Tải bản đầy đủ (.pdf) (258 trang)

Đặc điểm ngôn ngữ của bài thơ lục bát 2 dòng và lục bát 4 dòng hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.83 MB, 258 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

H THU KỄN

ĐẶC ĐIỂM NGƠN NGỮ CỦA BÀI THƠ LỤC BÁT
2 DỊNG VÀ LỤC BÁT 4 DÒNG HIỆN ĐẠI

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH NGƠN NGỮ HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH - 2017


TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

H THU KỄN

ĐẶC ĐIỂM NGƠN NGỮ CỦA BÀI THƠ LỤC BÁT
2 DỊNG VÀ LỤC BÁT 4 DÒNG HIỆN ĐẠI

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: NGÔN NGỮ HỌC
MÃ SỐ: 60.22.02.40

Cán bộ hướng dẫn khoa học
TS. HỒ VĂN HẢI

TP. HỒ CHÍ MINH - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai cơng bố trong bất cứ cơng trình
nghiên cứu nào.
Tác giả luận văn

H Thu Kễn


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến Tiến sĩ Hồ Văn Hải, người đã trực tiếp hướng dẫn,
truyền đạt cho tôi nhiều kinh nghiệm quý báu, cũng như động viên, tạo điều kiện cho tôi tự
lực nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời tri ân chân thành đến quý thầy cô đã truyền đạt cho chúng tôi nhiều kiến
thức quý báu trong quá trình học Cao học tại trường.
Xin gửi đến khoa Văn học và Ngơn ngữ, Phịng Sau đại học, Thư viện Trường Khoa
học xã hội và Nhân văn, TP. HCM lời biết ơn chân thành nhất vì đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi để tơi học tập và hoàn thành luận văn.
Sau cùng xin được cảm ơn gia đình, bạn bè, những người đã ln bên cạnh động viên
giúp đỡ tôi nhiều mặt trong thời gian qua.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 17, tháng 03, năm 2017
Tác giả
H Thu Kễn


1

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 3

1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................. 3
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ................................................................................. 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 7
3.1. Đối tượng nghiên cứu...................................................................................... 7
3.2. Phạm vi nghiên cứu ......................................................................................... 7
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................... 7
4.1. Mục đích .......................................................................................................... 7
4.2. Nhiệm vụ ......................................................................................................... 7
5. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 8
6. Đóng góp của luận văn ....................................................................................... 8
7. Cấu trúc luận văn................................................................................................ 8
Chương 1 .............................................................................................................. 10
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGÔN NGỮ THƠ LỤC BÁT ....................... 10
VÀ LỤC BÁT 2 DÒNG, LỤC BÁT 4 DÒNG HIỆN ĐẠI ................................. 10
1.1. Thơ và những xu hướng tiếp cận phổ biến ................................................... 10
1.1.1. Thơ trong cuộc sống con người ................................................................. 10
1.1.2. Những xu hướng tiếp cận phổ biến ........................................................... 12
1.2. Lục bát trong nền thơ dân tộc........................................................................ 14
1.2.1. Lược sử về thơ lục bát ................................................................................ 14
1.1.2. Những đỉnh cao của thơ lục bát ................................................................. 15
1.3. Lục bát 2 dòng và lục bát 4 dịng .................................................................. 20
1.3.1. Những hình thức lục bát phổ biến .............................................................. 20
1.3.2. Lục bát 2 dòng và lục bát 4 dòng ............................................................... 21
1.4. Tiểu kết .......................................................................................................... 23
Chương 2 .............................................................................................................. 25
ĐẶC TRƯNG NGỮ ÂM TRONG THƠ LỤC BÁT 2 DÒNG ........................... 25


2


VÀ LỤC BÁT 4 DÒNG HIỆN ĐẠI .................................................................... 25
2.1. Mặt ngữ âm ................................................................................................... 25
2.1.1. Ngữ âm trong thơ ....................................................................................... 25
2.1.2. Ngữ âm trong thơ lục bát ........................................................................... 30
2.2. Âm điệu, vần điệu và nhịp điệu trong thơ lục bát 2 dòng và lục bát 4 dòng
hiện đại ................................................................................................................. 36
2.2.1. Âm điệu trong thơ lục bát 2 dòng và lục bát 4 dòng hiện đại .................... 37
2.2.2. Vần điệu trong thơ lục bát hiện đại 2 dòng và lục bát 4 dòng ................... 52
2.2.3. Nhịp điệu trong thơ lục bát 2 dòng và lục bát 4 dòng hiện đại .................. 61
2.3. Tiểu kết .......................................................................................................... 71
Chương 3 .............................................................................................................. 74
PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG THỨC TẠO NGHĨA ....................................... 74
TRONG THƠ LỤC BÁT HIỆN ĐẠI 2 DÒNG VÀ 4 DÒNG ............................ 74
3.1. Cấu trúc ngữ nghĩa của bài lục bát hiện đại 2 dòng và 4 dịng ..................... 78
3.1.1. Các kiểu mơ thức ngữ nghĩa của lục bát hiện đại 2 dòng .......................... 79
3.1.2. Các kiểu mô thức ngữ nghĩa của lục bát hiện đại 4 dòng .......................... 87
3.2. Các phương tiện tu từ ngữ nghĩa trong lục bát hiện đại 2 dòng và 4 dòng. 101
3.2.1. So sánh tu từ trong lục bát hiện đại 2 dòng và 4 dòng ............................. 102
3.2.2. Ẩn dụ tu từ trong lục bát hiện đại 2 dòng và 4 dịng................................ 117
3.2.3. Hốn dụ tu từ trong lục bát hiện đại 2 dòng và 4 dòng ............................ 127
3.3. Tiểu kết ........................................................................................................ 130
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 134
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 137


3

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Thơ lục bát là thể thơ mang đậm bản sắc dân tộc hơn bất kỳ thể thơ

nào khác. Thể thơ này mang nhạc điệu đặc trưng của tiếng Việt: sự hài thanh
trên nền tảng của sự hài hòa âm điệu, vần điệu và nhịp điệu. Hình thành và
phát triển cùng lịch sử dân tộc, lục bát từ ca dao đến Truyện Kiều của Nguyễn
Du rồi đến các tác giả hiện đại (như: Nguyễn Bính, Huy Cận, Tố Hữu,
Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn, Trương Nam Hương…), ở
mỗi thời kỳ lục bát đều mang vẻ đẹp riêng và để lại nhiều tác phẩm hay. Rõ
ràng lục bát là thể thơ luôn mang trong mình năng lực và sức sống đặc biệt.
Hiện nay, nhiều thể thơ của các dân tộc khác nhau trên thế giới đã du
nhập vào Việt Nam, được ưa chuộng nhất phải kể đến Tứ Tuyệt (Trung
Quốc), HaiKư (Nhật Bản). Đây là hai thể thơ cực ngắn nhưng lại rất hàm súc,
có khả năng chuyển tải một lượng lớn thơng tin và tạo ra cảm xúc mãnh liệt.
Nhiều người đã tiếp nhận và sáng tác theo các thể thơ này. Bên cạnh đó, một
số lại lựa chọn con đường cách tân thể thơ truyền thống của dân tộc với mong
muốn thử nghiệm và tìm kiếm một hướng biểu đạt mới cho lục bát. Do vậy,
nhiều hình thức lục bát mới xuất hiện như: lục bát 3 dòng, lục bát trắc (…).
Một số khác tìm đến con đường trở về với hình thức ban đầu của thể loại với
hình thức tối thiểu 2 dòng và 4 dòng từng rất được ưa chuộng trong ca dao.
Điều được ghi nhận là lục bát hiện đại 2 dịng và 4 dịng đã có những biến đổi
đáng kể so với lục bát ca dao mà vẫn giữ được bản sắc vốn có của thể loại.
Lục bát hiện đại 2 dòng và 4 dòng, với thế mạnh ngắn gọn, súc tích phù hợp
với nhịp sống hối hả hiện đại đã có đủ khả năng cạnh tranh với các thể thơ
khác trên thi đàn dân tộc.
Đã từ lâu, lục bát được coi là Quốc thơ và mặc nhiên trở thành trung
tâm của nhiều phân ngành nghiên cứu. Người ta tập trung khai thác nó trên


4

nhiều phương diện nhằm tôn vinh vẻ đẹp của lục bát cũng như sự giàu đẹp
của ngôn ngữ dân tộc. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu hầu hết tập trung ở thể

lục bát dài hơi mà vơ hình trung chưa chú ý đến một số lượng khá lớn những
bài lục bát ngắn đó là lục bát 2 dịng và lục bát 4 dòng hiện đại trong dòng
chảy chung của thể thơ này. Vì vậy, nghiên cứu lục bát 2 dịng và 4 dòng
cũng là cách lấp đầy khoảng trống còn lại.
Việc nghiên cứu thơ lục bát 2 dòng và lục bát 4 dịng hiện đại dưới góc
độ ngơn ngữ là rất cần thiết. Đây là công việc thú vị, mới mẻ. Thực hiện đề tài
này, chúng tôi muốn đưa ra một hướng tiếp cận, đồng thời mong muốn một
cái nhìn tồn diện, sâu và cơng bằng hơn cho một bộ phận lục bát mà từ trước
đến nay vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu đúng mức.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Vấn đề ngơn ngữ thơ nói chung và ngơn ngữ thơ lục bát nói riêng đã
được các nhà nghiên cứu chú trọng khai thác từ lâu. Cho đến nay đã có nhiều
cơng trình lý thuyết mang giá trị làm cơ sở tiếp cận thơ. Ở Việt Nam, có thể
kể đến các cơng trình nghiên cứu về ngơn ngữ thơ của Nguyễn Phan Cảnh,
Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức, Bùi Cơng Hùng, Hữu Đạt… Rồi các cơng
trình nghiên cứu chun sâu về thể loại lục bát như chuyên luận Lục bát và
song thất lục bát của Phan Diễm Phương, Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du
trong truyện Kiều của Phan Ngọc, các bài viết Tiếng Việt và thể lục bát của
Nguyễn Thái Hòa, Nhịp chẵn, nhịp lẻ trong thơ lục bát của Lý Tồn
Thắng,…
Chun luận Ngơn ngữ thơ (1987) của Nguyễn Phan Cảnh được coi là
cơng trình khá quan trọng góp phần đặt nền móng cho lí thuyết nghiên cứu
ngơn ngữ một thể loại văn học đặc thù (trong cái nhìn phân biệt giữa ngôn
ngữ thơ với ngôn ngữ văn xuôi). Ở chương Lục bát, tác giả đã có những nhận
định quan trọng: ngoài việc đề cập đến cách thức phát sinh thể loại lục bát,


5

Nguyễn Phan Cảnh cũng đã có được những lập luận khá thuyết phục cho vấn

đề về khả năng tồn tại của thể thơ truyền thống cách luật này. Tác giả đã chú
trọng đi vào một số bình diện của ngơn ngữ thơ: tính đa trị của tín hiệu ngơn
ngữ, nhạc thơ, mức độ và cách thức hoạt động của trường nét dư trong vận
động tạo thể...
Trong chuyên luận Góp phần tìm hiểu nghệ thuật thơ (1983), Bùi Cơng
Hùng đã đưa ra tập hợp những nguyên tắc chung về thi ca dưới ánh sáng của
những luận điểm đã được tổng kết trước đó về kết cấu hình thức và lí thuyết
hệ thống. Ơng đã chỉ ra các bình diện, cấp độ, các cấu trúc trong thơ, tuyệt đối
hóa mặt hình thức, tạm thời không quan tâm đến cơ chế sản sinh và cơ chế
vận động để lí giải các biểu hiện của ngôn ngữ thơ.
Trong chuyên luận Ngôn ngữ thơ Việt Nam (1998), Hữu Đạt đã sử dụng
các lí thuyết quan hệ hệ hình, quan hệ cú đoạn... để chỉ ra những đặc điểm cơ
bản của ngôn ngữ thơ tiếng Việt. Trong đó tác giả đã đưa ra được những luận
điểm quan trọng như kết cấu mảng miếng, nhạc thơ, một số đặc trưng của thơ
lục bát...
Trong chuyên luận Lục bát và song thất lục bát (1998), Phan Diễm
Phương đã tập trung giải quyết tương đối triệt để những vấn đề chung về thể
loại thơ như quá trình ra đời và phát triển của hai thể thơ lục bát và song thất
lục bát từ điểm nhìn cấu trúc âm luật thể loại. Đây là một bước tiến đáng ghi
nhận trong việc phân định hình thức chính thống của thể thơ truyền thống
cách luật. Cơng trình này cũng cùng xu hướng với chuyên luận Thơ và các
vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại của Hà Minh Đức (1974). Tuy nhiên, tác
giả Phan Diễm Phương đã đưa ra và giải quyết vấn đề này một cách tập trung
và toàn diện hơn.
Chuyên luận Giọng điệu trong thơ trữ tình (2002) của Nguyễn Đăng
Điệp là cuốn sách đầu tiên nghiên cứu tập trung về một trong những vấn đề


6


phức tạp nhất của thi pháp học hiện đại - vấn đề giọng điệu nghệ thuật. Trong
phần nói về các cấp độ giọng điệu trong thơ tác giả có bàn về vấn đề dung
lượng của một bài thơ. Tác giả khẳng định: Thơ là một thể loại ý tại ngôn
ngoại. Việc kiệm lời, kiệm chữ là một yêu cầu tối quan trọng đối với nhà thơ.
Có khi bài thơ chỉ một hoặc hai câu. Chúng dù ngắn, vẫn là một sinh thể
hồn chỉnh, và giá trị của chúng, nếu đích thực, cũng không hề thua kém bất
kỳ giá trị của một tác phẩm dài hơi nào.
Trong bài viết Thơ Tuyệt Cú, Haikư và Lục Bát, Nguyễn Thị Bích Hải
đã có những nhận xét xác đáng về hình thức cũng như tính hàm súc của ba thể
thơ này. Tác giả đã đề cập đến con đường phát triển của lục bát từ lục bát hai
dòng trong ca dao đến lục bát dài hơi rồi lại quay về dạng nguyên thủy của nó
trong sáng tác của Bút Tre, Nguyễn Duy. Tuy nhiên, bài viết này chỉ dừng lại
ở những luận điểm khái quát trên cơ sở so sánh những điểm tương đồng và dị
biệt của ba thể thơ cực ngắn của ba dân tộc.
Trong chuyên luận Thi pháp ca dao (1992), Nguyễn Xn kính đã sơ
lược về q trình phát triển của lục bát, các đỉnh cao của lục bát, đưa ra những
số liệu cụ thể về tỉ lệ ưu thế của lục bát 2 dòng và lục bát 4 dòng trong ca dao,
tác giả sơ bộ khẳng định: đây là một đặc điểm của thể loại chứ không phải
một ưu điểm.
Trong tác phẩm Nghìn câu thơ tài hoa Việt Nam (2000), Nguyễn Vũ
Tiềm đã trích dẫn một lượng lớn những bài lục bát 4 dòng và lục bát 2 dòng
hoặc cắt ra từ những bài lục bát dài hơi đã chứng tỏ khả năng vận hành độc
lập và tính hàm súc cao của lục bát ngắn hiện đại. Những bài thơ (hay những
đơn vị trích dẫn) này đã kết tinh thành những viên ngọc quý và ghim chặt vào
kí ức của độc giả yêu thơ hiện đại.


7

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài gồm 100 bài lục bát 2 dòng và 100 bài
lục bát 4 dòng hiện đại được tác giả luận văn chọn từ các bài thơ đạt giải
trong các cuộc thi thơ, được đăng báo, tạp chí và từ các tập thơ của các tác
giả.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong các bài lục bát 2 dịng và
4 dịng hiện đại đăng trên báo, tạp chí, các tập thơ của các tác giả được xuất
bản.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích
Tìm hiểu về vẻ đẹp của lục bát hiện đại 2 dòng và 4 dòng trên các
phương diện ngữ âm, ngữ nghĩa.
Làm rõ triển vọng, cách thức vận động và phát triển của lục bát 2 dịng,
lục bát 4 dịng hiện đại.
Góp phần xây dựng và hoàn chỉnh thêm những nguyên tắc và lí thuyết
ngơn ngữ học nghiên cứu những thể thơ ngắn nói chung, lục bát 2 dịng và lục
bát 4 dịng hiện đại nói riêng.
4.2. Nhiệm vụ
Từ lí thuyết về ngữ âm, luận văn chỉ ra đặc trưng hình thức ngữ âm của
lục bát 2 dòng và lục bát 4 dòng hiện đại.
Từ lí thuyết về phương thức, phương tiện tạo nghĩa, luận văn chỉ ra
những đặc trưng về việc lựa chọn, xây dựng các cấu trúc ngữ nghĩa có tính tu
từ cao trong thơ lục bát 2 dòng và lục bát 4 dòng hiện đại.


8

5. Phương pháp nghiên cứu
Trên nguyên lý chung là quy nạp, luận văn sử dụng các phương pháp

nghiên cứu sau:
Phương pháp thống kê, phân loại nhằm định lượng hóa một số đặc
trưng ngôn ngữ cơ bản và khái quát của các tác phẩm lục bát hiện đại được
lựa chọn khảo sát.
Phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm định tính hóa một số đặc trưng
ngôn ngữ cụ thể của một số phương thức và phương tiện ngôn ngữ tiêu biểu
trong thơ lục bát 2 dịng và lục bát 4 dịng.
6. Đóng góp của luận văn
Đây là cơng trình đầu tiên nghiên cứu đặc trưng ngơn ngữ thơ lục bát 2
dịng và lục bát 4 dịng hiện đại trên cả hai bình diện cấu trúc âm luật và
phương thức, phương tiện tạo nghĩa.
Luận văn đặc biệt vận dụng các thao tác định lượng, định tính trong cái
nhìn đồng đại và lịch đại để chỉ ra các đặc trưng ngôn ngữ của một bộ phận
lục bát trong dòng chảy chung của một thể thơ truyền thống cách luật thông
qua tâm điểm của hệ quy chiếu là ngơn ngữ thơ lục bát 2 dịng và lục bát 4
dịng hiện đại.
Luận văn khơng dừng lại ở việc chỉ ra các đặc trưng ngôn ngữ mà còn
chỉ ra cách thức tồn tại, khuynh hướng vận động của lục bát 2 dòng, lục bát 4
dòng hiện đại. Đồng thời đưa ra những dự báo về bộ phận nhỏ này trong dòng
chảy chung của lục bát: khả năng tồn tại và xu hướng phát triển.
7. Cấu trúc luận văn
Tương ứng với những nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra, ngoài phần Mở
đầu và phần Kết luận, nội dung luận văn được triển khai trong 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về ngôn ngữ thơ lục bát và lục bát 2
dòng, lục bát 4 dòng hiện đại


9

Chương 2: Đặc trưng ngữ âm trong thơ lục bát 2 dòng và lục bát 4 dòng

hiện đại
Chương 3: Phương thức, phương tiện tạo nghĩa đặc trưng trong thơ lục
bát 2 dòng và lục bát 4 dòng hiện đại
Sau cùng là phần Tài liệu tham khảo.


10

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGÔN NGỮ THƠ LỤC BÁT
VÀ LỤC BÁT 2 DÒNG, LỤC BÁT 4 DÒNG HIỆN ĐẠI
1.1. Thơ và những xu hướng tiếp cận phổ biến
1.1.1. Thơ trong cuộc sống con người
Thơ là sản phẩm do con người sáng tạo nên, đồng thời cũng là đối
tượng được trân trọng, tơn sùng như một tín ngưỡng. Từ thời Arixtot, thơ đã
được quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, sau hơn hai mươi thế kỷ, các thành tựu
nghiên cứu về loại hình nghệ thuật này vẫn chưa làm người ta thỏa mãn.
Điều làm nên bề rộng, chiều sâu và vẻ đẹp lung linh đầy ma lực của thơ
nằm ở chất liệu cấu tạo nên nó – đó là ngôn ngữ. Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên
cấu tạo nên thơ đồng thời cũng là phương thức biểu đạt của thơ. Ngôn ngữ
thơ thống nhất nhưng không đồng nhất với ngôn ngữ chung. Ngôn ngữ thơ là
ngôn ngữ đời sống đã được nâng cao, mài dũa. Để chiếm lĩnh được ý nghĩa
thẩm mỹ của một tác phẩm thơ, con người khơng chỉ đơn giản dựa vào những
gì tri giác trực tiếp (nghe thấy, nhìn thấy) mà phải qua thao tác tưởng tượng,
liên tưởng. Có thể nói ngơn ngữ thơ là nơi tập trung, bộc lộ, phát huy tối đa
tinh hoa, những điểm ưu việt của một ngôn ngữ dân tộc. Khơng ở đâu ngơn
ngữ lại biến hóa bất ngờ, tạo ra những hào quang liên tưởng kì ảo tạo nên
những rung động tinh tế, mãnh liệt như trên mảnh đất thi ca.
Đã có nhiều nhà thơ, nhà nghiên cứu đưa ra những định nghĩa khác
nhau về thơ thông qua các thao tác phân tích và đơn vị - bình diện tiếp cận.

Những phát biểu đó phần nào cho thấy bản chất, đặc trưng quá trình sáng tạo
thơ cũng như giá trị của nó trong đời sống tinh thần con người xưa nay.
Bielinxki có lần nêu lên câu hỏi: Thơ là gì? và ơng tự trả lời: Thơ là sự sống,
là cái mỉm cười của sự sống đang reo vui và thoăn thoắt biến hóa… thơ là
ánh tươi hồng trên môi thiếu nữ, là tiếng cười hiền lành, trong trẻo của trẻ


11

thơ. Khi nói về thơ, Puskin thì ơng lại nói: Thơ là nghệ thuật, là tài nghệ, là
sự sáng tạo có tính chất nghệ sĩ, nghĩa là rút cuộc thơ phải được sáng tạo
trong ngơn từ. Cuộc sống tự nó đẹp nhưng chưa phải là thơ. Nhắc đến điều
này tuy khơng mới, nhưng ngày nay vẫn có nhiều người hiểu chất thơ ở ngồi
ngơn từ! [46, 125]. Phan Ngọc đã đưa ra một định nghĩa về thơ: Thơ là một
cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ,
phải cảm xúc do chính hình thức ngôn ngữ này (chữ quái đản trong trường
hợp này được Phan Ngọc giải thích là khác lạ so với thơng thường). Từ việc
chỉ ra Q trình sáng tạo thơ và hướng Tiếp cận nghệ thuật thơ, Bùi Cơng
Hùng nhìn nhận thơ trong sự so sánh với văn xi. Ơng cho rằng: Ngôn ngữ
thơ không dày đặc như trong văn xuôi, mà chia cắt ra các phần ngắn hay dài
theo âm luật. Các thành phần này được chia thành câu thơ và thường được
chia ra thành các dòng thơ nhỏ hơn. Thơ lấy chất liệu từ đời sống được lưu
lại qua cảm giác của nhà thơ tạo thành những biểu tượng, thơng qua liên
tưởng, tưởng tượng để hình thành tứ thơ. Từ đó nhà thơ lựa chọn từ ngữ, nhạc
điệu, hình tượng để tổ chức bài thơ. Như vậy, ngơn ngữ thơ là thứ ngơn ngữ
mang tính hàm súc và giàu hình tượng, là kết quả của quá trình dày công sáng
tạo nghệ thuật của nhà thơ. Mặt khác khi đề cập đến các thành phần cơ bản
trong từng câu thơ, đoạn thơ trong một bài thơ, trong từng tập thơ cho thấy
các đơn vị cấu thành nên nó vừa có tính độc lập cao lại vừa có tính hệ thống.
Nguyễn Phan Cảnh đã nhìn nhận thơ từ những đặc trưng ngơn ngữ của nó:

thuyết hệ hình, kỹ thuật lắp ghép và trường nét dư. Thuyết hệ hình mà tác giả
đưa ra khơng mới song qua đó một lần nữa việc xem xét thơ từ phương thức
lựa chọn ngôn từ trong các hệ hình để tạo ra hiệu quả biểu đạt cao nhất được
khẳng định là đúng và có sức thuyết phục cao. Ông đi vào lý giải nguồn gốc
và phương thức cấu tạo các tín hiệu đơn, cụ thể là các biện pháp tu từ trên cơ
sở cấu trúc phổ biến của ngơn ngữ thơ. Từ đó chỉ ra cách tổ chức kép lượng


12

ngữ nghĩa và phương thức lắp ghép tạo bất ngờ cú pháp là phương thức cơ
bản trong cấu tạo tác phẩm thơ. Trong đó, vấn đề trường nét dư được đề cập
và lí giải khá triệt để. Thơ là một ngôn ngữ đã được loại nét dư theo những
cách thức khác nhau đến mức tối đa chỉ còn lại những nét khu biệt. Hệ quả là,
nếu bằng cách nào đấy khôi phục lại những nét dư cho văn bản thơ, bài thơ sẽ
biến thành văn xi.
Tóm lại, những lí giải nói trên thể hiện sự trăn trở về thơ như một hiện
tượng đặc biệt không thể thiếu đồng hành cùng đời sống tinh thần của nhân
loại. Thơ là đỉnh cao của nghệ thuật ngôn từ, thơ không xa lạ với mọi người
nhưng khơng ai có thể đi đến tận cùng giá trị của nó. Thơ hấp dẫn con người
suốt bao nhiêu thế hệ có lẽ một phần lớn cũng vì điều này.
1.1.2. Những xu hướng tiếp cận phổ biến
Một bài thơ, dù dài hay ngắn xét cho cùng đều là một chỉnh thể nghệ
thuật được cấu thành bởi hai mặt hình thức và nội dung. Khi tiếp xúc với thơ
khơng thể bỏ qua mặt hình thức, nếu chỉ để ý đến ý thơ mà qn đi nhạc thơ
thì đó là một cách tiếp cận thiên lệch. Khơng có nghệ thuật nào khơng bắt đầu
bằng hình thức, bằng sự sáng tạo về hình thức để thực hiện sự sáng tạo về nội
dung. Nội dung phải được hồn tất trong một hình thức xác định. Đối với
nghệ thuật ngôn từ, điều này lại càng được chú trọng hơn. Để tiếp cận một bài
thơ, không chỉ dừng ở việc liệt kê tiểu sử tác giả, tóm tắt nội dung, nêu chủ đề

bài thơ, hay giải thích ý nghĩa chung chung mà cịn phải lắng nghe cả những
giai điệu réo rắt của âm thanh trên từng con chữ.
Xu hướng tiếp cận từ bình diện ngữ âm. Ngữ âm hay cịn gọi là nhạc
tính của thơ. Những nhà thẩm âm của thơ vừa phải uyên thâm về tứ vừa phải
hiểu biết về nhạc. Hai phẩm chất này phải hịa quyện với nhau. Từ góc nhìn
về âm điệu, mỗi dân tộc có thể có một thể thơ độc quyền. Nó là cái gen trong
lời ăn tiếng nói của cả cộng đồng phát triển trong hàng ngàn năm lịch sử. Mỗi


13

thể thơ được hình thành xuất phát từ nhiều tác động khác nhau: tư tưởng, tình
cảm, văn hóa và tư duy của dân tộc đó. Đặc biệt là thể thơ này phải phôi thai
từ ngôn ngữ cộng đồng và cũng là phương tiện tôn vinh vẻ đẹp của ngôn ngữ
cộng đồng sử dụng nó. Ngữ âm trong thơ giúp phân biệt thơ với văn xuôi,
giữa thể thơ này với thể thơ khác, giữa thời đại này với thời đại khác, thậm
chí giữa bài thơ này với bài thơ khác và giữa các tác giả với nhau. Mặt ngữ
âm tạo nên nhạc tính thơ. Tính nhạc được xuất phát từ những rung cảm tinh tế
và sâu sắc nhất của hồn người lưu lại bằng âm thanh ngơn ngữ. Do đó nhạc
tính là phương tiện biểu hiện tình cảm. Khi đọc một bài thơ, cái đầu tiên đến
với người đọc là nhạc thơ. Nhạc thơ gây ấn tượng từ sự khác biệt của các
tiếng lịng khác nhau. Đọc thơ cũng chính là đọc tiếng lòng nhà thơ đã được
gửi gắm qua câu chữ, âm thanh của tiếng lòng vang vọng như những con sóng
cảm xúc ám ảnh người đọc, làm người đọc xúc động khi tìm ra được sự đồng
cảm. Trong thơ, mỗi biến tấu về nhạc điệu: bằng – trắc, trầm bổng, lối vắt
dòng, ngắt nhịp, điệp âm, điệp vần, điệp cấu trúc, những hình thức cố ý phân
chia dịng thất thường nhằm tạo nên nhịp điệu lạ, cách bố trí câu thơ, bài thơ
toàn vần bằng hay toàn vần trắc liên tiếp,… đều mang dụng ý nghệ thuật nhất
định. Khi phân tích thơ, nếu bỏ qua những điểm nhấn ngữ âm này coi như
người đọc chưa thấy được vẻ đẹp thực sự của ngôn bản thơ.

Xu hướng tiếp cận từ bình diện ngữ nghĩa. Đây là xu hướng chủ đạo.
Khác với cách tiếp cận từ bình diện ngữ âm, tiếp cận thi ca từ phương diện ý
nghĩa có những thuận lợi riêng. Nhạc thơ cần đến sự nhạy cảm của cảm nhận,
ý thơ chỉ cần năng lực trải nghiệm và liên tưởng. Ngơn ngữ thơ mang tính đa
trị. Đó là ngơn ngữ giàu hình tượng, giàu sức gợi và hàm súc. Sự chuyển
nghĩa trong thơ được tạo nên từ việc sử dụng dày đặc các biện pháp tu từ và
phương tiện tu từ ngữ nghĩa: ẩn dụ, hoán dụ, so sánh, điệp từ, từ cổ, thành
ngữ,… cách kết hợp bất thường các đơn vị ngôn ngữ trên trục ngữ đoạn,


14

chuyển đổi trật tự thành phần câu, tạo nghĩa mới mang tính lâm thời và gây ấn
tượng nơi người đọc. Tiếp cận thơ từ góc độ ngữ nghĩa, cần những kiến thức
nhất định về từ vựng, các phương thức chuyển đổi ý nghĩa của ngôn từ…
Việc tiếp cận văn bản thơ có thể đi theo nhiều hướng khác nhau, như:
tiếp cận ở bình diện cấu trúc, tiếp cận trên bình diện cảm xúc, tiếp cận trên
bình diện tín hiệu thẩm mỹ, tiếp cận liên văn bản… Tuy nhiên, văn bản thơ là
một hệ thống mang giá trị tổng thể của 2 mặt căn bản. Vì vậy, nhà nghệ sĩ
ngơn từ phải xây dựng những mơ hình cấu trúc ngữ nghĩa phù hợp nhất với
tiết điệu để có thể phát huy tối đa năng lực biểu đạt. Việc tiếp cận thơ từ
phương diện ngữ âm - ngữ nghĩa chính là cách tiếp cận tồn diện và thuyết
phục nhất. Nó giúp cho q trình tri giác thơ trở nên tồn diện, khoa học và có
hệ thống hơn.
1.2. Lục bát trong nền thơ dân tộc
1.2.1. Lược sử về thơ lục bát
Hầu hết các nhà nghiên cứu đều đi tìm nguồn gốc của thể lục bát, và cố
gắng xác lập thời gian cụ thể cho sự ra đời của thể loại. Tuy nhiên cho đến
nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này. Trong Thể lục bát từ ca
dao đến truyện Kiều (1974) Nguyễn Văn Hoàn cho rằng: Thể lục bát, sớm

nhất, cũng chỉ xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ XV. Trong Thơ Việt Nam,
hình thức và thể loại (1971), Bùi Văn Nguyên nêu giả thuyết rằng lục bát gieo
vần lưng ở tiếng thứ tư của câu bát cổ hơn loại gieo vần lưng ở tiếng thứ sáu.
Tác giả Nguyễn Xn Kính, người có cơng đầu trong sưu tầm và nghiên cứu
ca dao đã đưa ra một số liệu cụ thể để chứng minh đại đa số ca dao được sáng
tác theo thể lục bát. Nhắc đến ca dao là người ta nghĩ ngay đến thể thơ này.
Theo thống kê, trong số 1015 lời của cuốn Ca dao Việt Nam có tới 973 lời
được sáng tác theo thể lục bát, chiếm 95%, các thể còn lại (song thất, song
thất lục bát, hỗn hợp, bốn tiếng…) chiếm 5% [27, 219]. Như vậy, hầu hết các


15

nhà nghiên cứu đều trực tiếp hay gián tiếp khẳng định thể lục bát là thể thơ cổ
điển thuần Việt, có nguồn gốc từ ca dao.
1.1.2. Những đỉnh cao của thơ lục bát
Hầu hết các cơng trình nghiên cứu đều có chung nhận định, từ lúc hình
thành đến nay, lục bát đã phát triển qua 4 giai đoạn: 1 – Lục bát ca dao; 2 –
Lục bát Truyện Kiều; 3 – Lục bát Thơ Mới; 4 – Lục bát hậu hiện đại. Có thể
nói, q trình phát triển của tiến trình văn học Việt Nam, thể lục bát có vai trị
đặc biệt và có sức sống mạnh mẽ. Từ lúc ra đời đến nay lục bát đã luôn vận
động, biến đổi và phát triển cùng với thời gian. Vì lẽ đó, lục bát đã kết tinh
những gì tinh túy nhất của tinh hoa văn hóa Việt. Ở mỗi thời kỳ, lục bát đều
mang vẻ đẹp riêng tạo thành những dấu ấn đậm nét.
Thành tựu nổi bật nhất của lục bát dân gian là ca dao. Đó là tiếng nói
tâm tình cất lên từ đồng ruộng, nơi khởi thủy những tình cảm trong sáng nhất,
tự nhiên nhất của cha ông. Từ lâu lục bát ca dao đã đi vào lời ca tiếng hát,
những bài hát ru con của các bà, các mẹ một cách tự nhiên như chính sự ra
đời của nó. Mặt khác, những giá trị của lục bát ca dao còn được lưu giữ bằng
cách tiếp thu và sử dụng chất liệu dân gian để làm mới nó qua nhiều thế hệ

trong tiến trình phát triển, mà tiêu biểu là tuyệt tác Truyện Kiều của đại thi
hào Nguyễn Du, và sau này là các sáng tác của lục bát hiện đại.
Đến Nguyễn Du, lục bát đã thực hiện một bước nhảy đột biến, sự ra đời
của Truyện Kiều đã hoàn toàn thay đổi số phận của một thể loại văn học vốn
trước đó chỉ được coi là bình dân lên ngang tầm thể thơ hàn lâm. Tác phẩm
không chỉ mang giá trị nhân đạo sâu sắc mà còn là nơi khẳng định tài năng sử
dụng ngôn ngữ điêu luyện. Ở Truyện Kiều, ngơn ngữ bác học và ngơn ngữ
bình dân đã hòa quyện với nhau, bổ sung cho nhau và phát huy cao độ những
mặt tích cực của nó. Ngôn ngữ Truyện Kiều đã đạt đến mức tinh hoa. Từng
câu, từng chữ trong Truyện Kiều đều là những viên ngọc quý mà cho đến nay


16

vẫn còn làm cho bao thế hệ hậu thế phải nghiêng mình bái phục vì thực sự
khơng thể tìm ra bất kỳ một lựa chọn tối ưu hơn khả dĩ thay thế trong số 3254
câu lục bát đồ sộ ấy. Có thể nói từ khi ra đời đến nay, Truyện Kiều được coi là
tác phẩm kỳ lạ bậc nhất trong lịch sử văn học nước nhà. Lật lại tiểu sử của
kiệt tác này, nguồn gốc ra đời của tác phẩm cũng rất đặc biệt. Từ việc mượn
cốt truyện và nhân vật của một tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc có tên Kim
Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (vốn là một loại tiểu thuyết diễm
tình), Nguyễn Du đã sử dụng cấu trúc lối diễn ca của truyện thơ Nôm và thể
lục bát dân gian để tạo nên một kiệt tác văn chương được coi là hàn lâm bậc
nhất trên thi đàn thơ Việt. Tác phẩm đã được dịch ra hàng trăm thứ tiếng trên
thế giới. Nhờ Truyện Kiều của thi sĩ làng Tiên Điền mà người ta mới biết đến
Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Những cuộc bút chiến nảy
lửa đã diễn ra xung quanh hai tác phẩm này để rồi vinh quang thuộc về
Truyện Kiều, vì người đọc nhận ra sự khác biệt rất xa của hai tác phẩm: một
tiểu thuyết diễm tình ủy mị và một thiên tuyệt bút mang rất nhiều giá trị. Nhà
nghiên cứu Đào Duy Anh đã từng nhận xét: Trong lịch sử ngôn ngữ và lịch sử

văn học Việt Nam, nếu Nguyễn Trãi với Quốc Âm Thi tập là người đặt nền
móng cho ngơn ngữ văn học dân tộc thì Nguyễn Du với Truyện Kiều lại là
người đặt nền móng cho văn học hiện đại nước ta. Với Truyện Kiều của
Nguyễn Du, có thể nói rằng ngơn ngữ Việt Nam đã trải qua một cuộc thay đổi
về chất và đã tỏ rõ khả năng biểu hiện đầy đủ và sâu sắc…[1]. Ngòi bút tài
hoa và uyên bác ấy thể hiện rõ nét ở việc vận dụng từ ngữ với chiều sâu văn
hóa và sự sáng tạo tuyệt vời. Có thể tìm thấy hàng trăm nghìn điển cố, điển
tích, thành ngữ, tục ngữ, tiếng lóng… được làm mới đã tạo nên sức nặng cho
từng con chữ, dòng thơ, khổ thơ và tồn bộ tác phẩm. Chính sự un thâm đó
mà cho đến nay, sau gần 300 năm ra đời Truyện Kiều vẫn còn là một miền đất


17

vô cùng màu mỡ, huyền diệu và lạ kỳ thu hút sự quan tâm đặc biệt của giới
nghiên cứu.
Đầu thế kỷ XX, phong trào cách tân thơ nổ ra rầm rộ do ảnh hưởng từ
làn gió lãng mạn phương Tây. Bộ mặt của thơ thay đổi rõ nét, chuyển sang
giai đoạn mới: giai đoạn hiện đại hóa. Người ta làm mới thơ bằng cách tìm ra
những hình thức biểu đạt mới, sáng tạo ra những thể thơ mới. Trong bối cảnh
đó, một điều đáng ngạc nhiên là lục bát khơng bị loại khỏi cuộc chơi mà đóng
một vai trị quan trọng tạo nên diện mạo mới cho vườn hoa muôn sắc của Thơ
Mới 1932 -1945. Lục bát trong Thơ Mới khai thác triệt để đa dạng các chức
năng và nội dung thể loại nhằm thể hiện những cung bậc cảm xúc, những
trạng huống tâm hồn phong phú tinh vi của con người hiện đại. Trong đó nổi
bật nhất là chức năng trữ tình với nội dung bày tỏ tư tưởng tình cảm của cái
tơi cá nhân cá thể. Cấu trúc, nhịp điệu của lục bát rất phù hợp diễn tả tâm
trạng bâng khuâng, mơ hồ của các thi sĩ Thơ Mới. Mặt khác, lục bát Thơ Mới
đã có những thay đổi, khơng chỉ có nhịp chẵn, khoan thai, đều đặn mà cịn có
những cách ngắt nhịp đa dạng, biến hóa hơn: Có gì như thể nhớ mong? – Nhớ

nàng/ Khơng/ Quyết là khơng/ nhớ nàng! (Người hàng xóm, Nguyễn Bính);
Anh đi đấy/ anh về đâu? – Cánh buồm nâu/ cánh buồm nâu/ cánh buồm... (Vơ
đề, Nguyễn Bính). Thêm nữa, cấu trúc lục bát Thơ Mới đã mang dáng dấp
hiện đại khác hẳn cấu trúc cũ: đơn vị cú pháp không trùng với đơn vị câu thơ,
đơn vị ý nghĩa từ câu lục tràn sang câu bát mà các nhà nghiên cứu gọi là hiện
tượng vắt dòng: Trời cao xanh ngắt. Ô kìa – Hai con hạc trắng bay về bồng
lai (Tiếng sáo thiên thai, Thế Lữ); Mùa thi sắp đến! Em thơ – Cái hôn âu yếm
xin chờ năm sau (Mùa thi, Xuân Diệu). Theo thống kê, trong tuyển tập Thơ
Mới 1932 – 1945, tác giả và tác phẩm (2004) do Lại Nguyên Ân tập hợp,
trong tổng số 1089 tác phẩm và 89 nhà thơ được tuyển chọn, lục bát có 147
tác phẩm (chiếm 13,6%). Nếu so với hai thể loại mà Thơ Mới dùng nhiều nhất


18

là 7 chữ và 8 chữ thì lục bát chiếm 1/3. Hai thể tứ tuyệt và bát cú đường luật
chính thống của văn học trung đại đã bị lục bát vượt xa về số lượng. Thực tế
này cho thấy, lục bát, một thể thơ cổ truyền của dân tộc đến thời hiện đại,
trong thế cạnh tranh với nhiều thể loại vẫn giữ được vị thế vững chắc trên thi
đàn. Có thể kể ra hàng loạt tên tuổi như: Thế Lữ, Huy Cận, Anh Thơ, Đồn
Văn Cừ, Nguyễn Bính, Xn Diệu, Trần Huyền Trân, Hồ Dzếnh… Trong các
nhà Thơ Mới kể trên thì Nguyễn Bính là người sử dụng lục bát nhiều nhất và
cũng thành công rực rỡ ở thể loại này với một lượng tác phẩm đồ sộ trong 7
tập thơ: Lỡ bước sang ngang (1940), Tâm hồn tôi (1940), Hương cố nhân
(1941), Mây tần (1942), Người con gái lầu hoa (1942), Bóng giai nhân
(1942). Một điều đặc biệt có thể bắt gặp trong sáng tác Nguyễn Bính các hình
ảnh rất mực bình dị, mộc mạc, và chân quê. Thơ lục bát Nguyễn Bính có
khuynh hướng trở về với làn điệu ca dao về hình ảnh, ngơn ngữ, nhịp điệu
cũng như lối diễn đạt. Nguyễn Bính được Hồi Thanh, Hồi Chân – tác giả
Thi nhân Việt Nam dành cho những nhận xét ưu ái nhất: Người nhà quê của

Nguyễn Bính vẫn hiên ngang sống như thường. Tơi muốn nói Nguyễn Bính
vẫn giữ được chất nhà quê nhiều lắm, và thơ Nguyễn Bính đã đánh thức
người nhà quê ẩn náu trong lịng ta.
Nếu như lục bát Nguyễn Bính trở về với chất nhà quê của những cảm
xúc tinh tế, những nỗi buồn của cái tơi cá thể thì lục bát Tố Hữu có khuynh
hướng trở về với cội nguồn nhưng là để cất lên tiếng ca chung cho cả cộng
đồng trong cuộc kháng chiến vĩ đại. Ở Tố Hữu có sự kết hợp hài hòa giữa lý
tưởng cao đẹp, sáng tỏ nhất của thời đại với hình thức ngơn ngữ mới của thi
ca. Thơ Tố Hữu được coi là đỉnh cao thơ trữ tình sử thi trong văn học Việt
Nam hiện đại. Ngôn ngữ thơ lục bát Tố Hữu thuộc ngôn ngữ thơ trữ tình điệu
nói (chữ dùng của Trần Đình Sử). Đây là một đặc điểm của quá trình cộng
sinh thể loại trong q trình hiện đại hóa văn học, biến tấu câu thơ điệu ngâm


19

thành câu thơ điệu nói. Lục bát Tố Hữu vận dụng một cách thuần thục và rất
mực tự nhiên lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân. Thành ngữ, tục ngữ,
tiếng địa phương được sử dụng như những phương tiện tu từ trong thơ Tố
Hữu. Chính những phương tiện ngơn ngữ này kết hợp với giọng tâm tình ngọt
ngào, đằm thắm đã tạo nên cái duyên đặc biệt và sức hấp dẫn kỳ lạ cho lục bát
Tố Hữu. Ông cũng là nhà thơ có sự nhạy cảm đặc biệt với nhạc tính của tiếng
Việt. Lục bát Tố Hữu phát huy cao độ tính nhạc phong phú của tiếng Việt. Đó
là sự hịa hợp của thứ nhạc bên trong của tâm hồn và thứ nhạc bên ngoài của
bài thơ. Đọc lục bát Tố Hữu, ta có cảm giác những câu thơ như những lớp
sóng cảm xúc tn trào và tạo ra những xung động lớn: Vui sao một sáng
tháng năm – Đường về Việt Bắc, lên thăm cụ Hồ - Suối dài xanh mướt nương
ngô – Bốn phương lồng lộng thủ đơ gió ngàn (Sáng tháng năm); Nhớ gì như
nhớ người yêu – Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương - Nhớ từng bản
khói cùng sương – Sớm khuya bếp lửa người thương đi về (Việt Bắc). Lục bát

Tố Hữu vừa ru người bằng nhạc vừa thức người bằng ý.
Khi thời đại hào hùng và cảm hứng lãng mạn đã qua đi, lục bát cũng
hoàn thành một chặng đường phát triển của mình đồng thời thay đổi để thích
nghi, hịa nhập với những u cầu vơ cùng phức tạp trong tâm lý của con
người thời mở cửa. Một loạt tác giả mới xuất hiện với phong cách sáng tạo
độc đáo góp phần làm nên diện mạo mới của lục bát: Nguyễn Duy, Đồng Đức
Bốn, Trương Nam Hương, Lê Đình Cánh, Thu Nguyệt, Đoàn Thị Lam Luyến,
Đỗ Trọng Khơi, Nguyễn Ngọc Hưng, Văn Công Hùng, Bùi Giáng, Nguyễn
Thị Khánh Minh, Nguyễn Vũ Tiềm, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Oánh, Triều
Tâm Ảnh, Trần Đăng Khoa, Mai Văn Hai, Điền Ngọc Phách, Phạm Thiên
Thư…


20

1.3. Lục bát 2 dòng và lục bát 4 dòng
1.3.1. Những hình thức lục bát phổ biến
Lục bát có hình thức tối thiểu gồm hai dòng thơ, dòng lục trên và dịng
bát dưới tạo thành một câu thơ hồn chỉnh diễn đạt trọn vẹn một ý được ví
như nhịp thở đều đặn. Mặt khác, giữa hai dịng thơ có mối quan hệ khá chặt
chẽ về mặt âm luật. Đó là việc gieo thanh bằng - trắc ở các vị trí đã định và
yêu cầu hiệp vần (vần bằng) thường là thuần âm ở vần chân dịng lục với vị trí
thứ 6 trong dịng bát: Anh như táo rụng sân đình – Em như gái rỡ đi rình của
chua; Ước gì sông rộng một gang – Bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi;
Đôi ta chẳng đặng sum vầy – Khác nào chiếc nhạn lạc bầy kêu sương… Về
sau, do nhu cầu biểu đạt ý nghĩa, cần một hình thức rộng rãi hơn, hiện tượng
hiệp vần chân giữa dòng bát và dòng lục đã xuất hiện trong câu lục bát mới.
Đây là một nét sáng tạo có vai trị quyết định cho sự phát triển về dung lượng
của thể thơ lục bát góp phần tạo nên sự linh động tuyệt vời về độ hài âm. Nhờ
tính chất bắc cầu này, sự hiệp vần khơng xảy ra sự đứt đoạn. Tình trạng này

thể hiện rất rõ ở các hình thức lục bát có dung lượng từ 4 dịng trở lên: Bồng
em mà bỏ vô nôi – Cho mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu - Mua vôi chợ quán chợ
cầu – Mua cau Bát Nhị, mua trầu Hội An; Rủ nhau xuống bể mò cua – Đem
về nấu quả mơ chua trên rừng - Em ơi chua ngọt đã từng – Non xanh nước
bạc ta đừng quên nhau… Sau mỗi cặp 6-8 lại diễn ra một lần nối vần, tính hài
hịa về nhạc điệu lục bát nhờ vậy được đảm bảo. Có thể ví sự liên kết này như
một vịng trịn mà mỗi câu lục bát như một cá nhân trong mối quan hệ với
những người khác. Đó cũng là cơ sở xuất hiện các hình thức lục bát có độ dài
số câu khác nhau tùy vào nhu cầu sáng tạo của tác giả. Như vậy, hình thức
của lục bát có thể là một đơn vị tối thiểu là 2 dòng, hoặc có thể kéo dài 4
dịng, 6 dịng, 8 dịng, 10 dịng hoặc lên đến vài ngàn dịng (truyện thơ Nơm).
Thơng thường, một bài thơ lục bát kết thúc ở câu bát nên các hình thức của


21

thơ lục bát là chẵn (trừ một số trường hợp đặc biệt kết thúc ở dòng lục trong
ca dao, hay một số ít tác phẩm của các tác giả hiện đại nhằm tạo nên một độ
hẫng về cảm xúc). Các hình thức lục bát dài hơi khơng xuất hiện trong ca dao,
do đặc điểm ứng đối tức thời và lưu giữ thơng qua hình thức truyền miệng
dân gian. Trong Tuyển tập thơ Mới 1932 – 1945, tác giả và tác phẩm, tác
phẩm có dung lượng nhỏ nhất là Hoa cỏ may của Nguyễn Bính với 2 dịng lục
bát. Chứa phần nhiều là những bài 4 dòng (15 bài), 8 dòng (14 bài), 10 dòng
(10 bài), 12 dòng (17 bài), 14 dịng (11 bài). Những bài có dung lượng lớn
như Lỡ bước sang ngang của Nguyễn Bính (110 dịng), Lịng son sắt của
Phạm Huy Thơng (98 dịng), Độc hành ca của Trần Huyền Trân (92 dịng),
tác phẩm dài nhất là Bóng ai của Cẩm Lai (140 dịng). Như vậy, có thể thấy
hình thức lục bát được sử dụng phổ biến trong văn học hiện đại nhìn chung có
dung lượng nhỏ.
1.3.2. Lục bát 2 dịng và lục bát 4 dịng

Về mặt hình thức, có thể coi lục bát là thể thơ cách luật ngắn nhất trong
lịch sử văn học nước nhà. Một đơn vị tối thiểu gồm một cặp 6-8 với 14 âm
tiết tương đương với một đơn vị phát ngôn. Một câu hỏi được đặt ra: với một
hình thức khiêm tốn như vậy làm sao lục bát lại có thể đứng vững trên văn
đàn ở vị trí đại diện cho thơ Việt? Một bài thơ chỉ có 2 dịng thì sức nặng câu
chữ đặt vào câu thơ ấy phải rất lớn, và tất nhiên nếu thành cơng nó vẫn có giá
trị ngang hàng một tác phẩm dài hơi.
Thực tế cho thấy, trong lịch sử hình thành và phát triển, nền văn học
của nhiều nước trên thế giới có những thể thơ cực ngắn nhưng được coi là
viên ngọc của cả một nền thi ca. Thơ Tứ Tuyệt của Trung Quốc (gồm 28 âm
tiết), hay thể Haikư của Nhật Bản (17 âm tiết) là những thể thơ như vậy. Từ
đây, có thể thấy một hình thức nhỏ khơng phải là trở ngại đối với thi ca mà


×