Tải bản đầy đủ (.docx) (173 trang)

Nghiên Cứu Biểu Tượng Khèn Trong Dân Ca Hmông.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 173 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN
VĂN

TRƢƠNG THỊ THÙY ANH

NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN
TRONG DÂN CA MƠNG TỪ VĂN HĨA
ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học dân gian

Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN
VĂN

TRƢƠNG THỊ THÙY ANH

NGHIÊN CỨU BIỂU TƢỢNG KHÈN
TRONG DÂN CA MƠNG TỪ VĂN HĨA
ĐẾN VĂN HỌC DÂN GIAN
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học dân gian
Mã số: 60 22 01 25

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. Lê Chí Quế

Hà Nội - 2014




LỜI CẢM ƠN
Trước hết, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến GS. TS. Lê Chí Quế ngườ đ t n t n

ướng dẫn em trong su t qu tr n t ực hiện lu n văn.

Em xin gửi lời cảm ơn c ân thành tới Ban Giám hiệu, P òng Đào tạo
sau đại học, Trường ĐH KXHX&NV – ĐH Qu c gia Hà Nội; Ban Chủ
nhiệm k oa Văn ọc, các thầy cô giáo trong tổ văn ọc dân g an đ tạo đ ều
kiện cho em trong su t quá trình học t p.
Em cũng x n c ân t àn cảm ơn c c t ầy cô g o, đồng nghiệp thuộc
Khoa Giáo dục Mầm non, Trường ĐH Sư p ạm – ĐH T Nguyên đ g úp
đỡ và tạo đ ều kiện thu n lợ c o em trong qu tr n công t c để em có thể
hồn thiện lu n văn t eo t ờ g an quy định.
Cu i cùng, em xin gửi lời cảm ơn đến g a đình, bạn bè, những người
luôn bên cạn , động viên em trong quá trình thực hiện lu n văn.
Hà Nộ , ngày

t ng năm 2014

Trƣơng Thị Thùy Anh


MỤC LỤC
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các bảng, các hình
Mở đầu........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.....................................................................................1

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu.......................................................................3
3. Đối tượng, mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu...........................17
4. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................19
5. Đóng góp mới của luận văn...................................................................20
6. Cấu trúc của luận văn............................................................................20
Chƣơng : Một số vấn đề

uận chung về biểu tƣợng và nh ng

vấn đề liên quan.............................................................................................21
1.1. Một số vấn đề

uận chung về biểu tượng........................................21

1.1.1. Khái niệm biểu tượng......................................................................21
1.1.2. Đặc điểm của biểu tượng.................................................................23
1.1.3. Phân biệt biểu tượng văn học với ẩn dụ, hình tượng.......................25
1.2. Biểu tượng trong văn hóa và văn học dân gian..................................27
1.2.1. Một vài khái niệm............................................................................27
1.2.2. Đặc điểm của biểu tượng trong văn hóa và văn học dân gian........30
1.3. Dân ca và biểu tượng khèn trong đời sống văn hóa Mơng.................32
1.3.1. Dân ca Mơng...................................................................................32
1.3.2. Biểu tượng khèn trong đời sống văn hóa Mông..............................34
Chƣơng 2: Khảo sát biểu tƣợng khèn trong dân ca Mông.................38
2.1. Những định hướng chung trong khảo sát, thống kê, phân loại...........38
2.1.1. Mục đích..........................................................................................38
2.1.2. Nguyên tắc thống kê........................................................................39
2.1.3. Tư iệu khảo sát, thống kê...............................................................40
2



2.2. Thống kê tần số xuất hiện của biểu tượng khèn trong dân ca Mông so
với một số biểu tượng đồ vật khác........................................................41
2.2.1. Bảng thống kê..................................................................................41
2.2.2. Biểu đồ............................................................................................42
2.2.3. Nhận xét..........................................................................................45
2.3. Thống kê tần số xuất hiện của các hình thức biểu hiện của biểu tượng
khèn trong dân ca Mông........................................................................56
2.3.1. Bảng thống kê..................................................................................57
2.3.2. Biểu đồ............................................................................................58
2.3.3. Nhận xét..........................................................................................59
Chƣơng 3: Giải mã một số hƣớng nghĩa cơ bản của biểu tƣợng
khèn trong dân ca Mông...............................................................................67
3.1. Khèn – biểu tượng vật thiêng trong nghi lễ tang ma..........................67
3.1.1. Khèn – vật dẫn đường người chết về thế giới mường ma...............67
3.1.2. Khèn – vật trung gian giao tiếp giữa người sống với người chết .. 71
3.2. Khèn – biểu tượng tình nam...............................................................78
3.2.1. Tính nam biểu hiện trong vẻ đẹp thể chất và tâm hồn người đàn ông
Mông

78

3.2.2. Tính nam biểu hiện trong các phẩm chất thuộc về ý chí của người
đàn ơng Mơng........................................................................................83
3.2.3. Tính nam biểu hiện trong tình u đơi ứa......................................84
3.3. Một số hướng nghĩa biểu trưng khác của biểu tượng khèn................87
3.3.1. Khèn – dấu hiệu phân biệt thế giới con người.................................88
3.3.2. Khèn – biểu trưng cho thân phận con người....................................90
3.3.3. Khèn – biểu trưng cho hai trạng thái trong tình yêu........................91
Kết luận....................................................................................................99

Tài liệu tham khảo.................................................................................103
Phụ lục
3


ANH MỤC C C ẢNG
Bảng 2.1. Bảng thống kê tần số xuất hiện của biểu tượng khèn trong dân
ca Mông.............................................................................................41
Bảng 2.2. Bảng thống kê tần số xuất hiện của biểu tượng khèn so với một
số biểu tượng đồ vật khác trong dân ca Mơng...................................42
àng 2.3.

ảng thống kê các hình thức biểu hiện của biểu tượng khèn

trong dân ca Mông

......................................................................57

ANH MỤC C C H NH
Hình 2.1. Biểu đồ hình cột thể hiện tần số xuất hiện biểu tượng khèn trong các
tác phẩm............................................................................................43
Hình 2.2. Biểu đồ hình trịn thể hiện tần số xuất hiện biểu tượng khèn
trong các tác phẩm.............................................................................43
Hình 2.3. Biểu đồ hình cột thể hiện tần số xuất hiện của biểu tượng khèn
và một số biểu tượng đồ vật khác trong dân ca Mơng.......................44
Hình 2.4. Biểu đồ hình trịn thể hiện tần số xuất hiện của biểu tượng khèn
và một số biểu tượng đồ vật khác trong dân ca Mơng.......................44
Hình 2.5. Biểu đồ hình cột thể hiện tần số xuất hiện các hình thức biểu
hiện của biểu tượng khèn trong dân ca Mơng...................................58
Hình 2.6. Biểu đồ hình trịn thể hiện tần số xuất hiện các hình thức biểu

hiện của biểu tượng khèn trong dân ca Mông...................................58

4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Văn hóa à một bộ phận được hình thành nhờ sự tập hợp các thành tố
nảy sinh song song với quá trình phát triển của xã hội ồi người. Văn hóa
được biểu hiện dưới các hình thức khác nhau, nhưng dễ thấy nhất là khi nó
tồn tại dưới hình thức các biểu tượng. Biểu tượng ln ở vị trí trung tâm, và
được coi là tế bào của văn hóa. Hay nói cách khác, biểu tượng chính là sự mã
hóa những giá trị thuộc về tinh thần của oài người dọc theo trục thời gian.
Muốn hiểu được nghĩa của biểu tượng, người ta cần phải giải mã nghĩa
của những biểu tượng đó. Việc giải mã biểu tượng không chỉ nhằm khám phá
ra những giá trị văn hóa vĩnh hằng cịn nằm ẩn trong đời sống cộng đồng mà
còn hướng tới mở ra nhiều tầng nghĩa mới. Điều này xuất phát từ chỗ biểu
tượng là một thực thể sống động, ln có sự đắp đổi ý nghĩa. iểu tượng được
sinh ra từ sự tư duy và tưởng tượng của con người nên trong quá trình phát
triển, biểu tượng không ngừng được bồi đắp, àm đầy. Chính vì thế, ở nền văn
học được thai nghén và sản sinh trong thời kỳ đầu tiên của xã hội ồi người
đã ẩn chứa những biểu tượng văn hóa vơ cùng độc đáo.
1.2. Văn học dân gian, từ âu được ví như một kho báu khổng lồ bởi nó
chứa đựng những tri thức dân gian vô cùng phong phú. Những tri thức này, về
cơ bản được đúc kết dựa trên những trải nghiệm, kinh nghiệm thực tế và được
truyền lại qua nhiều thế hệ. Vì lẽ đó, bức tranh văn học dân gian Việt Nam,
thực chất là sự kết hợp của rất nhiều tri thức dân gian đã được nghệ thuật hóa
với những gam màu riêng biệt. Tuy nhiên, cần thấy rằng trong quá trình vận
động và phát triển, kho tàng văn học dân gian Việt Nam có sự cộng gộp của
hai mảng lớn à văn học dân gian người Việt và văn học dân gian các dân tộc

thiểu số. Do vậy, khi nhắc đến những thành tựu của văn học dân gian của
người Việt, cũng cần chú

đến những đóng góp của văn học dân gian các dân
1


tộc thiểu số. Trong đó, cùng với văn học dân gian của các dân tộc Tày, Thái,
Mường…, văn học dân gian của người Mông được coi là một trong những
nền văn học vơ cùng đặc sắc. Trong đó, dân ca được nhắc đến như một thành
tố quan trọng nhất, cấu thành những sắc màu riêng biệt. Dân ca Mơng tích
hợp nhiều hình thức diễn xướng khác nhau, thể hiện những quan niệm riêng
về cách cảm của người dân Mông về thế giới xung quanh. Thế nhưng, dù
được thể hiện ở mơi trường diễn xướng nào thì dân ca Mơng vẫn là sự thể
hiện sâu sắc những tri nhận về thiên nhiên, xã hội, con người... Và sâu hơn
nữa, nó à nơi ưu giữ những biểu tượng gắn bó mật thiết với con người trong
đời sống sinh hoạt và tâm linh.
1.3. Cũng như một số dân tộc khác, khèn là một trong những nhạc cụ gắn
bó mật thiết đối với người Mơng nói chung. Trước hết, khèn có nghĩa cực
kỳ quan trọng trong đời sống tâm inh, tín ngưỡng. Tiếng khèn không chỉ là
sợi dây nối giữa con người với thế giới thần linh, giữa người đang sống với tổ
tiên dòng họ, tiếng khèn còn là vật chỉ đường cho người chết tìm về với tổ
tiên, là tiếng lịng của người sống với người chết… ên cạnh đó, tiếng khèn
cịn là khúc tâm tình của người bạn trai gửi tới người bạn gái, tiếng khèn giúp
họ kết đôi, giúp họ xây dựng một gia đình hạnh phúc... Chính vì có nghĩa vô
cùng quan trọng như vậy nên tiếng khèn Mông, dù trải qua bao thăng trầm
của cuộc sống, vẫn được ưu truyền qua nhiều thế hệ và tồn tại trong dân ca
với tư cách à một biểu tượng vô cùng độc đáo.
1.4. Từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Ng ên cứu biểu
tượng khèn trong dân ca Mơng từ văn óa đến văn ọc dân gian”. Thực hiện

đề tài này, chúng tơi mong muốn tìm ra một hướng đi khả dụng nhằm tiệm
cận với đời sống tinh thần của cộng đồng người Mơng trong q trình hình
thành và phát triển; đồng thời hé mở cánh cửa bản sắc văn hóa vơ cùng độc
đáo của dân tộc này thông qua biểu tượng khèn.
2


2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Lịch sử nghiên cứu biểu tượng trong dân ca Mông chịu sự tác động và chi
phối bởi nhiều ĩnh vực khác như: nhân học biểu tượng, biểu tượng văn hố,
văn hố dân gian, tín ngưỡng dân gian… Do đó, trước khi đề cập đến lịch sử
nghiên cứu biểu tượng khèn trong dân ca Mông, chúng tơi xin được điểm qua
những cơng trình, bài viết ít nhiều có liên quan đến vấn đề nghiên cứu:
2.1. Lịch sử nghiên cứu biểu tượng ở Việt Nam
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu biểu tượng cũng đã được nhiều nhà nghiên
cứu đề cập tới. Xét về phương diện văn hóa, có thể kể đến một số cơng trình
nghiên cứu tiêu biểu như:
2.1.1. Cơng trình “Nguồn g c và sự phát triển của kiến trúc biểu tượng và
ngôn ngữ Đông Sơn” của nhà nghiên cứu Tạ Đức (1999) đã đề cập đến biểu
tượng trong kiến trúc cổ truyền của Việt Nam trong cái nhìn bao qt tồn
cảnh Đơng Nam Á; cũng như nguồn gốc và quá trình phát triển của các biểu
tượng trong kiến trúc Đông Sơn [8].
2.1.2. Bài nghiên cứu “Biểu tượng rùa trong văn óa V ệt Nam và thế
giới” của tác giả Chu Thị Quỳnh Giao đã cho thấy rùa là con vật mang ý
nghĩa biểu trưng khá độc đáo trong nền văn hóa Việt Nam và trong nhiều nền
văn hóa khác nhau trên thế giới [11].
2.1.3. Ngồi ra, có thể kể đến tên một số cơng trình của các nhà nghiên
cứu khác như: Phạm Đức Dương (2002) với bài viết “Thế giới biểu tượng tiếp
c n từ góc độ văn óa ọc” [6]; Hồ Sĩ Vịnh (2004) với bài viết “Biểu tượng
hình học trong thần thoại là gì” [78]; Đinh Hồng Hải với “Nghiên cứu biểu

tượng và vấn đề tiếp c n nhân học biểu tượng ở Việt Nam” [14]. Trong những
nghiên cứu này, các tác giả không chỉ dừng lại ở việc tô đậm khung lý thuyết
về biểu tượng mà cịn áp dụng nó vào từng trường hợp cụ thể. Mặc dù khác
nhau về đối tượng cũng như phương pháp giải mã biểu tượng nhưng nhìn
3


chung, đây à những cơng trình nghiên cứu khá tồn diện về biểu tượng trong
văn hóa Việt Nam.
Ngồi ra, ở Việt Nam, biểu tượng còn được nghiên cứu lồng ghép trong
nhiều cơng trình nghiên cứu đến văn hóa, văn học dân gian như:
2.1.4. Chuyên luận “Nghiên cứu văn ọc dân gian từ m văn óa dân
gian” của PGS.TS. Nguyễn Thị ích Hà được coi là một trong những cơng
trình nghiên cứu về biểu tượng có tính quy mơ và hệ thống. Chuyên luận bao
gồm hai phần khác nhau. Trong đó, phần I là những vấn đề ý thuyết, gồm
những vấn đề có iên quan đến đề tài như: phương pháp uận nghiên cứu văn
học dân gian và phương pháp nghiên cứu văn học dân gian qua các mã văn
hoá dân gian; quan niệm về văn hoá, mã văn hoá; mối quan hệ giữa văn hoá,
văn hoá dân gian và văn học dân gian; các khái niệm: tín ngưỡng, mã tín
ngưỡng, phong tục tập quán; các thao tác nghiên cứu văn học dân gian qua
các mã văn hoá dân gian. Phần II của chuyên luận trình bày một số những
nghiên cứu cụ thể theo hướng lý thuyết trên. Nhìn chung, chuyên luận là một
tài liệu tham khảo có giá trị, đặc biệt phù hợp với hướng tiếp cận biểu tượng
trong văn học dân gian từ các mã văn hóa dân gian [13].
2.1.5. GS.TS. Nguyễn Xuân Kính trong chuyên đề “Thi pháp ca dao” đã
dành trọn một chương để viết về một số biểu tượng, hình ảnh tiêu biểu trong
ca dao. Trong chương này, bên cạnh việc giới thiệu khái ược những nội dung
cơ bản của biểu tượng, tác giả đã phân tích một số những biểu tượng cơ bản
trong ca dao Việt Nam qua sự đối sánh với văn chương bác học. Những biểu
tượng này thuộc hai nhóm lớn: nhóm thực vật gồm các biểu tượng khá phổ

biến và quen thuộc như: biểu tượng cây trúc, cây mai, biểu tượng hoa nhài…;
nhóm động vật gồm: biểu tượng con bống, con cị… Nhìn chung, tuy à một
chun luận có trọng tâm nghiêng về thi pháp hơn nội dung nhưng trong

4


nghiên cứu của mình, tác giả đã cố gắng giải mã những nét nghĩa chủ đạo của
một số loại biểu tượng trên [33].
2.1.6. GS.TS. Vũ Anh Tuấn (1984) trong bài nghiên cứu “Về một s biểu
tượng văn ọc dân gian miền núi” đã nghiên cứu về một số biểu tượng văn
học dân gian của các dân tộc miền núi, trong đó, tác giả đặc biệt quan tâm tới
hệ thống biểu tượng trong văn học dân gian dân tộc Tày [74].
2.1.7. TS. Nguyễn Thị Ngọc Điệp trong bài viết “Thế giới biểu tượng
sóng đơ trong ca dao người Việt” in trên Tạp chí Văn hố dân gian số
3(75)/2001 đã cho rằng: “Biểu tượng tồn tại trong ca dao không phải với tính
chất là những yếu t đơn lẻ rời rạc, mà đ n t àn nên một hệ th ng khá
hoàn chỉn …” [7]. Với những dẫn chứng cụ thể, bài nghiên cứu đã góp phần
khẳng định rằng hệ thống biểu tượng sóng đơi trong ca dao người Việt vơ
cùng phong phú, bao gồm: các hiện tượng tự nhiên, thế giới động vật, thực
vật, các thực thể nhân tạo, thế giới con người… Nghiên cứu các biểu tượng
sóng đơi trong ca dao người Việt, tác giả đã chỉ ra được nguồn gốc sinh thành,
cấu tạo và chức năng của các biểu tượng này trong việc thể hiện những khía
cạnh khác nhau của đời sống văn hoá dân tộc.
2.1.8. TS. Nguyễn Thị Hồng Thu trong bài nghiên cứu “Trăng trong t ơ
ca dân gian Việt Nam” in trên Tạp chí Nguồn sáng dân gian số 3-2006 đã
nhấn mạnh: trăng à một biểu tượng tích hợp nhiều yếu tố văn hóa khi nó gắn
với những đặc thù văn hóa của dân tộc, cũng như có sự tiếp biến với các vùng
văn hóa xung quanh. Vì vậy, biểu tượng trăng trong ca dao gắn với nhiều ý
nghĩa khác nhau, nhưng về cơ bản “… trăng c ủ yếu được sử dụng trong

mảng ca dao nói về t n u đơ lứa” [63]. Với việc chỉ ra các nhóm có tính
khái qt (nhóm mang tính chất tích cực, nhóm mang tính chất trung tính,
nhóm mang tính chất tiêu cực), bài nghiên cứu đã chỉ ra được trạng thái chủ
đạo được biểu hiện qua biểu tượng trăng à cảm xúc buồn.
5


2.1.9. TS. Trần Minh Hường trong bài nghiên cứu “Tiếp c n truyền thuyết
Con rồng cháu tiên từ góc độ biểu tượng nghệ thu t” in trên Tạp chí văn hố
dân gian số 3 (111)/2007 đã chỉ ra những khía cạnh cơ bản xung quanh khái
niệm biểu tượng. Dựa trên những kiến thức cơ bản đó, tác giả đã tìm hiểu một
số biểu tượng được phân xuất ra từ truyền thuyết “Con rồng cháu tiên”. Tác
giả có viết rằng: “… truyền thuyết Con rồng cháu Tiên chứa đựng hai loại
biểu tượng quan trọng: Rồng – Tiên thuộc loại biểu tượng cặp đô và Bọc
trứng (s n ra trăm con) t uộc loại biểu tượng đơn” [22]. Với những dẫn
chứng phong phú, tiêu biểu, bài nghiên cứu không chỉ làm sáng tỏ con đường
hình thành biểu tượng Rồng – Tiên và Bọc trứng mà cịn lý giải được nghĩa
văn hố của những biểu tượng này.
2.1.10. Nhà nghiên cứu Lê Đức Luận với “Biểu tượng oa trong văn ọc
dân gian” in trên Tạp chí VHNT số 328-2011 cho rằng: “… oa trong văn
học dân gian trở thành hình ảnh biểu trưng c o vẻ đẹp n ân văn của con
ngườ … ” [27]. Bài nghiên cứu đã giải nghĩa của biểu tượng hoa trong tục
ngữ, ca dao qua việc phân tích những lớp nghĩa biểu trưng trong từng hoàn
cảnh cụ thể: hoa thơm biểu trưng cho người khôn, kẻ giỏi; màu sắc của hoa
biểu trưng cho tình u và hơn nhân; hương thơm và vẻ đẹp của hoa tượng
trưng cho nét đẹp của người phụ nữ. Với những minh chứng rõ nét, bài
nghiên cứu đã góp phần khẳng định rằng, biểu tượng hoa đóng một vai trị
quan trọng trong đời sống tinh thần người Việt nói chung: “Hoa đ từ tâm
thức tín ngưỡng thiên sinh về con ngườ đến vẻ đẹp n ân s n …” [27].
2.1.11. Trong vài nghiên cứu “Biểu tượng long – rồng trong văn ọc dân

g an người Việt” in trên tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 331-2012, nhà nghiên
cứu Lê Đức Luận cho rằng biểu tượng long - rồng có những nghĩa cơ bản sau:
biểu trưng cho nguồn gốc cao sang của các nhân vật trong lịch sử; biểu trưng
cho sự phù trợ của truyền thống tổ tiên với các nhân vật lịch sử; biểu tượng
6


cho hình thể núi sơng dân tộc; biểu trưng cho sự sang trọng, giàu sang, tơn
kính; biểu trưng cho vương quyền và sự thịnh đạt của vua chúa; cặp đôi rồng
– phượng biểu trưng tình yêu nam nữ đẹp đẽ; biểu trưng cho sự gian khó [28].
Với nhiều dẫn chứng tiêu biểu, bài nghiên cứu đã chứng minh được những
lớp nghĩa tồn tại ẩn mình dưới biểu tượng long – rồng trong tâm thức và trong
văn học dân gian người Việt à hồn tồn có cơ sở.
2.1.12. Nhà nghiên cứu Triều Nguyên trong bài “Về biểu tượng con chim
quyên trong ca dao” in trên Tạp chí văn hố dân gian số 3(59)/1997 đã có sự
thống kê tương đối chi tiết tần số xuất hiện của chim quyên trong ca dao. Với
những số iệu thu được, tác giả đưa ra kết luận: “Về s lượng, biểu tượng con
chim quyên có tần xuất thấp ơn con cò 3,7 lần” [30]. Từ những kết quả đã
khảo sát được, tác giả tiến hành lý giải nghĩa của biểu tượng con chim
quyên trong ca dao thơng qua sự so sánh với biểu tượng con cị. Từ đó, tác giả
đi đến kết luận về lớp nghĩa biểu trưng của biểu tượng con chim quyên trong
ca dao: “Con chim quyên là một biểu tượng chỉ người, có thể nam hay nữ,
trong quan hệ lứa đô ” [30].
2.1.13. Bùi Xuân Tiệp trong bài “Bước đầu giải mã một s biểu tượng
trong lễ hội Gầu Tào (LHGT) và dân ca giao dun (DCGD) dân tộc Hmơng”
in trên Tạp chí Văn hoá dân gian số 3(99)/2005 cho rằng: “Thế giới biểu
tượng trong DCGD Mông rất phong phú. Từ những sự v t, hiện tượng tự
n ên n ư l ngón, c m d l , nú đồi, mặt trăng, mặt trờ … đến những v t
nhân tạo n ư cây nêu, vải, lanh, cái cày, chiếc nhẫn, vòng bạc…” [72]. Thông
qua việc giải mã nghĩa của các biểu tượng cây nêu, biểu tượng vải lanh,

biểu tượng mặt trăng – mặt trời, tác giả đã từng bước bóc tách những lớp văn
hóa, tín ngưỡng dân gian của đồng bào Mơng. Những biểu tượng này, một
mặt chúng tồn tại một cách độc lập tương đối trong việc thể hiện chiều sâu

7


văn hóa; mặt khác, chúng có tác động qua lại lẫn nhau, thể hiện thế giới quan,
nhân sinh quan của đồng bào Mơng nói chung.
2.1.14. TS. Đặng Diệu Trang trong bài nghiên cứu “Thiên nhiên với thế
giới nghệ thu t ẩn dụ và biểu tượng trong ca dao dân ca” in trên Tạp chí
văn hố dân gian số 1-2006 cho rằng: “Một trong những đặc đ ểm của t ơ
ca trữ tình dân gian là hình thức sử dụng các hình ản t ên n ên k ơng t eo
ng ĩa trực tiếp, ng ĩa đen, ng ĩa b ểu v t mà t eo ng ĩa g n t ếp vớ ng ĩa
bóng, ng ĩa b ểu cảm tạo nên c c n tượng ẩn dụ và biểu tượng để diễn tả
cảm xúc” [73]. Trong bài nghiên cứu, tác giả cũng chỉ ra một số những
hình tượng ẩn dụ được sử dụng thường xuyên đã được chuyển hóa thành
biểu tượng. Trong đó, những loại biểu tượng đơn tiêu biểu à: chim, hoa,
trăng… và biểu tượng sóng đơi tiêu biểu là: loan – phượng, bướm – hoa…
Dựa trên những nội dung đó, tác giả đã tiến hành tìm hiểu các hình tượng
ẩn dụ và biểu tượng trong sự so sánh ca dao dân ca các miền. Nhìn chung,
bài nghiên cứu đã khái quát được những nét cơ bản nhất về hình tượng ẩn
dụ và biểu tượng trong kho tàng ca dao dân ca.
2.1.15. PGS.TS. Phạm Thu Yến trong bài nghiên cứu “Vấn đề nghiên cứu
biểu tượng trong t ơ ca dân g an”, ngoài việc đưa ra những nhận xét khái
quát về việc nghiên cứu biểu tượng trong ca dao của một số tác giả, đã xem
xét và nghiên cứu về biểu tượng trong thơ ca trữ tình dân gian ở ba nội dung:
xác định ranh giới giữa ẩn dụ và biểu tượng; biểu tượng thơ ca dân gian với
đặc trưng thể loại; sự hình thành và phát triển của biểu tượng trong thơ ca dân
gian [84].

2.1.16. GS.TSKH. Phan Đăng Nhật trong bài nghiên cứu “Ngữ ng ĩa của
hệ th ng biểu tượng trong nghi lễ Êđê” đã nghiên cứu hệ thống các biểu
tượng đơn ập và ưỡng lập trong các bài cúng mà thầy cúng dùng trong nhiều
hoạt động khác nhau của đời sống văn hóa, tín ngưỡng của đồng bào đê.
8


Trong đó, tác giả cho rằng biểu tượng đơn ập bao gồm những biểu tượng
trong nghi lễ về rừng, biểu tượng trong nghi lễ về trồng trọt, biểu tượng trong
nghi lễ về đời người; biểu tượng ưỡng lập được thể hiện rõ nét nhất trong lễ
cưới và sự điều hòa nam/nữ, lễ tang và sự điều hịa sống/chết [85].
2.1.17. Ngồi những cơng trình nghiên cứu kể trên, biểu tượng cịn đuợc
đề cập đến trong nhiều luận văn, uận án. Có thể kể đến một số nghiên cứu tiêu
biểu mà chúng tơi có điều kiện tìm hiểu:
- ùi Văn Thành (2000), Thế giới biểu tượng thần thoạ trong Mo Mường,
Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
- Đặng Thị Oanh (2006), Giải mã biểu tượng lanh trong dân ca dân
tộc H’Mông, Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội.
- Nguyễn Thị Minh (2008), Giải mã biểu tượng dòng sông trong bài ca
tang lễ một s dân tộc vùng Bắc Bộ Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ
văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
- Cầm Bá Phượng (2010), Giải mã một s biểu tượng trong ca dao – dân
ca dân tộc Thái, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học dân gian, Truờng
ĐH KHXH&NV – ĐH QGHN.
- Nguyễn Thị Minh Thành (2010), Giải mã biểu tượng con thuyền trong
kho tàng ca dao người Việt, Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội.
- Phạm Thị Hoàng Oanh (2010), Biểu tượng cây đa trong ca dao người
Việt, Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

- Nguyễn Minh Thu (2011), Biểu tượng trăng trong ca dao người Việt,
Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
- Dương Thị Hồng Thúy (2011), Biểu tượng mưa trong ca dao người Việt,
Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
9


- Đặng Thị Oanh (2012), Biểu tượng nước từ văn óa đến văn ọc dân
gian của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, Luận án Tiến sĩ ngữ văn, Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội.
- Lê Thị Minh Huệ (2013), Biểu tượng c trong k o tàng ca dao người
Việt, Luận văn Thạc sĩ ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Ngoài được coi là một đối tượng nghiên cứu thuộc chuyên ngành văn học
dân gian, biểu tượng còn được coi là một đối tượng khá thú khi nó được
xem xét từ góc độ văn học hiện đại. Hiện cũng đã có rất nhiều những nghiên
cứu xoay quanh biểu tượng thơng qua việc tìm hiểu, giải các tác phẩm văn
học hiện đại. Có thể kể đến như: ùi Thị Nguyệt Hồng (2003), Biểu tượng
nghệ thu t trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Luận văn Thạc sĩ khoa học
ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội; Nguyễn Thanh Xuân (2009), Hệ
biểu tượng về chủ đề quê ương trong t ơ Hoàng Cầm, Luận văn Thạc sĩ
khoa học ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội; Hoàng Thị Duyên
(2010), Biểu tượng đô t ị trong T ơ mới, Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội; Hoàng Thị Bảy (2011), Hệ th ng biểu
tượng trong t ơ Nguyễn Duy, Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội; Dương Ngọc Hải (2011), Biểu tượng nghệ thu t
trong t ơ Xuân Quỳnh, Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội; Ngô Thị Tuyết (2013), Thế giới biểu tượng trong Di cảo
t ơ của Chế Lan Viên, Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội...
Nhìn chung, những cơng trình, bài viết trên đây đã nghiên cứu biểu tượng

trên nhiều phương diện, ĩnh vực khác nhau. Có bài viết nghiên cứu về
phương diện nghĩa biểu trưng của các biểu tượng đặc thù trong các nền văn
hóa; có bài viết trình bày những nghiên cứu về mặt lý thuyết hoặc đưa ra con
đường, biện pháp tiếp cận biểu tượng văn hóa. Với từng trường hợp, các tác
1


giả cũng đã cố gắng lý giải nghĩa của biểu tượng qua việc gắn với những
hoàn cảnh cụ thể, nhằm khai thác triệt để những giá trị thẩm mĩ chứa đựng
trong biểu tượng.
2.2. Lịch sử nghiên cứu biểu tượng khèn trong dân ca Mông
Trong kho tàng văn học dân gian của người Mông, dân ca được coi là một
bộ phận vơ cùng quan trọng, góp phần khơng nhỏ vào việc phản ánh tâm hồn,
tính cách và số phận của người Mông trong suốt chiều dài thăng trầm của lịch
sử. Không những thế, dân ca Mơng cịn góp phần tạo nên chiều sâu của bản
sắc văn hóa tộc người đã được đúc kết qua hàng nghìn năm. Hiện nay, việc
nghiên cứu dân ca Mông đã đạt được những thành tựu nhất định.
Đầu tiên, phải kể đến cuốn “Dân ca Mèo” của tác giả Doãn Thanh,
xuất bản năm 1967. Đây à cuốn sách giới thiệu khá đầy đủ diện mạo dân
ca Mông với năm oại chính. Cuốn sách được dịch ra tiếng Việt với chú
thích kỹ ưỡng, đảm bảo được nghĩa cơ bản. Năm 1974, tác giả Doãn
Thanh tiếp tục cho ra mắt cuốn “Dân ca Mèo Lào Cai” gồm 45 bài. Cuốn
sách tuy mỏng nhưng có giá trị ở chỗ giúp cho người đọc có thể đối chiếu
phần lời Việt và phần lời bằng tiếng Mông. Năm 1984, các tác giả Dỗn
Thanh, Hồng Thao đã tiến hành tuyển chọn, chỉnh lý, bổ sung một số bài
dân ca Mông đã được công bố trên các sách, báo, tạp chí và cho ra mắt
cuốn “Dân ca Hmông” mới với lời giới thiệu của Chế Lan Viên. Cuốn
sách tuyển đủ năm oại hát của dân ca Mơng với lời dịch có phần khá trau
chuốt. Đến năm 1994, tác giả người dân tộc Mông à Hùng Đình Qu cho
ra mắt cuốn Dân ca Mơng Hà Giang, gồm ba tập, bao gồm những bài dân

ca được sưu tập tại Hà Giang. Ngoài ra, từ những năm 90 trở lại đây, ở
một số tỉnh có người Mơng cư trú như Yên ái, Lai Châu, Hà Giang, Lào
Cai… người ta cũng tiến hành sưu tầm dân ca Mông và in rải rác trên các
sách báo trung ương và địa phương. Nhìn chung, cơng tác sưu tầm dân ca
Mơng nói chung trong hơn 40 năm qua đã đạt được thành
1


tựu cả về số ượng và chất ượng. Đó à những tư iệu quý giá cho luận văn
trong quá trình tiến hành khảo sát, giải mã biểu tượng khèn trong dân ca Mơng.
Có thể thấy rằng, trong đời sống của đồng bào Mơng nói chung, khèn
được coi là một nhạc cụ đặc biệt. Vì lẽ đó, trong dân ca Mơng, khèn được coi
như một biểu tượng có sức sống vơ cùng mạnh mẽ. Trong khi một số biểu
tượng khác đã được khảo sát và nghiên cứu, giải mã thì biểu tượng khèn
dường như chưa được quan tâm đúng mức. Trong những nghiên cứu về vấn
đề khác, biểu tượng khèn mới chỉ được đề cập ở mức quá sơ ược. Trong khả
năng cho phép, uận văn xin được điểm qua một số cơng trình nghiên cứu có
đề cập đến vấn đề nghiên cứu.
2.2.1. Mở đầu cuốn “Văn o dân tộc Mông Hà Giang”, Trường Lưu và
Hùng Đình Qu có cho rằng “… nó đến văn óa Mơng ở Hà Giang, khơng
ai không biết đến tiếng k èn vơ âm t an trầm trầm dìu dặt, vớ c c làn đ
ệu dân ca trữ tình, duyên dáng và hồn n ên…” [45, tr.15]. Trong đời sống
văn hoá tinh thần của đại bộ phận người Mông, khèn được coi là “nhạc cụ
đặc trưng văn óa t êu b ểu…” [45, tr.62]. Cũng trong cuốn sách này, ở một
phần khác tác giả có cho rằng khèn thuộc nhóm dụng cụ sinh hoạt tinh
thần của người Mông và đây “là nhạc cụ được dùng phổ biến nhất ở
vùng người Mơng. Có lẽ khơng một chàng trai Mông nào lại không làm
quen với cây k èn. K èn được dùng trong tang lễ và trong sinh hoạt vu c
ơ múa t” [45, tr.126]. Thêm vào đó, cùng với việc giới thiệu một cách sơ
ược đặc điểm của các loại nhạc cụ khác, tác giả cũng đã đề cập đến cấu

tạo cơ bản của khèn Mông và nhấn mạnh: “Tiếng khèn biểu đạt các bài
dân ca Mông rất s ng động, chính thế nó làm đắm say lịng người” [45,
tr.126]. Nhìn chung, cơng trình nghiên cứu đã đề cập đến cây khèn ở nhiều
phương diện khác nhau nhưng về cơ bản mới chỉ dừng ở việc nêu ra những
khía cạnh cơ bản nhất về giá trị, vai trò và cấu tạo của cây khèn trong đời
sống văn hố của người Mơng.
1


2.2.2. Trong bài viết “Một s biểu tượng văn óa dân g an Hmơng” trên
Tạp chí văn học nghệ thuật Lào Cai, TS. Trần Hữu Sơn đã dựa trên những
kiến thức về văn hóa, phong tục tập quán để giải mã một số biểu tượng trong
văn hóa, dân ca Mơng: cây tre, cây lanh, con gà, con lợn. Với những tri thức,
trải nghiệm được tích ũy nhờ sự gắn bó mật thiết với đời sống văn hóa của
đồng bào Mơng, tác giả cho rằng lễ hội Gầu Tào: “… tíc

ợp nhiều yếu t

văn o , t p hợp một s biểu tượng nổi trội mang đ m sắc t văn o
Hmông n ư b ểu tượng cây tre (mai, vầu), biểu tượng mảnh vải lanh, quả bầu
đựng rượu, cây khèn... Các biểu tượng này nhằm phản n tín ngưỡng cổ
truyền cũng n ư ước vọng của cộng đồng” [50]. Tuy đã nhắc đến cây khèn
với tư cách à một biểu tượng trong dân ca Mơng nhưng trong bài viết của
mình, tác giả chưa tiến hành giải mã

nghĩa của biểu tượng này.

2.2.3. Nhà nghiên cứu âm nhạc Hồng Thao trong cuốn “Âm nhạc dân tộc
H’mông” đã đề cập đến những bài hát và nhạc cụ độc đáo của dân tộc Mông
cũng như những điệu hát, những nhạc cụ đã được dân tộc Mông “tự giác tiếp

thu” của những dân tộc khác. Trong số những nhạc cụ đã được đề cập, tác giả
cho rằng: “Những chàng trai Mông va đeo gù , tay cầm khèn, tay cầm lồng
chim là hình ản đ ển hình trên rẻo cao…” [58, tr.18]. Ngồi ra, trong cuốn
sách này, tác giả cũng đề cập tới âm vực của cây khèn, qua đó nói ên tầm
quan trọng của khèn trong nghi lễ tang ma của người Mông: “…Riêng trong
nghi lễ tang ma […] mỗ trường hợp, mỗi cách chết phả được thổi bằng
những bài khèn riêng” [58, tr.106]. Tuy nhiên, mục tiêu chính của cơng trình
chủ yếu hướng tới việc sưu tầm, ghi chép những bài khèn Mông dưới dạng
các bài nhạc nên tác giả không khai phá những tầng nghĩa sâu của biểu tượng
khèn. Những nhận định sơ ược và có phần gián đoạn về cây khèn trong dân
ca Mông mà tác giả đã đề cập, thực chất là những phương diện thuộc về ý
nghĩa, tầm quan trọng của biểu tượng này trong đời sống của người Mông.
1


2.2.4. Trong lời tựa cho cuốn “Dân ca H’mông”, Chế Lan Viên có nhắc
tới cây khèn và nhấn mạnh đây à một loại nhạc cụ phổ biến đối với người
Mông: “Người Mơng rất u nền văn ng ệ của mình, tiếng hát của mình.
Phần đơng người Mơng đều biết một trong ba loại nhạc cụ này: sáo, khèn,
đàn mô …” [57, tr.36]. Do chỉ là những lời giới thiệu về cả tập dân ca nên
trong hơn hai mươi trang viết, tác giả chỉ duy nhất một lần nhắc đến khèn với
tư cách à một nhạc cụ của người Mông, chưa có những kiến giải về mặt ý
nghĩa biểu trưng của biểu tượng này.
Ngoài ra, biểu tượng khèn cũng được đề cập tới với những mức độ khác
nhau trong những luận văn, uận án mà chúng tơi có điều kiện khảo sát. Có
thể kể đến như:
2.2.5. Vũ Hồng Cường trong luận văn thạc sĩ Văn học Việt Nam
“Tiếng hát tình yêu lứa đơ trong dân ca H’mơng Hà G ang” ít nhiều
cũng đã có những nhận định về biểu tượng khèn trong đời sống văn hóa,
tâm inh của đồng bào Mơng. Trong luận văn này, tác giả tập trung phân

tích những nội dung và nghệ thuật cơ bản của Tiếng hát tình u đơi ứa
trong dân ca Mơng Hà Giang. Tuy nhiên, bên cạnh đó, tác giả cũng đã có
một phần rất nhỏ đề cập đến biểu tượng. Trong đó, tác giả có cho rằng,
biểu tuợng đàn mơi à một biểu tuợng đặc trưng cho tình u đơi ứa.
Ngược lại, tác giả cho rằng “thực tế, trong quá khứ của nguờ H’mông ở
Hà Giang chỉ dùng k èn để thổi và múa trong những nghi lễ tang ma, thờ
cúng” [3, tr.91].
2.2.6. Vương Thị Thủy trong luận văn thạc sĩ Khoa học Ngữ văn “Dân ca
nghi lễ cúng trong chu kỳ vòng đời của nguời Mơng ở Mèo Vạc, Hà Giang”
đã có những kiến giải tương đối chi tiết về nghĩa chủ đạo của biểu tuợng
khèn. Luận văn đã trình bày được những nội dung cơ bản của dân ca nghi lễ
cúng trong chu kỳ vịng đời của nguời Mơng cũng như các phương thức diễn
xướng của các bài dân ca này. Trong chương 3, tác giả có đề cập đến việc
1



×