Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền của đảng bộ huyện vĩnh thạnh, tỉnh bình định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 96 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Công tác tuyên truyền (CTTT) là một trong ba bộ phận cấu thành
công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối, các quan điểm, tư
tưởng của Đảng đến quần chúng để tạo nên sự thống nhất ý chí và hành động
trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội, cổ vũ, động viên quần chúng thực
hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng của Đảng, “phấn đấu để đến giữa thế kỷ
XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”
[10; tr.112]. Vai trò của CTTT là làm cho lý luận thâm nhập sâu vào quần
chúng, tạo nên sự thống nhất giữa tư tưởng và hành động, thơng qua đó biến
lý luận thành thực tiễn. Chính vì vậy, từ góc độ của khoa học chính trị, nhất là
chính trị học, CTTT là hình thức hoạt động quan trọng và cần thiết của một
Đảng chính trị nhằm thực hiện nhiệm vụ giành, giữ và thực thi quyền lực
chính trị.
1.2. Trong bối cảnh hiện nay, tình hình thế giới và khu vực châu Á Thái Bình Dương với nhiều thay đổi nhanh chóng, diễn biến phức tạp, khó
lường. Cuộc Cách mạng cơng nghiệp 4.0 cùng q trình tồn cầu hóa và hội
nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Các nước lớn điều chỉnh chiến lược,
vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau, tác động
mạnh đến chiến lược và chính sách đối ngoại, nhất là với các nước đang phát
triển. Những biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường
quyền áp đặt, chủ nghĩa thực dụng ngày càng nổi lên rõ nét. Sự chống phá chủ
nghĩa xã hội của các thế lực quốc tế, các yếu tố an ninh phi truyền thống diễn
biến phức tạp. Những “điểm nóng” xung đột khu vực và trên thế giới đều tăng
nhiệt, một số tranh chấp lãnh thổ tái bùng phát thành xung đột cục bộ. Thế
giới hậu Covid-19 sẽ cịn nhiều phức tạp, khó lường. Bối cảnh đó, CTTT là
hoạt động càng trở nên quan trọng và cấp bách để giữ vững lập trường tư


2


tưởng cộng sản, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trước những nguy cơ,
thách thức mới.
1.3. Bên cạnh đó, với tình hình dịch bệnh Covid-19 đang diễn biến
phức tạp trên toàn thế giới, ảnh hưởng đến mọi mặt kinh tế, văn hóa, xã hội ở
Việt Nam khiến người dân nhiều nơi gặp nhiều khó khăn. Những vấn đề văn
hóa, xã hội nổi cộm, các thế lực thù địch lợi dụng chiêu bài dân chủ, nhân
quyền, tôn giáo để xuyên tạc, kích động gây chia rẽ khối đại đồn kết tồn
dân tộc, thực hiện âm mưu diễn biến hịa bình, thúc đẩy “tự diễn biến” “tự
chuyển hóa” trong nội bộ nhằm xóa bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản và
chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng. Một bộ phận cán bộ,
đảng viên suy thối tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống đang làm giảm lòng
tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Trước yêu cầu đó, việc
nâng cao chất lượng CTTT là vô cùng cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế
sâu rộng.
1.4. Vĩnh Thạnh một huyện miền núi nằm dọc theo lưu vực sông Kôn
với nhiều tiềm năng về tự nhiên và phát triển kinh tế - xã hội của phía Tây
tỉnh Bình Định. Trong thời gian qua, cùng với việc chỉ đạo thực hiện nhiệm
vụ chiến lược phát triển địa phương, Đảng bộ huyện Vĩnh Thạnh đã triển khai
và thực hiện tốt cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng, tuyên truyền các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho cán bộ, đảng viên và nhân dân,
đặc biệt là các xã có đơng đồng bào dân tộc sinh sống. Từ đó đã có những
chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động, góp phần định hướng
thơng tin trong toàn Đảng bộ huyện. Tuy vậy, CTTT Đảng bộ huyện cũng bộc
lộ nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Vì thế, việc
nghiên cứu, đề xuất các giải pháp khả thi nhằm phát huy những thành quả,
khắc phục những hạn chế của CTTT và nâng cao hơn nữa hiệu quả CTTT của
Đảng bộ huyện Vĩnh Thạnh là vấn đề cấp thiết hiện nay.



3
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Nâng cao chất
lượng công tác tuyên truyền của Đảng bộ huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình
Định” để viết luận văn thạc sĩ ngành Chính trị học.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua, CTTT của Đảng nói chung và CTTT của Đảng
bộ tỉnh, huyện nói riêng đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu từ
nhiều khía cạnh khác nhau. Trên cơ sở đó, chúng tơi tiếp cận theo hướng
nghiên cứu sau:
Một là, nhóm các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng
Nghị quyết số 16-NQ/TW ngày 01/8/2007 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa X) về cơng tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới;
Chỉ thị số 17-CT/TW ngày 15/10/2007 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về
tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền
miệng trong tình hình mới; Nghị quyết Trung ương 5 khóa X về cơng tác tư
tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới; Nghị quyết Trung ương V (khóa
X) về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới;
Nghị quyết 35-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XII về Tăng cường bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
trong tình hình mới; Kết luận 53-KL/TW ngày 02/6/2019 của Ban Bí thư về
việc chỉ đạo đấu tranh ngăn chặn, xử lý, gỡ bỏ, biệt phái tin giả, thông tin sai
sự thật, xấu, độc trên Internet, mạng xã hội.
Hai là, các cơng trình của Ban Tun giáo Trung ương và địa phương,
các nhà khoa học về CTTT
- Ban Tuyên giáo Trung ương (2019), Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ
tuyên truyền miệng, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
- Ban Tuyên giáo Trung ương (2020), Sổ tay CTTT biển, đảo Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.



4
- Hội đồng chỉ đạo xuất bản sách xã, phường, thị trấn (2020), Một số
vấn đề bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm
sai trái, thù địch, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
- Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy An Giang (2021), Sổ tay tuyên tuyền bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng.
- Lê Nhị Hịa (2018), Cơng tác thơng tin, tun truyền về chủ quyền
Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Nxb Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội.
- Quý Lâm, Kim Phượng (2015), Sổ tay công tác tuyên truyền pháp
luật về biển đảo, Nxb Dân trí, Hà Nội.
Ba là, các luận án, luận văn, đề tài và những bài viết trên các website
uy tín
- Phan Phong Vũ (2012), Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền
miệng ở đảng bộ thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay,
Luận văn thạc sĩ Khoa học giáo dục, Đại học Vinh.
- Hồng Văn Phong (2016), Báo chí công an nhân dân với công tác
tuyên truyền bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc giai đoạn hiện nay, Luận
văn thạc sĩ Báo chí, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
- Nguyễn Văn Bắc (2019), Chất lượng công tác tuyên truyền của Đảng
bộ huyện Thường tín hiện nay, Luận văn thạc sĩ Chính trị học, Trường Đại
học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
- Lương Khắc Hiếu (2006), Tư tưởng, phong cách Hồ Chí Minh và một
vài suy nghĩ về cơng tác tuyên truyền hiện nay, Đề tài Khoa học công nghệ
cấp Bộ.
- Hà Kế San (2010), Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên
truyền miệng trong giai đoạn hiện nay, tham luận tại Hội thảo khoa học “80
năm công tác tuyên giáo của Đảng - Kinh nghiệm và đổi mới” do Ban Tuyên
giáo Trung ương tổ chức.



5
- Ban Tuyên giáo Trung ương (2020), Đổi mới, nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác tuyên truyền miệng, tại ngày truy cập 10/4/2021.
- Gia Huy (2020), Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền
miệng, tại ngày truy cập
25/4/2021.
Như vậy, điểm lại một số cơng trình nghiên cứu về CTTT, chúng tôi
nhận thấy, hầu hết đều trình bày một hay một vài lĩnh vực của cơng tác này
như: tuyên truyền miệng, tuyên truyền định hướng các vấn đề liên quan tới
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng... chưa có cơng trình nào nghiên cứu một
cách hệ thống và toàn diện CTTT của Đảng bộ huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình
Định. Vì thế, những nguồn tài liệu q trên có ý nghĩa gợi mở để chúng tơi
hình thành ý tưởng, có giá trị tham khảo quan trọng, cung cấp luận cứ, luận
chứng trong việc triển khai và thực hiện luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu CTTT của Đảng bộ huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định
nhằm đánh giá thực trạng của công tác này trong giai đoạn hiện nay; đồng
thời đề xuất những giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng CTTT trong thời
gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận của việc nâng cao chất lượng CTTT nói chung
và CTTT của Đảng bộ huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định.
- Đánh giá thực trạng CTTT của Đảng bộ huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình
Định trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2020, qua đó chỉ ra những thành
cơng, hạn chế và một số vấn đề đang đặt ra hiện nay.



6
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng CTTT
của Đảng bộ huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Chất lượng, hiệu quả của CTTT tại Đảng bộ huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh
Bình Định trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở xác định đối tượng nghiên cứu, phạm vi của luận văn được
giới hạn như sau:
- Về thời gian, luận văn nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm 2015
đến năm 2020.
- Về không gian, luận văn nghiên cứu trên không gian huyện Vĩnh
Thạnh, tỉnh Bình Định.
- Về nội dung, luận văn nghiên cứu CTTT về thế giới quan Chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm, chủ trương của
Đảng; chống các luận điệu xuyên tạc, phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng
của Đảng bộ huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định từ năm 2015 đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận, thực tiễn
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về CTTT.
- Luận văn kế thừa có chọn lọc các cơng trình khoa học, các luận văn
của một số tác giả đã nghiên cứu về CTTT nhất là về CTTT của Đảng bộ
huyện; sử dụng các Nghị quyết, văn bản chỉ đạo, các báo cáo sơ kết, tổng kết,
đánh giá thực tiễn về CTTT của Đảng bộ huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định
những năm 2015 - 2020.


7

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời có sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu của Chính trị học, phương pháp kết hợp lịch sử và lôgic, thống kê,
tổng hợp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Đề tài góp phần làm sáng rõ cơ sở lý luận của việc nâng cao chất
lượng CTTT của Đảng bộ huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định trong giai đoạn
hiện nay, đồng thời góp phần đánh giá thực trạng CTTT tại Đảng bộ huyện
trong thời gian tới. Từ đó nêu lên một số giải pháp nâng cao chất lượng hiệu
quả CTTT của Đảng bộ huyện.
- Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu giảng dạy
tại Trung tâm chính trị huyện, tài liệu tham khảo cho những cơng trình nghiên
cứu liên quan đến huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1. Lý luận chung về công tác tuyên truyền của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Chương 2. Thực trạng công tác tuyên truyền của Đảng bộ huyện Vĩnh
Thạnh, tỉnh Bình Định.
Chương 3. Định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng công tác
tuyên truyền của Đảng bộ huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định.


8

Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

1.1. Khái niệm và đặc điểm của công tác tuyên truyền
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Tuyên truyền
Tuyên truyền là một hoạt động quan trọng của công tác tư tưởng. Trong
tiếng Latinh, từ “tuyên truyền” (prapaganda) nghĩa là truyền bá, truyền đạt
một quan điểm nào đó.
Theo từ điển Bách khoa tồn thư Liên Xơ, thuật ngữ tun truyền có
hai nghĩa rộng và hẹp. Theo nghĩa rộng, tuyên truyền là sự truyền bá những
quan điểm, tư tưởng về chính trị, triết học, khoa học nghệ thuật… nhằm phổ
biến quan điểm, tư tưởng ấy thành ý thức xã hội, thành hành động cụ thể của
quần chúng. Theo nghĩa hẹp, tuyên truyền là tuyên truyền tư tưởng, tuyên
truyền chính trị mà mục đích của nó là hình thành trong đối tượng tuyên
truyền một thế giới quan, một kiểu xã hội nhất định và cổ vũ tính tích cực xã
hội của con người.
Từ điển tiếng Việt giải thích: “Tuyên truyền là giải thích rộng rãi để
thuyết phục, vận động mọi người làm theo” [26; tr.1735].
Trong từ điển chính trị lại cho rằng: “Tuyên truyền là giải thích, phổ
biến một tư tưởng, một học thuyết, một lý luận chính trị nào đó” [24; tr.793]
để thuyết phục, vận động mọi người làm theo.
Từ những cách luận giải như trên, tựu trung lại, chúng tôi hiểu nội hàm
của khái niệm “Tuyên truyền” như sau: Tuyên truyền là hoạt động nhằm để
truyền bá, phổ biến hay giải thích của một chủ thể về một vấn đề nào đó (tư
tưởng, học thuyết) với đối tượng được tuyên truyền nhằm đạt tới mục đích


9
làm thay đổi nhận thức, hình thành một kiểu ý thức xã hội, xây dựng thế giới
quan nhất định ở đối tượng tuyên truyền cho phù hợp với lợi ích của chủ thể.
Quan trọng hơn, tuyên truyền phải đạt tới hiệu quả kích thích, thúc đẩy đối
tượng hành động theo quan điểm, đường lối, mục đích đặt ra.

1.1.1.2. Cơng tác tuyên truyền
Công tác tư tưởng là một hoạt động quan trọng của một chính đảng;
được cấu trúc bởi cơng tác lý luận, CTTT và cơng tác cổ động. Ba hình thức,
phương pháp này ln có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ với nhau, bổ
sung, hỗ trợ cho nhau. Trong đó, CTTT với tư cách là một hành động góp
phần thực hiện nhiệm vụ giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị. Đây là
hoạt động đặc thù bởi nó tác động vào đối tượng vốn rất phức tạp là nhận
thức, tư tưởng của con người.
Như trên đã giải thích, mục đích của CTTT là nâng cao trình độ giác
ngộ chính trị, tính tích cực tự giác sáng tạo của quần chúng trong việc thực
hiện các mục tiêu chính trị. Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp thực hiện
CTTT nhằm truyền bá hệ tư tưởng, đường lối chính trị của giai cấp mình. Ở
Việt Nam, CTTT để thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa
xã hội (CNXH) và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng; góp phần tích
cực trong việc đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí trong xã hội;
đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, cổ vũ những tập thể, cá nhân điển
hình tiên tiến trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nó phải trở thành cầu nối
chuyển tải những thông tin của Đảng, Nhà nước tới cán bộ, đảng viên và quần
chúng nhân dân, động viên các tầng lớp nhân dân hăng hái tham gia lao động
sản xuất, phục vụ đắc lực sự nghiệp cách mạng của Đảng, nhiệm vụ chính trị
của từng địa phương, đơn vị. Vấn đề quan trọng là CTTT phải đúng từng đối
tượng, lựa chọn đúng nội dung, hình thức phong phú, hấp dẫn thiết thực với
nhân dân, cộng đồng, xã hội.


10
Vì thế, có thể hiểu: CTTT là hoạt động truyền bá hệ tư tưởng và
đường lối chiến lược, sách lược trong quần chúng, xây dựng cho quần chúng
thế giới quan phù hợp với lợi ích chủ thể hệ tư tưởng; hình thành và củng cố

niềm tin, tập hợp và cổ vũ quần chúng hành động theo thế giới quan và niềm
tin đó [14; tr.50].
1.1.1.3. Cơng tác tun truyền của Đảng
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, CTTT của Đảng của giai cấp cơng nhân
(Đảng Cộng sản) là một hình thái, một bộ phận cấu thành của công tác tư
tưởng nhằm truyền bá hệ tư tưởng và đường lối chiến lược, sách lược cho
quần chúng, xây dựng cho quần chúng thế giới quan phù hợp với lợi ích của
chủ thể, hình thành và củng cố niềm tin, tập hợp và cổ vũ quần chúng hành
động theo thế giới quan và niềm tin đó. Trong tác phẩm Góp phần phê phán
triết học pháp quyền của Hêgen, C. Mác cho rằng: “Vũ khí của sự phê phán
cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất
chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành
lực lượng vật chất một khi nó thâm nhập vào quần chúng” [18; tr.580]. Như
thế, vai trò của CTTT là làm cho “lý luận thâm nhập vào quần chúng” để qua đó
trở thành lực lượng vật chất” vô cùng to lớn.
Theo V.I.Lênin, nhiệm vụ của CTTT là 1) Tuyên truyền học thuyết xã
hội chủ nghĩa khoa học, làm cho giai cấp vô sản hiểu được chủ nghĩa xã hội
khoa học (chủ nghĩa Mác), quan niệm đúng đắn về chế độ xã hội, chế độ
chính trị và kinh tế, các giai cấp và mối quan hệ giữa các giai cấp để nhận
thức đúng đắn nhiệm vụ lịch sử của mình. 2) Tuyên truyền những tư tưởng
dân chủ trong quần chúng cơng nhân, thơng qua đó “làm cho người ta thấy rõ
được tất cả mọi biểu hiện hoạt động của chế độ chuyên chế, nội dung giai cấp
của chế độ đó, sự cần thiết phải lật đổ nó, làm cho người ta thấy rõ được rằng
khơng thể nào đấu tranh thắng lợi cho sự nghiệp công nhân, nếu chưa giành
được quyền tự do chính trị, chưa giành được việc dân chủ hóa chế độ chính trị


11
và xã hội” [17; tr.559-560]. 3) Giải thích, truyền bá cương lĩnh, đường lối,
sách lược của Đảng, làm cho giai cấp và nhân dân lao động nhận thức được

tính đúng đắn của mỗi văn kiện và tự giác làm theo. 4) Tuyên truyền, giải
thích những biến động trong xã hội, những quan điểm lệch lạc, thù địch để
không chỉ chủ động chuẩn bị tinh thần mà còn nâng cao tinh thần cảnh giác
cho giai cấp vô sản và nhân dân lao động [33].
Với bút danh A.G, trong tác phẩm “Người tuyên truyền và cách tuyên
truyền” đăng trên báo Sự thật, số 79 từ ngày 26/6 đến ngày 09/7/1947, Chủ
tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Tuyên truyền là đem một việc gì đó nói cho dân
hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu khơng đạt mục đích đó, là tun truyền
thất bại” [19; tr.191]. Muốn vậy, phải nắm vững đối tượng được tuyên truyền.
Nếu người tuyên truyền không điều tra, không phân tích, khơng nghiên cứu,
khơng hiểu biết quần chúng, chỉ gặp sao nói vậy, bạ gì viết nấy, nhất định thất
bại. Người cũng lưu ý rằng, dân chúng không nhất luận như nhau. Đối với
mỗi tầng lớp đối tượng, Người u cầu phải có phương thức tun truyền
thích hợp và phải chú trọng ưu tiên cho lớp đối tượng có trình độ nhận thức,
văn hóa thấp. Bởi vì đối tượng này hiểu được thì các đối tượng khác cũng
nắm bắt dễ dàng.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người làm cơng tác tuyên truyền phải có
cách tuyên truyền phù hợp với đối tượng, hồn cảnh. Cách nói, cách viết phải
ngắn gọn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra phương pháp tuyên truyền sao cho
đạt hiệu quả “Người tuyên truyền bao giờ cũng phải tự hỏi: Viết cho ai xem?
Nói cho ai nghe? Nếu khơng vậy, thì cũng như cố ý không muốn cho người ta
nghe, không muốn cho người ta xem” [20; tr.300]. Người cho rằng, tuyên
truyền cho đồng bào miền núi khác, đồng bào miền xi khác, thậm chí có
khi cùng là tỉnh miền núi nhưng “một tỉnh có đồng bào Thái, đồng bào Mèo,
thì tuyên truyền huấn luyện đối với đồng bào Thái khác, đồng bào Mèo khác,
phải có sự thay đổi cho thích hợp” [19; tr.128]. Riêng với đồng bào miền núi,


12
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh yếu tố ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, dễ nhớ,

dễ làm theo, một là gì, hai là gì, rồi ba, bốn, năm là gì? làm như thế nào và
“… khơng nên nói trên trời dưới đất, nào là khách quan, chủ quan, nào là tích
cực và tiêu cực, khơng đâu vào đâu cả” [19; tr.129].
Cán bộ tuyên truyền đi làm việc chỗ nào cần học tiếng ở đấy, để nói
chuyện cho đồng bào hiểu, để hịa mình với đời sống đồng bào. Có gần gũi
như thế mới được đồng bào tin cậy, mến phục, mới gây được mối thiện cảm
bền lâu: “…Ví dụ các chú đi tuyên truyền ở nơi đồng bào Mèo, mà phải có
một người phiên dịch thì khơng ăn thua. Bởi vì người phiên dịch ấy chưa chắc
đã phiên dịch hết ý của chú, có khi phiên dịch lại sai đi nữa là khác. Cứ làm
như thế cũng không gây được tình cảm thân thiết giữa cán bộ với quần
chúng” [19; tr.137]. Cán bộ tuyên truyền còn phải gương mẫu, miệng nói tay
làm để làm gương cho nhân dân vì nói hay mà khơng làm thì vơ ích. Chủ tịch
Hồ Chí Minh căn dặn: “Cơng tác tun truyền phải làm sao dễ hiểu, nói sao
để người ta hiểu được, hiểu để làm. Vì thế, tuyên truyền phải cụ thể, thiết
thực. Tuyên truyền cái gì? Tuyên truyền cho ai? Tuyên truyền để làm gì?
Tuyên truyền cách thế nào?” [19; tr.128] để quần chúng hiểu đúng đường lối
chính sách của Đảng, của Chính phủ, từ đó tự giác tham gia cơng việc cách
mạng. Để làm tốt nhiệm vụ tuyên truyền giải thích đường lối, chính sách của
Đảng và Chính phủ cho quần chúng hiểu thì tun truyền phải có tính chất
quần chúng, khơng nên lúc nào cũng trích Các Mác, Lênin, làm cho đồng bào
khó hiểu. Nói thế nào cho đồng bào hiểu được, đồng bào làm được… Nói
thiết thực, nói đúng lúc, đúng chỗ. Nếu nói hay mà khơng hiểu thì cũng khơng
bằng nói dễ hiểu, thiết thực.
Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng, CTTT của Đảng là một trong ba bộ
phận cấu thành công tác tư tưởng của Đảng nhằm truyền bá chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối, các quan điểm, tư tưởng
của Đảng đến với quần chúng nhằm tạo nên sự thống nhất ý chí và hành động


13
trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội, cổ vũ, động viên quần chúng thực

hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng của Đảng. CTTT của Đảng có vai vai trị
quan trọng là truyền bá, phổ biến hệ tư tưởng cách mạng trong xã hội, trước
hết là trong các lực lượng xã hội tiên tiến; khơi dậy tính sáng tạo cách mạng
của quần chúng; cổ vũ, động viên quần chúng tham gia sự nghiệp cách mạng,
góp phần tổ chức các phong trào cách mạng; chuẩn bị tiền đề tư tưởng, lý
luận và con người cho các cuộc cách mạng. Vì vậy, CTTT trở thành một công
tác cách mạng và là công tác cách mạng đầu tiên của bất kỳ giai cấp và tổ
chức cách mạng nào.
Từ những sự phân tích trên, có thể khái quát: CTTT của Đảng Cộng sản
Việt Nam là hoạt động nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước và những tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại…, làm cho chúng
trở thành nhân tố chi phối, thống trị trong đời sống tinh thần xã hội; động
viên, cổ vũ tính tích cực, tự giác, sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa [12; tr.31-32].
1.1.2. Đặc điểm của công tác tuyên truyền
Qua các tổng hợp nghiên cứu, cũng như trải nghiệm từ thực tiễn hoạt
động công tác, chúng tôi nhận thấy, CTTT có một số đặc điểm như sau:
Thứ nhất, CTTT tác động trực diện tới quần chúng nhân dân (chủ thể
của CTTT), phản ánh thể hiện các hành động cách mạng của quần chúng nhân
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, nói một cách cụ thể hơn, CTTT là một trong
những phương tiện hữu hiệu nhất để chuyển tải chủ trương đường lối của
Đảng, chính sách của Nhà nước đến nhân dân, cổ súy động viên toàn xã hội
thực hiện. Chính vì lẽ đó “Việc sử dụng những thông tin nhằm phản ánh các
hoạt động của xã hội, của nhân dân đang thực hiện các nhiệm vụ cách mạng
do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; sử dụng những thông tin nhằm định
hướng nhận thức, tư tưởng của quần chúng theo sự chỉ đạo của cấp ủy, chính


14

quyền, đồn thể chính trị… để tập hợp và tổ chức quần chúng hành động hồn
thành cơng việc, nhiệm vụ trong từng hoàn cảnh cụ thể, ở từng thời điểm nhất
định” [6; tr.15]. CTTT có hiệu ứng tốt nhất khơng thể là tuyên truyền chung
chung mà nội dung tuyên truyền phải gắn với địa điểm, không gian, thời gian
cụ thể; gắn với nội dung tuyên truyền thật thiết thực với những vấn đề, sự
kiện nổi bật đang được nhân dân ở cơ sở đang quan tâm. CTTT phải chỉ ra
được những công việc thiết thực, cụ thể để động viên cổ vũ mọi người làm
theo. Do vậy, yêu cầu biện pháp cơ bản trong CTTT là nêu điển hình, nêu lên
những hình mẫu, khn mẫu rõ ràng, có lý lẽ thiết thực… để thuyết phục mọi
người được thể hiện thông qua các hình thức tuyên truyền rất sinh động, hấp
dẫn, gần gũi với đời sống nhân dân.
Thứ hai, CTTT có tính khoa học, đầy đủ, minh bạch và kịp thời cung
cấp thơng tin mang tính chính thống của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho
cán bộ, đảng viên và nhân dân. Vì thế, việc cung cấp thơng tin phải kịp thời,
đúng đối tượng và đúng thời điểm. Các tổ chức cơ sở đảng cần có sự nhận
diện thơng tin thật sáng suốt. Thơng tin có giá trị nhất định khi nó có thể thay
đổi niềm tin và hành động nhưng nó cũng có thể phản tác dụng khi xuất hiện
khơng đúng thời điểm, không phù hợp với đối tượng. Cùng với việc mở rộng
nội dung và minh bạch thông tin cần phải thực hiện bảo vệ bí mật Nhà nước
nhưng phải tránh tình trạng lợi dụng quy định để “mật hóa” văn bản, bưng bít
thơng tin gây phiền hà cho nhân dân. Công tác tuyên truyền trong giai đoạn
nào của cách mạng cũng phải “đi trước một bước”, chủ động nắm sát diễn
biến tư tưởng, tâm trạng trong Đảng và trong nhân dân, định hướng tư tưởng
đúng đắn và kịp thời trước những tác động đan xen của những yếu tố tích cực,
tiêu cực trên thế giới và trong nước. Phải dự báo trước các vấn đề tư tưởng đã,
đang và sẽ nảy sinh để có phương án giải quyết kịp thời, hiệu quả.
Thứ ba, CTTT có tính tổng hợp, đa dạng. Khi chưa giành được chính
quyền, CTTT của Đảng tập trung vào việc giành chính quyền, do đó CTTT



15
của các Đảng cịn giới hạn về mục đích, nội dung, hình thức, đối tượng và
phạm vi tuyên truyền. Khi trở thành Đảng cầm quyền (nhất là một Đảng duy
nhất cầm quyền), CTTT của Đảng được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội, trong đó trọng tâm là lĩnh vực kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo
dục, quốc phịng - an ninh, đối ngoại... nhằm theo sát diễn biến, góp phần kịp
thời xử lý, giải quyết các tình huống, đã trở thành một thành tố tích cực tác
động trực tiếp đến sự phát triển của các lĩnh vực đó. CTTT tích cực thúc đẩy
cải cách hành chính, phịng, chống tham nhũng, lãng phí, đồng thời góp phần
giải quyết kịp thời, hiệu quả những bức xúc trong nhân dân và thực hiện dân
chủ, công khai hóa trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thứ tư, kết quả sản phẩm của CTTT không phải là sự hiện hữu của yếu
tố vật chất đơn thuần mà chính là thể hiện sự chuyển biến nhận thức và hành
động của các tầng lớp nhân dân để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành của Nhà nước.
Thứ năm, CTTT chịu ảnh hưởng của bối cảnh kinh tế, văn hóa, xã hội
và những đặc điểm văn hóa, con người của địa phương thuộc địa bàn hoạt
động. Những lợi thế và khó khăn, đặc điểm văn hóa và trình độ dân trí có tác
động trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả của CTTT.
1.2. Nội dung của công tác tuyên truyền
Nội dung của CTTT của Đảng là: Thứ nhất, truyền bá hệ tư tưởng của
giai cấp công nhân, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, biến hệ tư
tưởng ấy thành hệ tư tưởng thống trị đời sống xã hội. Thứ hai, tuyên truyền,
phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà
nước về xây dựng và bảo vệ tổ quốc, phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thứ ba, tuyên truyền đấu tranh chống các luận
điệu sai trái của các thế lực thù địch.
Về nội dung tuyên truyền đòi hỏi báo cáo viên cần phải chú ý chuẩn bị
bài nói cho phù hợp với từng đối tượng người nghe cụ thể, kể cả những đối



16
tượng có sự giao thoa giữa các vùng, miền, khu vực khác nhau, trình độ nhận
thức, trình độ chun mơn khác nhau. Đồng thời, qua đây cho thấy tầm quan
trọng của việc phân chia đối tượng ngay từ đầu sẽ tạo rất nhiều thuận lợi cho
việc chuẩn bị nội dung bài nói. Một thực trạng khá phổ biến hiện nay là khả
năng nắm bắt, xử lý thông tin, liên hệ thực tiễn, tính nhạy cảm linh hoạt và
năng động trong việc huy động và sử dụng thông tin tri thức các khoa học
khác nhau phục vụ CTTT của đội ngũ báo cáo viên chưa tốt. Nói cách khác,
khả năng xử lý thơng tin của báo cáo viên cịn thấp. Thực tế cho thấy, khơng
ít báo cáo viên vẫn dừng lại ở dạng phổ biến thơng tin chính trị, xã hội đơn
thuần mà chưa đi sâu vào phân tích và làm rõ thông tin đang truyền đạt.
Ngược lại, một bộ phận báo cáo viên hiện nay có khả năng trong việc tiếp
nhận thông tin đa chiều. Song khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa, liên kết
thơng tin, chắc lọc thơng tin cịn hạn chế. Do đó, khi tun truyền báo cáo
viên dẫn chứng nhiều thông tin chưa phân biệt được cái mới với chỉ thị, nghị
quyết, cái mới với cái hợp nội dung trình bày. Nên kết quả là bài tun truyền
khơng khắc phục được tính lạc hậu mà cịn tạo ra sự rối loạn giữa các thông
tin, phức tạp, khó hiểu gây tâm lý ức chế trong nhận thức người nghe.
1.3. Vai trị và ngun tắc của cơng tác tun truyền
1.3.1. Vai trị của cơng tác tun truyền
Thứ nhất, CTTT góp phần làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh trở thành nhân tố chủ đạo, chi phối đời sống chính trị và tinh thần
xã hội
Thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ, của công cuộc đổi mới đất nước là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin
được vận dụng đầy sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam. Công tác tuyên truyền đã
góp phần đưa nền tảng tư tưởng đó thấm sâu vào nhận thức của cán bộ, đảng
viên và nhân dân, tạo niềm tin tất thắng và quyết tâm đi theo ngọn cờ lãnh đạo
của Đảng. Trong suốt chiều dài lịch sử hơn 90 năm kể từ khi Đảng Cộng sản



17
Việt Nam ra đời, CTTT đã tham gia mạnh mẽ vai trò bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng, nhất là khi tình hình trong nước, thế giới xảy ra nhiều biến
động, phức tạp, ảnh hưởng đến tư tưởng cán bộ, đảng viên, nhân dân. Cơng
tác tun truyền đã góp phần bác bỏ khuynh hướng phủ định thành tựu đạt
được, khẳng định tiếp tục đi lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam,
củng cố niềm tin cho cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự nghiệp cách mạng
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Thứ hai, CTTT góp phần làm cho quan điểm, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước thấu suốt trong cán bộ, đảng viên, nhân
dân, làm dấy lên phong trào cách mạng mạnh mẽ thực hiện thắng lợi đường
lối, chủ trương, quyết sách đó
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm
lược, CTTT đã phát huy cao độ tinh thần yêu nước của toàn dân tộc, nhất
là làm cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhất trí sâu sắc với đường lối
cách mạng của Đảng và quyết tâm chiến lược của Trung ương, cổ vũ phong
trào đấu tranh cách mạng của quần chúng, làm nên những chiến công vang
dội, lừng lẫy của dân tộc. Các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quyết
sách quan trọng trên chặng đường xây dựng CNXH ở miền Bắc giai đoạn này
nhận được sự thống nhất cao trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân, xuất
phát từ việc cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân được tuyên truyền, được
phổ biến, đã nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng. Nhiều phong trào thi
đua yêu nước cổ vũ hành động cách mạng được phát động, tạo khí thế mới
trong lao động sản xuất. Thành quả xây dựng CNXH được tuyên truyền đã
khơi dậy mạnh mẽ hơn năng lực sáng tạo và ý chí Việt Nam vượt qua khó
khăn trong những năm tháng chiến tranh vô cùng ác liệt. Phong trào cách
mạng miền Nam lên cao, nhất là khi Nghị quyết 15 ra đời, được tuyên truyền,
quán triệt kịp thời, đã tạo nên sự thống nhất và sức chuyển mạnh mẽ, mở đầu



18
cho những thắng lợi quan trọng sau này trên trận tuyến chống kẻ thù xâm lược
ở miền Nam.
Sau khi đất nước đã thống nhất, trong hoàn cảnh đất nước vừa trải qua
30 năm chiến tranh với những hậu quả hết sức nặng nề, công tác tuyên truyền
tập trung động viên các tầng lớp nhân dân quyết tâm vượt qua thử thách,
nhanh chóng khắc phục hậu quả chiến tranh, đánh thắng hai cuộc chiến tranh
ở hai đầu biên giới, từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho sự
nghiệp xây dựng CNXH. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng
12/1986), Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới toàn diện đất
nước. Đại hội VII (1991) khẳng định tiếp tục con đường đổi mới, kiên định lý
tưởng, mục tiêu XHCN. Các quan điểm, đường lối lãnh đạo của Đảng về sự
nghiệp đổi mới liên tục được hoàn thiện ở các Đại hội VII, VIII, IX, X, XI,
XII và Đại hội XIII. CTTT đã làm cho cán bộ, đảng viên nhận thức rõ hơn,
đầy đủ hơn những luận điểm quan trọng, những nguyên tắc cơ bản của cách
mạng Việt Nam trong đổi mới, xây dựng niềm tin khoa học vào thắng lợi của
công cuộc đổi mới, vào sự nghiệp xây dựng CNXH của Việt Nam.
Thứ ba, CTTT tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân
dân ngay trong quá trình hoạch định, đường lối chính trị của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước
Quá trình xây dựng các văn kiện (cương lĩnh, nghị quyết, chỉ thị, kết
luận, chương trình, kế hoạch… ) của Đảng thời gian qua là quá trình tổng kết
thực tiễn, nghiên cứu, bổ sung lý luận; cũng là quá trình cán bộ, đảng viên và
các tầng lớp nhân dân được tham gia vào công tác hoạch định đường lối, chủ
trương lãnh đạo của Đảng. Trước các kỳ Đại hội Đảng, các dự thảo văn kiện
được công bố công khai và tuyên truyền mạnh mẽ. Thông qua phương tiện
thông tin đại chúng, các tầng lớp nhân dân được theo dõi, góp ý, phản ánh
tâm tư, nguyện vọng. Các ý kiến đó được các cơ quan chức năng nghiêm túc

nghiên cứu, chọn lọc, tiếp thu để các văn kiện thực sự mang tầm vóc trí tuệ


19
của toàn dân tộc, là cơ sở vững chắc tạo sự thống nhất giữa Đảng và nhân dân
về phương hướng, nhiệm vụ và con đường phát triển của đất nước.
Tại các kỳ họp Ban chấp hành Trung ương, ban chấp hành đảng bộ, các
ủy viên ban chấp hành bàn thảo những vấn đề quan trọng, thảo luận dự thảo
nghị quyết, chỉ thị về các lĩnh vực để đi đến thống nhất trong chỉ đạo thực
hiện. Các kỳ họp Quốc hội, Hội đồng nhân dân, các đại biểu bàn thảo quyết
định những vấn đề quan trọng của đất nước, của địa phương. Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ và lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương cũng tăng cường đối
thoại với nhân dân, với doanh nghiệp trước những chủ trương mới, mở rộng
lấy ý kiến nhân dân vào những chính sách, bộ luật quan trọng, nhạy cảm.
Ngay cả khi những biến động tình hình quốc tế có tác động mạnh đến Việt
Nam, cần thiết phải có điều chỉnh về lộ trình, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã
hội cũng như các giải pháp mới… cũng được công khai bàn thảo lấy ý kiến
đại biểu Quốc hội và cử tri cả nước, thơng qua nhiều hình thức: truyền hình
trực tiếp, giao lưu, tọa đàm, phỏng vấn, đối thoại, đăng tải nội dung trên báo
chí, trang web... để cán bộ, đảng viên, nhân dân được biết, được theo dõi tiến
trình và phản hồi ý kiến. Thời gian qua, CTTT đã tích cực phổ biến những
quy định của pháp luật về vai trò của người dân trong tham gia quản lý xã
hội… để nhân dân thấy rõ hơn trách nhiệm của mình.
Thứ tư, CTTT uốn nắn những nhận thức lệch lạc, đấu tranh với những
quan điểm sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Trong thời gian dần đây, các thế lực phản động chống đối trong và
ngồi nước khơng ngừng gia tăng hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc, thông
tin sai sự thật, suy diễn về mặt tư tưởng; bôi nhọ, xúc phạm, hạ uy tín của các
đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước; kích động biểu tình, gây rối an ninh trật
tự; sử dụng mạng xã hội để tác động tiêu cực đến tư tưởng, nhận thức của một

bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân gây tâm lý hoang mang, làm giảm sút
lòng tin đối với Đảng, chế độ và các đồng chí Lãnh đạo Đảng và Nhà nước.


20
Vì thế, CTTT đóng vai trị tăng cường đấu tranh phản bác các quan
điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng, là nội dung cơ bản, hệ trọng, có ý nghĩa sống cịn của cơng
tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cả hệ
thống chính trị, của tồn Đảng, tồn dân, tồn quân ta; nhằm tăng cường hơn
nữa sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận về chính trị và tinh thần trong
nhân dân, nâng cao ý chí đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hịa bình” của
các thế lực thù địch, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong
nội bộ.
1.3.2. Nguyên tắc của công tác tuyên truyền
1.3.2.1. Nguyên tắc tính đảng
CTTT trước tiên phải phục vụ lợi ích của giai cấp cơng nhân và nhân
dân lao động. Tính đảng, tính giai cấp địi hỏi khi trình bày, giải thích mọi
hiện tượng và sự việc xẩy ra trong thực tiễn đều phải đứng trên lập trường của
giai cấp công nhân; trên lợi ích của giai cấp và của dân tộc để xem xét, đánh
giá, phân tích.
Ln quan tâm đến việc giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, đặc
biệt là cho thế hệ trẻ; giáo dục nhận thức đúng đắn, tinh thần cách mạng, nhiệt
tình cách mạng cho quần chúng.
Mỗi cán bộ tuyên truyền phải thực sự trung thành với đường lối, chính
sách của Đảng, có ý thức tổ chức kỷ luật trong nói và viết, khơng được lồng
những quan điểm cá nhân, trái với đường lối quan điểm của Đảng khi tuyên
truyền. Kiên định đấu tranh với các luận điệu thù địch, thói hư, tật xấu, các tệ
nạn xã hội... bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ.
1.3.2.2. Nguyên tắc tính khoa học và thực tiễn

CTTT phải dựa trên những luận cứ khoa học và thực tiễn, để nhìn nhận,
phân tích sự việc, hiện tượng, từ đó thuyết phục, cảm hoá đối tượng.


21
Luôn luôn gắn với thực tiễn, trên cơ sở tổng kết thực tiễn xây dựng
phương hướng, nhiệm vụ của công tác tuyên truyền trong từng thời kỳ cách
mạng. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn để giải đáp những vấn đề của cuộc sống
đặt ra. Phương pháp, hình thức tuyên truyền phải phù hợp với tình hình và với
từng đối tượng.
1.3.2.3. Ngun tắc tính chân thật
CTTT phải trình bày một cách khách quan những kết quả thực tiễn, cả
thành tựu và thiếu sót, thắng lợi và sai lầm; phân tích, phản ánh sự vật và hiện
tượng đúng bản chất của nó. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường căn dặn người cán
bộ cách mạng là khơng được nói dối dân, phải cho dân biết sự thật. Trong lúc
tình hình gặp khó khăn, càng cần nói rõ những khó khăn đó, chỉ rõ nguyên
nhân và cách khắc phục.
Phản ánh đúng đắn tâm tư, nguyện vọng của quần chúng trong quá
trình thực hiện đường lối, chính sách, từ đó kiến nghị những biện pháp bổ
sung, sửa đổi, hồn chỉnh đường lối, chính sách.
Tính chân thật của CTTT không mâu thuẫn với việc lựa chọn, xử lý nội
dung tuyên truyền một cách phù hợp nhất với từng giai đoạn, đối tượng,
khơng nhất thiết nói hết những nội dung có thể gây hiểu nhầm, hoang mang
trong quần chúng.
1.3.2.4. Nguyên tắc tính chiến đấu
CTTT do bản chất của nó, trước hết là tun truyền chính trị. Tính
chiến đấu chính là bản chất của tuyên truyền chính trị. Trong tun truyền
phải có sự nhạy bén chính trị và bản lĩnh chính trị. Phân biệt đúng, sai, phải,
trái, xác định cái tốt cần biểu dương, cái xấu cần phải kịp thời phê phán.
CTTT có tinh thần cách mạng tiến công, chống mọi âm mưu, thủ đoạn

chống phá của các thế lực thù địch, chống mọi quan điểm, khuynh hướng sai,
trái với quan điểm, đường lối của Đảng.


22
1.3.2.5. Ngun tắc tính phổ thơng, đại chúng
Nội dung CTTT phải gắn chặt với cuộc sống thực tiễn phong phú của
quần chúng, gần gũi với cách nghĩ, cách nói và khn mẫu tư duy của quần
chúng. Để có cách truyền đạt dễ hiểu là cả quá trình rèn luyện cách nói, cách
viết. Sử dụng ngơn từ gẫn gũi nhất và dễ hiểu nhất đối với các đối tượng cần
được truyền đạt thơng tin. Tránh nói hoa mỹ, nói “hay” hoặc cách viết dùng
từ nhiều nghĩa, không rõ nghĩa... Việc này đòi hỏi cần đầu tư nhiều thời gian,
tâm huyết để thực hiện, mà cách hay nhất là “Học ở nhân dân”, học ở “đối
tượng” mình tuyên truyền. Đặc biệt, tuyên truyền phải giúp quần chúng giải
đáp những vấn đề “nóng” mà cuộc sống đang đặt ra, liên quan đến nhận thức
và lợi ích của đa số quần chúng.
Hình thức tun truyền phải phù hợp với trình độ, tâm lý của từng loại
đối tượng, biết sử dụng những loại hình tuyên truyền mà quần chúng quan
tâm, ưa thích, thực hiện tốt thông tin hai chiều. Tuyên truyền phải dễ hiểu, dễ
nhớ, dễ làm như lời Bác Hồ đã dạy.
1.3.2.6. Nguyên tắc tính nhạy bén, tính thời sự, tính hệ thống
Ngày nay với những thành tựu của khoa học công nghệ, nhất là khoa
học máy tính ngày càng phát triển, sự phát triển của mạng internet, mạng xã
hội, viễn thông,… đã đem lại nhiều lợi ích, người dân có thêm nhiều kênh
thơng tin để đáp ứng nhu cầu lao động, học tập, giải trí của mình nhưng kéo
theo đó là những thách thức không nhỏ cho CTTT khi các thế lực thù địch đã
và đang lợi dụng triệt để mạng xã hội nhằm xun tạc, kích động, xúi giục, lơi
kéo người dân bằng những thông tin xấu độc, bịa đặt để chống phá ta trên lĩnh
vực tư tưởng, văn hóa. Do vậy, người cán bộ làm CTTT phải đáp ứng tính
thời sự, thơng tin, định hướng về mặt chính trị, tư tưởng trước mọi sự kiện tác

động mạnh đến tư tưởng, tình cảm của nhân dân.
1.4. Hình thức và phương pháp thực hiện cơng tác tun truyền
1.4.1. Hình thức tun truyền


23
1.4.1.1. Tuyên truyền miệng
Tuyên truyền miệng là dùng miệng để tuyên truyền trực tiếp với người
nghe, không qua một phương tiện trung gian nào nhằm tuyên truyền một cách
có hệ thống quan điểm, đường lối, chính sách của một giai cấp, lực lượng xã
hội. Tuyên truyền miệng là một loại hình đặc biệt để tiến hành cơng tác tư
tưởng, là một nghệ thuật - nghệ thuật tác động của người nói (nhà tuyên
truyền) đối với người nghe (đối tượng tuyên truyền). Khi người nghe tiếp thu
bài nói chuyện như cảm thụ một giá trị nghệ thuật nhằm thỏa mãn một nhu
cầu về nhận thức, tư tưởng, tình cảm của bản thân. Nghệ thuật tuyên truyền
miệng được tiến hành chủ yếu bằng hoạt động của nhà tuyên truyền thông qua
các yếu tố: sự hiểu biết sâu sắc về đối tượng, nội dung, chất lượng thông tin,
đề cương và lập luận của bài nói chuyện, nghệ thuật diễn đạt làm chủ lời nói,
phong cách biểu cảm, bối cảnh sơi động của vấn đề tuyên truyền, sự học tập,
rèn luyện trau dồi nghiệp vụ của báo cáo viên, tuyên truyền viên.
Tuyên truyền miệng có thể tiến hành bất cứ ở đâu, lúc nào, thích hợp
với mọi điều kiện, hồn cảnh; đáp ứng u cầu của mọi đối tượng; có sức
truyền cảm, thuyết phục, cổ vũ mạnh mẽ; có khả năng gắn với đời sống một
cách sinh động; kết hợp giữa xây và chống, đấu tranh phê phán tiêu cực, sai
trái; giải đáp thắc mắc của người nghe thông qua đối thoại trực tiếp. Hiện nay,
với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự bùng nổ về thông tin đại chúng với
những phương tiện truyền thông hiện đại đem nội dung thông tin đến cho
người tiếp thu nhanh, chính xác,… nhưng khơng phương tiện nào có thể thay
thế được hoạt động tuyên truyền miệng. Bởi lẽ, đây là phương tiện truyền
thông ra đời sớm nhất và giữ vai trò rất quan trọng trong xã hội lồi người.

Trong CTTT thì tun truyền miệng cũng là loại hình truyền thơng đặc biệt
quan trọng của Đảng ta hiện nay. Đó vẫn là hình thức tun truyền có tính
chất dân chủ nhất, dễ thực hiện nhất và cũng là hình thức tuyên truyền rẻ nhất,
hiệu quả nhất.


24
1.4.1.2. Tuyên truyền thông qua sinh hoạt qua các câu lạc bộ
Hình thức tuyên truyền này được tiến hành theo sinh hoạt định kỳ hoặc
theo sinh hoạt chuyên đề, đột xuất của các câu lạc bộ, nhóm, hội. Thơng qua
hình thức tuyên truyền này đồng thời kết hợp với hình thức tuyên truyền
miệng, CTTT của Đảng về những chủ trương, đường lối, chính sách pháp luật
Nhà nước đã đến trực tiếp được cán bộ, hội viên, qua đó góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động của các câu lạc bộ, nhóm, hội nói chung, CTTT của Đảng
nói riêng.
1.4.1.3. Tuyên truyền thơng qua sử dụng hệ thống thơng tin đại chúng
Hình thức tuyên truyền này được thực hiện qua hệ thống truyền thông
của Đảng, Nhà nước như báo, đài phát thanh, truyền hình của Trung ương và
của địa phương; qua báo, tạp chí, thơng tin cơng tác của các tổ chức, cơ quan
Đảng và Nhà nước, qua hệ thống loa đài truyền thanh cơng cộng... Đây là một
trong những hình thức tun truyền có tính định hướng rất cao, nhất là qua
các bài báo, phóng sự, chuyên đề... có chất lượng về các gương điển hình, về
các cơ sở địa phương hoạt động tốt... nên nó có ảnh hưởng sâu rộng dễ tác
động đến cán bộ, người dân, có tác dụng khích lệ họ học tập, làm theo.
1.4.1.4. Tun truyền thơng qua hoạt động thư viện, sách báo, tranh
ảnh, nhà văn hóa, câu lạc bộ...; các hình thức trực quan như khẩu hiệu, panơ,
áp phích, tờ rơi...
Khi sử dụng hình thức tuyên truyền này, người làm CTTT cần chú ý
lựa chọn các biểu tượng, hình tượng, hình ảnh, biểu trưng,... có tính cụ thể, dễ
hiểu, gần gũi với đời sống của nhân dân. Khi đó cơng tác tun truyền sẽ lơi

cuốn được đông đảo quần chúng và sẽ đạt hiệu quả cao.
Không thể phủ nhận rằng: CTTT cổ động trực quan đã phát huy tác
dụng, đem lại hiệu quả lớn trong CTTT chủ trương đường lối của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước, góp phần nâng cao nhận thức của nhân dân,
nhất là nhân dân ở các vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc


25
thiểu số cịn khó khăn về các phương tiện nghe nhìn. Nhờ CTTT cổ động trực
quan đã thu hút đơng đảo các tầng lớp nhân dân hướng ứng và thực hiện theo
nội dung tuyên truyền, góp phần giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự an
tồn xã hội trên từng địa bàn cơ sở, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh,
có tác động thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Bằng trực giác
của mình, khi đến mỗi địa phương, chúng ta chỉ nhìn vào hệ thống tuyên
truyền cổ động trực quan, nhất là các cụm tuyên truyền cổ động trực quan ở vị
trí trung tâm của các tỉnh/thành phố, huyện/thị xã, xã, phường/thị trấn…, phần
nào chúng ta có thể đánh giá nhận diện được diện mạo đời sống văn hóa, sự
quan tâm tới lĩnh vực văn hóa và năng lực sáng tạo văn hóa của chính quyền,
cán bộ và nhân dân địa phương đó với trách nhiệm “con người nào thì phong
trào đó”.
Trong giai đoạn hiện nay, CTTT cổ động trực quan càng phát triển
mạnh mẽ, các cụm cổ động trực quan và hệ thống các bảng tường, áp pích với
các hình thức tun truyền sinh động, hấp dẫn, cổ vũ khơng khí thi đua lao
động sản xuất, xây dựng đất nước, tuyên truyền thiết thực phục vụ các nhiệm
vụ kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh trật tự, đồng thời nội dung tuyên truyền
cổ động bám sát Nghị quyết của Đảng, các phong trào thi đua, các cuộc vận
động lớn có ý nghĩa chính trị, có tác dụng giáo dục sâu sắc như: Thi đua là
yêu nước; Tất cả vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh; Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam; Chủ động hội nhập
quốc tế toàn diện; Toàn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân

cư; Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh… Đặc biệt vào dịp
kỷ niệm những ngày lễ lớn của đất nước, khơng khí tun truyền cổ động sôi
động ở hầu hết các địa bàn cơ sở đã thơng qua các hình thức tun truyền cổ
động thiết thực và hấp dẫn có tác động tích cực động viên cổ vũ nhân dân ta
hoàn thành thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội.


×