Tải bản đầy đủ (.docx) (84 trang)

KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA HÀN QUỐC VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (504.86 KB, 84 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp: “Kế hoạch phát triển kinh tế của
Hàn Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam” là nghiên cứu của tôi. Những
phần tham khảo trong khóa luận đã được nêu rõ trong danh mục tài liệu tham khảo.
Các số liệu, kết quả trình bày trong khóa luận là hoàn toàn trung thực, nếu sai tôi
xin hoàn toàn chịu trách nhiệm và chịu mọi kỷ luật của Khoa và Học viện.
Sinh viên
Ngô Thị Thu
1
MỤC LỤC
2
ANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
Bộ TC : Bộ Tài chính
Bộ KH&ĐT : Bộ Kế hoạch và Đầu tư
BQ : Bình quân
EPB : Ủy ban Kế hoạch Kinh tế
FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài
IMF : Quỹ Tiền tệ thế giới
IT : Công nghệ thông tin
KDI : Viện Phát triển Hàn Quốc
KHH : Kế hoạch hóa
KHPT : Kế hoạch phát triển
KT-XH : Kinh tế - xã hội
MCRET : Họp báo cáo xu hướng kinh tế
MECEP : Họp mở rộng xúc tiến xuất khẩu hàng tháng
MOSF : Bộ Chiến lược và Tài chính
MTEF : Khung khổ chi tiêu trung hạn
NFMP : Kế hoạch quản lý tài chính quốc gia
NIC
s


: Nước công nghiệp mới
ODA : Viện trợ phát triển chính thức
OECD : Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
ORBs : Nguồn ngân sách tổng thể
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
GATT : Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch
GDP : Tổng sản phẩm trong nước
GNI : Tổng sản phẩm quốc dân
3
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Danh mục bảng
c biểu đồ
4
DANH MỤC PHỤ LỤC
5
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Việt Nam vốn là một nước có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, đang thực
hiện chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Với lịch
sử hơn 50 năm kế hoạch hóa, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể cả về
kinh tế và xã hội: từ một nước nông nghiệp nghèo, bị chiến tranh tàn phá khốc liệt,
Việt Nam đã trở thành một nước có thu nhập trung bình, đời sống nhân dân được
cải thiện rõ rệt. Với những yêu cầu mới đạt ra trong bối cảnh kinh tế quốc tế, công
tác KHH cần được đổi mới nhằm bảo đảm cho kế hoạch thực sự là công cụ can
thiệp của nhà nước vào nền kinh tế thị trường, đồng thời chiến lược, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội phải tạo được bước đột phá, thay đổi diện mạo đất nước.
Các nước xã hội (Liên Xô cũ, Trung Quốc) và các nước có nền kinh tế thị
trường phát triển (Pháp, Nhật Bản, Mỹ, các nước NIC
s
và các nước ASEAN) đều

coi kế hoạch hóa quốc gia là cơ chế tổ chức duy nhất giúp họ vượt qua những trở
ngại to lớn đối với sự phát triển và duy trì tăng trưởng kinh tế cao. Sự phát triển
kinh tế nhanh của Hàn Quốc được biết đến trong những năm 1960-1970 cũng là nhờ
thực hiện thành công các kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm. Như Peter Drucker
nhận xét: “Hàn Quốc cho chúng ta một ví dụ quan trọng về một quốc gia kém phát
triển, không có tài nguyên thiên nhiên nhảy vọt thành một xã hội công nghiệp, làm
cho chúng ta không thể thảo luận về lịch sử phát triển kinh tế của thế kỷ XX mà
không bàn đến sự phát triển kinh tế kỳ diệu của Hàn Quốc”. Tăng trưởng GDP năm
2010 gấp hơn 500 lần, kim ngạch thương mại gấp hơn 300 lần năm 1970; là nước
đầu tiên trên thế giới từ một nước nhận viện trợ trở thành nước viện trợ.
Cùng là một đống tro tàn còn lại sau chiến tranh, nhưng nền kinh tế Hàn
Quốc đã vươn lên mạnh mẽ sau 35 năm với 5 kế hoạch phát triển kinh tế. Có thể
nói, Hàn Quốc ví dụ tiêu biểu để chúng ta học tập kinh nghiệm phát triển kinh tế
nói chung và công tác kế hoạch hóa nói riêng.Chính vì vậy, tôi chọn đề tài khóa
luận là: “Kế hoạch phát triển kinh tế của Hàn Quốc và bài học kinh nghiệm
cho Việt Nam”.
Với đề tài này, tôi xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn TS. Nguyễn
Thị Ái Liên – Đại học Kinh tế Quốc dân và các anh chị trong ban Tổng hợp – Viện
6
Chiến lược Phát triển, đặc biệt ThS. Nguyễn Thị Mỹ Hạnh đã giúp đỡ tôi trong suốt
thời gian thực tập và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
2. Đối tượng và mục đích nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu cách thức lập kế hoạch
hóa của Hàn Quốc và Việt Nam giai đoạn 1960-2010.
Về mục đích nghiên cứu:
- Cách thức lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm tra/giám sát, đánh giá kế hoạch
của Hàn Quốc;
- Công tác kế hoạch hóa phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam;
- Trên cơ sở so sánh kế hoạch của Việt Nam và Hàn Quốc để đưa ra những gợi ý
chính sách, khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả kế hoạch ở Việt Nam.

3. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Đề tài giới hạn phạm vinghiên cứu công tác kế hoạch hóa của
Hàn Quốc và Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu cơ chế lập kế hoạch, tổ chức thực
hiện, kiểm tra/giám sát, đánh giá các kế hoạch phát triển kinh tế lớn.
Về thời gian: Kế hoạch hóa phát triển giai đoạn 1960-2010.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu nhập tài liệu: các tài liệu trong và ngoài nước được tác giả
thu thập từ nhiều nguồn khác nhau: tài liệu lưu trữ quốc gia, thư viện Viện Chiến
lược Phát triển và các tài liệu khác có liên quan…
Phương pháp phân tích – tổng hợp: trên cơ sở phân tích các tài liệu thu nhập
được để nhận xét, đánh giá, rút ra nhận định và bài học kinh nghiệm.
5. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, đề tài gồm 4 chương:
Chương 1. Công tác kế hoạch hóa phát triển kinh tế ở Hàn Quốc
Chương 2. Công tác kế hoạch hóa ở Việt Nam
Chương 3. So sánh công tác kế hoạch hóa giữa Việt Nam và Hàn Quốc
Chương 4. Khuyến nghị đối với công tác kế hoạch hóa quốc gia
7
Chương 1.
CÔNG TÁC KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở HÀN QUỐC
1.1. Giới thiệu chung về Hàn Quốc
Sau chiến tranh thế giới thứ hai,Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh vào năm
1945, Triều Tiên bị chia cắt làm hai miền với ranh giới là vĩ tuyến 38: Miền Nam –
Đại Hàn Dân Quốc theo chính thể tư bản – một đất nước với nguồn tài nguyên
nghèo nàn dựa vào nông nghiệp, hầu hết các ngành công nghiệp nặng ở phía Bắc –
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên theo chính thể cộng sản. Hai bên đã đối đầu
trực tiếp với nhau trong cuộc chiến Triều Tiên năm 1950 và kéo dài trong 3 năm,
làm cho tình hình tồi tệ hơn: cuộc chiến đã phá hủy trực tiếp hầu như tất cả năng lực
sản xuất và cơ sở hạ tầng xã hội, bao gồm các cơ sở sản xuất điện, đường sắt và các
phương tiện viễn thông. Do đó, nền kinh tế Hàn Quốc phụ thuộc hoàn toàn vào viện

trợ nước ngoài để đáp ứng các nhu cầu cơ bản của người dân, cũng như tài trợ để
phục hồi nền kinh tế.
Từ đống tro tàn của Chiến tranh Triều Tiên, Hàn Quốc được biết đến với tên
gọi “Kỳ tích sông Hàn”. Tốc độ tăng trưởng GNP từ năm 1961 đến năm 2000 đặt
8,7% mỗi năm. Thu nhập bình quân đầu người (theo giá hiện hành) tăng từ dưới
100 USD (năm 1960) lên gần 10.000 USD (năm 2000). Tăng trưởng kinh tế cao bền
vững biến Hàn Quốc từ một trong những nước nghèo nhất thế giới trở thành một
nước công nghiệp mới năng động; Seoul từ một thành phố đổ nát sau chiến tranh đã
hoàn toàn chuyển mình thành một thành phố toàn cầu, một trung tâm kinh doanh và
thương mại lớn ở châu Á có hạ tầng công nghệ tiên tiến. Để đạt được những thành
tựu to lớn như vậy, không thể phủ nhận vai trò của kế hoạch phát triển kinh tế, một
công cụ để Chính phủ Hàn Quốc can thiệp vào nền kinh tế nhằm khắc phục những
khuyết tật của thị trường, đồng thời là công cụ để huy động và phân bổ nguồn lực
khan hiếm cùng hướng tới mục tiêu trong những thời kỳ nhất định.
1.2. Cơ quan lập kế hoạch – Ủy ban Kế hoạch Kinh tế
1.2.1. Sự hình thành Ủy ban Kế hoạch Kinh tế
Khi Tổng thống Park Chung Hee lên nắm quyền vào năm 1961, Hàn Quốc là
một trong những nước nghèo nhất thế giới với gần một nửa dân số sống dưới mức
nghèo khổ tuyệt đối.Mối quan tâm lớn nhất của Tổng thống Park là xóa đói giảm
8
nghèo, ông xác định chỉ có thể đạt được mục tiêu đó nhờ vào tăng trưởng kinh tế.
Với những điều kiện ban đầu không mấy thuận lợi, Tổng thống cho rằng để phát
triển kinh tế thì cần thiết phải có sự can thiệp mạnh mẽ của Chính phủ trong phân
bổ nguồn lực, tức là, cần có một kế hoạch phát triển (KHPT) do Chính phủ định
hướng. Để lập KHPT và thực hiện kế hoạch hiệu quả, ông bắt đầu cải cách hành
chính nhà nước bằng cách thành lập một cơ quan kế hoạch được gọi là Ủy ban Kế
hoạch Kinh tế (EPB) vào năm 1961.
EPB là sự kết hợp giữa Văn phòng Ngân sách thuộc Bộ Tài Chính (Bộ TC),
Cục Thống kê thuộc Bộ Nội vụ và chức năng lập kế hoạch của Bộ Tái thiết. Tổng
thống Park trao cho EPB nhiều quyền lực, do đó Ủy ban này có thể ban hành các

chính sách kinh tế và phối hợp với các Bộ, ngành liên quan trong công tác KHPT.
1.2.2. Đặc điểm của Ủy ban Kế hoạch Kinh tế
Bộ trưởng của EPB đồng thời cũng là Phó Thủ tướng Chính phủ, do đó Bộ
trưởng được ủy quyền kiểm soát và phối hợp với các Bộ khác. EPB được hỗ trợ
mạnh mẽ từ phía Tổng thống, khi một vài xung đột xảy ra, Tổng thống sẽ là người
hỗ trợ cho Bộ trưởng EPB.
Vai trò của EPB tập trung vào lập kế hoạch và lập ngân sách. EPB có thể
kiểm soát và phối hợp các quyết định của các Bộ khác nhau thông qua vai trò quản
lý ngân sách quốc gia. Và với công cụ ngân sách, EPB có thể làm cho bản kế hoạch
thực tế hơn; nếu không có sự hỗ trợ tài chính, những kế hoạch tuyệt vời cũng sẽ có
thể trở nên vô ích.
Ngoài ra, EPB là một đơn vị trung lập: cơ quan này không thực hiện bất kỳ
dự án nào, do vậy nó có thể tách rời với các bên liên quan. Với vai trò này, EPB có
thể lên kế hoạch tầm nhìn dài hạn.
Thành viên của EPB là những cán bộ công chức chuyên nghiệp.Để được làm
việc trong EPB, những ứng viên phải trải qua một cuộc thi tuyển công chức cao cấp
đặc biệt.Trong số những ứng viên này, người ưu tú nhất sẽ được làm việc tại EPB.
EPB bắt đầu với việc sửa đổi KHPT kinh tế lần thứ nhất, mục tiêu ba năm
cuối của kế hoạch là tạo ra những triển vọng kinh tế mới.Các Bộ khác cũng chia sẻ
các mục tiêu và chiến lược khi lập KHPT kinh tế lần thứ nhất cùng với EPB.Với
9
Hàn Quốc, EPB là một nhân tố có đóng góp lớn đối với việc thực hiện thành công
một loạt KHPT kinh tế.
1.2.3. Cơ chế hoạt động
Một số cuộc họp chính thức được tổ chức để phối hợp các bên tham gia trong
quá trình lập kế hoạch như:
- Họp báo cáo xu hướng kinh tế (MCRET) được tổ chức thường xuyên mỗi
tháng một lần cho đến cuối những năm 1970 và hoạt động như một diễn đàn ra
quyết định, hỗ trợ các Bộ và các cơ quan Chính phủ trong việc phối hợp chính sách
để đối phó với diễn biến thị trường phức tạp.

Tổng thống Park đã chủ trì tất cả các cuộc họp của Hội đồng báo cáo xu
hướng kinh tế, cung cấp những hỗ trợ chính trị đáng kể cho EPB trong việc thực
hiện các KHPT và phối hợp các chính sách kinh tế tổng thể.
- Một diễn đàn tương tự khác, Họp mở rộng xúc tiến xuất khẩu hàng tháng
(MECEP), cũng được Tổng thống Park chủ trì, góp phần rất lớn vào thúc đẩy xuất
khẩu và tăng trưởng kinh tế.
Nhiệm vụ của Họp mở rộng xúc tiến xuất khẩu là đẩy mạnh các chính
sách định hướng xuất khẩu, phân tích, theo dõi và đánh giá kết quả của các
chính sách này.
Họp mở rộng xúc tiến xuất khẩu không chỉ diễn ra trong nội bộ Chính phủ
mà còn cho phép khu vực tư nhân tham gia vào các hoạt động liên quan đến xuất
khẩu trên thị trường quốc tế.
1.3. Các kế hoạch phát triển lớn của Hàn Quốc
1.3.1. Giai đoạn trước kế hoạch
Đầu tháng 3/1959, Chính phủ đã công bố giai đoạn 3 năm đầu tiên của kế
hoạch phát triển kinh tế 7 năm (1960-1966). Đây là kế hoạch phát triển dài hạn
đầu tiên được Chính phủ Hàn Quốc xây dựng. Tuy nhiên, kế hoạch được xây
dựng bởi Hội đồng phát triển Công nghiệp và lại được Bộ Tái thiết thực hiện, kế
hoạch gần như không thể thực hiện được do khâu chuẩn bị không chu đáo và
Cách mạng sinh viên năm 1960.
Chính phủ Đảng Dân chủ Hàn Quốc nhậm chức vào tháng 8 đã dành ưu
tiên hàng đầu để phát triển kinh tế đất nước và đưa ra một kế hoạch dài hạn
10
nhằm phát triển kinh tế dựa vào các dự án chiến lược. Kế hoạch 5 năm (1961-
1965) này đã bị bỏ rơi sau khi cuộc đảo chính quân sự tháng 5/1961. Tuy nhiên,
kế hoạch này trở thành cơ sở của KHPT kinh tế 5 năm đầu tiên, được soạn thảo
bởi Chính phủ Park vào năm 1962.
1.3.2. Kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm lần thứ nhất (1962-1966)
Hàn Quốc phải đối mặt với nghèo đói và tuyệt vọng sau cuộc nội chiến
(1950-1953): hệ thống kinh tế bị tê liệt, thiếu cơ sở hạ tầng công nghiệp, vốn và

công nghệ. Tỷ lệ tiết kiệm nội địa ròng là -2,2%, hoạt động kinh tế chủ yếu dựa vào
viện trợ nước ngoài của Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc. Khi viện trợ nước ngoài giảm
dần thì Hàn Quốc phải phát triển nền kinh tế độc lập.
Tổng thống Park Chung-Hee lên nắm chính quyền sau cuộc đảo chính
quân sự tháng 5/1961. Chính phủ xác định ưu tiên hàng đầu là phục hồi nền
kinh tế để vượt qua nghèo đói và đặt ra một tầm nhìn mới cho đất nước. KHPT
kinh tế 5 năm nhằm huy động tối đa nguồn lực quốc gia, khôi phục nền kinh tế,
vượt qua đói nghèo.
* Mục tiêu và chính sách chủ yếu
Kế hoạch phát triển kinh tế lần thứ nhất (1962-1966) nhằm tạo dựng cơ
sở vững chắc cho phát triển kinh tế bền vững từ hệ thống kinh tế đã bị phá hủy
do chiến tranh.Kế hoạch nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân
7,1%/năm, tăng thu nhập bình quân đầu người và tạo nhiều cơ hội việc làm.
Mục tiêu của kế hoạch tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng để phát triển công
nghiệp và thúc đẩy ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu bằng nguồn vốn
trong nước từ năm 1962-1963.
Hàn Quốc theo đuổi mục tiêu công nghiệp hóa định hướng xuất khẩu sử
dụng lao động giá rẻ. Do vậy, trọng tâm chính sách trong kế hoạch này là:
(1) Tăng các nguồn năng lượng như điện, than;
(2) Tăng thu nhập khu vực nông nghiệp và cải thiện sự mất cân đối trong cơ cấu
kinh tế;
(3) Xây dựng các ngành công nghiệp lớn và cơ sở hạ tầng xã hội;
(4) Sử dụng các nguồn lực nhàn rỗi, gia tăng việc làm;
(5) Cải thiện cán cân thanh toán thông qua xúc tiến xuất khẩu;
(6) Phát triển công nghệ.
11
* Kết quả của kế hoạch
Những thành tựu lớn nhất của KHPT kinh tế lần thứ nhất là tốc độ tăng
trưởng và tốc độ xuất khẩu. Trong thời kỳ kế hoạch, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình
quân đã đạt 7,8%/năm, vượt xa mục tiêu ban đầu là 7,1%/năm.

Bảng 1.1. Một số chỉ tiêu kinh tế trong kế hoạch phát triển lần thứ nhất
Chỉ tiêu 1962 1963 1964
196
5
196
6
BQ
Tốc độ tăng trưởng (%) 2,1 9,1 9,6 5,7 12,2 7,8
Giá bán sỉ (%) 9,3 20,8 34,7 10,0 8,8 16,5
Tài khoản vãng lai
(100 triệu USD)
0,6 -1,4 0,3 0,1 -1,0 _
Nguồn: Ủy ban Kế hoạch Kinh tế, Hàn Quốc
Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân 44%/năm, gấp đôi mục tiêu kế
hoạch nhờ vào đẩy mạnh xuất khẩu mạnh các mặt hàng công nghiệp. Bên cạnh đó,
các ngành công nghiệp trọng điểm quốc gia đã được xây dựng như than đá, phân
bón, năng lượng và xăng dầu.
Bảng 1.2. Kết quả của hoạt động xuất khẩu trong
kế hoạch phát triển lần thứ nhất
1962 1967
Tổng kim ngạch xuất khẩu (triệu USD) 55 320
Tỷ lệ xuất khẩu/GNP (%) 2,4 7,4
Tỷ trọng trên thị trường thế giới (%) 0,04 0,16
Cơ cấu xuất khẩu theo ngành (%)
- Sản phẩm sơ cấp 63,0 27,5
- Sản phẩm công nghiệp 27,0 72,5
Nguồn: Các thống kê tài chính quốc tế, Quỹ tiền tệ thế giới
Tốc độ xuất khẩu tăng đáng kể, bình quân tăng 38,6%/năm, trong khi nhập
khẩu tăng 18,7%/năm trong cùng thời kỳ. Tỷ lệ xuất khẩu/GNP là 2,4% (năm
1962)tăng lên 7,4% (năm 1967).Trong cơ cấu sản phẩm xuất khẩu, sản phẩm công

nghiệp tăng mạnh, sản phẩm sơ cấp giảm trong suốt thời kỳ kế hoạch.
Tuy nhiên, đã có một số vấn đề đã xảy ra trong quá trình thực hiện kế hoạch.
Các mục tiêu được thiết lập quá tham vọng nhằm đáp ứng mong đợi của nhân dân,
12
các phương án đề xuất để huy động nguồn lực tài chính không thực tế và đội ngũ
công chức thiếu chuyên môn lập kế hoạch trong khi nguồn dữ liệu thống kê không
chính xác. Do đó, kế hoạch đã được điều chỉnh để khắc phục những vấn đề nảy sinh
trong KHPT kinh tế lần thứ nhất nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện.
Thực tế, kế hoạch thu hút 2,4 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài dường như đã
không đạt được do cắt giảm viện trợ của Mỹ. Để vượt qua khó khăn này, Chính phủ
đã đưa ra một hệ thống đảm bảo khả năng thanh toán của Chính phủ vào năm 1962.
Với hệ thống này, Chính phủ đảm bảo khả năng thanh toán trong trường hợp các
công ty nhà nước không thể trả nợ.
Hàn Quốc đã ban hành chính sách định hướng xuất khẩu, bằng cách tăng
xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu; huy động vốn đầu tư nước ngoài và điều này
làm cải thiện cán cân thanh toán.Cùng với chính sách này, Hàn Quốc đã tăng
cường hỗ trợ đầu tư các ngành cơ bản để xây dựng một đất nước độc lập về kinh
tế. Chính sách chống lạm phát cũng được đưa ra khi giá tiêu dùng tăng mạnh
trong nửa đầu thập niên 1960 do khối lượng đầu tư và các khoản vay lớn cũng
như tín dụng ngân hàng được mở rộng.
13
Bảng 1.3. Kết quả của các chính sách trong kế hoạch phát triển kinh tế
lần thứ nhất
Chính sách Kết quả
Ban hành chính sách định
hướng xuất khẩu và hệ
thống thu hút vốn đầu tư
nước ngoài
- Cải thiện cán cân thanh toán thông qua tăng xuất
khẩu và hạn chế nhập khẩu (phát triển các ngành

công nghiệp thay thế nhập khẩu)
- Là công cụ hiệu quả để Hàn Quốc có nền kinh tế
độc lập.
Tăng cường hỗ trợ đầu tư
phát triển các ngành công
nghiệp cơ bản nhằm xây
dựng nền kinh tế độc lập
- 48% tổng vốn đầu tư được phân bổ vào các dự
án cơ sở hạ tầng công nghiệp.
- Phát triển “kế hoạch ngân sách đầu tư quốc gia”,
trong đó mô tả các khoảng chi tiêu hàng năm của
cả khu vựcnhà nước và tư nhân.
- Cải cách thuế diễn ra mạnh mẽ.
Ban hành tỷ giá hối đoái
thả nổi (tháng 3/1965) và
chuẩn hóa lãi suất (tháng
9/1965)
- Các nguồn lực tài chính được đảm bảo
- Đẩy mạnh xuất khẩu
Phát triển kế hoạch chống
lạm phát
- Kế hoạch chống lạm phát được sửa đổi, khi giá
tiêu dùng tăng mạnh trong nửa đầu những năm
1960 do các khoản vay và đầu tư lớn, cũng như tín
dụng ngân hàng mở rộng, giảm dự trữ ngoại hối
và sự mất mùa năm 1962-1963.
- Phát triển kinh tế đi kèm với lạm phát trong quá
trình phát triển.
Nguồn: Ủy ban Kế hoạch Kinh tế, Hàn Quốc
* Đánh giá kế hoạch

Kế hoạch 5 năm đầu tiên thiếu thời gian chuẩn bị, chuyên môn và dữ liệu sẵn
có, kế hoạch không nhất quán trong giai đoạn lập kế hoạch. Kế hoạch gặp khó khăn
ngay từ đầu chủ yếu do cải cách tiền tệ và mất mùa vào năm 1962, do đó, vào năm
1964, kế hoạch ban đầu đã được điều chỉnh đáng kể.
Mặc dù cò nhiều thiếu sót, nhưng KHPT kinh tế 5 năm đầu tiên đã có những
hiệu ứng tích cực: (1) Những nỗ lực và hành động của Chính phủ nhằm đạt được
hiệu quả kinh tế đã được đề cập trong bản kế hoạch; (2) Công chức Chính phủ và
người dân Hàn Quốc bắt đầu thấy khả quan về sự phát triển của nền kinh tế; (3) Các
công chức Chính phủ tích lũy kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm trong lập kế
hoạch và hoạch định chính sách; (4)Công chức Chính phủ đã thấy được tầm quan
14
trọng của thu thập, xử lý dữ liệu và các thông tin khác; (5) Kế hoạch đầu tiên đã đặt
nền móng cho xây dựng kế hoạch sau này.
1.3.3. Kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm lần thứ hai (1967-1971)
Kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm lần thứ hai (1967-1971) đã được chuẩn bị
kỹ lưỡng hơn và có sự tham gia của các Bộ ngành liên quan, các thành viên của Hội
đồng kinh tế và khoa học, đại diện các Viện nghiên cứu kinh tế, các Hiệp hội kinh
doanh khác nhau và các nhà tài trợ nước ngoài. Kế hoạch 5 năm lần thứ hai nhấn
mạnh việc thu thập và xử lý dữ liệu; sử dụng mô hình đầu vào - đầu ra để kiểm tra
tính nhất quán của kế hoạch tổng thể và dự báo nhu cầu đầu tư và nhu cầu nhập
khẩu của ngành.
Nguồn ngân sách tổng thể (ORBs) được giới thiệu vào năm 1967, đã xem xét
hiệu quả đầu tư trước đây; thiết lập các mục tiêu ngắn hạn, phân bổ ngân sách và
xây dựng các chính sách thích hợp.Nguồn ngân sách tổng thể với vai trò như là kế
hoạch thực hiện hàng năm.Kế hoạch 5 năm được chia nhỏ thành các kế hoạch hàng
năm và được gắn kết với ngân sách hàng năm.Trong thời kỳ kế hoạch 5 năm lần thứ
3, nguồn ngân sách tổng thể đã góp phần đáng kể thực hiện hiệu quả kế hoạch hàng
năm và kế hoạch ngân sách.
Từ kế hoạch 5 năm lần thứ 4 (1977-1981), nguồn ngân sách tổng thể đã được
thay thế bằng kế hoạch cuốn chiếu.

* Mục tiêu và chính sách chủ yếu
Sự đột phá của KHPT kinh tế 5 năm lần thứ 2 là mở rộng các cơ sở công
nghiệp để thực hiện chiến lược thay thế sản phẩm nhập khẩu và xúc tiến xuất
khẩu (phương pháp tiếp cận 2 tầng). Vào thời điểm đó, khu vực bên ngoài đã
trở thành mối quan tâm lớn của kế hoạch.Hàn Quốc thực hiện chiến lược hướng
ra thị trường quốc tế,hay nói cách khác, mục tiêu xây dựng quốc gia dựa vào
hoạt động xuất khẩu.
Mục tiêu chính của kế hoạch này là: hiện đại hóa cơ cấu công nghiệp và xây
dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Chính sách chủ yếu để đạt mục tiêu kế hoạch là:
(1) Tự lực trong sản xuất lương thực và phát triển lâm nghiệp, thủy sản;
(2) Xây dựng cơ sở hạ tầng công nghiệp;
15
(3) Cải thiện cán cân thanh toán với mục tiêu xuất khẩu 70 triệu USD;
(4) Tăng việc làm, thực hiện KHH gia đình và kiểm soát dân số;
(5) Đa dạng hóa các loại cây trồng và tăng thu nhập cho nông dân;
(6) Cải tiến công nghệ và năng suất thông qua thúc đẩy khoa học công nghệ và phát
triển nguồn nhân lực.
KHPT kinh tế lần thứ hai dựa trên ba kế hoạch trụ cột đó là Kế hoạch tổng
thể, Kế hoạch ngành công nghiệp và Kế hoạch vốn đầu tư. Kế hoạch tổng thể dựa
trên mục tiêu thu nhập quốc dân, tài chính, ngân hàng và các tài khoản thương mại.
kế hoạch ngành công nghiệp được phát triển bằng cách phân loại tất cả các ngành
công nghiệp thành các ngành chi tiết và bằng cách dự kiến mức sản lượng dựa trên
Bảng cân đối đầu vào – đầu ra. Kế hoạch vốn đầu tư đã được phát triển bằng cách
kiểm tra tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư, hiệu quả biên của giá trị gia tăng và hiệu
quả biên của tài khoản thương mại.
Trong thời kỳ kế hoạch, Tổng thống Park đã chủ chì các Họp báo cáo xu
hướng kinh tế và Họp mở rộng xúc tiến xuất khẩu tổ chức hàng tháng.Hai cuộc
họp này đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện kế hoạch và tạo ra sự đồng
thuận quốc gia về phát triển kinh tế.Các cuộc họp là một không gian cho phép

giao lưu cởi mở giữa Chính phủ và khu vực tư nhân cũng như giữa các quan
chức cấp cao và cấp dưới.
* Kết quả của kế hoạch
Sự đồng thuận quốc gia đã đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế Hàn
Quốc. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 9,7%/năm, cao hơn chỉ tiêu kế
hoạch là 7%/năm. Trong KHPT 5 năm lần thứ hai, chiến lược phát triển tập trung
vào các ngành công nghiệp, đặc biệt là khai thác mỏ và công nghiệp chế biến -
chế tạo, kết quả là tốc độ tăng trưởng công nghiệp đạt 19,9% (vượt mục tiêu ban
đầu là 10,7%), trong khi đó tốc độ tăng trưởng dịch vụ là 12,6% và nông – lâm –
ngư nghiệp chỉ tăng 1,6%.
Bảng 1.4. Một số chỉ tiêu kinh tế trong kế hoạch phát triển kinh tế lần thứ hai
1967 1968 1969 1970 1971 BQ
Tốc độ tăng trưởng (%) 5,9 11,3 13,8 8,8 8,6 9,7
Giá bản sỉ (%) 6,4 8,1 6,7 9,2 8,6 5,0
16
Tài khoản vãng lai
( 100 triệu USD)
-1,9 -4,4 -5,4 -6,2 -8,4 -
Nguồn: Ủy ban Kế hoạch Kinh tế, Hàn Quốc
Kim ngạch xuất khẩu đã đạt kỷ lục 1,13 tỷ USD vào năm 1971 nhờ vào một
chính sách định hướng xuất khẩu mạnh mẽ. Mặt khác, kim ngạch nhập khẩu tăng
lên 2,18 tỷ USD, chủ yếu do sự gia tăng nhanh chóng của nhập khẩu nguyên liệu
thô. Do đó, cán cân thanh toán bị thâm hụt nghiêm trọng. Xuất khẩu trong thời kỳ
kế hoạch tăng bình quân 33,8%/năm,trong khi nhập khẩu tăng 25,8%/năm.
Khi nền kinh tế tăng trưởng nhanh, cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch rõ rệt: tỷ
trọng công nghiệp chiếm từ 15,1% (năm 1967) lên 20,9% (năm 1971).
Để tăng vốn đầu tư của địa phương từ 73% (năm 1965) đến 92%, Hàn Quốc
đã tăng tỷ lệ tiết kiệm địa phương lên 3,5 lần, trong khi vẫn giữ tốc độ tăng tiết
kiệm nước ngoài ở mức 26%. Điều này dẫn đến phụ thuộc nặng nề vào vốn đầu tư
nước ngoài.Mặc dù tăng trưởng cao nhưng nền kinh tế Hàn Quốc chịu nhiều áp lực

từ các khoản nợ nước ngoài (40% vốn đầu tư là nguồn vốn từ nước ngoài).
Nền kinh tế tăng trưởng quá nóng đã gây ra nhiều vấn đề. Lạm phát cao trở
thành một trở ngại nghiêm trọng kiềm hãm thực hiện chính sách kinh tế ở tất cả các
khu vực kinh tế. Trong thời kỳ kế hoạch, tỷ lệ lạm phát là 14,9%. Năng suất của khu
vực nông nghiệp giảm mạnh; các phong trào Công đoàn yêu cầu tăng lương đã đe
dọa đến lợi thế về giá của Hàn Quốc.
Trọng tâm của công nghiệp hóa trong thời kỳ này là tập trung vào lĩnh vực
thép, máy móc và hóa chất.Các ngành phi nông nghiệp được kỳ vọng sẽ có tốc
độ tăng trưởng cao hơn (bình quân 8%/năm) ngành nông - lâm - thủy sản (bình
quân 5%/năm), tỷ trọng ngành khai khoáng và chế biến/GNP dự kiến tăng từ
22% đến 27%. Trong năm 1972, ngành công nghiệp khai thác mỏ cuối cùng cũng
phát triển mạnh hơn so với các ngành nông - lâm - thủy sản.Chính phủ tập trung
vào các ngành công nghiệp xương sống của quốc gia và kết quả là sự thành lập
tập đoàn POSCO và đường cao tốc Seoul-Busan đã đi vào hoạt động (năm
1970). Năm 1963 là năm đánh dấu quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế mở cửa
và các chính sách định hướng tăng trưởng. Do đó, giai đoạn 1966-1971 được
xem như một thời kỳ quá độ để Hàn Quốc trở thành một nước có cơ cấu kinh tế
17
tiến bộ hơn.Nền kinh tế Hàn Quốc đã trải qua quá trình công nghiệp hóa rất
nhanh trong suốt những năm 1960.
Chính phủ Hàn Quốc cũng tập trung vào phát triển khu vực nông thôn. Ví
dụ như, khai hoang và trồng trọt trên các vùng đất trống, đưa ra các dự án đặc
biệt để nông dân kiếm thêm thu nhập, trợ giá sản phẩm nông nghiệp, khuyến
khích chăn nuôi, các dự án chống xói mòn và trồng rừng, tài trợ cho các khu
định cư, hướng dẫn kỹ thuật cho nông dân thông qua các dự án cải tiến giống.
Trong thời kỳ này, Hàn Quốc có thể bảo hộ các ngành công nghiệp địa phương
và phát triển kinh tế tương đối dễ dàng do nhận được sự đối xử đặc biệt của
GATT đối với các nước đang phát triển.
* Đánh giá kế hoạch
KHPT kinh tế 5 năm lần thứ hai được đánh giá cao, là một kế hoạch có hệ

thống hơn so với kế hoạch 5 năm đầu tiên. Trong quá trình xây dựng kế hoạch,
quan chức Chính phủ từ các Bộ liên quan, cán bộ nghiên cứu từ các Viện Chính
phủ khác nhau và các chuyên gia từ giới kinh doanh đã tích cực tham gia.
Chuyên gia nước ngoài cũng tham gia vào quá trình chuẩn bị kế hoạch.Thu thập
và phân tích dữ liệu đã thành công; bảng cân đối đầu vào - đầu ra và các mô hình
kinh tế đã được sử dụng.
Chính sách ngoại thương đã chuyển từ thay thế nhập khẩu sang thúc đẩy
xuất khẩu. Để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, vai trò đầu tư của Chính phủ vào
cơ sở hạ tầng xã hội trở lên rất quan trọng. Sở thuế quốc gia được thành lập (năm
1966) để cải cách thu thuế, đã góp phần đáng kể vào tăng doanh thu thuế và tiết
kiệm của Chính phủ; bên cạnh đó Luật Thuế năm 1967 và năm 1971 cũng được
sửa đổi phù hợp.
Trong kế hoạch 5 năm lần thứ hai, tốc độ tăng trưởng thực tế vượt tốc độ
tăng trưởng dự kiến và kế hoạch này đã thành công. Tất cả các nhà kinh tế và
người dân bắt đầu có niềm tin trong lập và thực hiện kế hoạch; nền kinh tế Hàn
Quốc những năm 1976 là kết quả của thực hiện thành công hai kế hoạch 5 năm
liên tiếp. Vào cuối thời kỳ kế hoạch 5 năm lần thứ hai, Hàn Quốc đã là một trong
những nước công nghiệp mới.
1.3.4. Kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm lần thứ ba (1972-1976)
18
Quá trình xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế lần thứ ba là ít nhiều giống kế
hoạch thứ hai. Tuy nhiên, trong kế hoạch 5 năm thứ ba, đã có sự chuyển đổi mô
hình và nhấn mạnh vào tính nhất quán đối với hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô.
Trọng tâm là làm thế nào để xây dựng chính sách nhằm phân bổ có hiệu quả các
nguồn lực khan hiếm, phân tích tập trung vào hệ thống chính sách khuyến khích và
vai trò của Chính phủ như một chất xúc tác.Mỗi Bộ chuẩn bị kế hoạch ngành từ
KHPT của quốc gia, việc lập kế hoạch bắt đầu được phân cấp trong Chính phủ.
* Mục tiêu và chính sách chủ yếu
Định hướng chính sách của Chính phủ Hàn Quốc trong thời kỳ kế hoạch lần
thứ 3 đến lần thứ 5 là "tăng trưởng và ổn định". Mục tiêu cụ thể của kế hoạch lần

thứ 3 là:
(1) Tăng trưởng hài hòa, ổn định và công bằng;
(2) Đạt được một cơ cấu kinh tế độc lập thông qua chuyển dịch cơ cấu công nghiệp,
cải thiện cán cân thanh toán và tự cung cấp được lương thực, thực phẩm (ngũ cốc);
(3) Phát triển cân đối giữa các khu vực.
Để thực hiện được mục tiêu đó, các chính sách lớn nhấn mạnh vào:
(1) Tự cung cấp lương thực, thực phẩm;
(2) Cải thiện môi trường sống tại các vùng nông thôn và vùng biển;
(3) Cải thiện cán cân thanh toán với mục tiêu xuất khẩu 3,5 tỷ USD;
(4) Chuyển dịch cơ cấu công nghiệp, phát triển các ngành công nghiệp nặng và hóa dầu;
(5) Phát triển khoa học - công nghệ và nguồn nhân lực;
(6) Thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong nước;
(7) Phát huy tối đa nguồn lực;
(8) Cải thiện môi trường và nâng cao phúc lợi người dân.
* Kế hoạch phát triển công nghiệp nặng, hóa dầu
Năm 1973, Chính phủ đã công bố kế hoạch phát triển công nghiệp nặng và
hóa dầu với tổng vốn đầu tư khoảng 9,6 tỷ USD để xây dựng 6 ngành công nghiệp
nặng và hóa dầu. Các ngành công nghiệp chiến lược là đóng tàu, ô tô, thép, máy
móc, kim loại và hóa dầu. Chiến lược cũng bao gồm chương trình xây dựng các
cụm công nghiệp lớn như khu phức hợp Chanwon, khu phức hợp khí hóa Yocho,
Khu phức hợp Điện tử Kumi
19
Chính phủ đã chi một khoản vốn lớn để xây dựng các cụm công nghiệp và
phát triển công nghiệp nặng, hóa dầu bởi Chính phủ cho rằng khó có thể xuất
khẩu hàng hóa thâm dụng lao động sang thị trường các nước đang phát triển, do
mức thuế nhập khẩu cao và tiền lương trong nước tăng nhanh.Hơn nữa, phát
triển ngành công nghiệp quốc phòng sẽ tăng cường khả năng tự vệ của Hàn
Quốc.Và nhằm cải thiện cán cân thanh toán (do nhập khẩu hàng hóa trung gian
có thể làm thâm hụt cán cân vãng lai).
Tuy nhiên, vấn đề cơ bản để thúc đẩy các dự án là việc huy động các nguồn

lực cần thiết như vốn, công nghệ, nhân lực kỹ thuật vào các ngành công nghiệp
nặng và hóa dầu. Do vậy, phát triển các ngành công nghiệp thâm dụng vốn và các
chính sách thay thế nhập khẩu đã được thực hiện đồng thời (một hệ thống hai cấp).
Chiến lược phát triển công nghiệp nặng và hóa dầu dẫn đến thay đổi cơ cấu
sản lượng sản xuất và xuất khẩu. Tỷ trọng của công nghiệp nặng và hóa dầu trong
tổng giá trị sản xuất tăng từ 26% (năm 1961) lên 55% (năm 1979). Năm 1970, xuất
khẩu sản phẩm công nghiệp nặng và hóa dầu chỉ chiếm khoảng 10% tổng sản phẩm
xuất khẩu, đã tăng lên nhanh chóng và đạt 43% vào năm 1979.
* Kết quả của kế hoạch
Tốc độ tăng trưởng GNP bình quân theo kế hoạch là 8,6%/năm, nhưng tốc độ
tăng trưởng thực tế đạt 9,2%/năm. Tỷ lệ đầu tư cao và xuất khẩu tăng trưởng nhanh
chóng mặc dù môi trường quốc tế đầy biến động (khủng hoảng dầu mỏ và suy thoái
kinh tế thế giới).
Tốc độ tăng trưởng công nghiệp khai thác mỏ và chế biến – chế tạo bình
quân đạt 20%/năm. Tỷ trọng công nghiệp khai thác mỏ và chế biến – chế tạo chiếm
31% vào năm 1976.
Năm 1976, Hàn Quốc đã tạm thời tự cung cấp được thực phẩm (lúa gạo).
Chính phủ cũng đã nỗ lực rất lớn trong xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội như
nhà máy phát điện, viễn thông,đường sắt và đường cao tốc bằng cách đầu tư tài
chính và các khoản vay.
Xuất khẩu bắt đầu giảm từ khoảng năm 1970, chủ yếu do suy thoái kinh tế và
do chính sách bảo hộ ở các nước phát triển. Các công ty Hàn Quốc đối mặt với tình
trạng thiếu hụt vốn lưu động và lãi suất cao. Tổng thống Park đã ban hành Nghị
20
định khẩn cấp về “Ổn định kinh tế và tăng trưởng” vào ngày 3 tháng 8 năm 1972.
Mục tiêu chính của Nghị định là cải thiện cơ cấu tài chính của các công ty Hàn
Quốc bằng cách giảm các khoản vay trên thị trường phi chính thức và cung cấp các
khoản vay ưu đãi đối với ngành công nghiệp cụ thể và giảm lãi suất ngân hàng.
Tăng trưởng kinh tế nhanh chóng trong kế hoạch 5 năm lần thứ ba cũng nảy
sinh nhiều vấn đề, đó là: (1) Sự mất cân đối giữa các ngành công nghiệp xuất khẩu

và công nghiệp đáp ứng nhu cầu trong nước; (2) Sự mất cân bằng giữa nông nghiệp
và công nghiệp; (3) Nới lỏng khoảng cách giữa các công ty lớn và công ty vừa/nhỏ;
(4) Thâm hụt cán cân thanh toán do cuộc khủng hoảng dầu 1973-1974; (4) Cuộc
khủng hoảng dầu đã trì hoãn việc thực hiện các dự án công nghiệp nặng và hóa
dầu.Để giải quyết những vấn đề phát sinh đó, Chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện
một loạt các biện pháp nhằm:Đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu và thị trường; Thâm
nhập vào thị trường xây dựng Trung Đông; Tăng vốn đầu tư nước ngoài để tăng thu
nhập và tăng trưởng kinh tế.
* Đánh giá kế hoạch
Sau thành công của hai kế hoạch liên tiếp, quy mô nền kinh tế Hàn Quốc đã
mở rộng và khu vực tư nhân đã phát triển nhanh chóng.Kế hoạch đã chuyển đổi
sang nhấn mạnh cơ chế thị trường và kích thích hoạt động của khu vực tư nhân với
các chính sách ưu đãi khác nhau.
Trong kế hoạch lần thứ 3, Chính phủ chuẩn bị Nguồn ngân sách tổng thể để
duy trì chỉ đạo thực hiện kế hoạch và phản ứng nhanh chóng với thay đổi của môi
trường; đồng thời tăng cường "hệ thống đánh giá đầu tư" để tối đa hóa hiệu quả sử
dụng các nguồn lực và liên kết các mục tiêu kế hoạch với quá trình thực hiện kế
hoạch. Chính phủ cũng đã nhấn mạnh vai trò của công tác lập kế hoạch và hoạt
động khảo sát để nâng cao chất lượng thống kê, phối hợp hợp lý giữa kế hoạch,
chính sách và thực hiện kế hoạch.
Tuy nhiên, chỉ tiêu của kế hoạch thứ ba không thể đạt được như dự đoán chủ
yếu là do khủng hoảng dầu mỏ và thay đổi đột ngột của môi trường nội bộ và thế
giới. Để đối phó với những thay đổi đó, Chính phủ đã ban hành một loạt các chính
sách như:Nghị định khẩn cấp về “Ổn định kinh tế và tăng trưởng” (3/8/1972); Luật
bình ổn giá (năm 1973); Nghị định khẩn cấp của Tổng thống: “Ổn định cuộc sống
của nhân dân" (năm 1974); “Giải pháp kinh tế đặc biệt " (năm 1974); và các giải
21
pháp đặc biệt khác về tài chính; tất cả các biện pháp này đều liên kết chặt chẽ với hệ
thống hỗ trợ phát triển công nghiệp nặng và hóa dầu.
Tuy nhiên, việc giới thiệu đột ngột các biện pháp chính sách đặc biệt trong

quá trình thực hiện kế hoạch làm mất liên kết giữa xây dựng kế hoạch và triển khai
kế hoạch. Do đó, nó có thể gây tác động tiêu cực đến nền kinh tế Hàn Quốc và ảnh
hưởng đến chức năng của thị trường trong dài hạn.
1.3.5. Kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm lần thứ tư (1977-1981)
Kế hoạch 5 năm lần thứ tư đã được chuẩn bị tương tự như kế hoạch 5 năm
thứ ba, nhưng nhấn mạnh hơn vào thủ tục phân cấp. Có 22 nhóm, mỗi nhóm do một
quan chức Chính phủ cao cấp từ một Bộ liên quan lãnh đạo. Mỗi nhóm bao gồm các
quan chức Chính phủ từ các Bộ liên quan và các chuyên gia từ các Viện nghiên cứu,
các ngân hàng, hiệp hội doanh nghiệp. Các cán bộ của Ủy ban Kế hoạch Kinh tế
hoạt động như thư ký cho mỗi nhóm.
Phần lớn các phân tích kinh tế được thực hiện bởi Viện Phát triển Hàn Quốc
(KDI), thành lập vào năm 1971.
Các nhóm xây dựng kế hoạch chi tiết cho lĩnh vực của mình theo hướng dẫn
chuẩn bị của EPB và chịu sự giám sát của Ủy ban Thảo luận Kế hoạch Kinh tế dưới
sự chủ trì của Thủ tướng Chính phủ.
* Mục tiêu và chính sách chủ yếu
Kế hoạch thứ tư nhằm đạt các mục tiêu cơ bản như xây dựng một cơ cấu
kinh tế tăng trưởng tự lực và tăng cường vốn chủ sở hữu thông qua phát triển xã
hội. Các mục tiêu chủ yếu của kế hoạch là: (1) Đạt được một cấu trúc tăng trưởng
bền vững; (2) Thúc đẩy bình đẳng thông qua phát triển xã hội; (3) Đổi mới công
nghệ và nâng cao hiệu quả trong mục tiêu "tăng trưởng, công bằng và hiệu quả".
Để thực hiện mục tiêu đó, các chính sách lớn hướng vào: (1) Huy động vốn
đầu tư trong nước; (2) Duy trì cân bằng cán cân thanh toán; (3)Chuyển dịch cơ cấu
công nghiệp và tăng khả năng cạnh tranh trong và ngoài nước; (4) Mở rộng cơ hội
việc làm và phát triển nguồn nhân lực; (5) Mở rộng phong trào làng mới; (6) Cải
thiện đời sống thông qua việc thúc đẩy phát triển xã hội; (6) Tăng đầu tư cho khoa
học – công nghệ; (7) Tăng cường quản lý kinh tế và cải thiện thể chế.
22
* Kết quả của kế hoạch
Kế hoạch thứ tư có hiệu quả thấp nhất, mà nguyên nhân chủ yếu là do: trong

kỳ thứ hai của kế hoạch, Hàn Quốc trải qua cuộc khủng hoảng dầu thứ hai, suy
thoái kinh tế thế giới và suy thoái thương mại thế giới; ngoài ra, do bất ổn chính trị -
xã hội (năm 1981 xảy ra ám sát Tổng thống Park); mất mùa trong nông nghiệp.
Tốc độ tăng trưởng bình quân dự kiến là 9,2%/năm, tỷ lệ lạm phát khoảng
9%/năm. Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng thực tế là 5,8%/năm, thấp hơn nhiều so
mức tăng trưởng mục tiêu và thâm hụt tài khoản vãng lai do cú sốc dầu lần thứ
hai, lạm phát trong nước, làm giảm khả năng cạnh tranh xuất khẩu và tăng nghĩa
vụ nợ. Năm 1981, kim ngạch xuất khẩu là 20,881 triệu USD trong khi nhập khẩu
là 24,299 triệu USD. Tỷ lệ lạm phát tăng lên 11,6% (năm 1978) và 18,8% (năm
1979). Với tác động của các cuộc khủng hoảng dầu thứ hai, tỷ lệ lạm phát đã
tăng lên 38,9% (năm 1980).
Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong lĩnh vực phi nông nghiệp còn chậm và sản
xuất lương thực giảm do mất mùa.
Nhiều vấn đề đã phát sinh trong thời gian này đã làm kế hoạch bất khả thi
trước sự thay đổi nhanh chóng của môi trường trong và ngoài nước.Ngay từ năm
1977, sự phát triển của các ngành công nghiệp nặng và hóa dầu kèm theo các chính
sách tiền tệ và tài khóa mở rộng làm lạm phát gia tăng nhanh chóng. Việc đầu tư
quá mức vào các dự án khu công nghiệp nặng và hóa dầu đã bóp méo sự phân bổ
nguồn lực và sản xuất, nhiều công ty phá sản. Các công ty xuất khẩu gặp khó khăn
với thị trường thế giới.
Vì vậy, Chính phủ chuyển từ chính sách tăng trưởng tối đa sang chính sách
bình ổn kinh tế để kiềm chế lạm phát cao và thâm hụt cán cân thanh toán. Cuối
cùng, ổn định kinh tế và khắc phục thâm hụt cán cân thanh toán đều đạt được trong
thời gian kế hoạch. Tuy nhiên, các dự án cơ sở hạ tầng xã hội (cảng, sân bay, nhà
kho và đường giao thông…) đều không thực hiện được trong năm 1980.
* Đánh giá kế hoạch
Kế hoạch phát triển kinh tế lần thứ tư nhấn mạnh vai trò của cơ chế thị
trường trong việc nâng cao hiệu quả của nền kinh tế thị trường, đa dạng cơ cấu
23
kinh tế và các hoạt động kinh doanh trong khu vực tư nhân cũng đã được mở

rộng đáng kể.
Kế hoạch thứ tư được đánh giá cao hơn nhiều so với kế hoạch trước đó về
các kỹ thuật xây dựng kế hoạch, độ bao phủ và chất lượng của kế hoạch.Tuy nhiên,
những thay đổi đột ngột và không thể đoán trước của môi trường bên trong và bên
ngoài bao gồm cuộc khủng hoảng dầu thứ hai đã cản trở việc thực hiện kế
hoạch.Chính phủ buộc phải điều chỉnh kế hoạch thông qua các chính sách ngắn hạn
và bất thường để vượt qua khủng hoảng kinh tế.
1.3.6. Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm lần thứ năm (1982-1986)
Năm 1979, thời đại Tổng thống Park đã chấm dứt. Chính phủ mới đã xây
dựng kế hoạch phát triển mới với tên gọi là kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5
năm, kế hoạch này không chỉ có nội dung phát triển kinh tế định hướng tăng
trưởng mà còn bao gồm các vấn đề xã hội chung phát sinh trong quá trình phát
triển kinh tế.
Một cuộc họp đã được tổ chức dưới sự lãnh đạo của các Bộ liên quan, các
nội dung có liên quan đến các đối tượng trong cuộc họp đều được điều chỉnh
trong kế hoạch. Kế hoạch này cũng phản ánh quan điểm của tất cả các bên liên
quan như Chính phủ, các Bộ liên quan, khu vực tư nhân, các nhóm cố vấn kinh
tế… thông qua tham vấn. Điều này có nghĩa là kế hoạch đã được xây dựng dựa
trên sự đồng thuận quốc gia.
* Mục tiêu và chính sách chủ yếu
Một vấn đề đáng lo ngại nhất thời kỳ đó là tăng trưởng kinh tế nhanh trong
những năm 1970 đã để lại những hậu quả nghiêm trọng, điển hình là siêu lạm phát. Do
vậy, mục tiêu cơ bản của kế hoạch là đạt được sự ổn định, hiệu quả và công bằng:
(1) Cải thiện sự ổn định, khả năng cạnh tranh quốc tế và cán cân thanh toán;
(2) Tăng việc làm và thu nhập;
(3) Tăng cường phúc lợi xã hội bằng cách thúc đẩy phát triển cân bằng giữa các
tầng lớp xã hội và các khu vực khác nhau, tất cả đều dựa trên sự ổn định, hiệu quả
và công bằng.
Các chính sách chủ yếu hướng vào:
(1) Ổn định kinh tế là ưu tiên hàng đầu với lạm phát mục tiêu là 10%;

24
(2) Thúc đẩy các ngành công nghiệp có lợi thế so sánh;
(3) Tiếp tục hỗ trợ chiến lược hướng ra thị trường quốc tế;
(4) Cải thiện môi trường sống;
(5) Phát triển xã hội;
(6) Thúc đẩy chức năng thị trường thông qua cạnh tranh;
(7) Đáp ứng nhu cầu cơ bản của người dân và khuyến khích phát triển xã hội.
Trong kế hoạch này, Chính phủ có sự phân biệt rõ ràng giữa vai trò của khu
vực tư nhân và Chính phủ. Đối với khu vực tư nhân, Chính phủ chỉ hướng dẫn và
chỉ đạo; hạn chế can thiệp trực tiếp; và gián tiếp sử dụng nhiều chính sách ưu đãi để
khuyến khích nỗ lực sáng tạo của khu vực tư nhân. Thay vào đó, Chính phủ can
thiệp tích cực duy nhất trong lĩnh vực liên quan đến các nhu cầu cơ bản của người
dân như giáo dục, nhà ở và sức khỏe để bổ sung chức năng của thị trường. Đối với
phát triển công nghệ và nguồn nhân lực, Chính phủ chuẩn bị một kế hoạch đầu tư
chi tiết trong ràng buộc ngân sách.
Đồng thời, Chính phủ thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt và cung tiền ổn
định, hỗ trợ khả năng cạnh tranh quốc tế của ngành công nghiệp.Chính sách này
làm suy yếu đầu cơ vào bất động sản.Hơn nữa, Chính phủ tăng tiết kiệm bằng cách
hỗ trợ tăng của lãi suất thực lên đến một mức hợp lý. Những nỗ lực này đã góp phần
làm thặng dư cán cân thanh toán.
Điều đáng chú ý trong kế hoạch này là sự hạn chế can thiệp của Chính
phủ, Chính phủ chỉ can thiệp nhằm khắc phục những khuyết tật của thị trường.
Định hướng này đã góp phần thực hiện mục tiêu phát triển nền kinh tế thị
trường tại Hàn Quốc.
* Kết quả của kế hoạch
Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội lần thứ năm mang lại hiệu quả kinh tế
cao nhất trong các kế hoạch trước đó (kế hoạch đã giải quyết thâm hụt cán cân
thanh toán kinh niên và lạm phát dai dẳng). Tốc độ tăng trưởng bình quân dự
kiến là 7,6%/năm, nhưng tốc độ tăng trưởng thực tế bình quân 9,8%/năm. Tốc độ
tăng trưởng công nghiệp khai khoáng và chế tạo trung bình là 11,8%/năm. Năm

1986, tổng tiết kiệm quốc gia/GNP đạt 32,6%, vượt tổng mức đầu tư/GNP
25

×