau, nhưng có thể thấy rõ được nội hàm khái
niệm quản lý thể hiện các đặc trưng như sau:
- Quản lý là hoạt động lao động, hoạt động này để điều khiển lao động.
- Quản lý là các hoạt động thực hiện nhằm đảm bảo hoàn thành công
việc qua những nỗ lực của mọi người trong tổ chức.


13

- Quản lý là cơng tác phối hợp có hiệu quả hoạt động của những người

cộng sự khác nhau cùng chung một tổ chức.
Trong quản lý, bao giờ cũng có chủ thể quản lý và đối tượng quản lý,
giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý được quan hệ với nhau bằng những
tác động quản lý. Những tác động quản lý chính là những quyết định quản lý,
là những nội dung mà chủ thể quản lý yêu cầu đối với đối tượng quản lý. Hoạt
động “quản lý” bao giờ cũng gắn với hoạt động có ý thức của con người và
toàn xã hội dưới tác động của hoàn cảnh nhằm định hướng sự vận động và
phát triển của đối tượng cần quản lý theo một mục đích nhất định. Như vậy,
có thể hiểu: Quản lý là sự tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể
quản lý đến đối tượng quản lý trong tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành
đạt được mục tiêu đề ra.
Từ nhận thức trên, ta thấy có bốn yếu tố liên quan đến quản lý, đó là:
chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, khách thể quản lý và mục tiêu quản lý.
Giữa các yếu tố này có mối liên hệ với nhau, thể hiện ở Hình 1.1:

Chủ
thể
quản


Đối
tượng
quản


Mục tiêu
quản lý

Khách
thể

quản


Hình 1.1. Sơ đồ khái niệm quản lý

1.2.2. Khái niệm quản lý nhà trường
Nhà trường là một thành tố cơ bản của hệ thống giáo dục quốc dân, ở
đó tiến hành quá trình giáo dục đào tạo, trực tiếp thực hiện mục tiêu giáo dục,
nên quản lý nhà trường (QLNT) cũng được hiểu như là một bộ phận của
QLGD. Trước hết cần phải nhận thức khái niệm “quản lý giáo dục”.


14

Cũng như quản lý xã hội nói chung, QLGD là hoạt động có ý thức của
con người nhằm theo đuổi những mục đích của mình. Mục đích giáo dục cũng
chính là mục đích của quản lý (tuy nó khơng phải là mục đích duy nhất của
mục đích QLGD). Nhà quản lý, cùng với đông đảo đội ngũ giáo viên, học
sinh, các lực lượng xã hội… bằng hành động của mình sẽ thực hiện mục đích
đó trong hiện thực. Nguyễn Ngọc Quang trong tài liệu: Những khái niệm cơ
bản về quản lý giáo dục cho rằng: “QLGD là hệ thống những tác động có mục
đích, có kế hoạch, hợp quy ḷt của chủ thể quản lý (hệ giáo dục) nhằm làm
cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện
được tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ
là quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến,
tiến lên trạng thái mới về chất” [50, tr. 48].
Trong thực tế, khái niệm “quản lý giáo dục” có hai cấp độ: vĩ mô và vi
mô. Cấp quản lý vĩ mô tương ứng với việc quản lý một đối tượng có quy mơ
lớn nhất, bao qt tồn bộ hệ thống. Trong hệ thống này lại có nhiều hệ thống
con, tương ứng với hệ thống con có hoạt động quản lý vi mơ. Ở cấp quản lý vi

mô, Trần Kiểm định nghĩa: “QLGD được hiểu là hệ thống những tác động tự
giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ
thể quản lý đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể học sinh, cha mẹ học
sinh và các lực lượng xã hội trong và ngồi nhà trường nhằm thực hiện có chất
lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường” [39, tr. 37].
Trong chuyên khảo: Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ
phát triển KT-XH, tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng: “QLGD là quản lý
trường học, thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm
của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục, để tiến tới
mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành Giáo dục, với thế hệ trẻ và
với từng học sinh” [32, tr. 75].


15

Từ những các quan điểm trên đây cho thấy: Bản chất của hoạt động
QLGD là sự tác động có mục đích, có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức của
chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý theo những quy luật khách quan nhằm
đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt tới kết quả mong muốn.
Nhà trường là một thiết chế xã hội chuyên biệt nhằm thực hiện chức
năng cơ bản là tái tạo, phát triển nhân cách con người của thế hệ sau hơn thế
hệ trước theo hướng duy trì, phát triển xã hội. Như vậy, QLNT là tập hợp
những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp qui luật của chủ thể quản lý
làm cho nhà trường thực hiện có chất lượng về mục tiêu và kế hoạch đào tạo,
đưa nhà trường phát triển, góp phần thực hiện mục tiêu chung của giáo dục:
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ cho sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
QLNT thực chất là q trình quản lý lao động sư phạm của thầy, hoạt
động học tập và tự giáo dục của trò diễn ra chủ ́u trong q trình dạy học.
QLNT cịn có thể hiểu là một chuỗi tác động hợp lý (có mục đích, tự giác, hệ

thống, có kế hoạch) mang tính tổ chức - sư phạm của chủ thể quản lý đến tập
thể giáo viên và học sinh, đến những lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà
trường nhằm huy động họ cùng cộng tác, phối hợp, tham gia vào mọi hoạt
động của nhà trường nhằm làm cho quá trình này vận hành tối ưu để đạt được
những mục tiêu giáo dục của nhà trường đã đề ra.
1.2.3. Khái niệm thiết bị dạy học
Từ trước đến nay có nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm TBDH:
Theo nghĩa chung nhất, TBDH là tất cả những phương tiện vật chất cần
thiết cho giáo viên và học sinh tổ chức và tiến hành sử dụng hợp lý, có hiệu
quả trong q trình giáo dưỡng và giáo dục ở các môn học, cấp học.
Vũ Trọng Rỹ quan niệm: “TBDH là thuật ngữ chỉ một vật thể hoặc một
tập hợp đối tượng vật chất mà người giáo viên sử dụng với tư cách là phương


16

tiện điều khiển hoạt động nhận thức của học sinh, cịn đối với học sinh thì đó
là nguồn tri thức giúp học sinh lĩnh hội các khái niệm, định luật, thuyết khoa
học,… hình thành ở học sinh các kỹ năng, kỹ xảo, đảm bảo việc giáo dục,
phục vụ mục đích dạy học và giáo dục” [52, tr. 4].
Trong sách: Quản lý giáo dục do Bùi Minh Hiền làm chủ biên, trình bày
quan niệm về TBDH như sau: “Trong cơng tác dạy học, thầy và trị ngồi
chương trình sách giáo khoa, trường lớp… thường phải sử dụng đến phương
tiện được gọi là học cụ, đồ dùng dạy học, thiết bị giáo dục, thiết bị dạy học.
Thiết bị dạy học có thể được coi thuật ngữ đại diện cho các cách gọi khác
nhau nêu ra trên đây. Nó là một bộ phận cơ sở vật chất trường học trực tiếp có
mặt trong các giờ học được thầy và trò cùng sử dụng” [35, tr. 285].
Trong sách: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của việc xây dựng sử
dụng CSVC và TBDH ở trường phổ thông Việt Nam, do Trần Quốc Đắc làm
chủ biên cho rằng: “TBDH là tất cả những phương tiện vật chất cần thiết giúp

cho giáo viên và học sinh tổ chức và tiến hành hợp lý có hiệu quả quá trình
giáo dưỡng và giáo dục ở các môn học, cấp học” [28].
Từ những quan niệm trên, chúng ta có thể hiểu: TBDH là một bộ phận
của cơ sở vật chất trường học, bao gồm những đối tượng vật chất được thiết
kế sư phạm mà giáo viên sử dụng để điều khiển hoạt động nhận thức của học
sinh; đồng thời là nguồn tri thức, là phương tiện giúp học sinh lĩnh hội tri
thức, hình thành kĩ năng đảm bảo cho việc thực hiện mục tiêu dạy học.
1.2.4. Khái niệm quản lý thiết bị dạy học
Quản lý TBDH là một bộ phận không thể thiếu trong hoạt động QLNT,
do đó từ khái niệm quản lý và QLNT chúng ta có thể hiểu quản lý TBDH là
tác động có mục đích của chủ thể quản lý đến hệ thống TBDH để xây dựng,
trang bị, bảo quản và tổ chức sử dụng có hiệu quả các thiết bị dạy học nhằm
nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường.


17

Nói cách khác, quản lý TBDH là làm cho TBDH có mối liên hệ chặt
chẽ với giáo viên, với học sinh, với nội dung, với phương pháp dạy, phương
pháp học theo định hướng của mục tiêu giáo dục đào tạo đề ra.
1.3. Những nội dung cơ bản về thiết bị dạy học
1.3.1. Tên gọi và bản chất của thiết bị dạy học
Từ trước đến nay có nhiều tên gọi khác nhau về TBDH, như:
- Thiết bị giáo dục - educational equipments
- Thiết bị trường học - school equipments
- Đồ dùng dạy học - teaching equipments (aids/implements)
- Thiết bị dạy học – teaching equipments
- Phương tiện dạy học – means (facilities) of teaching
- Học cụ - learning equipments
- Học liệu - learning (school) materials

Ngày nay thuật ngữ TBDH được coi là đại diện cho các tên gọi trên. Về
bản chất, các tên gọi trên đều phản ánh các dấu hiệu chung như sau:
- Đó là tất cả những phương tiện rất cần thiết cho giáo viên và học sinh
sử dụng hợp lí, có hiệu quả q trình dạy học ở các mơn học, cấp học.
- Đó là một vật thể hoặc một tập hợp đối tượng vật chất mà giáo viên
sử dụng với tư cách là phương tiện điều khiển hoạt động nhận thức; là phương
tiện giúp học sinh lĩnh hội kiến thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo, đảm bảo việc
giáo dục, phục vụ mục đích dạy học và giáo dục.
- TBDH là điều kiện đảm bảo cho hoạt động dạy học, là thành tố chủ
yếu và quan trọng nhất trong cấu trúc hệ thống cơ sở vật chất trường học.
1.3.2. Vai trị của thiết bị dạy học
Các cơng trình khoa học từ trước đến nay đã tổng kết vị trí, tầm quan
trọng của các giác quan trong q trình nhận thức của con người như sau:


18

- Kiến thức mà chúng ta thu nhận được qua nếm là 1%, qua sờ là 1,5%,
qua ngửi là 3,5%, qua nghe là 11% và qua nhìn là 83%.
- Tỷ lệ kiến thức mà học sinh nhớ được sau khi học: qua nghe là 20%,
qua nhìn là 30%, qua nghe và nhìn là 50%, qua làm là 90%,…
Những tổng kết trên cho thấy, quá trình nhận thức muốn đạt hiệu quả
cao phải thơng qua nghe, nhìn và làm (thực hành). Như vậy, TBDH có vị trí
cực kì quan trọng, khơng thể thiếu trong quá trình dạy học.
Quá trình dạy học được cấu thành bởi nhiều yếu tố (Mục tiêu; Nội
dung; Phương pháp; Giáo viên; Học sinh; Thiết bị dạy học;…) có quan hệ tác
động lẫn nhau. Ba yếu tố (Mục tiêu - Nội dung - Phương pháp) liên kết, tương
tác chặt chẽ và có liên quan với mục tiêu phát triển KT-XH; còn ba yếu tố
(Giáo viên - Học sinh - TBDH) là để hiện thực hóa mục tiêu, tái tạo, sáng tạo
nội dung và PPDH. Trong đó, TBDH là cầu nối để giáo viên tổ chức và đưa

học sinh tham gia thực sự vào quá trình dạy học, học sinh tự khai thác và tiếp
nhận tri thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
Như vậy, vai trò của TBDH thể hiện như sau:
- TBDH hỗ trợ tích cực cho NDDH. NDDH quy định những đặc điểm
cơ bản của TBDH, mỗi TBDH phải được lựa chọn để đáp ứng được NDDH,
đồng thời cũng phải thỏa mãn các yêu cầu về khoa học sư phạm, kinh tế, thẩm
mỹ và an toàn khi sử dụng nhằm đạt kết quả mong muốn. TBDH sẽ giúp tổ
chức tốt quá trình học tập, dẫn dắt học sinh tham gia vào quá trình dạy học, tự
khai thác và tiếp thu kiến thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
- TBDH là bộ phận không thể thiếu của PPDH. Hầu hết TBDH là các
sản phẩm có chức năng xác định và mang tính mục đích sư phạm rõ rệt, chứa
đựng một hàm lượng tri thức phong phú, đồng thời đóng vai trị là đối
tượng nhận thức. Vì vậy, TBDH nếu đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu chủng
loại và phù hợp NDDH thì sẽ có tác dụng lớn đến việc vận hành có hiệu quả


19

của PPDH. Việc đổi mới dạy học theo định hướng phát triển năng lực, phát
huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh đang dần dần chiếm ưu thế
và thay cho cách truyền thụ một chiều: “Thầy đọc, trị chép”. Xu thế đổi mới
tích cực này đã dựa trên những thay đổi chủ yếu có quan hệ mật thiết với
TBDH đó là người học tích cực, chủ động hơn trong tham gia vào quá trình
học tập và người học được tổ chức hoạt động, được hoạt động nhiều hơn để tự
chiếm lĩnh kiến thức.
- TBDH là phương tiện, là cầu nối giữa người dạy và người học. Thực
sự ngay trong bản thân TBDH đã có NDDH, chứa đựng tính mục đích của
dạy học. Qua TBDH học sinh có thể tìm ra câu trả lời cho mình mà khơng
nhất thiết địi hỏi giáo viên phải giải thích nhiều. Nhờ TBDH mà giáo viên tạo
được vùng hợp tác giữa thầy và trò về nội dung cần truyền đạt của giáo viên.

- TBDH trong việc rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo cho học sinh. Học sinh sử
dụng các TBDH trực tiếp qua làm thí nghiệm, được lắp ráp thao tác, được
quan sát, được nhận xét, do đó học bằng tất cả các giác quan, huy động mọi
tiềm năng để nhận thức.
Có thể nói PPDH và PTDH ln gắn bó chặt chẽ, khơng tách rời nhau
trong q trình dạy học. Sự thay đổi về số lượng và chất lượng của các
TBDH, đã ngày càng khẳng định được vị trí của chúng trong q trình dạy
học và có thể khẳng định rằng TBDH có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng
đào tạo. Mục tiêu hàng đầu của các nhà trường hiện nay là nâng cao chất
lượng dạy học. Điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có TBDH.
1.3.3. Phân loại thiết bị dạy học
TBDH trong nhà trường phổ thơng nói chung, nhà trường THCS nói
riêng từ trước đến nay có nhiều cách khác nhau:
Thứ nhất, phân loại TBDH theo cách sử dụng. Bao gồm: 1, Thiết bị
dùng trực tiếp để dạy học (bảng, phấn, thiết bị nghe nhìn, máy chiếu, thiết bị


20

đa phương tiện, máy vi tính… 2, Thiết bị dùng để chuẩn bị và điều khiển lớp
học (các thiết bị hỗ trợ, thiết bị ghi chép và các thiết bị khác).
Thứ hai, phân loại TBDH theo góc độ xuất xứ. Bao gồm: 1, TBDH
được làm theo phương pháp công nghệ (sản xuất theo yêu cầu của giáo dục,
như các bộ thí nghiệm đồng bộ, bản đồ, tranh ảnh, mơ hình, dụng cụ máy
móc, bộ đồ dùng thí nghiệm…, có tính kỹ thuật cao, có giá trị sử dụng lâu
dài); TBDH được làm theo phương pháp thủ công: là loại TBDH do giáo viên
tự làm, độ chính xác khơng cao, khơng có độ bền.
Thứ ba, phân loại dựa theo mức độ phức tạp trong chế tạo. Bao gồm:
1, Loại chế tạo không phức tạp (giáo viên tự nghiên cứu thiết kế, tự làm phục
vụ cho bài dạy của môn học, giá thành chế tạo khơng q cao; có thể dễ dàng

cải tiến, tuổi thọ sử dụng thường ngắn); 2, Loại chế tạo phức tạp (được thiết
kế và tạo ra bởi một nhóm người; sản phẩm làm ra cần nhiều thời gian và
được dùng phổ biến cho thầy cơ giáo có kèm theo các tài liệu hướng dẫn; giá
thành tương đối cao, thường là sản phẩm hồn hảo, có tuổi thọ sử dụng cao).
Thứ tư, phân loại theo sự tác động lên các giác quan. Bao gồm: 1, Các
thiết bị nghe (thiết bị dụng để thực hiện các chương trình truyền thanh, người
học được lĩnh hội các kiến thức, nội dung cần thiết, chỉ có được nhờ vào việc
lắng nghe sự truyền thanh lại từ các thiết bị này; 2, Các thiết bị nhìn (các thiết
bị mà qua đó người học lĩnh hội được các kiến thức nhờ vào sự quan sát các
hình ảnh trên thiết bị, được sử dụng khi giáo viên cần phải giới thiệu các hiện
tượng, các quá trình không thể quan sát được trong lớp học hoặc các quá trình
diễn ra quá chậm hay quá nhanh).
Thứ năm, phân loại theo tính chất. Bao gồm: 1, Nhóm truyền tin cung
cấp cho các giác quan của học sinh nguồn tin dưới dạng tiếng hoặc hình ảnh
hoặc cả hai cùng một lúc (các máy chiếu, máy thu hình, máy quay đĩa); 2,
Nhóm mang tin là nhóm mà tự bản thân mỗi thiết bị đều chứa đựng một


21

lượng thông tin nhất định. Các thiết bị mang tin được nghiên cứu, thiết kế
theo các nguyên tắc sư phạm và khoa học kỹ thuật nhằm truyền tải những nội
dung bài dạy học một cách thuận lợi và chính xác.
Thứ sáu, phân loại theo hình thức tồn tại TBDH. Bao gồm: 1, TBDH
theo nguyên mẫu; 2, TBDH phỏng theo nguyên mẫu; 3, TBDH biểu trưng.
Thứ bảy, phân loại theo loại hình. Bao gồm: 1, Nhóm mơ hình, mẫu vật
(máy móc, dụng cụ ngun mẫu hoặc mơ hình phỏng theo nguồn gốc tự nhiên
hoặc nhân tạo); 2, Nhóm các dụng cụ thí nghiệm dùng chứng minh và thực
hành theo từng nội dung của chương trình; 3, Nhóm các vật liệu nghe nhìn
(tranh ảnh, bản đồ, sơ đồ, biểu bảng, băng hình, băng ghi âm, phim giáo

khoa,…); 4, Nhóm các phương tiện hỗ trợ (các bộ lắp ráp, hệ điều khiển điện,
dụng cụ đo, hóa chất, radio, cassette, máy chiếu phim, video, computer,
overhead, project,…).
Ngoài những cách phân loại nêu trên, Theo Điều 1, Quyết định
41/2000/QĐ-BGDĐT ngày 07/09/2000 về việc ban hành quy chế thiết bị giáo
dục trong trường mầm non, trường phổ thông [4] ghi rõ: TBDH bao gồm thiết
bị phục vụ giảng dạy học tập ở tại lớp, thiết bị phòng thí nghiệm, thiết bị thể
dục thể thao, thiết bị nhạc, họa và các thiết bị khác trong xưởng trường, vườn
trường, phòng truyền thống, nhằm đảm bảo cho việc nâng cao chất lượng dạy
và học, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện. Căn cứ vào quyết
định này, chúng ta có thể phân loại TBDH ở phổ thơng thành 4 nhóm sau: 1,
Thiết bị kỹ thuật; 2, Thiết bị trực quan (đồ dùng dạy học trực quan); 3, Thiết
bị thí nghiệm; 4, Sách giáo khoa và tài liệu dạy học khác.
1.3.4. Đặc trưng và yêu cầu của thiết bị dạy học
1.3.4.1. Đặc trưng của thiết bị dạy học
- TBDH ở trường phổ thông rất đa dạng, là sự kết hợp các tiêu chuẩn
khoa học, sư phạm và kinh tế:


22

+ Tiêu chuẩn khoa học: Là mức độ chuẩn xác trong việc phản ánh hiện
thực trong quá trình dạy học truyền thụ kiến thức.
+ Tiêu chuẩn sư phạm: Là sự phù hợp với các yêu cầu về mặt sư phạm
như độ chính xác, kích thước, màu sắc, tiện lợi dễ sử dụng phù hợp với kiến
thức và tâm lý học sinh...
+ Tiêu chuẩn kinh tế: Là giá cả tương ứng với hiệu quả GD&ĐT.
CSVC và TBDH cũng được đánh giá theo một số tiêu chuẩn trên.
- Cơng thức mang tình ước lệ sau đây thể hiện sự đánh giá chung nhất
đối với một TBDH :

Hiệu quả sư phạm
Hiệu quả đầu tư =
Giá thành TBDH
1.3.4.2. Yêu cầu đối với thiết bị dạy học
TBDH có thể đơn giản hay hiện đại nhưng qua sử dụng, nó phải cho
kết quả khoa học, đảm bảo yêu cầu về mặt mỹ quan, sư phạm, an toàn và giá
cả hợp lý, tương ứng với hiệu quả mà nó mang lại.
- TBDH ln ln vận động phụ thuộc vào mục tiêu, nội dung chương
trình và PPDH.
- TBDH có khả năng to lớn nhưng khơng thể thay thế được vị trí của
người giáo viên, hiệu quả của việc sử dụng TBDH phụ thuộc vào quá trình
dạy học và khả năng nghề nghiệp của giáo viên (sử dụng cái gì, sử dụng ở
đâu, lúc nào, sử dụng như thế nào?).
- TBDH phải phù hợp với sự phát triển tâm - sinh lý lứa tuổi học sinh.
- TBDH phải đảm bảo kinh tế, dễ sử dụng, bảo quản, có thể tận dụng sử
dụng khi có sự thay đổi chương trình giáo dục tránh lãng phí.


23

1.4. Lý luận về quản lý thiết bị dạy học ở trường trung học cơ sở
1.4.1. Các văn bản của Đảng và Nhà nước về quản lý thiết bị dạy học
ở trường trung học cơ sở
Điều 29, Luật Giáo dục sửa đổi năm 2019 nêu rõ mục tiêu của giáo dục
THCS là nhằm củng cố và phát triển kết quả của giáo dục tiểu học; bảo đảm
cho học sinh có học vấn phổ thông nền tảng, hiểu biết cần thiết tối thiểu về kỹ
thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học trung học phổ thơng hoặc chương trình
giáo dục nghề nghiệp [44].
Trong hệ thống giáo dục quốc gia, cấp THCS là một khâu trung chuyển
rất quan trọng trong vấn đề đào tạo nguồn nhân lực. Tại đó, người hồn thành

cấp học phải có đủ điều kiện để tiếp tục học hoặc là bước vào cuộc sống phục
vụ trực tiếp cho KT-XH. Vì vậy, chất lượng đào tạo của cấp THCS có ảnh
hưởng rất lớn đến KT-XH.
Theo yêu cầu của sự phát triển KT-XH, sự phân luồng giáo dục sau
THCS đòi hỏi giáo dục THCS cần hướng đến những sản phẩm mà nhu cầu xã
hội đang đặt ra trước mắt. Nhưng điều quan trọng hơn là cần tạo ra được tiềm
năng để lao động tự phát triển và thích ứng; cần phải đảm bảo sự phù hợp
giữa giáo dục - kinh tế, giáo dục - xã hội,…
Điều 3 của Điều lệ trường THCS (Ban hành kèm theo Thông tư
32/2020/TT-BGDĐT ngày 15/09/2020 của Bộ GD&ĐT) [15] nêu rõ: Hiệu
trưởng Trường THCS có 12 nhiệm vụ và quyền hạn; trong đó có nhiệm vụ
thứ 8 là: Quản lý, sử dụng và bảo quản cơ sở vật chất, trang thiết bị theo quy
định của pháp luật.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII của Đảng, tiếp tục khẳng định
nhiệm vụ và giải pháp phát triển GD&ĐT là “Đào tạo con người theo hướng
có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ


24

năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số,
tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế” [27].
Chỉ thị 16/CT-TTg ngày 18/6/2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc
đổi mới chương trình giáo dục phổ thông nhấn mạnh: “Điều chỉnh, sắp xếp để
sử dụng hiệu quả cơ sở vật chất, thiết bị dạy học hiện có; xây dựng kế hoạch
đầu tư cơ sở vật chất, ,mua sắm bổ sung thiết bị dạy học để thực hiện chương
trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thơng mới” [20].
Luật Giáo dục 2019, tại Điều 105 quy định: “UBND các cấp thực hiện
quản lý nhà nước về giáo dục theo phân cấp của Chính phủ, trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm bảo đảm các điều kiện về đội

ngũ nhà giáo, tài chính, CSVC, thư viện và TBDH của trường công lập thuộc
phạm vi quản lý” [44].
Thông tư 18/2018/TT-BGDĐT ngày 22/08/2018 của Bộ GD&ĐT ban
hành quy định về kiểm định chất lượng giáo dục và công nhận đạt chuẩn quốc
gia đối với trường THCS, trường THPT và trường phổ thơng có nhiều cấp học
nêu rõ: ‘‘Hệ thống máy tính được kết nối Internet phục vụ cơng tác quản
lý, hoạt động dạy học; Có đủ TBDH theo quy định; Hằng năm, được bổ sung
các TBDH và TBDH tự làm” [13].
Thông tư 13/2020/TT-BGDĐT ngày 26/05/2020 của Bộ GD&ĐT ban
hành Quy định tiêu chuẩn cơ sở vật chất các trường mầm non, tiểu học, trung
học cơ sở, trung học phổ thơng và trường phổ thơng có nhiều cấp học, tại
Khoản 9, Điều 10 đã nêu rõ: “TBDH được trang bị theo quy định của Bộ
GD&ĐT; Các phòng học bộ môn được trang bị đầy đủ bàn, ghế, tủ, giá, kệ,
hệ thống điện, nước, hệ thống quạt, thông gió, các thiết bị hỗ trợ khác và thiết
bị dạy học, học liệu theo tính chất đặc thù của từng bộ môn” [14].
Chiến lược phát triển GD&ĐT 2011 - 2020 (Ban hành kèm theo Quyết
định số 711/QĐ-TTg ngày 13/06/2012 của Thủ tướng chính phủ) nêu những


25

định hướng có liên quan đến cơ sở vất chất trường học như: “Đầu tư ngân
sách nhà nước có trọng điểm, khơng bình qn dàn trải cho các cơ sở giáo dục
công lập, đầu tư đến đâu đạt chuẩn đến đó. Từng bước chuẩn hóa, hiện đại
hóa cơ sở vật chất kỹ thuật, đảm bảo đủ nguồn lực tài chính và phương tiện
dạy học tối thiểu của tất cả cơ sở giáo dục” [19].
1.4.2. Yêu cầu và nguyên tắc quản lý thiết bị dạy học ở trường trung
học cơ sở
1.4.2.1. Yêu cầu
Lý luận và thực tiễn công tác QLNT cho thấy, quản lý tốt các TBDH

đòi hỏi người cán bộ quản lý trường học cần nắm vững một số yêu cầu sau:
- TBDH của nhà trường phải có các phương tiện bảo quản (tủ, hòm, vật
che phủ), phương tiện chống ẩm, chống mối, mọt, dụng cụ phòng chữa cháy.
Tuỳ theo tính chất, quy mơ của TBDH mà bố trí diện tích phịng và địa điểm
thích hợp, bảo đảm cho giáo viên và học sinh thao tác, đi lại thuận tiện và an
tồn khi sử dụng. Các thí nghiệm có độc hại, gây tiếng ồn phải được bố trí và xử
Ií theo tiêu chuẩn quy định, bảo đảm an toàn lao động và vệ sinh môi trường.
- TBDH phải được sử dụng có hiệu quả cao nhất, đáp ứng các yêu cầu
về nội dung và PPDH được quy định trong chương trình giáo dục.
- Biết cách phân loại và nắm vững nội dung quản lý các TBDH.
- Phải có giải pháp xây dựng, trang bị và tổ chức sử dụng các TBDH có
hiệu quả cao. TBDH phải được làm sạch và bảo quản ngay sau khi sử dụng;
định kì bảo dưỡng, bổ sung phụ tùng, linh kiện, vật tư tiêu hao.
- Phải có lộ trình đầu tư ngắn hạn và dài hạn để trang bị TBDH.
- Hằng năm phải tiến hành kiểm kê theo dúng quy định của Nhà nước
về quản lý tài sản. Việc kiểm kê bất thường phải được tiến hành trong các
trường hợp như: Khi thay đổi hiệu trưởng hoặc người phụ trách công tác thiết
bị giáo dục; Khi thay đổi địa điểm, sáp nhập, chia tách, đình chỉ hoạt động,


×