Tải bản đầy đủ (.pdf) (136 trang)

Quan điểm của chủ nghĩa mác lênin về dân chủ với việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở thành phố hồ chí minh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1017.71 KB, 136 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

*********

NGUYỄN THỊ THANH NHIÊN

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
VỀ DÂN CHỦ VỚI VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN
CHỦ CƠ SỞ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
*********

NGUYỄN THỊ THANH NHIÊN

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
VỀ DÂN CHỦ VỚI VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN
CHỦ CƠ SỞ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

Chuyên ngành : Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số
: 60.22.85

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC



Người hướng dẫn khoa học:

PGS. TS NGUYỄN THẾ NGHĨA

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2012


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu khoa học của
tơi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Nguyễn Thế Nghĩa. Nếu có gì
khơng đúng, tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày

tháng

năm 2012

Tác giả

Nguyễn Thị Thanh Nhiên


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................. 1
1.

Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................ 1


2.

Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài ................................................ 3

3.

Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn ......................... 6

4.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn ............................ 7

5.

Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn .................................. 8

6.

Kết cấu của luận văn ................................................................................. 8

Chương 1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ DÂN
CHỦ................................................................................................ 9
1.1. ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH QUAN ĐIỂM CỦA
CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ DÂN CHỦ ...................................... 9
1.1.1. Điều kiện hình thành quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin
về dân chủ ............................................................................................ 12
1.1.2. Tiền đề hình thành quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin ............ 27
về dân chủ ............................................................................................... 27
1.2. NỘI DUNG QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ
DÂN CHỦ.............................................................................................. 35

1.2.1. Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về dân chủ ....................... 35
1.2.2. Quan điểm của V.I.Lênin về dân chủ............................................. 44
Chương 2.VẤN ĐỀ THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY ............................... 56
2.1. KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI,
VĂN HĨA, CHÍNH TRỊ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG
Q TRÌNH ĐỔI MỚI ........................................................................ 56
2.1.1. Đặc điểm về kinh tế - xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh................. 56


2.1.2. Đặc điểm về văn hóa – chính trị ở thành phố Hồ Chí Minh .......... 62
2.2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ............................................................. 68
2.2.1. Thành tựu đạt được trong việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở
thành phố Hồ Chí Minh........................................................................... 68
2.2.2. Những hạn chế và những mâu thuẫn còn tồn tại trong việc thực hiện quy
chế dân chủ cơ sở ở thành phố Hồ Chí Minh ................................................ 90
2.3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN
CHỦ CƠ SỞ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ................................ 101
2.3.1. Phương hướng thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở thành phố Hồ
Chí Minh ............................................................................................... 101
2.3.2. Một số giải pháp thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở thành phố Hồ
Chí Minh ............................................................................................... 102
KẾT LUẬN ................................................................................................. 118
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................... 121


1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là
thời kỳ chuyển đổi giữa xã hội cũ còn tồn tại những hạn chế với xã hội mới
đang nảy sinh và phát triển. Xét về mặt kinh tế đây là thời kỳ chuyển biến từ
nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu sang nền kinh tế công nghiệp và tiếp cận
kinh tế tri thức. Xét về mặt xã hội đó là sự chuyển biến từ xã hội truyền thống
lên xã hội hiện đại tiến tới một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh, con người có cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay, dân chủ có vai trị đặc biệt
quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của công cuộc đổi mới
đất nước. Một xã hội muốn phát triển bền vững thì trước hết xã hội ấy phải
được xây dựng trên nền tảng của sự ổn định và dân chủ. Dân chủ là bản chất
của chế độ xã hội chủ nghĩa, là mục tiêu và động lực phát triển xã hội. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nói: "Dân chủ là cái quý báu nhất của nhân dân" [76,7]. và
thực hành dân chủ là chìa khóa để mở ra mọi cánh cửa của sự phát triển.
Trong hơn 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt
được những thành tựu to lớn, bộ mặt của xã hội đã có những thay đổi rõ rệt,
quyền lợi của nhân dân lao động ngày càng được quan tâm, việc thực hiện và
phát huy dân chủ ngày càng được mở rộng.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu rất đáng trân trọng, hiện nay
trong xã hội cịn tồn tại nhiều khó khăn, bức xúc và bất công. Trên thực tế,
quyền làm chủ của nhân dân chưa được tôn trọng và phát huy đầy đủ trong
đời sống xã hội, khơng ít hiện tượng mất dân chủ, dân chủ hình thức, bệnh
quan liêu, tư tưởng phong kiến, gia trưởng còn nặng nề. Đồng thời, cũng xuất
hiện khuynh hướng dân chủ cực đoan, dân chủ không đi liền với thực hiện kỷ


2

cương và pháp luật, cơ chế và pháp luật bảo đảm thực hiện dân chủ chưa

được cụ thể hóa và hồn thiện.
Thực trạng trên do nhiều ngun nhân, trong đó có nguyên nhân sâu xa
từ đời sống kinh tế xã hội, từ thói quen lối sống, tập tục sản xuất nơng nghiệp
lạc hậu, mặt bằng dân trí cịn thấp, cơ chế chế tài luật pháp chồng chéo, thiếu
đồng bộ chưa thực sự đi vào cuộc sống, chưa trở thành nhu cầu thiết yếu
trong điều chỉnh quan hệ xã hội, việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở chưa
thật sự đầy đủ và có hiệu quả.
Để đạt được những thắng lợi trong công cuộc xây dựng xã hội mới,
trong thời kỳ đổi mới Đảng ta đã đề ra chương trình đổi mới toàn diện trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đảng ta xác định rõ nhiệm vụ cải tạo
xã hội cũ xây dựng xã hội mới là nhiệm vụ của tồn dân, tồn xã hội. Thành
cơng của cơng cuộc đổi mới khơng đem lại lợi ích cho ai khác ngoài nhân
dân. Chủ nghĩa xã hội, như Hồ Chí Minh khẳng định là xã hội do nhân dân
lao động làm chủ. Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là quá trình xây dựng
chế độ xã hội mới đảm bảo thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân lao động. Trong xã hội đó, dân chủ thể hiện lợi ích và quyền lực chân
chính của nhân dân, đó là "dân làm chủ" và "dân là chủ".
Có thể nói nhân dân là lực lượng nịng cốt, quan trọng nhất trong quá
trình đổi mới. Bởi lẽ, “Dễ vạn lần khơng dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu
cũng xong” (Hồ Chí Minh). Chính vì vậy, trong q trình lãnh đạo cách mạng
Việt Nam Đảng ta ln khẳng định cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do
nhân dân thực hiện và vì sự ấm no hạnh phúc của nhân dân; chế độ chủ nghĩa
xã hội là chế độ của nhân dân, do nhân dân lao động làm chủ, sự nghiệp xây
dựng và phát triển đó là của nhân dân, do nhân dân thực hiện (Hồ Chí Minh).
Cùng với thủ đơ Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố lớn
năng động, một trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa của cả nước.Vì vậy,


3


việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở thành phố Hồ Chí Minh góp phần
quyết định đến sự thành công của công cuộc đổi mới đất nước. Quá trình tồn
cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới đã mở ra cho chúng ta những vận hội
mới, bên cạnh đó cũng đầy rẫy những khó khăn thách thức; việc thực hiện
quy chế dân chủ cơ sở ở thành phố Hồ Chí Minh vơ cùng phức tạp và trở
thành một nhiệm vụ mang tính cấp bách. Chọn vấn đề “Quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin về dân chủ với việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở
thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình, tác giả muốn
góp phần giải quyết nhiệm vụ trên.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài
Từ trước đến nay, vấn đề “dân chủ” đã thu hút được sự quan tâm
nghiên cứu của đông đảo các học giả, các nhà khoa học trong và ngoài nước.
Đối với Việt Nam việc nghiên cứu vấn đề “Quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin về dân chủ với việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở thành phố Hồ
Chí Minh” là một vấn đề mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Liên quan
đến vấn đề này có rất nhiều cơng trình nghiên cứu được thể hiện ở các hướng
tiếp cận dưới đây:
Hướng tiếp cận thứ nhất, đề cập đến khái niệm dân chủ và các hình
thức dân chủ trong lịch sử có các cơng trình sau: “Một số khía cạnh của khái
niệm dân chủ” của TS. Đỗ Trung Hiếu (Tạp chí Thơng tin khoa học xã hội,
số 231, 2002); “Một số cách tiếp cận của khái niệm dân chủ” của tác giả
Nguyễn Đăng Quang (Tạp chí Thơng tin Lý Luận, số 175, 1992); “Nền Dân
chủ tư sản và những kinh nghiệm thực tiễn” của tác giả Vũ Dương Ninh (Tạp
chí Thơng tin lý luận, số 4, 1992); “Khái niệm dân chủ” của tác giả Nguyễn
Quang Quýnh (Tạp chí Hiến pháp lược khảo, số 14, 1962). Các bài viết này
bàn sâu về khái niệm “dân chủ”, đồng thời đề cập đến các khía cạnh chính trị,
triết học của dân chủ và sự phát triển của các hình thức dân chủ trong lịch sử.


4


Hướng tiếp cận thứ hai, có các cơng trình đề cập đến quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin về dân chủ và kế thừa di sản tư tưởng của chủ nghĩa Mác –
Lênin về dân chủ, trong đó phải kể đến các cơng trình tiêu biểu sau: “Tư
Tưởng của V.I.Lênin về dân chủ” của PGS.TS Trịnh Dỗn Chính, TS. Đinh
Ngọc Thạch, TS. Trần Hùng, TS. Trần Chí Mỹ đồng chủ biên (Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2004). Bằng nhiều góc độ tiếp cận theo quan điểm nghiên
cứu của mình, các tác giả đã nêu bật quan điểm của V.I.Lênin về dân chủ, chỉ
ra sự khác nhau cơ bản giữa dân chủ tư sản và dân chủ vô sản, phân tích những
bài học đối với q trình dân chủ hóa đời sống xã hội ở nước ta hiện nay.
Các tác phẩm “Bàn về dân chủ chủ nghĩa xã hội” của V.I.Lênin (Nxb.
Sự Thật, 1962); “Bàn về dân chủ vô sản” V.I.Lênin (Nxb. Sự Thật, 1973);
“Về chế độ dân chủ tư sản và chun chính vơ sản” V.I.Lênin (Nxb. Sự Thật,
1968); “Bàn về dân chủ trong quản lý xã hội” (Nxb. Chính trị quốc gia,
2003); “Góp phần nhìn lại di sản tư tưởng của Mác – Lênin về dân chủ” của
tác giả Nguyễn Thế phấn (Tạp chí Thơng tin lý luận, số 174, 1992). Nhìn
chung các tác phẩm này đã trình bày rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin về dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, nêu ra được điểm khác
biệt cơ bản cũng như bản chất của nền dân chủ tư sản và nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa và trình bày vai trò của dân chủ trong quản lý xã hội.
Hướng tiếp cận thứ ba, có các cơng trình đề cập đến tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân chủ và kế thừa di sản tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ. Trong
đó phải kể đến các cơng trình : “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và vận
động nhân dân trong tác phẩm dân vận” của tác giả Nguyễn Thị Kim Hoa
(Tạp chí Lý luận chính trị số 6, 2005); “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và
phép nước” của tác giả Vũ Văn Châu (Tạp chí Lý luận chính trị, số 7, 2006);
đề tài nghiên cứu khoa học “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và sự vận
dụng trong sự nghiệp đổi mới hiện nay” của tác giả Phạm Hồng Chương và



5

Nguyễn Thị Hương Giang năm 2001; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ với
việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam”, luận văn thạc sỹ của tác
giả Nguyễn Hữu Tâm (2009), Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn,
Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh; “Thực hiện dân chủ ở cơ sở theo
tư tưởng Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn Long Khánh, (Tạp chí cộng sản,
số 16, 2001). Các cơng trình trên đều trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về dân
chủ, đồng thời nghiên cứu vấn đề vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
vào cơng cuộc đổi mới toàn diện của đất nước trên tất cả các mặt kinh tế, văn
hóa, chính trị, xã hội.
Hướng tiếp cận thứ tư, các cơng trình đề cập đến vấn đề thực hiện quy
chế dân chủ cơ sở và phát huy dân chủ ở nước ta hiện nay tiêu biểu có các
cơng trình sau:
Luận văn tiến sỹ của Đồn Nam Hương “Quan điểm Mácxít về dân
chủ và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trong điều kiện hiện nay tại Tây
Ninh” (2007), đã trình bày những cơ sở lý luận chung về phạm trù “dân chủ”,
đồng thời nêu bật được quan điểm Mácxít về “dân chủ” và việc thực hiện quy
chế dân chủ cơ sở ở Tây Ninh trong điều kiện hiện nay.
Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Văn Vui “ Quy chế dân chủ cơ sở thành
phố Hồ Chí Minh những vấn đề lý luận và thực tiễn” (2005), đã trình bày
những vấn đề lý luận và thực tiễn ở thành phố Hồ Chí Minh trong việc thực
hiện quy chế dân chế cơ sở, luận văn cũng đưa ra một số giải pháp cơ bản
nhằm xây dựng và hoàn thiện quy chế dân chủ cơ sở ở thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay.
“Nghị quyết của Đảng và thực tiễn cuộc sống - tác động của việc thực
hiện quy chế dân chủ cơ sở đến quá trình đổi mới hệ thống chính trị cơ sở ở
nước ta hiện nay” của tác giả Nguyễn Đức Ngọc (Tạp chí Khoa học xã hội,
số 5, 2006).



6

“Về dân chủ đại diện dân chủ trực tiếp và dân chủ bán trực tiếp thời kỳ
1945-1946” của Lê Thị Phương Thảo (Tạp chí Lịch sử đảng, số 11, 1997);
“Bước đầu tìm hiểu những luận đề triết học xã hội về dân chủ và dân chủ hóa
ở nước ta” của Hồng Chí Bảo (Tạp chí triết học, số 68, 1990); “Dân chủ và
cơ chế thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta: quan điểm, lý luận và
phương pháp nghiên cứu” của Hồng Chí bảo (Tạp chí Thơng tin Lý luận, số
175, 1992); “Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay”
của TS. Đỗ Trung Hiếu (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009), “Phản biện
xã hội và phát huy dân chủ pháp quyền” (Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2009) của tác giả Hồ Bá Thâm và Tôn Thị Tường Vân đồng chủ biên; “Phát
huy dân chủ trong đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta hiện nay” (Nxb.
Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005) của Luật gia Phạm Thành Nam và TS. Đỗ
Thị Thạch. Các tác phẩm này đã phân tích được những khía cạnh cơ bản của
vấn đề dân chủ theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và của Đảng ta về xây dựng nền dân chủ vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh. Đồng thời, trình bày phương hướng
chủ yếu nhằm phát huy vai trò của nhà nước trong quá trình xây dựng nền
dân chủ ở Việt Nam.
Như vậy, có khá nhiều cơng trình nghiên cứu về dân chủ, về xây dựng
nền dân chủ mới và vấn đề thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở nước ta. Đó là
những tài liệu khoa học hữu ích để tác giả kế thừa và vận dụng nghiên cứu
vấn đề thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở thành phố Hồ Chí Minh.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn: Luận văn tập trung làm rõ quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin về dân chủ và thực trạng thực hiện quy chế dân chủ cơ sở
ở thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó tác giả đề ra một số giải pháp góp



7

phần thúc đẩy việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay.
Nhiệm vụ của luận văn: Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung
giải quyết một số nhiêm vụ sau:
Thứ nhất : Phân tích làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về
dân chủ.
Thứ hai : Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện quy chế dân chủ cơ
sở ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Thứ ba : Đề xuất một số giải pháp góp phần thúc đẩy việc thực hiện
quy chế dân chủ cơ sở ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Trong khuôn khổ của luận văn tác giả cố gắng giải quyết các nhiệm vụ
của luận văn trên cơ sở phân tích và làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin về dân chủ, khảo sát thực trạng và đề xuất một số giải pháp góp phần
thúc đẩy việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện dựa trên nguyên tắc thế giới quan và phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về dân chủ và
vấn đề xây dựng nền dân chủ mới ở Việt Nam.
Tác giả sử dụng phương pháp biện chứng duy vật làm phương pháp
chung nhất trong quá trình nghiên cứu, đồng thời vận dụng kết hợp các
phương pháp như: phân tích và tổng hợp, logich và lịch sử, phương pháp khái
qt hóa trong q trình nghiên cứu và trình bày luận văn.


8


5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa khoa học: Luận văn làm rõ vấn đề dân chủ và thực hiện dân
chủ theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đồng thời nêu những nguyên tắc thực hành dân chủ trong quá trình đổi mới
và hội nhập quốc tế ở Việt Nam.
Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn góp phần nâng cao nhận thức về dân chủ
và vấn đề thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở thành phố Hồ Chí Minh; đồng
thời luận văn cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và
giảng dạy vấn đề dân chủ và quy chế dân chủ cơ sở ở nước ta hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phần tài liệu tham khảo; luận văn bao
gồm 2 chương, 5 tiết.
Chương 1: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ
Chương 2: Vấn đề thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở thành phố Hồ
Chí Minh hiện nay


9

Chương 1

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ DÂN CHỦ
1.1.

ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH QUAN ĐIỂM CỦA
CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ DÂN CHỦ
“Dân chủ” là một hiện tượng xã hội – lịch sử phức tạp, từ lâu đã trở

thành đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học khác nhau trong hệ thống các

khoa học xã hội nhân văn. Ở cấp độ lý luận và phương pháp luận chung, dân
chủ là đối tượng nghiên cứu của triết học. Ở cấp độ chuyên biệt, dân chủ là
đối tượng nghiên cứu của chính trị học và các khoa học khác như đạo đức,
pháp luật…
Thuật ngữ “dân chủ” xuất hiện rất sớm trong xã hội Hy lạp cổ đại gắn
liền với những cải cách của Solong vào thế kỷ thứ VI - TCN và sự hình thành
thể chế dân chủ tại Athens (Aten) vào nửa sau thế kỷ thứ V- TCN. Theo tiếng
Hy lạp cổ đại “dân chủ” được tạo thành bởi hai từ “Desmos” có nghĩa là nhân
dân và “Kratos” có nghĩa là quyền lực. Như vậy dân chủ (Desmos Kratos) có
nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân và do nhân dân thực hiện quyền lực của
mình trong tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong nhà nước Aten, nền dân chủ Aten là nền dân chủ trực tiếp, các
quyết định của các thành bang không phải do tầng lớp quý tộc hay những người
giàu có quyết định, mà trực tiếp do các công dân của thành bang thảo luận và
quyết định, thông qua đại hội nhân dân mỗi cơng dân có quyền tham gia và biểu
quyết một cách bình đẳng những vấn đề chung của xã hội. Như vậy, khái niệm
dân chủ dùng để chỉ một hình thức nhà nước mà ở đó quyền lực thuộc về nhân
dân chứ không chỉ thuộc về những người giàu có hay những người thuộc tầng
lớp quý tộc. Như vậy thuật ngữ dân chủ chỉ xuất hiện khi trước đó đã tồn tại ba
yếu tố: nhân dân, quyền lực công cộng và mối quan hệ giữa chúng.


10

Nội dung khái niệm dân chủ về cơ bản vẫn giữ nguyên đến ngày nay,
tuy nhiên khái niệm dân chủ thời cổ đại và hiện nay có sự khác nhau cơ bản
về tính trực tiếp của mối quan hệ sở hữu quyền lực công cộng và cách hiểu về
khái niệm nhân dân.
Quyền lực trước hết là quyền uy và sức mạnh của con người được thể
hiện trong những tổ chức xã hội nhất định. Trong xã hội công xã nguyên

thủy, quyền lực của nhân dân được bộc lộ và thực hiện trong những tổ chức
tự quản của công xã. Trong xã hội có giai cấp và nhà nước, quyền lực ấy
được thể chế hóa vào chế độ nhà nước và pháp luật và cũng từ khi xã hội có
giai cấp ra đời dân chủ được thực hiện dưới hình thức mới – hình thức nhà
nước với tên gọi là: chính thể dân chủ, nền dân chủ hay chế độ dân chủ.
Dân chủ là khái niệm mang tính lịch sử. Dân là những ai? Những
người nào được coi là dân điều này hoàn toàn phụ thuộc vào bản chất chế độ
xã hội quy định. Từ khi xã hội phân chia thành giai cấp tùy theo từng xã hội
cụ thể nhất định, ai được coi là dân do bản chất giai cấp của giai cấp thống trị
xã hội quy định.
Dân chủ với tính cách là quyền lực của nhân dân đã xuất hiện từ rất
sớm, ngay từ xã hội công xã nguyên thủy – xã hội chưa có giai cấp. Trong xã
hội đó để duy trì sự tồn tại của mình, con người đã biết tự tổ chức ra những
hoạt động mang tính cộng đồng, xã hội, các thành viên cơng xã đều bình
đẳng tham gia vào mọi việc của xã hội. Việc cử ra những người đứng đầu các
cộng đồng để thực hiện những quy định chung hoặc phế bỏ người đứng đầu
nếu người đó khơng thực thi những quy định chung được giao cho mọi thành
viên quyết định thông qua đại hội nhân dân. Đó là hình thức dân chủ sơ khai,
chất phát của những tổ chức tự quản trong xã hội chưa có giai cấp.
Như vậy, “Dân chủ là phạm trù chỉ quyền làm chủ của nhân dân trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong xã hội khơng có giai cấp và khơng


11

có nhà nước, dân chủ được bộc lộ và được thực hiện dưới những hình thức tổ
chức tự quản của xã hội. Cịn trong xã hội có giai cấp và nhà nước thì dân
chủ được thể chế hóa vào chế độ nhà nước và nó trở thành hình thức chính
quyền nhà nước” [87,443].
Trong Từ điển Bách khoa Việt Nam (tập 1) nêu rõ: “Dân chủ là hình

thức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn
gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng
được vận dụng vào tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế
chính trị nhất định” [97,817].
Mỗi loại hình dân chủ chỉ ra đời và tồn tại trong một thời kỳ lịch sử
gắn liền với một chế độ kinh tế xã hội nhất định, tính lịch sử của dân chủ cịn
cho thấy dân chủ ra đời ngày càng hồn thiện, đỉnh cao của sự hoàn thiện là
khi chủ nghĩa cộng sản được thiết lập, lúc đó những cơ sở kinh tế - xã hội của
sự tồn tại nhà nước không cịn nữa, thì nhà nước sẽ bị tiêu vong như
V.I.Lênin đã nhận định “Chế độ dân chủ cũng là nhà nước, do đó, nhà nước
mà mất đi thì chế độ dân chủ cũng mất theo. Chỉ có cách mạng mới thủ tiêu
được nhà nước tư sản. Cịn nhà nước nói chung tức chế độ dân chủ triệt để
nhất thì chỉ có thể tiêu vong mà thơi” [60,24].
Cùng với tính lịch sử, dân chủ với tư cách là một phạm trù chính trị
ln gắn với xã hội có giai cấp và nhà nước tức là một chế độ dân chủ thể
hiện thơng qua nhà nước, vì vậy sẽ khơng có thứ “dân chủ chung chung, phi
giai cấp”, “dân chủ thuần túy”, dân chủ bao giờ cũng mang tính giai cấp.
Dân chủ cũng là một phạm trù đa nghĩa, dân chủ còn được hiểu với tư
cách là một hệ giá trị phản ánh trình độ phát triển của cá nhân và cộng đồng
xã hội trong q trình giải phóng xã hội, chống áp bức, bóc lột và nơ dịch để
tiến tới tự do bình đẳng. Chính vì vậy, trong bản chất của mình dân chủ đối
lập với chuyên chế, dân chủ gắn liền với tự do, bình đẳng, cơng bằng xã hội


12

trong quan hệ con người, là điều kiện giải phóng năng lực sáng tạo cho cá
nhân con người, nó trở thành nhu cầu thiết thực, nội tại của đời sống con
người cũng như tồn xã hội. Nhìn từ phương diện này dân chủ là một hệ giá
trị xã hội bền vững cho mọi thời đại, nó được quan niệm là tư cách, là tiêu

chuẩn của sự tiến bộ xã hội, dân chủ đóng vai trị là mục tiêu, là động lực của
sự phát triển, cũng là điều kiện để hình thành và phát triển nhân cách con người.
1.1.1. Điều kiện hình thành quan điểm chủ nghĩa Mác –
Lênin về dân chủ
Điều kiện kinh tế - xã hội hình thành quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin
về dân chủ
Xã hội vận động và phát triển không ngừng luôn luôn gắn liền với các
yếu tố tác động đến sự phát triển cụ thể, do đó mỗi cộng đồng xã hội hay một
quốc gia dân tộc trong từng thời kỳ phát triển đều có những đặc trưng riêng.
Tương ứng với từng yếu tố đặc trưng của xã hội, thì hệ tư tưởng và nền dân
chủ của xã hội cũng được biểu hiện dưới nhiều trạng thái khác nhau. C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã kế thừa những quan niệm về dân chủ trong lịch sử
để hình thành nên quan điểm của mình về dân chủ.
Dân chủ với tính cách là một thiết chế nhà nước khơng xuất hiện tức
thời mà phải trải qua một quá trình phát sinh và phát triển từ thấp đến cao, từ
ít đến nhiều, từ những yếu tố dân chủ lẻ tẻ trong từng lĩnh vực kinh tế, tư
tưởng xã hội đến một nền dân chủ gắn liền với chế độ thống trị của một giai
cấp nhất định. Như vậy dân chủ không xuất hiện tùy ý, tùy tiện theo ý muốn
chủ quan của con người, mà theo yêu cầu khách quan của lịch sử, dân chủ ra
đời trong những điều kiện lịch sử nhất định, nó là sản phẩm của tiến trình lịch sử.
Trong suốt nhiều thế kỷ, các nhà tư tưởng tiến bộ của loài người đã cố
gắng giải quyết vấn đề thủ tiêu bất bình đẳng xã hội, vì vậy tất cả các thời đại


13

lịch sử đều để lại những học thuyết của việc tìm tịi lý luận trong lĩnh vực tư
tưởng xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen không phải là những nhà duy vật, những
nhà cộng sản bẩm sinh, quan điểm tư tưởng của các ơng về các vấn đề xã hội
nói chung và về vấn đề dân chủ nói riêng khơng phải được hình thành một

cách ngẫu nhiên, tình cờ. Bằng những con đường khác nhau, hai ơng cùng
trải qua một q trình chuyển biến tư tưởng giống nhau và phải đến đầu
những năm 40 của thế kỷ XIX họ mới thực hiện được bước chuyển về lập
trường chính trị và triết học từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật, từ
chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản.
Khi còn là những nhà dân chủ cách mạng, C.Mác, Ph.Ăngghen đã
quan tâm đến những vấn đề chính trị xã hội và ở hai ơng khơng có sự đối lập
giữa lý luận với thực tiễn trong cuộc đấu tranh xã hội, đấu tranh chính trị.
Ngồi việc khái qt những kinh nghiệm đấu tranh xã hội đấu tranh chính trị,
hai ơng đã đích thân tham gia vào những cuộc đấu tranh đó. C.Mác,
Ph.Ăngghen ln ở vị trí trung tâm của những sự kiện chính trị và xã hội, hai
ơng là những nhà cách mạng khơng chỉ về lý luận mà cịn cả trong thực tiễn.
Vào những thập niên cuối thế kỷ XVIII cuộc cách mạng công nghiệp
đã diễn ra ở nước Anh. Đây được coi là sự mở đầu quá trình cơng nghiệp hóa
tư bản chủ nghĩa đánh dấu sự hình thành của một phương thức sản xuất mới
là phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Cuộc cách mạng công nghiệp kéo
theo sự biến đổi trong cơ cấu xã hội – giai cấp, xã hội phân chia thành nhiều
giai cấp, giai cấp vơ sản ra đời ngày càng bị bóc lột nặng nề. Họ hoàn toàn bị
tước đoạt hết tư liệu sản xuất và chỉ có thể sống bằng cách bán sức lao động
cho nhà tư bản. Ở nước Anh cũng như một số nước khác ở Tây Âu, dưới tác
động của nền đại công nghiệp những người công nhân làm thuê mất hết khả
năng quay về điạ vị giai cấp của mình.


14

Cuộc cách mạng công nghiệp đã làm cho giai cấp cơng nhân và quần
chúng nhân dân lao động bị bóc lột thậm tệ, từ khi những công xưởng đầu
tiên xuất hiện thì một bộ phận khá lớn lao động đàn ông được thay thế bằng
lao động phụ nữ và trẻ em với tiền công rẻ mạt. Công nhân phải làm việc tại

nhà máy từ 74 đến 80 giờ một tuần, một ngày làm việc từ 13 đến 14 giờ, tình
cảnh giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động rất tồi tệ.
Trong tác phẩm “Tình cảnh giai cấp công nhân Anh” Ph.Ăngghen cho
thấy cuộc cách mạng công nghiệp đã làm biến đổi đời sống giai cấp công
nhân Anh, trước đó họ vốn có “một cuộc sống tầm thường và ấm cúng,
một cuộc đời ngay thực, yên ổn trong cảnh hoà thuận và được người ta
quý trọng; so với những người cơng nhân sau này thì tình cảnh sinh
hoạt vật chất của họ khá hơn nhiều. Họ chả cần gì phải làm quá sức; họ
muốn làm bao nhiêu thì làm mà vẫn kiếm đủ dùng họ có thì giờ rảnh để
lao động bồi bổ sức khoẻ ở trong vườn hay ngồi ruộng” [68,336]. Cuộc
cách mạng cơng nghiệp đã biến những người lao động ở Anh thành một “cái
máy đơn thuần và cướp giật nốt cái phần hoạt động độc lập cuối cùng của
họ”[68,338].
Những thay đổi về kỹ thuật, về kinh tế đã dẫn đến những thay đổi căn
bản trong cơ cấu xã hội nước Anh, cuộc cách mạng công nghiệp và kinh tế ở
mức độ rộng lớn đã làm cho vùng nơng nghiệp của Anh trở thành hoang
vắng, cịn ở vùng LanCasia vùng công nghiệp vải sợi và những nơi mà ngành
luyện kim rất phát triển thì dân cư tăng lên nhanh chóng, từ sự phân bố dân
cư về mặt địa lý kéo theo sự phân bố dân cư theo nghề nghiệp và thành phần
giai cấp. Có thể nói tồn bộ q trình tiến hóa của xã hội Anh vào nửa sau thế
kỷ XVIII trở đi là một quá trình vơ sản hóa rộng lớn.
Q trình vơ sản hóa diễn ra từ hai phía. Một là, do cuộc cách mạng
ruộng đất nên số đông nông dân hoặc bị đuổi khỏi ruộng đất hoặc đành phải


15

bỏ ruộng đất. Hai là, sự phát triển của đại cơng nghiệp cơ khí máy móc đã
làm cho đơng đảo thợ thủ công và người sản xuất nhỏ bị mất kế sinh nhai,
không cạnh tranh nổi với lao động máy móc có năng suất cao hơn. Họ trở

thành vơ sản - đội quân đông đảo đầu quân vào các ngành công nghiệp để
bán sức lao động, làm thuê cho giai cấp tư sản.
Theo Ph.Ăngghen thì tồn bộ lịch sử sau đó của nền cơng nghiệp Anh chỉ
là thuật lại tình hình người lao động thủ cơng đã bị máy móc đánh bật khỏi hết
vị trí này đến vị trí khác như thế nào, cùng với sự phát triển của máy móc của
nền đại cơng nghiệp, giai cấp vơ sản cũng tăng lên nhanh chóng về số lượng,
nhưng cùng với quá trình đó “giai cấp cơng nhân mất hết mọi tài sản, mất mọi
niềm tin vào công việc làm, phong tục đồi bại, chính trị rối ren” [68,342].
Ph.Ăngghen đã nghiên cứu rất sâu sắc sự phát triển của nền công
nghiệp Anh bắt đầu từ ngành công nghiệp bông cho đến ngành cơng nghiệp
cơ khí. Đó là q trình bần cùng hóa diễn ra đối với người lao động, q trình
vơ sản hóa người lao động. Cuộc cách mạng cơng nghiệp cuối thế kỷ XVIII
đầu thế kỷ XIX đã tạo ra bước phát triển nhảy vọt về đời sống, kinh tế, chính
trị, xã hội. Nó đánh dấu bước phát triển căn bản của chủ nghĩa tư bản sang
giai đoạn công xưởng, giai cấp vô sản hiện đại ra đời.
Ở các thành phố lớn từ Luân Đôn đến Man-sex-tơ, Bớc-minh-hêm … và
trên khắp nước Anh “Đâu đâu cũng là một sự lãnh đạm dã man, ích kỷ tàn
nhẫn, một bên là sự nghèo khổ khó hình dung nổi, đâu đâu cũng là chiến tranh
xã hội”;“chiến tranh của mọi người chống mọi người” [68,364]. Những khu
nhà “ổ chuột” trong các thành phố lớn là nơi ở của người lao động, họ sống
chen chúc trong những ngôi nhà tồi tàn nhất thành phố “nhà của của người lao
động đều quy hoạch tồi, xây dựng tồi, khơng được giữ gìn, bí hơi, ẩm thấp và
thiếu vệ sinh: người ở chen chúc nhau, và trong đa số trường hợp, thì trong
một phịng ít ra cũng có một gia đình ngủ” [68,423]. Về ăn mặc của người


16

cơng nhân thì cũng khơng khá hơn “quần áo của cơng nhân nói chung cũng
rất thảm thương, phần đơng chỉ mặc những mớ giẻ rách; thức ăn nói chung

rất tồi, thường là hầu như không thể ăn được, trong nhiều trường hợp, ít ra
cũng thi thoảng, khơng đủ số lượng và trong những trường hợp tệ nhất thì có
cả người chết đói” [68,423]. Về mặt pháp luật và trên thực tế người cơng nhân
“là nơ lệ của giai cấp có của, của giai cấp tư sản; họ bị nô lệ đến mức có thể
bị bán đi như hàng hóa và cũng lên giá xuống giá như hàng hóa vậy” [68,430].
Khi phân tích một cách sâu sắc tình cảnh của giai cấp công nhân ở
nước Anh - nơi được coi là điển hình nhất của sự phát triển cơng nghiệp tư
bản chủ nghĩa, của chế độ tư bản, Ph.Ăngghen đã chỉ rõ thân phận của người
công nhân hiện đại - họ không phải là nô lệ của một cá nhân, mà là nơ lệ của
tồn thể giai cấp tư sản; chính vì vậy khi con người bị đặt vào tình cảnh như
súc vật chỉ có một cách hoặc là vùng lên phản kháng hoặc là thực sự trở
thành súc vật.
Trong “Bản Thảo Kinh tế triết học” C.Mác vạch ra sự vận động của
những mâu thuẫn đối kháng trong xã hội tư bản giữa lao động bị cưỡng bức
tha hóa và tư bản. Trong xã hội tư bản, người cơng nhân có quan hệ với sản
phẩm lao động của mình như… với một vật xa lạ, đối địch, có uy lực, khơng
phụ thuộc vào mình. Lao động vốn là hoạt động sáng tạo của con người thì
dưới chủ nghĩa tư bản trở thành lao động bắt buộc, cưỡng bức. Tất nhiên, lao
động sản xuất ra những vật phẩm kỳ diệu cho những người giàu, nhưng nó lại
sản xuất ra sự bần cùng hóa cho người cơng nhân. Nó sáng tạo ra lâu đài,
nhưng cũng tạo ra cả những túp lều lụp xụp cho cơng nhân. Nó sáng tạo ra
cái đẹp, nhưng cũng làm cho người cơng nhân xấu xí đi. Nó thay thế lao động
chân tay bằng máy móc, nhưng trong khi đó thì một bộ phận cơng nhân bị
ném trở lại đằng sau, trở lại lao động dã man, còn một bộ phận cơng nhân
khác thì biến thành cái máy. Nó sản sinh ra sự thông minh nhưng cũng sản


17

sinh ra cả sự đần độn ngu ngốc coi như số phận của cơng nhân, vì thế nên

người cơng nhân sợ lao động giống như sợ dịch bệnh. “Một khi khơng cịn sự
cưỡng bức lao động về thể xác hoặc về mặt khác, thì người ta trốn tránh lao
động như trốn tránh bệnh dịch hạch vậy. Lao động bên ngoài, lao động mà
trong q trình đó con người bị tha hóa mình, là sự tự hy sinh mình, là sự tự
hành hạ mình” [75,133]. Và số phận người cơng nhân khơng khác khác gì
một con vật “Kinh tế chính trị học, - C.Mác viết,- có thể đưa ra luận điểm
rằng công nhân, cũng như mọi con ngựa, phải kiếm được đủ để có thể lao
động. Nó khơng xét cơng nhân trong thời gian anh ta khơng có việc làm,
khơng xét cơng nhân như một con người” [75,81].
Trong q trình bảo vệ những người nghèo khổ, C.Mác và Ph.Ăngghen
dần dần tìm thấy nguồn gốc của sự đối lập giữa giàu có và nghèo khổ chính
là chế độ tư hữu – đây là điều đầu tiên thúc đẩy các ông nghiên cứu những
vấn đề kinh tế và đưa đến việc các ông xem xét lại các quan niệm duy tâm
của mình. Các ông cho rằng nhà nước thể hiện quyền tự do lý trí của nhân
dân, nó phải là nhà nước dân chủ, phải thực hiện những quyền tự do dân chủ
chung. Cịn hiện thực và thực tiễn thì ngày càng làm cho các ông thấy rằng
nhà nước là một tổ chức giai cấp và nó phục vụ lợi ích kinh tế của bọn địa
chủ và giai cấp tư sản.
Thông qua việc giải quyết những mâu thuẫn đã nảy sinh trong thế giới
quan dân chủ cách mạng, hai ông dần dần thừa nhận tính giai cấp của nhà
nước, của pháp luật và những thể chế của chúng. Dần dần hai ông phát hiện ra
mâu thuẫn giữa sở hữu và bần cùng, giữa những người có của và những người
khơng có của, giữa nhà tư sản và người công nhân. Tất cả những điều đó buộc
hai ơng phải xem xét lại những quan điểm triết học và chính trị của mình.
Đến nửa đầu thế kỷ XIX tuy phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
còn ở thời kỳ đang lên, nhưng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa từ chỗ là


18


động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất đã chuyển hóa thành lực cản đối với sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Một mặt, trình độ của lực lượng sản xuất
không tương dung với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và đòi hỏi phải phá
bỏ quan hệ sản xuất đó. Mâu thuẫn giữa trình độ xã hội hóa cao của lực lượng
sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất
ngày càng sâu sắc tất nhiên dẫn đến những biến động ngày càng dữ dội trong
chủ nghĩa tư bản. Mặt khác, sự phát triển của lực lượng sản xuất gắn liền với
sự vơ sản hóa quần chúng lao động hình thành nên một tập đồn xã hội. Sự
biến đổi mang tính lịch sử này địi hỏi sự biến đổi có tính cách mạng trong tư
tưởng nhân loại. Trong khoảng một nửa thế kỷ, từ nửa đầu thập niên 40 đến
đầu thập niên 90 của thế kỷ XIX hai nhà lý luận cũng là nhà cách mạng kiệt
xuất nước Đức – đã thực hiện một cách thiên tài sự biến đổi cách mạng trong
lịch sử tư tưởng nhân loại. Trong thời kỳ này các ông đã sáng lập ra thế giới
quan mới – thế giới quan vô sản cách mạng, tức là chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa
Mác ra đời đánh dấu sự chuyển biến căn bản trong lĩnh vực quan niệm về chủ
nghĩa xã hội nói chung và trên lĩnh vực dân chủ nói riêng. Nó ra đời đã phát
minh và sáng tạo ra công cụ quan trọng nhất để nhận thức thực tại xã hội,
vạch ra quy luật của sự tiến bộ xã hội, chỉ ra tính nhất thời của hình thái tư
bản chủ nghĩa, là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận để hình thành nên
quan điểm dân chủ của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Điều kiện chính trị, xã hội hình thành quan điểm chủ nghĩa Mác –
Lênin về dân chủ
Như vậy, có thể nói cuối thế kỷ XVIII đến những thập niên đầu thế kỷ
XIX ở châu Âu là thời kỳ bão táp của cách mạng tư sản. Nền sản xuất đại
công nghiệp ra đời ở Anh và một phần Châu Âu lục địa. Chính nền sản xuất
đã nhanh chóng làm biến đổi tồn bộ thực trạng kinh tế xã hội ở Tây Âu.
Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa từng bước được xác lập là một điều


19


khơng thể đảo ngược. Tuy nhiên cùng với q trình xác lập, phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa cũng là quá trình làm nảy sinh và hình thành ngày càng
rõ nét hai lực lượng xã hội cơ bản đối lập nhau, đó là giai cấp tư sản và giai
cấp công nhân. Giai cấp tư sản đã bộc lộ bản chất áp bức bóc lột quần chúng
lao động, do đó tình trạng bất cơng xã hội bất bình đẳng và nghèo khổ ngày
càng đè nặng lên giai cấp công nhân và quần chúng lao động khác.
Tình hình kinh tế xã hội kéo theo những thay đổi về chính trị, tình hình
chính trị ở Tây Âu vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX rơi vào tình trạng
rối ren, những phản kháng đầu tiên của giai cấp công nhân, quần chúng lao
động xuất hiện và ngày càng phát triển.
Vào thế kỷ XVI –XVII giai cấp quý tộc phong kiến đang suy tàn
nhưng vẫn nắm quyền lực nhà nước. Chủ nghĩa tư bản tương đối phát triển,
giai cấp tư sản lớn mạnh lên nhưng bị các thế lực phong kiến kìm hãm. Giai
cấp tư sản đã tiến hành cuộc vận động cách mạng nhằm lật đổ chế độ phong
kiến mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Tiêu biểu là cuộc cách mạng
tư sản Pháp diễn ra năm 1789 dưới sự lãnh đạo của giai cấp tư sản, giai cấp
vô sản và quần chúng nhân dân lao động đã lật đổ được chế độ phong kiến
mở ra một trang sử mới cho chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, vì quyền lợi giai
cấp hẹp hịi, giai cấp tư sản khơng thể đưa cách mạng tiến xa hơn nữa mà tìm
cách dừng lại giữa đường. Giai cấp tư sản sau khi thoát khỏi gơng cùm của
chế độ phong kiến thì khơng giải phóng tồn thể quần chúng và nhân dân lao
động, mà trái lại mà đem xiềng xích bóc lột mới – bóc lột chủ nghĩa tư bản
quàng lên vai người lao động. Clau de henri Saint Simon (Xanh ximong)
dành nhiều thời gian nghiên cứu cuộc cách mạng tư sản Pháp, ông đã chỉ ra
tính khơng triệt để và khơng vì lợi ích của người lao động. Chính cuộc cách
mạng này đã đưa giai cấp tư sản – một giai cấp vốn ở địa vị trung gian lên
nắm quyền thống trị và giai cấp tư sản đã lái cuộc cách mạng phục vụ cho lợi



20

ích của mình, do đó cuộc cách mạng đã khơng thiết lập được một chế độ phù
hợp với quyền lợi của “giai cấp nghèo khổ và đông đảo nhất”.
Theo Xanh ximông, cách mạng Pháp không chỉ là cuộc đấu tranh giữa
tư sản và q tộc mà đó cịn là cuộc đấu tranh giữa một bên là tư sản quý tộc
với một bên là đông đảo giai cấp những người không có của. Ph.Ăngghen đã
đánh giá cao nhận định này của Xanh ximông khi cho rằng “những năm
1802, hiểu được rằng cách mạng Pháp là một cuộc đấu tranh giai cấp, giữa
giai cấp quý tộc và giai cấp tư sản và những người khơng có của thì đó là
một phát hiện hết sức thiên tài” [73,359].
Cùng với việc nhận định về cuộc cách mạng tư sản Pháp, Xanh ximơng
đã cơng kích gay gắt xã hội đương thời, ơng chỉ rõ tình trạng vơ chính phủ
dẫn đến khủng hoảng và tàn phá cơ sở của xã hội. Sự “bất bình đẳng trong sở
hữu” và “đặc quyền theo nguồn gốc xuất thân” đã sản sinh ra những đặc
quyền, đặc lợi. Đó là một “xã hội lộn ngược”, trong đó các dân tộc phải chấp
nhận một điều làm nguyên tắc cơ bản là người nghèo phải rộng lượng với
người giàu, những kẻ phạm tội lớn nhất có quyền trừng trị những kẻ phạm tội
nhỏ nhất, ở tất cả mọi loại công việc những người khơng có năng lực điều
khiển những người có năng lực, những kẻ vơ đạo đức có nhiệm vụ dạy đức
hạnh cho cơng dân.
Charle Fourie (Phuriê) thì nhận xét rằng xã hội tư sản là một “trạng
thái vơ chính phủ cơng nghiệp”, ở xã hội đó người lao động làm ra sản phẩm
được hưởng q ít, trong khi đó những kẻ không lao động lại được hưởng quá
nhiều. “Sự nghèo khổ sinh ra từ chính bản thân sự dư thừa”, xã hội tư sản
đang vận động trong cái vòng luẩn quẩn, đây là một luận điểm nổi tiếng và
sắc sảo của ông.Theo ông, nền sản xuất công nghiệp tư bản chủ nghĩa với
tình trạng cạnh tranh chạy theo lợi nhuận một cách vô tổ chức đã khiến cho
thị trường rối loạn và người lao động bị bần cùng hóa. Bởi vì “sự cạnh tranh



×