Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Chuong 1 Tâm Lý Học Giáo Dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.57 KB, 43 trang )

Chương 1
TÂM LÝ HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC

Mục tiêu:
Học xong chương này, người học có thể:
1. Xác định được đối tượng và nhiệm vụ của tâm lý học.
2. Chỉ ra được ý nghĩa và vai trị của bộ mơn tâm lý học trong hệ
thống các khoa học giáo dục.
3. Chỉ ra được sự khác biệt cơ bản giữa các trường phái trong tâm lý
học, từ đó khẳng định được cách tiếp cận đúng đắn của chủ nghĩa
duy vật biện chứng về sự phát triển tâm lý người.
4. Bước đầu sử dụng được các phương pháp nghiên cứu tâm lý điển
hình trong việc tìm hiểu và nghiên cứu một số hiện tượng tâm lý
chung của con người.
5. Biết cách điều chỉnh và tự điều chỉnh thái độ, suy nghĩ của mình
cho phù hợp với hiện thực khách quan.

Khoa học không tôn giáo thì q quặt,
tơn giáo khơng khoa học thì mù lòa.
Albert Einstein

1


I. ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA TÂM LÝ HỌC
1. Khái niệm Tâm lý học
Tâm lý học là một khoa học chuyên nghiên cứu các hiện tượng tâm lý
người, nghiên cứu quy luật của sự nảy sinh, hình thành và phát triển của các
hiện tượng tâm lý.
Tâm lý học nghiên cứu các hiện tượng tâm lý vừa gần gũi, cụ thể, gắn bó
với con người nhưng cũng nghiên cứu những hiện tượng tâm lý rất phức tạp và


trừu tượng của con người.
Tâm lý học là nơi hội tụ nhiều khoa học nghiên cứu về con người.
Tâm lý học là bộ môn khoa học cơ bản trong hệ thống các khoa học về con
người, đồng thời nó là bộ mơn nghiệp vụ trong hệ thống các khoa học tham gia
vào việc đào tạo con người, hình thành nhân cách con người nói chung và nhân
cách nghề nghiệp nói riêng.
2. Đối tượng của tâm lý học
Tâm lý bao gồm tất cả hiện tượng tinh thần xảy ra trong đầu óc của con
người, gắn liền và điều hành mọi hoạt động, hành động của con người. Chính
các hiện tượng tinh thần này điều khiển mọi hoạt động và hành động của con
người giúp cho con người nhận thức và cải tạo hiện thực khách quan và phát
triển bản thân mình.
Tâm lí học nghiên cứu dạng vận động chuyển tiếp từ vận động sinh vật
sang vận động xã hội, nghiên cứu sự phản ánh thế giới khách quan vào não con
người (hiện tượng tâm lí – với tư cách một hiện tượng tinh thần). Hiện tượng
tâm lí được nảy sinh trên não bộ do thế giới khách quan tác động vào con người
và cuối cùng thể hiện ra bằng cử chỉ, hành vi, hoạt động của con người. Hiện
tượng tâm lí này khác với các hiện tượng sinh lí, vật lí v.v…
Như vậy, đối tượng của tâm lý học chính là các hiện tượng tâm lý với tư
cách là một hiện tượng tinh thần do hiện thực khách quan tác động vào não
người, hợp thành các hoạt động tâm lý. Vì thế tâm lý học nghiên cứu sự hình

2


thành, vận hành, các quy luật hoạt động tâm lý và sự phát triển của các hiện
tượng tâm lý.
3. Nhiệm vụ của tâm lý học
Tâm lý học thực hiện các nhiệm vụ cơ bản sau:
- Nghiên cứu bản chất của hoạt động tâm lý, các quy luật phát sinh và

phát triển tâm lý.
- Tìm ra cơ chế diễn biến và thể hiện của các hiện tượng tâm lý.
- Nghiên cứu các quy luật tác động qua lại giữa các hiện tượng tâm lý
với nhau.
- Nghiên cứu những yếu tố chủ quan và khách quan tác động đến sự
phát triển tâm lý con người.
Trên cơ sở các thành tựu nghiên cứu, tâm lí học đưa ra những giải pháp
hữu hiệu cho việc hình thành, phát triển tâm lí, sử dụng tâm lí để tác động tới
nhân tố con người hiệu quả nhất. Để thực hiện các nhiệm vụ nói trên, tâm lí học
phải liên kết, phối hợp chặt chẽ với nhiều khoa học khác.
4. Vị trí và ý nghĩa của tâm lý học
a. Vị trí của tâm lý học

Triết học

TLH: tâm lý học
KHTN: khoa học tự nhiên
KHXH: khoa học xã hội

TLH

KHXH

KHTN

3


Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, mỗi khoa
học nghiên cứu một mặt nào đó của con người, trong đó tâm lý học chiếm một

vị trí đặc biệt. Viện sĩ Kêđơrơv cho rằng tâm lý học nằm ở vị trí trung tâm của
ba hệ thống khoa học:
Triết học cung cấp cơ sở lý luận và phương pháp luận chỉ đạo những
nguyên tắc và phương hướng chung cho tâm lý học để giải quyết những vấn đề
cụ thể của mình. Ngược lại tâm lý học đóng góp nhiều thành tựu quan trọng
làm cho triết học trở nên phong phú và sâu sắc.
Tâm lý học có quan hệ chặt chẽ với khoa học tự nhiên. Giải phẫu sinh lý
người, hoạt động thần kinh cấp cao là cơ sở tự nhiên của các hiện tượng tâm lý.
Các thành tựu của sinh vật học, di truyền học, tiến hoá luận… góp phần làm
sáng tỏ cơ chế hình thành và phát triển tâm lý. Ngược lại, tâm lý học chỉ ra
rằng sự thay đổi tâm lý trong con người có thể dẫn đến sự biến đổi về mặt sinh
học của chính họ. Tâm lý học có quan hệ gắn bó hữu cơ với khoa học xã hội và
nhân văn. Khoa học xã hội và nhân văn cung cấp cho tâm lý học những nền
tảng khoa học của sự phát triển xã hội, kinh tế, chính trị, từ đó tâm lý học có
thể chỉ ra và dự báo đặc điểm phát triển tâm lý của từng nhóm người, cộng
đồng người. Ngược lại nhiều thành tựu của tâm lý học được ứng dụng vào các
lĩnh vực kinh tế, xã hội, pháp luật, y học, văn hoá nghệ thuật, giáo dục, kinh
doanh v.v… Tâm lý học còn là cơ sở cho khoa học giáo dục. Trên cơ sở những
thành tựu của tâm lý học và việc nghiên cứu các quy luật, cơ chế hình thành và
phát triển tâm lý con người mà giáo dục vận dụng vào xây dựng nội dung,
phương pháp dạy học và giáo dục. Ngược lại giáo dục học sẽ hiện thực hố nội
dung tâm lý cần hình thành và phát triển ở con người.
b. Ý nghĩa của Tâm lý học
Ngay trong việc phân tích vị trí của tâm lý học, chúng ta cũng đã thấy vai
trò và ý ngĩa của tâm lý học đối với các ngành khoa học. Ngoài ra cũng cần
nhấn mạnh thêm ý nghĩa của tâm lý học đối với cuộc sống xã hội con người
như:

4



- Tâm lý học có ý nghĩa về mặt lý luận, góp phần tích cực vào việc đấu
tranh chống lại các quan điểm phản khoa học về tâm lý người và khẳng
định quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử về tâm lý người.
- Tâm lý học trực tiếp phục vụ cho cho sự nghiệp giáo dục. Việc hiểu
được các yếu tố tác động đến quá trình hình thành nhân cách, các quy
luật tâm lý… sẽ giúp cho việc xây dựng chương trình dạy học và phương
pháp dạy học phù hợp với sự phát triển của người học, từ đó góp phần
vào việc đào tạo các thế hệ cơng dân có ích cho dân tộc và cho nhân loại.
- Tâm lý học giúp giải thích một cách khoa học những hiện tượng tâm lý
xảy ra trong bản thân mình, ở người khác, trong cộng đồng, trong xã hội
và là cơ sở của việc tự rèn luyện, tự hoàn thiện nhân cách và xây dựng
tốt mối quan hệ giao lưu, quan hệ liên nhân cách, quan hệ xã hội. Ngồi
ra tâm lý học cịn có ý nghĩa thực tiễn với nhiều lĩnh vực khoa học của
đời sống.
II.

CÁC QUAN ĐIỂM CƠ BẢN TRONG TÂM LÝ HỌC
Cũng như các ngành khoa học khác, tâm lý học bắt nguồn từ triết học, và về

sau trải qua hàng ngàn năm tâm lý học mới chính thức trở thành một ngành
khoa học chuyên biệt.
Có thể nói, vào thời kỳ đầu, lịch sử tâm lý học gắn liền với lịch sử triết học,
bởi triết học quan tâm tới sự hình thành và phát triển của mọi vật trong vũ trụ,
mà hạt nhân của nó là tâm lý con người. Platon (428 - 318 B.C.) đại diện cho
dòng triết học duy tâm, cho rằng hiện tượng của cả tâm lý và vật lý đều bắt
nguồn từ ý niệm tuyệt đối hay còn gọi là "Eros" (Tâm), đó là niềm hứng khởi
vơ tận từ triết học. Ngược lại, Democrate (460 - 320 B.C.) đại diện cho dịng
triết học duy vật, đi tìm cái căn ngun của động lực đầu tiên từ trong thế giới
tự nhiên của vũ trụ vạn hữu như nước, lửa, khí... và cho rằng diễn biến của tâm

lý con người hoàn toàn tùy thuộc vào các quy luật về sự vận hành của thế giới
tự nhiên. Sau đó đến Aristote (384 - 322 B.C.), một môn đệ sáng giá nhất của
5


Platon đã cho ra đời một tác phẩm tâm lý học đầu tiên dưới nhan đề "Bàn về
linh hồn". Trong tác phẩm này, ông đã đề cập đến một vấn đề rất quan trọng về
tâm lý, đó là mối liên hệ mật thiết giữa tâm lý và vật lý, hay giữa tinh thần và
cơ thể với thế giới sự vật hiện tượng (100 Great Thinkers, J.E. Greene,
Washington Square Press, New York, 1967).
Đến nửa đầu thế kỷ XVII, Descartes (1596 - 1650) dùng khái niệm "phản
xạ" để cắt nghĩa và giải thích các hoạt động tâm lý giản đơn của con người
cũng như động vật. Sau đó, Locke (1632 - 1704) cho rằng mọi hiện tượng và
diễn biến tâm lý đều phát sinh từ kinh nghiệm tri giác thông qua các giác quan.
Cả Descartes và Locke đều thuộc nhóm tư tưởng nhị nguyên, cho rằng dòng
diễn biến của tâm lý tùy thuộc vào vừa thể xác, vừa tinh thần. Cùng với nhóm
tư tưởng này, dịng "Tâm lý học kinh nghiệm" (Psychological Empirica) ra đời
bởi các nhà tâm lý như: J. Locke (1632 - 1704), Didro (1713 - 1781), Honback
(1723 - 1789) v.v...
Ở thế kỷ thứ XVIII, lần đầu tiên trong lịch sử tâm lý học phương Tây xuất
hiện một cách chính thức ngành tâm lý học qua tác phẩm "Tâm lý học kinh
nghiệm" (1732) và "Tâm lý học lý trí" (Psychological Rationalist) (1734) của
C. Wolff (1679 - 1754), một nhà triết học Ánh sáng (Enlightenment) Đức. Tuy
nhiên, ở thời kỳ đầu này, tâm lý học chỉ là bộ môn của triết học, và được sử
dụng bởi phương pháp nội quan. Cho đến thế kỷ thứ XIX, phương pháp nghiên
cứu tâm lý nội quan dần dần chuyển sang thực nghiệm bởi sự ra đời của phịng
thí nghiệm đầu tiên của Wilhelm Wundt được thành lập tại Leipzig, năm 1879.
Năm 1889, đại hội lần thứ nhất về tâm lý học được tổ chức ở Pháp và từ đó tâm
lý học được phát triển thành một khoa học độc lập bao gồm nhiều trường phái
như: Tâm lý học hành vi (Psychologie du Comportement Behaviorism) của

Watson, Tâm hình học (Psychologie de la Forme) hay Tâm lý học Gestalt của
Kohler (1887 - 1967), Wertheimer (1880 -1943) và Kofka (1886 - 1947), Phân
tâm học (Psychanalyse) của Freud v.v... Và đến những năm 20 đầu thế kỷ XX,

6


xuất hiện Tâm lý học Mac-xit của Setchenov, K. Kornilov, L.S. Vygotsky,
Rubinstein v.v…
1. Wilhelm Wundt

Wundt (1832 – 1920)

a. Thân thế và sự nghiệp
Wilhelm Wundt (sinh ngày 16 tháng 8 năm 1832 và mất ngày 31 tháng 8
năm 1920) là một nhà tâm lý học và sinh lý học người Đức. Cùng với William
James, ông được coi là cha đẻ của ngành tâm lý học. Năm 1879, Wundt thành
lập phịng thí nghiệm chính thức đầu tiên cho nghiên cứu tâm lý học tại Đại học
Leipzig, đồng thời ông cũng cho ra đời tạp chí khoa học đầu tiên cho bộ mơn
này vào năm 1881.
Wundt sinh ra trong gia đình trí thức, tuy sống trong bầu khơng khí trí
thức của hai bên gia đình nội ngoại nhưng ơng ln là một con người nhút nhát,
e dè và sợ các tình huống mới. Năm đầu tiên ở trung học ơng khơng có bạn bè,
luôn mơ mộng, thường xuyên bị thầy cô đánh đập và phải ở lại lớp. Sau khi tốt
nghiệp trung học ban triết học ơng ghi danh vào chương trình chuẩn bị y khoa
năm 1855. Năm 24 tuổi ông đến Berlin và quyết định theo đuổi sự nghiệp
nghiên cứu sinh lý học thực nghiệm thay vì tiếp tục ngành y. Sau một năm, ơng
làm trợ tá phịng thí nghiệm. Sau đó ông đã giảng khóa đầu tiên về tâm lý học
như là một khoa học tự nhiên và viết cuốn sách đầu tay của ơng "Những đóng
góp hướng tới một lý thuyết về cảm quan tri giác". Ơng là người có công trong

việc tạo dấu mốc cho sự ra đời của khoa học tâm lý (1879).
b. Đối tượng nghiên cứu
Wundt quan tâm nghiên cứu cảm giác, tri giác và ý thức.
7


c. Phương pháp nghiên cứu
Thí nghiệm, thực nghiệm.
Nội quan (tức là tự quan sát, tự thể nghiệm trong chính mình).
d. Nội dung học thuyết
Toàn bộ tâm lý học của Wundt xuất phát từ quan niệm coi con người là
một thể thống nhất tâm vật lý.
2. Sigmund Freud và phân tâm học

Sigmund Freud (1856 – 1939)

a. Thân thế sự nghiệp của Freud
Ông sinh năm 1856 và mất năm 1939. Ông là bác sĩ thần kinh và tâm
thần người Áo, gốc Do Thái. Ơng sinh ra ở Tiệp Khắc. Từ nhỏ ơng đã tỏ ra rất
thơng minh, có năng khiếu lạ lùng về ngơn ngữ. Ơng bắt đầu học trung học
năm 9 tuổi và luôn đứng đầu lớp. Năm 17 tuổi ông tốt nghiệp trung học hạng
ưu. Năm 25 tuổi ông đỗ tiến sỹ y học, sau đó đi dạy và tham gia nhiều cơng
trình nghiên cứu về tủy, nơron và bệnh thần kinh. Từ năm 1897 ông được đề
nghị bổ nhiệm làm giáo sư đại học Viên. Ông là người sáng lập hội đồng phân
tâm học tại Viên năm 1908. Ông sáng lập ra hiệp hội phân tâm học quốc tế năm
1910 và lập nhà xuất bản phân tâm học năm 1918.
Các tác phẩm chính của ơng: Dự án về một nền tâm lý học khoa học và
những nghiên cứu về bệnh Hysteria, Lý giải các giấc mơ, 3 tiểu luận về lý
thuyết tình dục, vật tổ và sự cấm kỵ.
b. Đối tượng nghiên cứu

Ơng quan tâm nghiên cứu vơ thức để biết một cách khách quan tâm lý
thực sự của con người. Ông quan niệm, tất cả các hiện tượng tâm thần con
8


người về bản chất là hiện tượng vô thức. Vô thức là phạm trù chủ yếu trong đời
sống tâm lý con người. Mọi hoạt động trong tâm trí đều bắt nguồn trong vô
thức và tùy theo tương quan của những lực lượng thôi thúc và ngăn cản được
biểu hiện ra theo những quy luật khác hẳn với ý thức. Trong các loại vơ thức
thì đam mê tính dục có một vị trí đặc biệt quan trọng trong tồn bộ đời sống
tâm lý con người.
c. Phương pháp nghiên cứu
Phân tích tâm lý người bệnh để tìm cho được nguồn gốc gây bệnh ẩn dấu
sâu trong vô thức người bệnh. Cách thức mà ông tiến hành là thôi miên để giúp
người bệnh nhớ lại những điều đã trải qua. Việc giải tỏa tắc nghẽn trong tâm
thần người bệnh sẽ làm cho bệnh thuyên giảm hoặc mất đi.
d. Nội dung học thuyết
Ông xác định bộ máy tâm thần con người bao gồm:
Cái Nó
Cái nó bao gồm tất cả những cái gì con người có được từ khi mới sinh ra
tức là tất cả những cái gì được quy định về mặt cấu tạo. Cái nó chính là biểu
hiện của cái di truyền, có xu hướng thỏa mãn những nhu cầu bẩm sinh của cá
nhân. Cái nó và cái vơ thức được ẩn dấu sâu bên trong bộ máy tâm thần. Những
xung lực phát ra từ cái nó chính là năng lượng Libido và sức thôi thúc của
Libido cắt nghĩa cho đa số hành vi con người. Cái nó chứa đựng bản năng như
đói, khát, tính dục và bản năng này được điều khiển bởi ngun lý khối lạc.
Cái tơi
Cái tơi là cái trung gian giữa cái nó và cái bên ngồi. Về mặt nguồn gốc,
cái tôi được xem là một phần của cái nó nhưng đã bị tách khỏi cái nó để tiếp
xúc với cái bên ngồi. Khi đó cái tơi chống lại cái nó bằng cách giành quyền

làm chủ những địi hỏi xung lực và quyết định việc thỏa mãn hay chưa thỏa
mãn ngay những địi hỏi của xung lực. Cơng việc của cái tôi là làm cho các ước
muốn của cái nó phù hợp với cái thực tại tương ứng trong môi trường vật lý.

9


Cái tôi bị chi phối bởi nguyên lý thực tại vì nó làm thỏa mãn một nhu cầu nào
đó một cách thực sự chứ không phải là tưởng tượng.
Cái siêu tôi
Cái siêu tôi là lực lượng đối lập với cái tơi, ngăn cản cái tơi trong q
trình phát triển, kìm hãm sự thỏa mãn của cái tôi.
e. Đánh giá học thuyết
+ Ưu điểm:
Đóng góp to lớn của Phân tâm học là đưa ra giả thuyết về vô thức, tiềm
thức là những mặt quan trọng trong đời sống tâm lý con người.
Đưa ra một số cơ chế tâm lý như cơ chế tự vệ, dồn nén, các mặc cảm,
đồng nhất hóa, các giai đoạn phát triển nhân cách (gồm 4 giai đoạn: lỗ miệng,
hậu môn, âm vật và dương vật, cá nhân hướng đối tượng ra bên ngoài).
Tư tưởng khoa học đúng đắn: tâm lý học phải có một con đường riêng
của mình. Sự xuất hiện của phân tâm học một cách khách quan làm cho tâm lý
học phát triển. Phương pháp giải tỏa tâm lý đã được sử dụng khá rộng rãi, hiệu
quả trong các bệnh viện tâm thần.
+ Hạn chế:
Do quá nhấn mạnh đến mặt vô thức trong con người, phân tâm học đã
không thấy được mặt bản chất trong ý thức con người, không thấy được bản
chất xã hội - lịch sử của các hiện tượng tâm lý người.
Con người trong phân tâm học là con người cơ thể, con người sinh vật bị
phân ly ra nhiều mảng, con người với những mong muốn chủ yếu là thỏa mãn
các đam mê tính dục, đối lập với xã hội.

3. Jean Piaget và tâm lý học nhận thức

10


Jean Piaget (1869 – 1989)

a. Thân thế sự nghiệp của Piaget
Ông sinh năm 1869 Nasaten và mất năm 1989. Ông là con một nhà sử
học nổi tiếng. Ông là một thần đồng khoa học, mới 10 tuổi ơng đã có cơng trình
nghiên cứu về chim sẻ trắng làm chấn động giới sinh học ở Tây Âu. Xuất thân
từ nhà sinh vật học, ông sớm nhận ra rằng các khoa học sinh vật có thể đóng
góp quan trọng vào nhận thức luận nhưng muốn đi từ sinh vật học tới nhận thức
luận phải qua tâm lý học.
b. Đối tượng nghiên cứu
Jean Piaget quan tâm nghiên cứu về trí tuệ, tư duy đặc biệt là tư duy của
trẻ trong lứa tuổi đi học.
c. Phương pháp nghiên cứu
Quan sát trẻ trong khi chơi.
Thực nghiệm và trắc nghiệm.
Lâm sàng tâm lý.
d. Nội dung học thuyết
Nét nổi bật trong học thuyết của ông là thuyết cân bằng hóa. Ơng xem tư
duy logic, tư duy tốn học có khả năng tạo ra sự cân bằng cao nhất. Cân bằng
tâm lý chính là sự bù trừ do các hoạt động của chủ thể trả lời các xâm nhập từ
ngồi vào. Khi cơ thể có một nhu cầu nào đó, con người rơi vào trạng thái mất
cân bằng. Nếu kéo dài tình trạng này sẽ dẫn đến căng thẳng, khó chịu. Muốn
làm cho trẻ phát triển nhận thức tư duy, suy nghĩ tích cực thì phải làm cho trẻ
mất cân bằng hay đó chính là việc tạo ra tình huống có vấn đề.
11



Các thao tác ở tất cả các trình độ đều nhằm thực hiện sự đồng hóa và
điều ứng. Đồng hóa là quá trình chủ thể tiếp nhận khách thể vào cấu trúc hoạt
động, tức là xử lý các tác động bên ngồi nhằm đạt một mục tiêu nào đó. Điều
ứng là quá trình chủ thể đem cấu trúc hoạt động đã được tạo ra trước đó thích
ứng theo khách thể. Đồng hóa và điều ứng tạo nên trí thơng minh con người.
Theo Piaget có 4 giai đoạn phát triển trí tuệ đó là giai đoạn cảm giác vận
động, giai đoạn tiền thao tác tư duy, giai đoạn tư duy cụ thể, giai đoạn phát
triển tư duy trừu tượng.
e. Đánh giá học thuyết
+ Ưu điểm:
Nghiên cứu tâm lý con người, nhận thức con người trong mối quan hệ
với môi trường, với cơ thể, não bộ.
Phát hiện ra nhiều sự kiện có giá trị trong các vấn đề tri giác, trí nhớ, tư
duy, ngôn ngữ.
Xác định được nhiều phương pháp nghiên cứu cho tâm lý.
+ Hạn chế:
Coi nhận thức con người như là sự nỗ lực của ý chí để đưa đến sự thay
đổi vốn kinh nghiệm, vốn tri thức của chủ thể nhằm thích nghi, cân bằng với
thế giới.
Tư duy phát triển theo 4 giai đoạn. Tuy nhiên trong thực tế có một số trẻ
phát triển rất sớm hay rất chậm về tư duy.
4. John Watson và tâm lý học hành vi
a. Thân thế sự nghiệp

John Watson (1878 – 1958)

12



J. Watson sinh năm 1878 và mất năm 1958 tại miền Nam nước Mỹ. Tơn
giáo là đề tài chính trong tuổi thơ ấu của ơng vì mẹ ơng là một người rất sùng
đạo. Ngược lại, cha ông là người luôn say rượu. Sự xung khắc vợ chồng cuối
cùng đã khiến cha ông bỏ vợ con năm 1891. Watson rất gắn bó với cha nên sự
ra đi này đã biến ơng thành một đứa trẻ quậy phá. Ông được bổ nhiệm làm giáo
sư khi khi ông chưa đầy 30 tuổi. Từ 1908, Watson theo đuổi thuyết hành vi và
say mê nghiên cứu nhiều phản ứng hành vi trên động vật, đặc biệt là ở chuột.
b. Đối tượng nghiên cứu
Ông đi sâu ngiên cứu hành vi của con người.
c. Phương pháp nghiên cứu
Quan sát thực nghiệm, thử nghiệm.
Hình thành phản xạ có điều kiện.
Báo cáo bằng lời.
d. Nội dung học thuyết
Tâm lý học hành vi tuyên bố không quan tâm đến việc mô tả giảng giải
các trạng thái tâm lý của ý thức mà chỉ quan tâm đến hành vi của tồn tại người.
Đối tượng của tâm lý học là hành vi. Hành vi được xem là tổ hợp các phản ứng
của cơ thể trước các kích thích của mơi trường bên ngồi.
Theo ơng có 4 loại hành vi: hành vi bên ngoài, hành vi bên trong, hành vi
tự động minh nhiên và hành vi tự động mặc nhiên. Theo ông mọi việc con
người làm kể cả suy nghĩ đều thuộc một trong bốn loại hành vi này.
Quan sát cũng như giảng giải hành vi đều phải tuân theo công thức S - R.
Trong đó S là kích thích, R là phản ứng. Kích thích có thể là một tình huống
tổng qt của môi trường hay một điều kiện bên trong nào đó của sinh vật.
Với cơng thức S - R, ơng đã đặt cho thuyết hành vi mục đích cao cả là
điều khiển hành vi động vật và con người. Lấy nguyên tắc "thử - sai" làm
nguyên tắc khởi thủy điều khiển hành vi.
e. Đánh giá học thuyết
+ Ưu điểm:


13


Mở rộng đối tượng tâm lý học đó là hành vi và quan tâm nghiên cứu
hành vi, tâm lý học hành vi đã trở thành một khoa học khách quan và chuyển
sang tâm lý học duy vật.
+ Hạn chế:
Thay đổi mục tiêu chính của tâm lý học từ việc mơ tả các trạng thái của ý
thức sang việc tiên đoán và kiểm sốt hành vi.
Làm cho hành vi bên ngồi trở thành nội dung hầu như duy nhất của tâm
lý học. Gạt bỏ khái niệm ý thức ra khỏi tâm lý học .
Đồng nhất hành vi con người và hành vi động vật.
5. Wertheimer, Kofka, Kohler và Tâm lý học Gestalt
Tâm lý học Gestalt được khởi xướng do ba nhà tâm lý người Đức là
Wertheimer, Kofka, Kohler.

M. Kurt Kofka - một trong ba thành viên của tâm lý học Gestalt

a. Thân thế sự nghiệp của ba ông
+ Wertheimer (1880 - 1943) học trung học đến 18 tuổi rồi học đại học
luật, sau đó chuyển hướng quan tâm sang triết học. Ông đậu bằng tiến sỹ hạng
ưu năm 1904 về sự phát hiện nói dối. Sau đó ơng giảng dạy tại các trường đại
học.
+ Kofka (1886 - 1941) đậu tiến sỹ ở đại học Berlin năm 1908. Năm 1924
ông sang Mỹ và giảng dạy tại đây cho đến khi qua đời.
+ Kohler (1887 - 1967) đậu tiến sỹ năm 1909 tại đại học Berlin. Từ 1910
- 1913 ông cộng tác với hai người trên trong việc nghiên cứu để cho ra đời
phong trào hình thức (Form). Từ 1921 ơng cơng tác tại các trường đại học ở


14


Đức. Năm 1935 ông sang giảng dạy tại Mỹ cho đến lúc nghỉ hưu vào năm
1958.
b. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu tâm lý nói chung nhưng nhấn mạnh vào tri giác, tư duy,
những khác biệt hành vi trí tuệ giữa người và động vật.
c. Nội dung học thuyết
Hầu như các kiến thức chúng ta có được ngày nay về tri giác có được
nhờ trường phái tâm lý học Gestalt (Wertheimer, Kofka, and Kohler). Các nhà
tâm lý học Gestalt mà đặc biệt là Wertheimer đã khám phá ra các quy luật về tổ
chức tri giác. Phát biểu nổi tiếng của Gestalt về tri giác là “tổng thể khác xa với
tổng cộng các thành tố”.
c1. Tri giác hình - nền: Nếu nhìn ra ngồi cửa sổ, chúng ta có thể nhìn
thấy mọi người, thấy nhà cửa, xe cộ (đối tượng), và có thể thấy cây cỏ, trời
mây, chim chóc (bối cảnh). Ở bất kỳ chỗ nào, thời điểm nào, sự vật chúng ta
muốn tri giác ln là hình ảnh trên một nền nào đó. Xe cộ trên nền một đường
phố sẽ dễ dàng tri giác hơn khi chúng chất đống trong một bãi đồng nát. Chim
trên nền trời sẽ dễ được tri giác hơn chim nằm trong bụi. Hình thường gần với
chúng ta hơn nền. Bình thường, chúng ta có thể tri giác ngay được đâu là hình,
đâu là nền. Chúng ta chỉ ý thức được quá trình này khi sự phân biệt giữa hình
và nền khơng rõ ràng hoặc tạo ra nhiều cách tri giác khác nhau. Trong trường
hợp này, tri giác của chúng ta thường không kiên định, dễ thay đổi.

15


Khi ta tri giác thì bao giờ cũng có một phần của trường tri giác nổi bật
lên, đậm nét, rõ ràng và có ý nghĩa cịn những vật xung quanh thì mờ nhạt,

khơng có ý nghĩa. Giữa chúng có sự tách biệt tương đối tạo nên cái gọi là hình
và nền. Về quan hệ giữa hình và nền, các nhà tâm lý học Gestalt cho rằng, hình
là cái được sắp xếp gần hơn nền bởi tính hiệu quả của định vị chủ quan. Hình
có thay đổi được khơng là phụ thuộc vào nền. Do các nền khác nhau mà cùng
có một hình có thể cảm nhận khác nhau.
c2. Luật về hình thức hợp lý (good form/pragnanz) do Kohler mơ tả. Luật
này cho rằng khi tri giác sự vật, hiện tượng, chúng ta sẽ có xu hướng tổ chức,
sắp xếp các thơng tin theo một hình thức, cấu trúc hợp lý, cân đối, thứ tự, đơn
giản và có nghĩa. Luật này cho phép chúng ta giải thích được cách thức chúng
ta tri giác sự vật hiện tượng. Luật này bao gồm các nguyên tắc:

Nguyên tắc về sự khép kín: chúng ta sẽ tri giác hồn chỉnh một vật kể cả
khi nó bị thiếu các thành tố.
Nguyên tắc về sự tương đồng: Những thành tố tương tự nhau sẽ được tri
giác cùng nhau như trong cùng một tổng thể hoặc tập hợp.
OXXXXXXXXXX
XOXXXXXXXXX
XXOXXXXXXXX
XXXOXXXXXXX

16


XXXXOXXXXXX
XXXXXOXXXXX
Trong ví dụ này, chúng ta sẽ nhìn thấy ngay hàng chéo chữ O giữa một
loạt chữ X, hơn là từng hàng ngang có chữ X và O.
Nguyên tắc về sự kề gần: các vật ở gần nhau về mặt không gian hoặc thời
gian sẽ được tri giác như thuộc về nhau. Ví dụ, quan sát hình dưới đây:
*************************

*************************
*************************
Chúng ta sẽ nhìn thấy 3 hàng ngang dấu (*) hơn là nhìn thấy 25 hàng dọc (*).
Nguyên tắc về sự liên tục:

Chúng ta sẽ tri giác hình trên là một hình tròn với 2 đường thẳng hay là
một đường thẳng đi qua một hình trịn? Thơng thường, chúng ta sẽ tri giác là
một đường thẳng (bị hình trịn che mất một đoạn). Đó chính là ngun tắc về sự
liên tục, thị giác sẽ tri giác các điểm hoặc một đường thẳng bị gãy, gấp đoạn
như một tổng thể liên tục.
Nguyên tắc về chung một số phận (common fate): các thành tố cùng
đang chuyển động về một hướng được tri giác như một tập thể hoặc cùng tổng
thể. Một nhóm các con chim tụ với nhau được tri giác thành một đàn chim.
c3. Quy luật về tính khơng đổi: hình ảnh do tri giác tạo ra có tính chất ổn
định. Sở dĩ như vậy là vì tất cả các hiện tượng tâm lý đều tuân theo quy luật của
thuyết đồng cấu đồng hình. Hình ảnh tâm lý vốn có cấu trúc trọn vẹn, cấu trúc
này không phải do sự vật hiện tượng gây nên mà do yếu tố tâm lý vốn có trong
não gây nên.
c4. Quy luật bừng hiểu: sự tích lũy lượng thông tin về sự vật hiện tượng
từ thế giới khách quan đạt đến mức độ nào đó cùng với sự kích thích từ mơi
17


trường làm chúng ta “ngộ ra” hay bừng sáng vấn đề, giống như hiện tượng mà
người ta vẫn thường gọi là Orika.
d. Đánh giá học thuyết
+ Ưu điểm:
Tâm lý học Gestalt nêu bật được đặc điểm riêng biệt của quá trình tư duy
đó là tính tích cực của chủ thể nhằm giải quyết vấn đề như tính sáng tạo của tư
duy, quy luật phân tích, tổng hợp. Các quy luật mà các nhà Gestalt tìm ra hiện

nay vẫn được tiếp tục nghiên cứu và vận dụng vào thực tiễn cuộc sống.
Trong xu hướng tâm lý học hiện đại ngày nay cịn có nhiều khái niệm có
nguồn gốc từ Gestalt như hướng thông tin, điều khiển…
+ Hạn chế:
Tâm lý học Gestalt phủ nhận vai trò của hoạt động thực tiễn, của ngơn
ngữ, đánh đồng hoạt động trí tuệ giữa người và động vật. Lý giải tâm lý như là
một trường đặc biệt kiểu từ trường, điện trường, trường hấp dẫn trong vật lý
học. Chỉ tính đến sự phát triển tâm lý theo con đường tiến hóa của thế giới
động vật. Nhiều thuật ngữ và khái niệm của Gestalt còn mơ hồ vì vậy khó đưa
vào thực nghiệm như: hình thức, luật toàn cảnh (Pragnanz), trực giác, cân bằng
và mất cân bằng ý thức.
6. Abraham Maslow và Tâm lý học nhân văn

Abraham Maslow (1908 – 1970)

a. Thân thế và sự nghiệp
Maslow sinh tại Brooklyn, NewYork, con của một gia đình thường dân
người Do Thái. Lớn lên, ông vào Đại học Wisconsin, ngành tâm lý học và đậu
18


cử nhân năm 1930, đến năm 1934 ông đậu tiến sĩ. Sau khi tốt nghiệp, ông trở
về New York tiếp tục làm việc và nghiên cứu tại Đại học Columbia. Maslow đã
từng làm việc, tiếp xúc với các nhà tâm lý học nổi tiếng như E. L. Thorndike,
E.Fromm, A. Adler, M. Wertheimer... và đề tài mà ông chuyên chú nhất là về
lý thuyết nhân tính.
b. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là con người trọn vẹn với các giá trị và nhu cầu
bậc cao. Tâm lý học nhân văn phát triển những học thuyết về nhân cách, nghiên
cứu về tâm lý học trị liệu lấy cá nhân làm trung tâm.

c. Phương pháp nghiên cứu
Điều trị lấy cá nhân làm trung tâm.
d. Nội dung học thuyết
Phê phán tâm lý học hành vi: nghiên cứu tâm lý con người mà bỏ qua
các tâm lý ý thức, kinh nghiệm, xem con người như là một cỗ máy.
Phê phán phân tâm học: nghiên cứu tâm lý mà chỉ tập trung vào những
rối loạn cảm xúc.
Điểm chính của tâm lý học nhân văn là tập trung vào tính đặc thù của
con người. Theo Maslow, các nhu cầu con người được sắp xếp theo thứ bậc.
Các nhu cầu càng thấp trong thứ bậc, chúng càng giống với nhu cầu của lồi
vật và ngược lại. Ơng đưa ra thang thứ bậc nhu cầu của con người gồm: nhu
cầu sinh lý, nhu cầu an toàn, nhu cầu u thương, nhu cầu tơn kính và nhu cầu
tự mình thực hiện.
Tâm lý học nhân văn có những quan điểm lạc quan về con người, nhấn
mạnh tính tích cực, độc đáo của con người. Họ cho rằng con người có khả năng
tự điều khiển số phận của mình.
d. Đánh giá học thuyết
+ Ưu điểm:

19


Đóng góp chính của dịng tâm lý học này là việc nó mở rộng lĩnh vực
của tâm lý học, thổi một sức sống mới vào tâm lý học. Nó nghiên cứu tồn thể
con người.
+ Hạn chế:
Mơ tả về con người giống như mô tả của văn học, thi ca hay tơn giáo.
Tâm lý học nhân văn phê bình các dịng tâm lý học khác nhưng thực ra các
dòng tâm lý học khác đều có những cống hiến quan trọng cho sự cải thiện số
phận con người là mục tiêu chính mà tâm lý học nhân văn theo đuổi.

7. L. S. Vygotsky và Tâm lý học hoạt động

Được khởi xướng bởi các nhà tâm lý học Nga mà đại diện tiêu biểu là
L. S. Vygotsky (1896 – 1934), Leonchiev, Rubinstein.

L. S. Vygotsky

a. Thân thế và sự nghiệp
L. S. Vygotsky sinh ngày 5/11/1896 tại thị trấn csa, nước Cộng hịa
Bạch Nga (Belarutsia). Bố là nhân viên ngân hàng, mẹ là người có học thức,
khi nhỏ ông học ở nhà với gia sư theo phương pháp đối thoại của Socrate - hỏi
đáp qua lại, chất vấn việc định nghĩa, khái niệm để hiểu sâu hơn. Năm 1913 sau
khi tốt nghiệp phổ thông ông thi đỗ vào trường Đại học tổng hợp Moscow. Sau
đó (năm 1917) ông trở về Gomel dạy văn học và tâm lý học ở một trường trung
cấp sư phạm.
Mặc dầu không được đào tạo chuyên sâu về Tâm lý học nhưng ông là
người rất quan tâm nghiên cứu về những vấn đề Tâm lý học từ khi còn là sinh
viên: vấn đề tư duy và ngôn ngữ; vấn đề giáo dục trẻ khuyết tật; yếu tố trung
20



×