Tải bản đầy đủ (.pdf) (183 trang)

Vai trò của giai cấp công nhân việt nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 183 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

LÊ THỊ CHUNG

VAI TRÒ CỦA GIAI CẤP CƠNG NHÂN VIỆT NAM
TRONG Q TRÌNH CƠNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

LUẬN VĂN THẠC SỸ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

LÊ THỊ CHUNG

VAI TRÒ CỦA GIAI CẤP CƠNG NHÂN VIỆT NAM
TRONG Q TRÌNH CƠNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

Chuyên ngành : CNXHKH
Mã số

: 602285

LUẬN VĂN THẠC SỸ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN HOÀNG HẢO



THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng
tôi, dưới sự hướng dẫn của TS. Trần Hồng Hảo. Cơng trình này
chưa được cơng bố dưới mọi hình thức. Nếu có gì khơng đúng tơi
xin hồn tồn chịu trách nhiệm.
TP. Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2014
Tác giả

Lê Thị Chung


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƢ
TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ
GIAI CẤP CÔNG NHÂN ............................................................................. 10
1.1. LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ GIAI CẤP
CƠNG NHÂN VÀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA NĨ ...................................... 10
1.2. PHÊ PHÁN CÁC QUAN ĐIỂM PHI MACXÍT VỀ GIAI CẤP
CÔNG NHÂN HIỆN NAY ............................................................................. 47
1.3. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM .......... 62
K T LUẬN CHƯ NG 1................................................................................ 78
CHƢƠNG 2. SỨ MỆNH CỦA GIAI CẤP CƠNG NHÂN VIỆT
NAM TRONG Q TRÌNH CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI

HÓA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ ................................................................ 80
2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRỊ CỦA GIAI CẤP CƠNG
NHÂN VIỆT NAM TRONG TI N TRÌNH LỊCH SỬ CỦA DÂN TỘC ..... 80
2.2. THỰC TRẠNG GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM TRONG
Q TRÌNH CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA VÀ HỘI NHẬP
QUỐC T . .................................................................................................... 112
2.3. GIẢI PHÁP ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG GIAI CẤP CÔNG
NHÂN HIỆN ĐẠI........................................................................................ 142
K T LUẬN CHƯ NG 2.............................................................................. 156
KẾT LUẬN ................................................................................................. 162
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 166


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Từ khi ra đời đến nay, giai cấp công nhân luôn khẳng định là “lực
lượng sản xuất hàng đầu của nhân loại”, luôn giữ vị trí vai trị tiên phong
trong q trình vận động, phát triển của lịch sử trên con đường đấu tranh giải
phóng lồi người. Lý luận về giai cấp cơng nhân và vai trị của giai cấp cơng
nhân là nội dung quan trọng hàng đầu trong di sản lý luận của chủ nghĩa Mác
– Lênin nói chung và Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng. Bởi lẽ, đây là khâu
then chốt để giải quyết vấn đề lý luận và thực tiễn cách mạng của cơng cuộc
giải phóng nhân loại khỏi ách áp bức, bóc lột và nơ dịch của chủ nghĩa tư bản
nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng tiến tới xây dựng xã hội cộng sản.
Thực tiễn Việt Nam đã và đang chứng minh vai trò to lớn của giai cấp
công nhân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, giai cấp công
nhân Việt Nam đã đi tiên phong trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc,
liên minh chặt chẽ với giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và các tầng lớp

nhân dân lao động yêu nước, làm nên thắng lợi của cuộc cách mạng tháng tám
năm 1945, thực hiện thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất đất nước và đi lên xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Trong công cuộc đổi mới, xây dựng và hoàn thiện thể chế nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thông qua đội tiên phong của mình là
Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp cơng nhân Việt Nam luôn là lực lượng cơ
bản trong cơ cấu giai tầng xã hội, đây là bộ phận nòng cốt trong khối liên
minh Công nhân – Nông dân – Trí thức, là lực lượng chủ chốt trong xã hội
Việt Nam hiện nay.


2

Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới được đề ra từ Đại hội VI (1986),
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã thông qua việc xây dựng một đội ngũ
công nhân vững mạnh cả về chất lượng lẫn số lượng để thực hiện quá trình
phát triển đất nước trong thời đại mới. Trong đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
XI Đảng ta lại tiếp tục khẳng định vai trị của giai cấp cơng nhân Việt Nam,
và định hướng phải xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trở thành giai cấp
hiện đại. Thế nhưng trong nền kinh tế thị trường với sự hội nhập quốc tế như
hiện nay, giai cấp công nhân Việt Nam trong một thời gian ngắn đã phải tiếp
nhận nhiều nền kinh tế - văn hóa - tư tưởng giao thoa - chuyển tiếp nhau trên
thế giới. Thực tế đó đặt giai cấp cơng nhân Việt Nam có những thuận lợi để
phát triển về quy mô, số lượng, chất lượng và phương thức hoạt động cũng
như lập trường tư tưởng. Tuy nhiên giai cấp công nhân Việt Nam cũng phải
đối mặt với khơng ít khó khăn, thử thách. Vấn đề đặt ra là giai cấp cơng nhân
Việt Nam có nắm bắt được những thời cơ thuận lợi và vượt qua được những
thử thách do bối cảnh quốc tế mang lại để phát triển hay không? Việc nghiên
cứu về giai cấp công nhân Việt Nam và vai trị của nó trong việc xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với việc thực hiện cơng

nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ln là vấn đề cấp thiết có ý
nghĩa sâu sắc cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn, nhằm giúp định hướng cho giai
cấp công nhân Việt Nam có những bước đi vững vàng, kiên định với đường
lối của Đảng, xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công tiến lên xây dựng chủ
nghĩa cộng sản. Vì lý do trên nên tác giả chọn đề tài “Vai trò của giai cấp
cơng nhân Việt Nam trong q trình Cơng nghiệp hóa, Hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế” làm đề tài nghiên cứu luận văn cho mình.


3

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu luận văn
Vấn đề giai cấp công nhân là vấn đề cơ bản trong lý luận xây dựng chủ
nghĩa xã hội nói chung và Việt Nam nói riêng. Do đó nó đã được nhiều nhà
khoa học, nhiều cơng trình nghiên cứu. Trong các cơng trình đó có những
cơng trình tiêu biểu như:
“Giai cấp cơng nhân Việt Nam – Sự sự hình thành và phát triển của nó từ
giai cấp tự mình đến giai cấp cho mình” của Trần Văn Giàu, Nhà xuất bản Sự
thật, Hà Nội, 1958. Cơng trình này chủ yếu đề cập đến đời sống, việc làm, phong
trào đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam trước khi Đảng ta ra đời.
Cơng trình “ Giai cấp cơng nhân Việt Nam – Mấy vấn đề lý luận và
thực tiễn” của TS. Bùi Đình Bơn, Nhà xuất bản lao động, Hà Nội, 1999. Cơng
trình này đề cập đến thực trạng giai cấp cơng nhân Việt Nam hiện nay, vai trị
của giai cấp cơng nhân Việt Nam trong quá trình cách mạng và đề ra những
biện pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam ngang tầm với sứ mệnh
lịch sử của nó.
“Góp phần xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam từ thực trạng cơng
nhân Thành phố Hồ Chí Minh” của PGS.TS. Nguyễn Đăng Thành, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008. Cuốn sách đã trình bày thực trạng giai
cấp cơng nhân ở một thành phố công nghiệp lớn nhất nước - Thành phố Hồ Chí

Minh. Trong phạm vi hẹp của một địa bàn thành phố nhưng có đội ngũ cơng
nhân rất đơng đảo phần nào có thể khái qt thực trạng giai cấp cơng nhân Việt
Nam để từ đó nghiên cứu, tham khảo và đưa ra những luận cứ khoa học cho
việc định hướng sự phát triển của giai cấp cơng nhân nước ta hiện nay.
Cơng trình “Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam giai đoạn 2011 2020” của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam do TS. Đặng Ngọc Tùng (chủ


4

biên), Nhà xuất bản Lao Động, Hà Nội, 2010. Là cơng trình nghiên cứu về
giai cấp cơng nhân Việt Nam nhằm làm sáng tỏ những vấn đề như: ai là công
nhân; những đặc trưng và bản chất của giai cấp cơng nhân nước ta hiện nay;
vai trị, nhiệm vụ của giai cấp công nhân Việt Nam trong phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; thực trạng giai cấp
công nhân Việt Nam, quan điểm, phương hướng, giải pháp xây dựng, phát
huy vai trị giai cấp cơng nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước giai đoạn (2011 – 2020)… và
quan hệ giữa giai cấp công nhân Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế.
“Xu hướng vận động của giai cấp cơng nhân Việt Nam trong q trình
đổi mới” của ThS. Phạm Văn Giang, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2012. Cơng trình này được trình bày trong ba phần
Phần 1: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về giai cấp công nhân
Phần 2: Xu hướng vận động của giai cấp cơng nhân Việt Nam trong
q trình đổi mới
Phần 3: Một số vấn đề đặt ra trong q trình xây dựng giai cấp cơng
nhân Việt Nam hiện nay.
Cơng trình trình bày những nội dung cơ bản về khái niệm, đặc điểm,
vai trò và xu hướng biến đổi của giai cấp cơng nhân thế giới nói chung và
Việt Nam hiện nay nói riêng nhằm: Tìm hiểu những vấn đề mới xuất hiện
trong giai cấp công nhân Việt Nam dưới tác động của điều kiện mới - tồn

cầu hóa và hội nhập quốc tế như: sự đa dạng về thành phần xuất thân, về
thành phần kinh tế và ngành nghề hoạt động, hiện tượng phân tầng, phân hóa
trong nội bộ giai cấp cơng nhân, v.v…cơng trình cịn nghiên cứu, đánh giá về
giai cấp công nhân Việt Nam, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế hiện nay…


5

Tác phẩm “Trí thức hóa cơng nhân Việt Nam trong hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay” của TS. Bùi Thị Kim Hậu, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
- Sự thật, Hà Nội, 2012. Tác phẩm cho thấy rõ cơ sở lý luận về trí thức hóa
cơng nhân, tính tất yếu và mối quan hệ giữa trí thức hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế, những yếu tố tác động đến trí thức hóa cơng nhân Việt Nam; thực
trạng đội ngũ cơng nhân Việt Nam và vấn đề trí thức hóa cơng nhân trong giai
đoạn hiện nay với những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân. Qua phân tích thực
trạng còn tồn tại, tác phẩm còn nêu rõ quan điểm của Đảng ta và giải pháp
nhằm tiếp tục đẩy mạnh trí thức hóa cơng nhân Việt Nam trong q trình hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Ngoài ra, Một số chuyên khảo về giai cấp công nhân như “Xây dựng
giai cấp công nhân Việt Nam hiện đại - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”
của PGS, TS. Nguyễn Thế Nghĩa, Tạp chí phát triển nhân lực, số 4 (8) 2008; “Giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay - sự đa dạng thành phần, ngành
nghề và định hướng phát triển” của ThS. Phạm Văn Giang, Tạp chí Lý luận
chính trị, số 2 - 2010; “Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới” của PGS.TS. Nguyễn Văn
Cần, Tạp chí Lý luận chính trị, số 2 - 2012; “Thực trạng giai cấp công nhân
Việt Nam hiện nay - Nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn” của PGS.TS.
Nguyễn Thị Quế, ThS. Nguyễn Thị Tú Hoa, Tạp chí Lý luận chính trị, số 6 2013; “Phát huy vai trị và trách nhiệm to lớn của giai cấp công nhân và tổ
chức cơng đồn trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của
Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn
Phú Trọng, Tạp chí Cộng sản, số 850 – 2013… Đã tập trung khảo sát những

vấn đề quan trọng như: Quan niệm về giai cấp cơng nhân hiện đại, tình hình
giai cấp cơng nhân Việt Nam hiện nay, đặc điểm, vai trị, thực trạng và xu


6

hướng biến đổi trong cơ cấu giai cấp công nhân, những giải pháp xây dựng
giai cấp công nhân Việt Nam hiện đại…
Tất cả các cơng trình nghiên cứu, những bài viết về đề tài giai cấp cơng
nhân ở các khía cạnh khác nhau của các nhà khoa học, các nhà quản lý có thể
khái quát thành những nội dung chủ yếu sau:
- Các tác giả đã nghiên cứu giai cấp công nhân với tư cách là một thực
thể xã hội, một lực lượng xã hội nên giai cấp công nhân đã được luận bàn làm
rõ về những vấn đề như : khái niệm, sự ra đời, xu hướng biến đổi và phát
triển, đặc điểm, tính chất xã hội của giai cấp cơng nhân.
- Các cơng trình tập trung về sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân và
vai trị của nó trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và giải phóng
nhân loại.
- Các cơng trình phân tích về thực trạng số lượng, chất lượng, lập
trường tư tưởng chính trị cũng như đời sống vật chất - tinh thần của giai cấp
cơng nhân, từ đó đề ra những phương hướng, giải pháp xây dựng giai cấp
công nhân Việt Nam hiện đại.
- Trên cơ sở tiếp thu kế thừa giá trị những tác phẩm đã nêu, học viên
tiếp tục nghiên cứu vai trị của giai cấp cơng nhân Việt Nam trong q trình
cơng nghiệp hố, hiện đại hố và hội nhập quốc tế.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1.

Mục đích của luận văn
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh


và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về giai cấp cơng nhân nói chung
và giai cấp cơng nhân Việt Nam nói riêng. Luận văn phân tích làm rõ khái


7

niệm, đặc điểm, thực trạng cũng như vai trò của giai cấp cơng nhân Việt Nam
trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Từ đó đề
xuất những giải pháp xây dựng đội ngũ cơng nhân Việt Nam hiện đại trong
giai đoạn phát triển như hiện nay.
3.2.

Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:

Một là, Phân tích làm rõ cơ sở lý luận về giai cấp công nhân theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản
Việt Nam về giai cấp công nhân.
Hai là, Làm rõ đặc điểm và vai trị của giai cấp cơng nhân Việt Nam
trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước xã hội
chủ nghĩa với việc phát triển cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh
tế quốc tế.
Ba là, Đề xuất phương hướng và một số giải pháp để xây dựng giai cấp
cơng nhân Việt Nam trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1.

Đối tượng nghiên cứu của luận văn

Giai cấp công nhân Việt Nam trong quá trình đổi mới (1986 đến nay).

4.2.

Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Lực lượng giai cấp công nhân Việt Nam đang làm việc trong các doanh

nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi trên lảnh thổ Việt Nam.


8

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1.

Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa

Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm, đường lối chính
sách của Đảng cộng sản Việt Nam về giai cấp công nhân hiện đại, về xu
hướng biến đổi của giai cấp cơng nhân, vai trị của giai cấp công nhân trong
giai đoạn hiện nay.
5.2.

Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài trên, luận văn đã sử dụng phương pháp logic,

phương pháp biện chứng, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp
phân tích - lịch sử, chứng minh… từ đó tác giả so sánh, đối chiếu theo hướng

nghiên cứu của mình.
Luận văn cịn kế thừa các cơng trình khoa học, những bài viết có liên
quan đến luận văn đã được công bố ở nước ta trong thời gian gần đây.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
6.1.

Về mặt lý luận
Luận văn góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về giai cấp công nhân,

sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân, đặc điểm, vai trị của giai cấp cơng
nhân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
6.2.

Về mặt thực tiễn
Luận văn góp phần làm rõ về số lượng, chất lượng, cơ cấu ngành nghề

của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay, vấn đề về việc làm, thu nhập của
công nhân nước ta hiện nay. Từ đó góp một số thông tin cho các cấp lãnh đạo


9

của nước ta tham khảo trong việc hoạch định chính sách xây dựng giai cấp
công nhân Việt Nam hiện đại trong giai đoạn hội nhập.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho học viên cao học và
sinh viên chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học về vấn đề giai cấp công
nhân Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn được trình bày trong 2 chương, 6 tiết.



10

Chƣơng 1
LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƢ TƢỞNG
HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN
1.1.

LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ GIAI CẤP
CÔNG NHÂN VÀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA NĨ
Giai cấp cơng nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là những

khái niệm cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học. Phát hiện ra sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân là cống hiến vĩ đại của chủ nghĩa Mác.
Khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất
có khả năng lãnh đạo các tầng lớp nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột trong
cuộc đấu tranh từng bước xóa bỏ chủ nghĩa tư bản và xây dựng thành cơng
chủ nghĩa xã hội là lập trường chính trị của những người mácxít - lêninnít
chân chính, là ranh giới phân biệt họ với những người cải lương và những
phần tử cơ hội, xét lại.
Trước sự khủng hoảng và sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và
Liên Xô, nhiều người đã bộc lộ sự dao động và hoài nghi về sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân. Đây là dịp tốt cho những kẻ cơ hội xét lại, phi mácxít
ra sức bài trừ sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân, vai trị lãnh đạo của
Đảng Cộng sản cũng như thành quả của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy
vấn đề làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, nhất là trong bối
cảnh lịch sử mới đang được đặt ra một cách bức thiết cả trên phương diện lý
luận lẫn thực tiễn.



11

1.1.1. Khái niệ

giai cấp c ng nh n

Để hiểu rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, trước hết cần làm rõ
khái niệm giai cấp cơng nhân. Chính C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Vấn đề
là ở chỗ tìm hiểu xem giai cấp vơ sản thực sự là gì, và phù hợp với tồn tại ấy
của bản thân nó, giai cấp vơ sản buộc phải làm gì về mặt lịch sử”. [3;56]
Khi đề cập đến giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen đã bàn và sử
dụng nhiều thuật ngữ khác nhau như những cụm từ đồng nghĩa có nội hàm
giống nhau để nói về giai cấp cơng nhân như: Người lao động hoặc công nhân
(working men) và người vô sản, “giai cấp vơ sản”, “vơ sản đại cơ khí”, “giai
cấp vô sản công nghiệp”, “vô sản đại công nghiệp”, “giai cấp cơng nhân”,
“giai cấp khơng có của”, “giai cấp công nhân công xưởng nhà máy”, “giai cấp
công nhân đại cơ khí”, “giai cấp những người lao động làm thuê của thế kỷ
XIX”, “giai cấp vô sản hiện đại”, “giai cấp cơng nhân hiện đại”… Ngồi ra,
trong những điều kiện và hồn cảnh cụ thể C.Mác và Ph.Ăngghen cịn sử
dụng một số hình thức diễn đạt khác như: lao động làm thuê, giai cấp xã hội
hoàn toàn chỉ sống dựa vào bán sức lao động của mình, giai cấp của những
người hồn tồn khơng có của… Tất cả các thuật ngữ đồng nghĩa nói trên chỉ
là sự khác nhau về hình thức biểu đạt trong những văn cảnh cụ thể của một
khái niệm duy nhất là khái niệm “giai cấp công nhân” khái niệm này được
xuất hiện và tồn tại đối lập với giai cấp tư sản trong phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Không chỉ dừng lại ở khái niệm “giai cấp công nhân”, “giai
cấp vô sản”, …là gì, mà quan trọng hơn các nhà kinh điển của chủ nghĩa xã
hội khoa học còn chỉ ra giai cấp này cần phải làm gì để tự giải phóng mình?

Khi bàn về “Giai cấp công nhân”, “Giai cấp vô sản” và sứ mệnh lịch sử của
nó C.Mác và Ph. Ăngghen đề cập trong nhiều tác phẩm như:


12

Trong tác phẩm Góp phần phê phát triết học pháp quyền của Hêghen lời nói đầu, điểm nổi bật nhất chính là sự phát hiện ra vai trị cách mạng của
giai cấp vô sản. Mác vạch rõ lực lượng xã hội duy nhất có khả năng tiến hành
cuộc cách mạng vơ sản đó chính là giai cấp vơ sản. Xác định được vai trị lịch
sử của giai cấp vơ sản, đó là “cái kết quả của sự giải thể tất cả các tập đồn xã
hội mà ra” giai cấp vơ sản bắt đầu hình thành ở Đức do sự phát triển của cơng
nghiệp, và nó là người có sứ mệnh tự giải phóng, đồng thời giải phóng tất cả
các tầng lớp khác của xã hội. Mác đã chỉ ra nguồn gốc kinh tế - xã hội, xu
hướng phát triển của giai cấp vơ sản. Mác nói rằng: “Ở Đức giai cấp vơ sản
chỉ mới bắt đầu hình thành nhờ sự phát triển của công nghiệp. Như vậy giai
cấp vô sản ra đời gắn với cơng nghiệp, nó là sản phẩm của công nghiệp. Về
mặt xã hội, giai cấp vô sản nảy sinh và hình thành trong quá trình tan rã của
xã hội phong kiến chuyển lên chế độ tư bản chủ nghĩa, do sự tan rã của tất cả
các đẳng cấp, trước hết là sự phân rã của đẳng cấp trung gian. Xu hướng phát
triển của giai cấp vô sản là đi tới chỗ xóa bỏ nó với tư cách là một giai
cấp”.[2;589-590]
Trong tác phẩm Gia đình thần thánh, C.Mác, Ph. Ăngghen phân tích
mối quan hệ giữa giai cấp vơ sản và chế độ tư hữu. Giai cấp vô sản là sản
phẩm của chế độ tư hữu và cũng là điều kiện tồn tại của chế độ tư hữu. Chế
độ tư hữu muốn duy trì sự tồn tại vĩnh viễn của bản thân nó, thì nó phải duy
trì sự tồn tại vĩnh viễn của mặt đối lập với nó là giai cấp vơ sản. Chế độ tư
hữu tìm được sự thỏa mãn cho bản thân mình là mặt khẳng định của sự đối
lập. Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là hai mặt đối lập của một chỉnh thể
thống nhất - chế độ tư hữu. Cả hai đều là sản phẩm của chế độ ấy. Xu hướng
phát triển của giai cấp vô sản là đi tới thủ tiêu sự tồn tại của bản thân mình

với tư cách là giai cấp vơ sản, do đó, tiêu diệt cả mặt đối lập với nó là chế độ
tư hữu - đang chi phối và làm cho nó thành giai cấp vơ sản. C.Mác và Ph.


13

Ăngghen viết: “Nếu không tiêu diệt những điểu kiện sinh hoạt của bản thân
thì giai cấp vơ sản khơng thể tự giải phóng được. Nếu khơng tiêu diệt mọi
điều kiện sinh hoạt phi nhân tính của xã hội hiện đại biểu hiện tập trung ở tình
cảnh của chính nó thì nó khơng thể tiêu diệt được điều kiện sinh hoạt của bản
thân nó…”.[3;56]
Đến tác phẩm: Tình cảnh của giai cấp lao động Anh, Ph.Ăngghen
khẳng định: Anh là nước điển hình của sự phát triển của giai cấp vô sản. Giai
cấp công nhân Anh là kết quả chủ yếu của cuộc cách mạng công nghiệp Anh.
Lịch sử giai cấp công nhân Anh bắt đầu từ nửa sau thế kỷ XVIII. Công nghiệp
nhỏ đã làm nảy sinh giai cấp tư sản, công nghiệp lớn đã làm nảy sinh giai cấp
công nhân, giai cấp vơ sản, cùng với sự phát triển máy móc của nền đại công
nghiệp, giai cấp vô sản cũng tăng lên nhanh chóng về số lượng, nhưng cùng
với q trình đó “giai cấp cơng nhân mất mọi tài sản, mất mọi niềm tin vào
cơng ăn việc làm….”[3;338]. Phân tích q trình đại cơng nghiệp tư bản chủ
nghĩa tạo ra giai cấp cơng nhân hiện đại Ph.Ăngghen cịn lần lượt nghiên cứu
các bộ phận khác nhau của giai cấp vô sản theo trình tự phát sinh của chúng
trong quá trình lịch sử đó. Trước tiên là giai cấp vơ sản cơng nghiệp; kế tiếp là
giai cấp vô sản hầm mỏ và mỏ kim loại, cuối cùng là giai cấp vô sản nông
nghiệp. Đây là ba đội ngũ khác nhau trong giai cấp vô sản thế kỷ XIX ở Anh.
Nhưng ông cũng chỉ rõ “công nhân công nghiệp là người nhận thức được rõ
ràng nhất về lợi ích của bản thân họ; cơng nhân hầm mỏ nhận thức kém hơn
một chút, cịn cơng nhân nơng nghiệp thì hầu như chưa nhận thức được gì về
quyền lợi của mình, chính vì thế chúng ta sẽ thấy những cơng nhân cơng
xưởng, con đầu lịng của cách mạng công nghiệp, ngay từ đầu cho tới nay, đã

là hạt nhân của phong trào công nhân…”[3;353 -354]. Khi Ph.Ăngghen
nghiên cứu các thành phố lớn của nước Anh trong q trình phát triển của đại
cơng nghiệp ơng đã nêu rõ tình cảnh của giai cấp vơ sản Anh dưới sự tác động


14

của việc hình thành cơng nghiệp và thành phố cơng nghiệp. Ph.Ăngghen đã
khái qt tình cảnh giai cấp cơng nhân ở thành phố lớn như một loại bậc
thang nối tiếp nhau: Khá nhất là một cuộc sống tạm bợ, tiếp đến là trường hợp
tệ nhất của sự bần cùng. Về mặt pháp luật và trên thực tế, người công nhân
“là nơ lệ của giai cấp của nó, của giai cấp tư sản; họ bị nơ lệ đến mức có thể
bị bán đi như hàng hóa và cũng lên giá xuống giá như hàng hóa vậy”[3;426].
Ơng chỉ rõ địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp vô sản trong xã hội tư bản. Từ
việc chỉ rõ địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp vô sản do đại cơng nghiệp, do
giai cấp tư sản tạo nên thì việc xác định vai trò cách mạng của giai cấp vơ sản
cũng hình thành một cách khách quan. Khi con người bị đặt vào một tình
cảnh như súc vật thì họ chỉ có một cách hoặc là vùng lên phản kháng hoặc là
thực sự trở thành súc vật. Tình cảnh của giai cấp lao động, giai cấp công nhân
Anh thế kỷ XIX đã bị đẩy vào hiện trạng đó. Trong xã hội tư bản, công nhân
là những người lao động khơng có tư liệu sản xuất phải bán sức lao động cho
nhà tư bản và bị giai cấp tư sản bóc lột thậm tệ. Đối diện với giai cấp tư sản,
công nhân là người lao động tự do, phải tự bán mình cho giai cấp tư sản để có
được những điều kiện vật chất, tinh thần tồi tệ nhất cho việc duy trì sự tồn tại,
sự sống tệ hại nhất cho mình. Với địa vị kinh tế - xã hội như vậy, với tình
cảnh như vậy, giai cấp cơng nhân tất yếu trở thành giai cấp đối kháng trực
tiếp với giai cấp tư sản
Giai cấp vô sản hiện đại thế kỷ XIX có sự thay đổi căn bản địa vị kinh
tế, chính trị - xã hội. Họ là những người hoàn toàn bị tước đoạt hết tư liệu sản
xuất và chỉ có thể sống được bằng cách bán sức lao động cho nhà tư bản. Họ

là những người nô lệ làm thuê, là lực lượng chủ yếu làm ra của cải vật chất
cho xã hội, nhưng lại phải sống trong tình cảnh nghèo khổ cùng cực. Xét về
bản chất, địa vị kinh tế - xã hội khách quan đã khiến cho giai cấp cơng nhân
trở thành giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất trong việc đấu tranh


15

chống lại áp bức, bóc lột, tự giải phóng mình và giải phóng quần chúng nhân
dân lao động khác.
Nghiên cứu một cách khách quan, khoa học “Tình cảnh của giai cấp
công nhân Anh” Ph.Ăngghen đã nhận định: “hiển nhiên, công nhân phải tìm
cách thốt khỏi cái tình cảnh đã biến họ thành súc vật ấy, phải đấu tranh cho
một tình cảnh tốt hơn, hợp với con người hơn”[3;592]. Từ tình cảnh như vậy,
công nhân buộc phải chọn lấy một trong hai con đường: hoặc là phục tùng số
phận, phục vụ lợi ích của người tư sản, hoặc là phản kháng, đem hết sức bảo
vệ nhân phẩm giành lợi ích cho mình. Ph.Ăngghen khẳng định “ Họ chỉ có thể
làm được thế trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản”[3; 477], và sở dĩ
giai cấp cơng nhân Anh có năng lực chống lại sự bạo ngược của bọn có của
một cách mãnh liệt là nhờ họ tự giáo dục mình. Trong tình cảnh khốn khó của
mình, thường xun phải đối mặt với mọi mưu mơ thâm độc, thủ đoạn bóc lột
tàn bạo của giai cấp tư sản, giai cấp công nhân đã dần dần tự ý thức được vai
trò, sứ mệnh lịch sử của mình. Địa vị kinh tế - xã hội khách quan của giai cấp
công nhân đã trở thành một yếu tố quan trọng xác lập vai trò cách mạng của
giai cấp mình trong xã hội tư bản.
Sau khi phân tích một cách thật sâu sắc, khách quan Tình cảnh của giai
cấp cơng nhân ở Anh - nơi được coi là điển hình nhất của sự phát triển công
nghiệp tư bản chủ nghĩa, của chế độ tư bản. Ph.Ăngghen đã đi tới kết luận,
khẳng định vai trò cách mạng triệt để của giai cấp cơng nhân do hồn cảnh đó
tạo nên. Hơn thế nữa Ph.Ăngghen cịn đưa ra dự báo rằng, phong trào đấu

tranh của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản nhất định sẽ nổ ra và sẽ
ngày càng phát triển. Đây là kết cục tất yếu của những mâu thuẫn vốn có trong
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, trong lòng xã hội tư bản[3;348 -354].

Trong tác phẩm Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản, Ph.Ăngghen
đã định nghĩa giai cấp vô sản như sau: “Giai cấp vô sản là một giai cấp xã hội


16

hoàn toàn chỉ kiếm sống bằng việc bán lao động của mình, chứ khơng phải
sống bằng lợi nhuận của bất cứ số tư bản nào, đó là một giai cấp mà hạnh
phúc và khổ đau, sống và chết, toàn bộ sự sống còn của họ đều phụ thuộc vào
số nhu cầu về lao động, tức là tình hình chuyển biến tốt hay xấu của công việc
làm ăn, vào những cuộc biến động của cơng cuộc cạnh tranh khơng gì ngăn
cản nổi. Nói tóm lại, giai cấp vơ sản hay giai cấp những người vô sản là giai
cấp lao động trong thế kỷ XIX… Giai cấp vô sản là do cuộc cách mạng công
nghiệp sản sinh ra”[4;456-457].
Thật vậy, giai cấp vô sản ra đời là một quá trình lâu dài, từ tầng lớp vô
sản đầu tiên đến vô sản công trường thủ công và giai cấp vô sản hiện đại. Vào
các thế kỷ XIV, XV quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa bắt đầu hình thành ở
một số nước châu Âu, q trình tích lũy ngun thủy tư bản diễn ra làm xuất
hiện lao động làm thuê tư bản chủ nghĩa. Lớp người lao động này từng bước
bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt chủ yếu, trở thành người
tự do bán sức lao động để kiếm sống. Đó chính là những người vơ sản đầu
tiên. Từ cuối thế kỷ XVI - XVIII, cùng với sự ra đời và phát triển kiểu tổ chức
sản xuất công trường thủ công, giai cấp vô sản công trường thủ cơng hình
thành, song phần lớn họ cịn mang nặng tư tưởng, tâm lý của người sản xuất
nhỏ, chưa bị cột chặt vào guồng máy sản xuất tư bản chủ nghĩa. Cho nên, giai
cấp vô sản công trường thủ công chưa trở thành một lực lượng ổn định, độc

lập trong xã hội. Cuộc cách mạng công nghiệp cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ
XIX đã tạo ra bước nhảy vọt trong đời sống kinh tế - chính trị - xã hội, đánh
dấu bước chuyển căn bản của chủ nghĩa tư bản sang giai đoạn đại công
xưởng, giai cấp vô sản hiện đại ra đời và nhanh chóng trở thành một lực
lượng xã hội to lớn. Như vậy, sự ra đời của giai cấp vô sản gắn liền với nền
sản xuất đại công nghiệp và chỉ trở thành một giai cấp ổn định khi sản xuất
đại công nghiệp đã thay thế về cơ bản nền sản xuất thủ công. Đúng như


17

Ph.Ăngghen đã khái quát “đại công nghiệp kéo người công nhân công trường
thủ công ra khỏi những điều kiện gia trưởng của họ, họ mất hết mọi tài sản
cuối cùng của họ và chỉ khi đó họ mới trở thành người vô sản… Giai cấp vô
sản là do cuộc cách mạng công nghiệp sản sinh ra”.[4;456-457]
Lần đầu tiên, C.Mác và Ph.Ăngghen đã trình bày sự ra đời của giai cấp
vơ sản và khái niệm giai cấp vô sản tương đối đầy đủ trên các phương diện
trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản viết năm 1848.
Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Mác và Ăngghen đã
làm sáng tỏ sự ra đời của giai cấp vô sản với tính cách là một nấc thang quy
định của lịch sử trong tiến trình phát triển của các giai cấp và của cuộc đấu
tranh giai cấp, và bắt nguồn từ trình độ phát triển của sản xuất. Sự xuất hiện
giai cấp tư sản và giai cấp vô sản và mâu thuẫn khơng thể điều hịa của hai giai
cấp đó đã được luận chứng từ sự ra đời của nền sản xuất lớn bằng máy móc và
trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Các ông chứng minh rằng, sự
cải biến tất yếu toàn bộ các quan hệ xã hội để giải phóng hồn tồn con người
về mặt xã hội là sứ mệnh lịch sử và cũng là lợi ích của giai cấp vơ sản.
Thơng qua tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Mác và Ăngghen
đã phân tích rất khoa học và sâu sắc về giai cấp vơ sản bởi trước các ơng
người ta chưa có khái niệm rõ về vơ sản, thường hiểu đó là những người

nghèo bị áp bức, bóc lột trong các cơng trường thủ công và trong nền công
nghiệp đang phát triển, bao gồm cả tầng lớp lưu manh, lười biếng, khổ
sở…Trong lần tái bản Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, năm 1888, Ăngghen
đã nói rõ: “giai cấp vơ sản là giai cấp những cơng nhân làm th hiện đại, vì
mất các tư liệu sản xuất của bản thân, nên buộc phải bán sức lao động của
mình để sống”[8;517-525]. Giai cấp vơ sản là giai cấp lao động và là sản
phẩm của nền đại cơng nghiệp. Gắn liền với sự hình thành và xác lập của giai
cấp vô sản, một quy luật vận động và phát triển cơ bản của giai cấp vô sản -


18

một điều kiện quan trọng đối với sự trưởng thành của giai cấp đó - đã được
nêu lên là: cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị. Về sau này, Mác đã giải thích:
“Giai cấp cơng nhân hoặc là cách mạng hoặc chẳng là gì hết”[11;77]. Việc
hình thành quan điểm duy vật về lịch sử và sự vận dụng quan điểm đó để làm
sáng tỏ vai trị lịch sử giai cấp vô sản đã tạo khả năng khắc phục quan niệm
của những nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng thường nhìn nhận giai cấp vơ
sản chỉ là giai cấp nghèo khổ. Làm sáng tỏ vai trị của giai cấp vơ sản gắn liền
với nền đại cơng nghiệp, có nghĩa là gắn liền nó với q trình xã hội hóa sản
xuất, đây quả thật là một luận chứng khoa học rất vững chắc để hiểu rõ mặt
tích cực của giai cấp này. Do hồn cảnh lịch sử của mình, giai cấp cơng nhân
có sứ mệnh thực hiện sự nghiệp xã hội hóa các tư liệu sản xuất và xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Giai cấp đó gắn liền với sự phát triển của nền sản xuất đại
cơng nghiệp và do đó có khả năng tiến hành cơng cuộc cải biến tồn bộ các
quan hệ xã hội. Chế độ xã hội không cịn giai cấp chỉ có thể được thiết lập
trong q trình thực hiện vai trị lãnh đạo cơng cuộc xây dựng xã hội mới của
giai cấp công nhân.
Như vậy, giai cấp công nhân đại biểu cho mọi nhu cầu của cơng cuộc
xã hội hóa nền sản xuất và có khả năng khách quan để tiến hành sự nghiệp cải

biến toàn bộ các quan hệ xã hội. Sự trưởng thành của giai cấp công nhân dưới
sự lãnh đạo của Đảng cách mạng của nó thành một lực lượng xã hội có đủ
năng lực và ý chí thực hiện cuộc cải biến toàn bộ các quan hệ xã hội hiện thời.
Ngay từ tác phẩm Gia đình thần thánh (1845), Mác và Ăngghen đã nhận định
rằng, với vị trí của mình, giai cấp vơ sản khơng thể giải phóng bản thân mình,
nếu khơng tiêu diệt mọi điều kiện sinh hoạt phi nhân tính xã hội hiện đại, biểu
hiện tập trung ở tình cảnh của chính nó[3;56].
Để luận chứng cho vai trị lãnh đạo của giai cấp cơng nhân, Mác và
Ăngghen cịn chứng minh rằng, giai cấp đó có đầy đủ những thuộc tính cho


19

phép có thể xác định mục tiêu và tổ chức tiến hành cuộc đấu tranh chống giai
cấp tư sản. Khả năng tổ chức, khả năng đoàn kết, khả năng kỷ luật là đặc
trưng cơ bản của giai cấp công nhân, khác hẳn với tất cả các giai cấp và tầng
lớp khác đối diện với giai cấp tư sản. Một đặc điểm chủ yếu của giai cấp công
nhân là khả năng hoạt động chính trị có tổ chức và có kỷ luật. Mác và
Ăngghen cũng chứng minh rằng, giai cấp công nhân, theo bản chất giai cấp
của mình, trước hết là một giai cấp chiến đấu, giai cấp cách mạng. Giai cấp
cơng nhân là lực lượng lãnh đạo xã hội, vì nó có những tính chất mà dưới sự
lãnh đạo của Đảng của nó càng được phát huy hơn, hiệu quả hơn và tất yếu
giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh. Hai ơng luận giải những tính chất
của giai cấp công nhân gắn chặt với việc làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai
cấp đó. Cơ sở vật chất cho vai trị to lớn của giai cấp cơng nhân, đồng thời là
cơ sở cho sự phát triển của toàn xã hội là ở chỗ, tính tổ chức xã hội của con
người khơng chỉ đáp ứng q trình xã hội hóa nền sản xuất, mà cịn kích thích
và đẩy mạnh q trình đó. Vì vậy, việc xóa bỏ đối kháng giai cấp, việc khắc
phục những hạn chế về giai cấp và cuối cùng là việc xóa bỏ các giai cấp là
nhiệm vụ của giai cấp vơ sản, và nó là tất yếu của lịch sử. Cho nên trong khi

phân tích các điều kiện để phát triển lực lượng sản xuất, Mác và Ăngghen đã
đấu tranh chống các hệ tư tưởng phong kiến, tư sản và tiểu tư sản; luận giải sứ
mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân: giải phóng tồn thể nhân loại khỏi sự áp
bức, bóc lột xây dựng một xã hội khơng cịn giai cấp, một xã hội đảm bảo tự
do, bình đẳng và cơng lý cho mọi người lao động. Từ đó, hai ơng đã chỉ cho
giai cấp công nhân con đường để làm ra lịch sử của con người một cách hồn
tồn mới. Chính quy mơ và chiều sâu của tiến trình cải biến cách mạng để
thực hiện sứ mệnh lịch sử lớn lao đó sẽ quy định nhiệm vụ, phương tiện và
phương pháp của cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân.


20

Tựu chung lại trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã vạch ra những nét cơ bản về khái niệm, bản chất và vai trò
của giai cấp công nhân như sau:
Thứ nhất, về nguồn gốc kinh tế, giai cấp vô sản ra đời gắn liền với nền
đại cơng nghiệp, là sản phẩm của chính bản thân nền đại cơng nghiệp, nền sản
xuất xã hội hóa ngày càng cao.
Thứ hai, về nguồn gốc xã hội, giai cấp vô sản được tuyển mộ từ tất cả
các giai cấp khác nhau trong xã hội.
Thứ ba, những đặc trưng chủ yếu của giai cấp vơ sản hiện đại gồm:
khơng có tư liệu sản xuất, về lợi ích cơ bản, đối lập trực tiếp với giai cấp tư
sản; giai cấp vô sản là hiện thân của phương thức sản xuất tiên tiến; có tính
quốc tế, tinh thần quốc tế vơ sản, tính tiên phong, tinh thần cách mạng triệt để,
đồn kết giai cấp, tính tổ chức kỷ luật cao.
Thứ tư, bản chất quốc tế của giai cấp vô sản được quy định bằng q
trình quốc tế hóa sản xuất cơng nghiệp…; đồng thời giai cấp vơ sản có bản
sắc dân tộc, gắn với mỗi dân tộc cụ thể, trở thành “giai cấp dân tộc” và chịu
trách nhiệm trước hết với dân tộc mình. [4;611 - 624]

Thứ năm, quá trình đấu tranh của giai cấp vơ sản dẫn đến sự phân hóa
trong giai cấp thống trị. Một bộ phận nhỏ của giai cấp này - những nhà tư
tưởng tư sản tiến bộ đã từ bỏ cuộc sống và thành phần giai cấp xuất thân,
vươn lên nhận thức được về mặt lý luận tồn bộ q trình vận động lịch sử,
tách khỏi giai cấp xuất thân, đi theo giai cấp vô sản, làm cho giai cấp vô sản
ngày càng nhận thức rõ được sức mạnh và sứ mệnh lịch sử của mình.
Thứ sáu, xu hướng phát triển giai cấp vô sản không ngừng tăng lên về
số lượng và chất lượng cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp.
Cần nhấn mạnh rằng, khái niệm về giai cấp vô sản đã được C.Mác và
Ph.Ăngghen rút ra qua sự phân tích một cách sâu sắc từ địa vị kinh tế xã hội


21

của giai cấp đó dưới chế độ tư bản trong những thập niên nửa đầu thế kỷ XIX.
Những kết luận ấy đã được thực tiễn lịch sử - xã hội đương thời chứng minh
là đúng đắn và khoa học.
Những đặc trưng cơ bản của giai cấp vô sản dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa mà C.Mác và Ph.Ăngghen nêu lên đã được V.I.Lênin tiếp tục làm rõ,
phát triển và khẳng định trong nhiều tác phẩm của mình.
Từ thực tiễn lịch sử đầu thế kỷ XX, V.I.Lênin chỉ rõ vị trí giai cấp vơ
sản là giai cấp lãnh đạo của tồn xã hội trong cuộc đấu tranh lật đổ ách thống
trị của chủ nghĩa tư bản, trong sự nghiệp sáng tạo ra một xã hội mới, trong
cuộc đấu tranh để thủ tiêu hoàn toàn các giai cấp. Năm 1919, trong tác phẩm
“Sáng kiến vĩ đại” V.I.Lênin đã đưa ra một định nghĩa về giai cấp như sau:
“Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau
về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử,
khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật
quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong
tổ chức lao động xã hội, như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về

phần của cải ít hay nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đồn
người, mà tập đồn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do
chỗ các tập đồn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất
định” [136;17 -18].
Định nghĩa giai cấp của Lênin phát biểu như trên cho thấy: nói đến giai
cấp chúng ta khơng nói đến một tập đồn người riêng lẻ mà nói đến hệ thống
các tập đồn người trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định, do chế độ ấy
sản sinh ra. Vì vậy giai cấp thường dùng ở số nhiều: các giai cấp. Mỗi giai
cấp trong lịch sử (cùng hệ thống hay khác hệ thống) đều có những đặc điểm
riêng. Chẳng hạn giai cấp tư sản cũng thay đổi khi điều kiện kinh tế - xã hội
thay đổi. Song định nghĩa giai cấp của V.I. Lênin cho phép ta nắm được


×