Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn trong việc giáo dục lý tưởng cho sinh viên thành phố hồ chí minh trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (428.92 KB, 101 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN
------------

LÊ THỊ HIỀN

MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG
GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG VIỆC GIÁO DỤC LÝ TƯỞNG
CHO SINH VIÊN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
Mã số: 5.01.02

Người hướng dẫn Khoa học:
Phó Giáo sư, Tiến só VŨ TÌNH

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2006


2

MỤC LỤC
____
Trang



MỞ ĐẦU...................................................................................................... 3
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN VỀ GIÁO DỤC
LÝ TƯỞNG VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN ................................................................................................. 10
1.1.

GIÁO DỤC LÝ TƯỞNG ......................................................................... 10

1.1.1. Khái niệm lý tưởng và phân loại lý tưởng........................................ 10
1.1.2. Giáo dục lý tưởng và những phương diện hợp thành của
nó...................................................................................................... 14
1.2.

NHỮNG LUẬN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC –
LÊNIN VỀ THỰC TIỄN VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN TRONG VIỆC GIÁO DỤC LÝ TƯỞNG ....................... 22

1.2.1. Ý nghóa của phạm trù thực tiễn trong việc giáo dục lý
tưởng................................................................................................. 22
1.2.2. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong việc giáo
dục lý tưởng...................................................................................... 31

Chương 2


3

MỐI QUAN HỆ GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG

VIỆC GIÁO DỤC LÝ TƯỞNG CHO SINH VIÊN THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY .........................................................36
2.1.

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA SINH VIÊN THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH.. ................................................................................. 36

2.1.1 Khái niệm sinh viên và những đặc điểm chung của
sinh viên .................................................................................................36
2.1.2 Những đặc điểm cơ bản của sinh viên thành phố Hồ Chí
Minh .......................................................................................................... 38
2.2.

THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN TRONG VIỆC GIÁO DỤC LÝ TƯỞNG CHO SINH
VIÊN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - THÀNH QUẢ VÀ HẠN
CHẾ ...................................................................................................................... 43

2.3.

NGUYÊN NHÂN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ VIỆC GIÁO DỤC LÝ TƯỞNG CHO SINH VIÊN THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ................................ 61

2.3.1 Nguyên nhân tác động đến việc giáo dục lý tưởng cho
sinh viên......................................................................................................... 61
2.3.2 Giải pháp nâng cao công tác giáo dục lý tưởng cho
sinh viên ........................................................................................... 76
KẾT LUẬN .................................................................................................. 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 88

PHỤ LỤC ..................................................................................................... 98

-----------------------


4


5

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những nơi có số lượng
sinh viên đông nhất nước. Nếu năm học 1996 – 1997 chỉ có khoảng
150.000 sinh viên thì năm học 2004 – 2005 đã có khoảng trên
300.000 sinh viên đang theo học tại các trường Đại học, Cao đẳng
trên địa bàn thành phố. Dự báo trong tương lai, để đáp ứng nhu cầu
nhân lực cho xã hội, số lượng sinh viên thành phố Hồ Chí Minh so
với hiện nay sẽ tăng 10% vào năm 2010.
Bên cạnh việc đào tạo kiến thức chuyên môn, công tác giáo
dục lý tưởng cho sinh viên ngày nay là một trong những vấn đề
mang tính chiến lược quan trọng của Đảng và Nhà nước. Đảng ta đã
chỉ

rõ:

Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, cách mạng Việt Nam
có vững bước theo con đường XHCN hay không phần lớn tuỳ thuộc
vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ
thanh niên, trong đó sinh viên là bộ phận đặc biệt quan trọng.

Hiện nay công tác giáo dục lý tưởng cho sinh viên tại các
trường đại học, cao đẳng là công tác có tính pháp lệnh. Bộ Chính trị,
bộ Giáo dục – đào tạo, Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh đã ban
hành các chỉ thị, kế hoạch, hướng dẫn góp phần đào tạo người sinh
viên có bản lónh chính trị vững vàng, có ý thức trách nhiệm trong sự
nghiệp xây dựng đất nước, nâng cao ý thức của mình trong mối quan


6

hệ giữa cá nhân với cộng đồng, từ đó ra sức cống hiến cho sự nghiệp
công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, thực trạng thời
kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam, sự tác động của nền kinh tế thị
trường, chiến lược “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch đã
hàng ngày, hàng giờ tác động đến tâm lý, tình cảm, tư tưởng của
sinh viên vốn rất nhạy cảm trước những vấn đề của xã hội nhưng lại
thiếu vốn sống và chưa từng trải, dễ bị kẻ xấu kích động. Đã có
nhiều ý kiến cho rằng một bộ phận sinh viên còn mơ hồ về lý tưởng,
chưa nhận thức được tình hình, nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng
mới, chưa xác định được trách nhiệm của mình đối với đất nước, ý
thức rèn luyện kém, thiếu ý chí vươn lên, sống thực dụng, ít quan
tâm đến chính trị, chỉ quan tâm đến kinh tế, tìm cách làm giàu,…
Chính vì vậy, việc nghiên cứu những yếu tố tác động đến việc
giáo dục lý tưởng cho sinh viên, nêu rõ thực trạng và trên cơ sở đó
đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường công tác giáo dục lý
tưởng cho sinh viên ở các trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay là một vấn đề cấp
bách.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có nhiều đề tài nghiên cứu về sinh viên như: Thái độ và

tâm trạng của sinh viên Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh
năm 1984 về các vấn đề chính trị – xã hội và giáo dục do Nguyễn
Quốc Bảo làm chủ nhiệm đề tài thực hiện vào năm 1984. Đề tài
nghiên cứu chỉ giới hạn trong phạm vi sinh viên trường Đại học Sư


7

phạm thành phố Hồ Chí Minh và dừng lại ở việc tìm hiểu thái độ và
tâm trạng của sinh viên đối với các vấn đề: Chính trị, xã hội, giáo
dục. Không giải quyết vấn đề lý luận, và cũng chưa nghiên cứu mối
quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn trong việc giáo dục lý
tưởng cho sinh viên. Mặt khác, đề tài đã được thực hiện trên 20 năm,
vì vậy có những vấn đề không còn phù hợp với tình hình hiện nay.
Năm 1993, Viện Khoa học giáo dục – Viện Nghiên cứu Thanh
niên và Thành Đoàn thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức Hội thảo
khoa học Định hướng giá trị của thanh niên: Thực trạng – nguyên
nhân và giải pháp. Đề tài đã đề cập đến những nội dung cơ bản về
định hướng giá trị của thanh niên như: lý tưởng, niềm tin, thái độ về
đồng tiền, vấn đề tình yêu – hôn nhân,… đề tài tuy có đề cập đến
sinh viên nhưng ở phạm vi rất hẹp.
Năm 1994, Thành Đoàn thành phố Hồ Chí Minh nghiên cứu
chuyên đề Công tác sinh viên trong thời kỳ mới: Giải pháp của Đoàn
nhìn từ góc độ của Đoàn thanh niên thành phố. Trên cơ sở khảo sát
1.200 sinh viên của 12 trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh, đề tài đã nêu một số nét cơ bản của sinh viên
thành phố về nguồn gốc, thành phần xuất thân, thái độ, tâm trạng,…
và đề xuất nhiều giải pháp cho công tác giáo dục đạo đức, lối sống
cho sinh viên.
Năm 1995 Viện Nghiên cứu và phát triển giáo dục công bố

kết quả đề tài cấp bộ Nghiên cứu đặc điểm lối sống sinh viên hiện
nay và những phương hướng, biện pháp giáo dục lối sống cho sinh


8

viên. Đề tài đã nghiên cứu cơ bản những điều kiện kinh tế – xã hội,
đặc điểm tâm sinh lý liên quan đến quá trình hình thành lối sống
trong sinh viên và trình bày những biểu hiện của lối sống sinh viên
trong một số lónh vực như học tập, sinh hoạt văn hoá, hoạt động xã
hội,… nhưng chỉ giới hạn ở sinh viên các trường tại Hà Nội.
Luận án PTS Những yếu tố khách quan và chủ quan tác động
đến tư tưởng chính trị của sinh viên, thực trạng và giải pháp của
Nguyễn Đình Đức năm 1995 đã đề xuất những giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên.
Đề tài của TS Dương Tự Đam Định hướng giá trị cho thanh niên
sinh viên trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước đã đề cập
đến những nội dung cơ bản về giá trị và định hướng giá trị, thực trạng
sự chuyển đổi định hướng giá trị của thanh niên sinh viên trong tình
hình mới và đề ra phương hướng, biện pháp giáo dục định hướng giá trị
cho thanh niên, sinh viên trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
Đề tài Giáo dục tư tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ Việt Nam
trong tình hình mới của TS Phạm Đình Nghiệp đã giải quyết căn bản
về mặt lý luận vấn đề lý tưởng, tác giả đã nghiên cứu khá công phu
về lý tưởng cách mạng và thực trạng công tác giáo dục lý tưởng
cách mạng cho thế hệ trẻ hiện nay và những dự báo, giải pháp nhằm
nâng cao công tác giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ trong
tình hình mới nhưng lại không đi sâu vào phân tích mối quan hệ biện
chứng giữa lý luận và thực tiễn trong việc giáo dục lý tưởng.



9

Đảng ủy khối các trường Đại học, Cao đẳng, THCN đã tổ
chức Hội thảo Đời sống văn hoá tinh thần của sinh viên, học sinh –
thực trạng và giải pháp đã công bố 28 báo cáo khoa học của Đảng
ủy các trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh về đời sống văn hoá tinh thần của sinh viên và giải pháp để
nâng cao đời sống văn hoá tinh thần cho sinh viên tại các trường,
đặc biệt là các trường có ký túc xá.
Hội Sinh viên thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức Hội thảo
Vấn đề lý tưởng, đạo đức, lối sống trong sinh viên ngày nay với 11
tham luận của các nhà nghiên cứu, thủ lónh sinh viên các trường Đại
học tại thành phố Hồ Chí Minh, các tham luận đã trình bày về thực
trạng đạo đức, lối sống và lý tưởng của sinh viên trong nền kinh tế
thị trường, vấn đề tình bạn, tình yêu,… và những giải pháp để nâng
cao công tác giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống cho sinh viên.
Nhìn chung các đề tài, công trình nghiên cứu kể trên đã có
những đóng góp đáng kể vào việc nghiên cứu và đề xuất những giải
pháp trong giáo dục thanh niên nói chung và sinh viên nói riêng.
Cũng đã có những đề tài nghiên cứu chuyên biệt về giáo dục lý
tưởng chính trị trong sinh viên, tuy nhiên ở nước ta chưa có công
trình chuyên biệt nào nghiên cứu về Mối quan hệ biện chứng giữa lý
luận và thực tiễn trong việc giáo dục lý tưởng cho sinh viên thành phố
Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, đề tài này là một sự kế thừa
có phát triển những kết quả nghiên cứu trên vào nghiên cứu đối
tượng sinh viên, chủ yếu là sinh viên thành phố Hồ Chí Minh.



10

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ mối quan hệ giữa lý
luận và thực tiễn trong công tác giáo dục lý tưởng cho sinh viên
thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, từ đó đề xuất một
số giải pháp để ngâng cao hiệu quả công tác này tại thành phố Hồ
Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm sáng tỏ một số vấn đề phương pháp luận về mối quan
hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn trong việc giáo dục lý tưởng,
đặc biệt là quan điểm của Chủ nghóa Mác – Lênin về vấn đề này.
- Làm rõ thực trạng mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
trong việc giáo dục lý tưởng cho sinh viên thành phố Hồ Chí Minh
trong giai đoạn hiện nay và tìm ra những nguyên nhân của những
thành quả cũng như những hạn chế của nó.
- Đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả việc giáo
dục lý tưởng cho sinh viên thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn
hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung vào nghiên cứu vấn đề giáo dục lý tưởng
cho sinh viên ở các trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh, chủ yếu từ năm 1999 đến nay, trên cơ sở khảo sát một


11

số trường Cao đẳng, Đại học điển hình đại diện cho các loại hình
đào tạo công lập, bán công, dân lập.


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở mối quan hệ biện chứng giữa
lý luận và thực tiễn của chủ nghóa Mác – Lênin, đồng thời cũng sử
dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử và logic,
phương pháp đối chiếu so sánh, điều tra xã hội học.
6. Ý nghóa lý luận, thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ một số khái niệm liên quan đến việc
giáo dục lý tưởng nói chung, lý tưởng cách mạng, lý tưởng chính trị nói
riêng.
- Luận văn góp phần khẳng định tính khoa học về sự thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn trong Chủ nghóa Mác – Lênin và vận
dụng nó vào việc giáo dục lý tưởng cho sinh viên.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho những tổ chức,
cá nhân làm công tác Đoàn, công tác sinh viên trong các trường Đại
học và Cao đẳng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, luận văn gồm 2 chương, 5 mục.

*
*

*


12

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN VỀ GIÁO DỤC LÝ
TƯỞNG VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN


1.1. GIÁO DỤC LÝ TƯỞNG

1.1.1. Khái niệm lý tưởng và phân loại lý tưởng
- Khái niệm lý tưởng
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, vấn đề lý tưởng đã thu hút sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, kể cả phương Đông và phương
Tây. Lý tưởng theo gốc chữ la tinh là Ideal, được bắt nguồn từ chữ
Idea có nghóa là ý tưởng.
Đã có nhiều quan điểm khác nhau về nội dung khái niệm này
như: “Lý tưởng là sự thống nhất giữa tính tương đối và tính tuyệt
đối, giữa cái hữu hạn (hiện thực) và vô hạn (khái niệm)” [74, 9];
“Lý tưởng là mặt đối lập tuyệt đối của cái hiện có, có thực. Lý
tưởng là cái hoàn thiện, hoàn mỹ, nhất thành bất biến, còn hiện thực
cụ thể thì luôn luôn không hoàn thiện và biến đổi. Cho nên lý tưởng
cũng giống như chân trời, càng đến gần thì càng lùi xa một cách vô
tận” [74, 10]; “Lý tưởng là sự kết hợp biện chứng giữa ý tưởng con
người với hiện thực xã hội sẽ vươn tới những khả năng thực tế của
nó, chứ không phải là những mơ ước viển vông không có cơ sở khoa
học, không có điều kiện khả thi. Đồng thời, lý tưởng phải là cái cao
đẹp, ước mơ chân chính của đông đảo quần chúng lao động, tạo nên
động lực thôi thúc con người vươn lên, đạt tới bằng trí tuệ, sức lực


13

của mình” [74, 11]; “Lý tưởng là mục đích cao nhất, tốt đẹp nhất, có
sức hấp dẫn, lôi cuốn con người, cộng đồng, dân tộc, giai cấp, nhân
loại vươn tới, tạo ra những chuyển động lịch sử vó đại” [74, 11]; “Lý
tưởng chính là sự hướng tới và theo đuổi đối với tương lai có tính

hiện thực, được hình thành trong thực tiễn của con người, là biểu
hiện tập trung trong mục tiêu phấn đấu của lập trường chính trị và
thế giới quan của người ta” [33, 383];v.v
Tuy diễn đạt khác nhau nhưng nhìn chung các quan điểm trên
đều coi lý tưởng là một bộ phận hợp thành quan trọng của xu hướng
nhân cách, là một mục tiêu cao đẹp, một hình ảnh mẫu mực, tương
đối hoàn chỉnh, có sức lôi cuốn con người vươn tới nó.
Từ tư tưởng của các nhà nghiên cứu và từ những gì được coi là
lý tưởng trong cuộc sống hiện thực, có thể hiểu lý tưởng là những gì
tốt đẹp, những mục tiêu mà mỗi cá nhân, mỗi nhóm người hay mỗi
xã hội đặt ra và cố gắng phấn đấu để đạt được.
Lý tưởng của mỗi người được quy định bởi đặc điểm của lịch
sử, bởi ý thức xã hội (hệ tư tưởng, chính trị, đạo đức, thẩm mỹ,...) và
thông qua mỗi người cụ thể mang những đặc trưng của một mẫu
hình tiêu biểu cho một thời đại, một giai cấp. Lý tưởng thể hiện
trước hết ở mỗi cá nhân bằng niềm tin. Niềm tin là cơ sở của lý
tưởng bởi vì nó là động lực thúc đẩy và định hướng hoạt động, nó
hình thành con người hành động trong các tình huống cụ thể. Nhận
thức là cơ sở ban đầu của niềm tin, bởi vì quá trình hình thành niềm


14

tin là quá trình chuyển hoá từ nhận thức đến tình cảm và ý chí trong
hoạt động thực tiễn của con người.
Lý tưởng vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy con người
vươn tới.
- Phân loại lý tưởng
Tùy vào góc độ tiếp cận mà có thể có nhiều cách phân loại lý
tưởng khác nhau:

Các nhà triết học đã phân lý tưởng làm 3 loại. Là lý tưởng xã
hội, lý tưởng đạo đức và lý tưởng thẩm mỹ.
Lý tưởng xã hội: những quan niệm phù hợp với lợi ích kinh tế
và chính trị của một tập đoàn xã hội nào đó về một chế độ xã hội
hoàn thiện nhất, chế độ đó là mục đích cuối cùng của những ước
vọng và hoạt động của tập đoàn xã hội ấy.
Lý tưởng đạo đức: những quan niệm về sự hoàn thiện đạo đức
thường hay được biểu hiện dưới hình tượng một nhân vật là hiện
thân của những phẩm chất đạo đức có thể dùng làm mẫu mực đạo
đức cao nhất.
Lý tưởng thẩm mỹ: Sự thống nhất hài hoà đầy đủ nhất trong
lịch sử của chủ thể và khách thể, của con người và toàn thể xã hội
[73, 345]. Các loại lý tưởng đó đều có mối quan hệ, tác động lẫn
nhau, trong đó lý tưởng xã hội giữ vai trò quan trọng nhất, chi phối,
định hướng các lý tưởng khác.
Trong tác phẩm Tu dưỡng đạo đức tư tưởng, GS La Quốc Kiệt
cho rằng tính xã hội của bản chất con người, tính đa dạng của cuộc


15

sống xã hội nhân loại, tính nhiều cấp độ của nhận thức đối với hiện
thực và tưởng tượng đối với tương lai đã dẫn đến hiện tượng lý tưởng
của con người có nhiều loại hình, nhiều mặt. Căn cứ vào tính chất,
thời gian, nội dung, chủ thể của lý tưởng ta có thể phân lý tưởng
thành các loại sau: Lý tưởng khoa học và lý tưởng không khoa học, lý
tưởng lâu dài và lý tưởng trước mắt, lý tưởng chính trị, lý tưởng đạo
đức, lý tưởng chức nghiệp, lý tưởng sinh hoạt, lý tưởng cá nhân và lý
tưởng xã hội [33, 386].
Bên cạnh đó, cũng có nhiều nhà nghiên cứu căn cứ vào tính

chất, vai trò tác động của các lý tưởng đối với sự phát triển của xã
hội, để xác định lý tưởng, TS phạm Đình Nghiệp đã đưa ra cách
phân chia lý tưởng cách mạng. Theo ông “lý tưởng cách mạng là lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghóa xã hội” [52, 13]. Lý tưởng cách
mạng được ông phân chia theo hai cách khác nhau. “Theo cách thứ
nhất, lý tưởng cách mạng bao gồm lý tưởng xã hội và lý tưởng cá
nhân. Cách thứ hai, lý tưởng cách mạng được chia thành bốn loại: lý
tưởng chính trị – xã hội, lý tưởng đạo đức, lý tưởng nghề nghiệp và
lý tưởng thẩm mỹ” [52, 12, 13].
Tóm lại, dù có nhiều cách phân loại lý tưởng nhưng nhìn chung
lý tưởng có thể chia thành 3 loại cơ bản sau: lý tưởng chính trị – xã
hội, lý tưởng đạo đức và lý tưởng thẩm mỹ.


16

1.1.2 Giáo dục lý tưởngcho sinh viên Việt Nam và những
phương diện hợp thành của nó
- Khái niệm giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng xã hội, là quá trình tác động có
mục đích, có kế hoạch, nhằm tạo ảnh hưởng tự giác, chủ động đến
con người đưa đến sự hình thành và phát triển tâm lý, ý thức, nhân
cách. Giáo dục được hiểu theo nhiều nghóa.
Theo nghóa rộng, giáo dục là toàn bộ tác động của các chủ thể
xã hội (gia đình, nhà trường và xã hội) đến con người.
Theo nghóa hẹp, giáo dục được hiểu là quá trình tác động đến
tư tưởng, đạo đức, hành vi của con người.
- Giáo dục lý tưởng là tất cả các hoạt động nhằm hình thành và
phát triển niềm tin cho con người từ đó hình thành tình cảm để con
người có ý chí phấn đấu đạt được những mục đích nhất định.

Đối với sinh viên Việt Nam, giáo dục lý tưởng là hoạt động
nhằm hình thành và phát triển niềm tin cho sinh viên vào sự lãnh
đạo của Đảng, từ đó hình thành tình cảm cách mạng để sinh viên có
ý chí phấn đấu đạt được mục đích của chế độ xã hội chủ nghóa.
Mục đích của giáo dục lý tưởng cho sinh viên Việt Nam là hình
thành trong mỗi người những phẩm chất cá nhân quan trọng nhất,
biểu hiện ở thế giới quan khoa học, ở niềm tin vào sự thắng lợi của
CNXH trên đất nước ta và ở những hành vi nhằm thực hiện nhiệm
vụ xây dựng xã hội mới; độc lập dân tộc, dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng dân chủ văn minh. Nội dung của giáo dục lý tưởng


17

được xác định bởi những phương hướng hình thành phẩm chất nhân
cách ở con người.
- Các phương diện hợp thành của giáo dục lý tưởng cho sinh
viên Việt Nam
Giáo dục lý tưởng cho sinh viên Việt Nam là hoạt động đa
dạng, phức tạp được tạo thành từ nhiều phương diện, trong đó:
+ Giáo dục chính trị – tư tưởng nhằm hình thành ở người sinh
viên bản lónh chính trị, giác ngộ xã hội chủ nghóa, nắm vững tinh
thần của Chủ nghóa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Giáo dục đạo đức nhằm hướng sinh viên tới việc hình thành
những phẩm chất: trung thực, kỷ luật, dũng cảm, tính nguyên tắc,
thiện chí, lạc quan, biết tự trọng và tôn trọng người khác, ý thức
luôn hành động phù hợp với lợi ích của xã hội, đảm bảo sự kết hợp
hài hào giữa lợi ích của cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích của toàn
xã hội, biến những kiến thức về đạo đức thành niềm tin, đảm bảo
cho tính đúng đắn của hành vi, hình thành những tình cảm đạo đức

tích cực: danh dự, lương tâm, trách nhiệm, uy tín, nghóa vụ.
+ Giáo dục lao động nhằm hình thành nên những phẩm chất
như yêu lao động, tiết kiệm, quý trọng thời gian và của cải vật chất
của xã hội, ý thức tự giác tham gia những hoạt động của tập thể,
hoạt động xã hội.
+ Giáo dục pháp luật nhằm hình thành ở sinh viên thái độ tôn
trọng luật pháp, tự giác thực hiện “Sống, lao động và học tập theo
hiến pháp và pháp luật”.


18

+ Giáo dục thẩm mỹ nhằm hình thành ở sinh viên sự cảm thụ
về cái đẹp, những quan niệm và nhu cầu hướng đến cái đẹp, cùng
những nguyện vọng sống và sáng tạo theo quy luật của cái đẹp.
+ Giáo dục truyền thống dân tộc nhằm hình thành ở người
sinh viên tình yêu quê hương đất nước, trung thành với tổ quốc và
dân tộc, tinh thần quốc tế chân chính và tình hữu nghị, hợp tác giữa
các dân tộc, giữa những người lao động và nhân loại tiến bộ.
+ Giáo dục về giới nhằm giúp phát triển toàn diện nhân cách,
đảm bảo cho thế hệ trẻ có đủ trí và lực để đảm được sứ mệnh mà
lịch sử giao phó, đồng thời hình thành sự bình đẳng nam, nữ trong xã
hội, góp phần hiện thực hoá lý tưởng xã hội chủ nghóa.
- Những nguyên tắc của giáo dục lý tưởngcho sinh viên Việt
Nam
Để giáo dục sinh viên theo tinh thần độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghóa xã hội, theo những chuẩn mực của đạo đức cách mạng
và nâng cao tính tích cực chính trị - xã hội, tính tích cực lao động
của mỗi cá nhân phải dựa trên những luận điểm chung nhất về yêu
cầu của nội dung và hình thức giáo dục. Những nguyên tắc giáo dục

lý tưởng cách mạng cho sinh viên cũng được phân thành 2 nhóm:
nhóm nội dung và nhóm phương pháp, hình thức.
Nhóm nội dung gồm những nguyên tắc: tính đảng, tính khách
quan, quan điểm thực tiễn, quan điểm lịch sử – cụ thể.
Nhóm hình thức, phương pháp gồm những nguyên tắc: Nguyên
tắc phản ứng nhanh chóng và kịp thời; nguyên tắc cá thể hoá; tính


19

hấp dẫn và thuyết phục; tiếp cận hệ thống; tính triệt để, liên tục;
tính kế thừa; tính trực quan.
+ Nguyên tắc tính đảng thực chất là đánh giá các hiện tượng
của đời sống xã hội trên lập trường của Chủ nghóa Mác – Lênin và
Tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên quyết đấu tranh bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và lợi ích của thế
hệ trẻ. Các nhà mác - xít đề cao nhiệm vụ giáo dục, coi đó là nhiệm
vụ hàng đầu để đào tạo con người mới xã hội chủ nghóa. Mác và
Ăngghen đã phê phán nền giáo dục phản động tư bản chủ nghóa. Đó
là nền giáo dục đã nô dịch thanh niên phát triển què quặt. Theo các
ông, chỉ có lật đổ chế độ tư bản chủ nghóa xây dựng xã hội chủ
nghóa mới có đủ điều kiện để thực hiện một nền giáo dục chân
chính phục vụ lợi ích của tuyệt đại đa số nhân dân lao động. Nền
giáo dục xã hội chủ nghóa có nhiệm vụ đem lại toàn bộ những giá trị
văn hoá cho nhân dân lao động, góp phần tích cực đào tạo những
con người mới phát triển toàn diện, biết lónh hội những kiến thức
của nhân loại. Những con người có đủ phẩm chất và năng lực làm
chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên và chính bản thân mình. Mác đã chỉ
rõ “tương lai của cả nhân loại phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ
công nhân đang lớn lên” [47, 118]. Lênin cũng cho rằng “Việc dạy

dỗ, giáo dục và rèn luyện thanh niên phải xuất phát từ những vật
liệu mà xã hội cũ để lại cho chúng ta. Chúng ta chỉ có thể xây dựng
chủ nghóa cộng sản từ tổng số những kiến thức, các tổ chức và thiết
chế bằng cái số dự trữ nhân lực và vật lực mà xã hội cũ đã để lại


20

cho chúng ta. Chỉ có cải tổ triệt để việc dạy dỗ, việc tổ chức và giáo
dục thanh niên, thì chúng ta mới có thể, bằng những cố gắng của thế
hệ trẻ đạt được kết quả là xây dựng nên. Chỉ có cải tổ triệt để việc
dạy dỗ, việc tổ chức và giáo dục thanh niên... chúng ta phải dạy dỗ
những gì và thanh niên phải học như thế nào nếu họ muốn xứng
đáng với danh hiệu thanh niên cộng sản, và chúng ta phải chuẩn bị
cho thanh niên như thế nào để họ biết xây dựng đến cùng và hoàn
thành triệt để cái sự nghiệp mà chúng ta đã bắt đầu” [42, 357].
Theo Lênin cần phải làm cho toàn bộ sự nghiệp giáo dục, rèn luyện
thanh niên trở thành sự nghiệp giáo dục lý tưởng cộng sản trong
thanh niên. Với ý nghóa đó, giáo dục lý tưởng cộng sản là một nội
dung tất yếu, quan trọng, thậm chí là nghóa vụ hàng đầu ảnh hưởng
đến các nội dung hoạt động giáo dục lý tưởng khác.
+ Tính khách quan là nguyên tắc quan trọng nhất trong nội
dung giáo dục lý tưởng. Dám nhìn thẳng vào những sai lầm, khuyết
điểm, những thuận lợi và khó khăn trong quá trình xây dựng đất
nước, từ đó định hướng cho hoạt động thực tiễn của sinh viên trong
việc khắc phục những sai lầm, khuyết điểm, phát huy những ưu
điểm, tranh thủ thời cơ thuận lợi vượt qua khó khăn, trở ngại để
vươn lên trong học tập, lao động, rèn luyện.
+ Quan điểm thực tiễn là tiến hành giáo dục lý tưởng cho sinh
viên ngày nay thông qua việc tổ chức các hoạt động thực tiễn như:

hoạt động kinh tế, chính trị – xã hội và tổ chức các phong trào hành


21

động cách mạng như: hoạt động hiến máu nhân đạo, phong trào sinh
viên tình nguyện, …
+ Quan điểm lịch sử – cụ thể là một nguyên tắc quan trọng
trong việc giáo dục lý tưởng. Lý tưởng không phải đã có sẵn trong
đầu óc con người, cũng không phải ở trên trời rơi xuống, mà nó có
quan hệ mật thiết với trình độ phát triển sản xuất của thời đại nhất
định, là sản vật của điều kiện lịch sử và quan hệ kinh tế chính trị
của xã hội nhất định. Tính cụ thể của chân lý là linh hồn sống của
Chủ nghóa Mác – Lênin. Vì vậy, trong giáo dục lý tưởng cho sinh
viên cần phải đặc biệt chú ý đến điều kiện lịch sử – cụ thể của nước
ta hiện nay.
+ Nguyên tắc phản ứng nhanh chóng và kịp thời trước những sự
kiện xã hội là một nguyên tắc của giáo dục lý tưởng. Một thông tin
kịp thời mang tính định hướng khách quan, khoa học sẽ gây dấu ấn
sâu sắc trong ý thức con người. Trái lại, mọi sự phản ứng chậm chạp,
khiên cưỡng sẽ làm giảm hiệu quả của công tác giáo dục.
+ Nguyên tắc cá thể hoá trong phương pháp giáo dục lý tưởng
xuất phát từ sự hướng tới và tưởng tượng của mỗi cá thể được sinh
ra đối với cuộc sống vật chất và cuộc sống tinh thần trong tương lai
của mình, trong điều kiện lịch sử và quan hệ xã hội nhất định. Nó
bao gồm lý tưởng chức nghiệp, lý tưởng sinh hoạt và lý tưởng đạo
đức cụ thể của cá nhân.
+ Tính hấp dẫn và thuyết phục đòi hỏi nội dung của lý tưởng
cần được hệ thống hoá, sắp xếp một cách lôgic, thông tin phải được



22

phân loại. Bên cạnh đó, cần phải sử dụng các phương pháp khoa
học khác như: Phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so
sánh, đối chiếu, phương pháp khái quát hoá và cụ thể hoá, đi từ cái
đơn nhất đến cái phổ biến và từ cái phổ biến đến cái đơn nhất, từ cụ
thể đến trừu tượng và từ trừu tượng đến cụ thể.
Bên cạnh đó, tính tiếp cận hệ thống, tính triệt để, tính kế thừa,
tính trực quan là những đòi hỏi mang tính nguyên tắùc trong việc xác
định hình thức, phương pháp giáo dục.
Việc tuân thủ nghiêm túc và triệt để các nguyên tắc trên là
điều kiện cần thiết để nâng cao công tác giáo dục lý tưởng cho sinh
viên hiện nay.
- Hiệu quả của giáo dục lý tưởng
Hiệu quả của giáo dục lý tưởng là mối quan hệ giữa những kết
quả đạt đựơc trên thực tế với những mục tiêu đề ra trong quá trình
hình thành bộ mặt tinh thần và các giá trị xã hội chân chính của cá
nhân, của các giai tầng trong xã hội. Mức độ đạt được mục đích đặt
ra là thước đo của hiệu quả. Giáo dục lý tưởng cho sinh viên hiện
nay chỉ có hiệu quả khi nó đem lại những kết quả mà mục tiêu đã
đặt ra.
- Mục tiêu của giáo dục lý tưởng được phân thành 2 loại: mục
tiêu lâu dài và mục tiêu trước mắt, mục tiêu lâu dài phải trải qua sự
nổ lực gian khổ và phấn đấu không mệt mỏi trong thời gian rất dài
mới có thể thực hiện được, đó là lý tưởng to lớn, lâu dài của nhân


23


loại. Mục tiêu trước mắt chỉ cần phấn đấu trong thời gian ngắn là có
thể thực hiện được.
Vì vậy, điều quan trọng là phải cụ thể hóa mục tiêu công tác
giáo dục lý tưởng thành những chỉ tiêu về số lượng và chất lượng, từ
đó xác định rõ những điều kiện, phương tiện, phương pháp cụ thể để
đạt được những mục tiêu đó.
Những tiêu chuẩn hiệu quả của giáo dục lý tưởng đó là những
đặc trưng về lượng và chất của phẩm chất nhân cách, bộ mặt tinh
thần của con người, văn hoá và hành vi của họ. Có hai loại tiêu chí:
tiêu chí tinh thần ý thức và tiêu chí thực tiễn. Bởi vì, xét từ hình
thức, lý tưởng là hiện tượng tinh thần, sự hình thành lý tưởng của
con người ảnh hưởng tới nhu cầu, giá trị, nhân sinh quan của chủ
thể. Lý tưởng nhất định liên hệ với thực tiễn xã hội nhất định. Vì
vậy, lý tưởng của một người bao giờ cũng dựa theo sự phát triển của
thực tiễn xã hội mà người đó tham gia, từng bước hình thành và
cũng cố. Về mặt thực tiễn có thể nói đến chất lượng công việc, sự
tuân thủ kỷ luật lao động, những sáng kiến, việc nâng cao kiến thức
và kỹ năng nghề nghiệp, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích cá
nhân và lợi ích của tập thể, lợi ích xã hội, đấu tranh chống các hiện
tượng tiêu cực trong xã hội. Sự thống nhất giữa lời nói và việc làm
là tiêu chí thực tiễn quan trọng đế đánh giá hiệu quả công tác giáo
dục lý tưởng.
Ăngghen đã từng nói “ảnh hưởng của thế giới bên ngoài đối
với con người biểu hiện trong đầu óc con người, phản ánh trong đầu


24

óc con người, trở thành cảm giác, tư duy, động cơ, ý chí. Tóm lại, trở
thành ý đồ lý tưởng, hơn nữa thông qua hình thức này biến thành sức

mạnh lý tưởng” [33, 390, 391]. Tính chất của tác dụng lý tưởng
quyết định bởi tính chất của giai cấp và lực lượng xã hội mà nó là
đại biểu và phản ánh. Nó không chỉ có tính hiện thực khách quan,
mà còn có tính năng động tự giác. Nó có tác dụng vô cùng quan
trọng đối với thực tiễn đấu tranh cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội, đến
cuộc sống của con người và của toàn nhân loại.
1.2. NHỮNG LUẬN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC –
LÊNIN VỀ THỰC TIỄN VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN TRONG VIỆC GIÁO LÝ TƯỞNG CHO SINH VIÊN THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

1.2.1. Ý nghóa của phạm trù thực tiễn trong việc giáo dục lý
tưởng
Phạm trù thực tiễn
Phạm trù thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ
bản của lý luận nhận thức mác-xít mà còn của toàn bộ triết học Mác
– Lênin nói chung. Ngay từ năm 1845, tức là ngay từ những năm
tháng đầu tiên bước vào hoạt động lý luận, Mác đã đề xuất quan
điểm phải đưa tiêu chuẩn thực tiễn vào làm cơ sở cho lý luận nhận
thức duy vật. Mác đã viết "Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con
người có thể đạt tới một chân lý khách quan hay không, hoàn toàn
không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực
tiễn"[44,9,10]. Luận điểm này của Mác đã đánh dấu bước ngoặt cách


25

mạng trong lý luận nhận thức, trở thành cơ sở khoa học để chống lại
quan điểm bất khả tri dưới mọi hình thức.
Các nhà duy vật trước Mác đã có công lao lớn trong việc phát

triển thế giới quan duy vật và đấu tranh chống chủ nghóa duy tâm tôn
giáo và thuyết không thể biết. Tuy nhiên, lý luận của họ còn nhiều
hạn chế, trong đó hạn chế lớn nhất là không thấy được vai trò của
hoạt động thực tiễn đối với nhận thức, do đó chủ nghóa duy vật của
họ mang tính chất trực quan. Có một số nhà triết học duy tâm đã thấy
được mặt năng động, sáng tạo trong hoạt động của con người nhưng
cũng chỉ hiểu thực tiễn như là hoạt động tinh thần, chứ không hiểu nó
như là hoạt động hiện thực, hoạt động vật chất, cảm tính của con
người.
Kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những thiếu sót của
các nhà triết học trước Mác. Mác và Ăgghen đã đem lại một quan
niệm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của nó đối với nhận
thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Vậy thực tiễn là gì?
Thực tiễn là hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử –
xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội [30, 347].
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người, nó
thể hiện đa dạng, song có 3 hình thức cơ bản là hoạt động sản xuất ra
của cải vật chất, hoạt động chính trị cải tạo xã hội và hoạt động thực
nghiệm khoa học.


×