Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Khóa luận tốt nghiệp sử dụng nguyên vật liệu thiên nhiên trong hoạt động tạo hình nhằm phát huy tính sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 6 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (901.46 KB, 72 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong q trình giáo dục nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới đã
và đang quan tâm đến vấn đề phát huy tính sáng tạo cho học sinh nhằm đổi
mới, cải tiến và nâng cao chất lượng dạy học.
Vấn đề phát huy tính sáng tạo cho học sinh nói chung và trẻ mẫu giáo
nói riêng ln là vấn đề quan trọng và vô cùng cần thiết. Đối với trẻ mẫu giáo
lớn, phát huy tính sáng tạo thơng qua hoạt động tạo hình (HĐTH) tạo điều
kiện cho trẻ hình thành và phát triển nhân cách.
HĐTH là một hoạt động nghệ thuật chiếm một vị trí quan trọng, nó
giúp trẻ tìm hiểu, khám phá và thể hiện một cách sinh động những gì chúng
nhìn thấy trong thế giới xung quanh. Thơng qua HĐTH góp phần phát triển trí
tuệ, trẻ tìm tịi khám phá để tạo ra bức tranh đẹp giúp cho trẻ hiểu biết thêm
những kiến thức, kỹ năng để trẻ sử dụng hiệu quả trong tác phẩm nghệ thuật
của mình. Sự hình thành và phát triển các đặc điểm tâm lý của trẻ mẫu giáo
nói chung và tính sáng tạo nói riêng ở lứa tuổi mẫu giáo là tiền đề, nền móng
cho sự phát triển tính sáng tạo sau này của trẻ.
Sử dụng nguyên vật liệu thiên nhiên (NVLTN) trong HĐTH là một
trong những cách giúp trẻ có thể bộc lộ tính sáng tạo của mình trong quá trình
tham gia hoạt động. Khi sử dụng NVLTN trẻ phải thể hiện các hình tượng
dựa vào đề tài và các NVLTN sẵn có. Nội dung của đề tài có thể từ đơn giản
đến phức tạp, tái hiện đơn thuần tới sự tái tạo tích cực. Để tạo nên các sản
phẩm theo đề tài từ NVLTN trẻ phải “làm sống lại” các biểu tượng từ trí nhớ,
phối hợp các biểu tượng tạo hình mới nhờ các quá trình liên tưởng, tưởng
tượng tái tạo và các cảm xúc tình cảm. Sử dụng NVLTN là hoạt động góp
phần củng cố các kiến thức đã học nên rất cần sự sáng tạo của trẻ để có các
sản phẩm tạo hình phong phú.
Hiện nay, các trường mầm non đã quan tâm chú ý đến vấn đề phát huy
tính sáng tạo cho trẻ bằng việc sử dụng NVLTN thông qua HĐTH. Tuy nhiên


việc khai thác và phát huy tối đa hiệu quả của việc sử dụng NVLTN thông


2

qua HĐTH nhằm phát huy tính sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi không phải
lúc nào cũng được thực hiện một cách trọn vẹn. Mặt khác, trong quá trình tổ
chức các hoạt động, giáo viên cịn ít chú ý tới việc phát triển tính sáng tạo cho
trẻ. Trẻ thường bị đưa vào hoạt động một cách gò ép, áp đặt, sản phẩm tạo
hình của trẻ cịn đơn điệu, sơ lược và cứng nhắc.
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề: “Sử dụng nguyên vật liệu
thiên nhiên trong hoạt động tạo hình nhằm phát huy tính sáng tạo cho trẻ
mẫu giáo 5-6 tuổi” làm đề tài nghiên cứu.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
2.1. Về lý luận
- Làm rõ cơ sở lý luận về vấn đề sáng tạo và phát huy tính sáng tạo cho
trẻ mẫu giáo, về sử dụng NVLTN trong HĐTH nhằm phát huy tính sáng tạo
cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
- Xác định cơ sở khoa học của việc xây dựng một số biện pháp sử dụng
NVLTN trong HĐTH nhằm phát huy tính sáng tạo cho trẻ mẫu giáo.
2.2. Về thực tiễn
- Đề xuất được một số biện pháp sử dụng NVLTN trong hoạt động tạo
hình nhằm phát huy tính sáng tạo cho trẻ mẫu giáo lớn với cách hướng dẫn
thực hiện cụ thể.
3. Mục tiêu của đề tài
- Nghiên cứu, đề xuất một số biện pháp sử dụng NVLTN trong HĐTH
nhằm phát huy tính sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
4. Nhiệm vụ nhiên cứu
- Tổng hợp cơ sở lý luận về vấn đề sử dụng NVLTN trong HĐTH nhằm
phát huy tính sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.

- Điều tra thực trạng việc sử dụng NVLTN trong HĐTH của trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi tại trường mầm non Phú Hộ - Thị xã Phú Thọ - tỉnh Phú Thọ.
- Đề xuất một số biện pháp sử dụng NVLTN trong HĐTH nhằm phát
huy tính sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.


3

- Thực nghiệm sư phạm nhằm khẳng định hiệu quả của những biện pháp
đã đề xuất.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp sử dụng NVLTN trong HĐTH nhằm phát huy tính
sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Do thời gian có hạn, khả năng hạn chế, chúng tơi chỉ nghiên cứu một
số biện pháp sử dụng NVLTN trong HĐTH nhằm phát huy tính sáng tạo
cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi, ở trường mầm non Phú Hộ - Thị xã Phú Thọ tỉnh Phú Thọ.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Sử dụng để phân tích, tổng hợp, khái quát các tài liệu lý luận có liên
quan đến đề tài.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1. Phương pháp quan sát
Đây là phương pháp xuyên suốt quá trình từ khi xác định thực trạng
đến khi làm thực nghiệm.
Chúng tôi sử dụng phương pháp quan sát để nhận biết những biểu hiện
về tính sáng tạo của trẻ mẫu giáo lớn thông qua vệc sử dụng NVLTN trong
HĐTH.
6.2.2. Phương pháp đàm thoại

Chúng tơi đàm thoại để tìm hiểu về những biện pháp sử dụng NVLTN
trong HĐTH mà giáo viên mầm non đã sử dụng khi tổ chức hoạt động cho trẻ.
Tìm hiểu về việc lập kế hoạch tổ chức giờ HĐTH cũng như những khó
khăn cơ sở thường gặp khi tổ chức hoạt động này.
6.2.3. Phương pháp điều tra Anket
Sử dụng nhằm thu thập ý kiến, nhận thức của giáo viên mầm non về
phương pháp, hình thức tổ chức phát triển tính sáng tạo trong HĐTH của trẻ.


4

6.2.4. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm
Nghiên cứu sản phẩm nhằm phát hiện ra những kỹ năng, kỹ xảo mà trẻ
đã sử dụng khi tạo hình. Qua sản phẩm xác định tính sáng tạo của trẻ cũng
như thái độ của trẻ thể hiện trong sản phẩm.
6.2.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Áp dụng những biện pháp hướng dẫn tổ chức sử dụng NVLTN trong
HĐTH nhằm phát huy tính sáng tạo cho trẻ mẫu giáo lớn và nhằm kiểm tra
hiệu quả của các biện pháp đã đề xuất.
6.2.6. Phương pháp thống kê toán học
Nhằm xử lý các số liệu nghiên cứu: Tổng hợp số liệu, tính phần trăm, độ
lệch chuẩn, lập biểu bảng,…


5

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lý luận của đề tài

1.1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Giáo dục Mầm non là mắt xích đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc
dân, có vai trị và nhiệm vụ vơ cùng quan trọng. Đặt nền móng đầu tiên cho
sự phát triển nhân cách con người. Vì vậy, nếu thực hiện tốt việc chăm sóc,
giáo dục trẻ, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc giáo dục trẻ ở những bậc
học tiếp theo.
Trẻ mầm non tham gia vào các hoạt động, thông qua hoạt động thỏa
mãn nhu cầu khám phá thế giới xung quanh và hình thành những yếu tố của
tâm lý, nhân cách. Theo lý thuyết về hoạt động là cốt lõi của học thuyết
Mác xít về con người đã nêu rõ: Hoạt động là mối quan hệ qua lại giữa con
người và thế giới để tạo ra sản phẩm về phía thế giới và phía con người
thơng qua hai q trình xuất tâm và nhập tâm. Như vậy tâm lý, ý thức, nhân
cách được bộc lộ và hình thành thơng qua hoạt động. Vì thế để giúp trẻ
phát triển tồn diện cần giúp trẻ tích cực tham gia hoạt động để nhận thức
thế giới khách quan.
Nhận thức được vai trị, vị trí của tính sáng tạo trong HĐTH của trẻ, đã
có nhiều cơng trình nghiên cứu tìm kiếm những biện pháp có hiệu quả để phát
huy tính sáng tạo trong nhận thức của trẻ.
1.1.1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ở nước ngoài.
Theo những quan điểm xa sưa, sáng tạo thường gắn với những tài năng
suất chúng trong các lĩnh vực khoa học và kỹ thuật như: Mooza, Newtown,
Anhtanh, Leonarda Vinci… những danh nhân sáng tạo ra những vấn đề khoa
học lớn, những tác phẩm vĩ đại. Vì vậy các nhà khoa học trước đây khi
nghiên cứu vấn đề sáng tạo chỉ tập chung mơ tả, giải thích sơ bộ dựa trên cơ
sở các hồi ký, tiểu sử, các tác phẩm văn học mang tính tự thuật của các danh
nhân chứ chưa đi sâu vào bản chất, quy luật của hoạt động sáng tạo. Trong


6


khi đó sáng tạo thực ra khơng chỉ có ở nơi tạo ra những sản phẩm vĩ đại
của những thiên tài mà ở mỗi cá nhân đều tiềm ẩn những khả năng sáng tạo
nhất định.
Đến thế kỷ XX cùng với những tiến bộ vượt bậc trong các lĩnh vực
khoa học, nhiều ngành khoa học đã ra đời, những thành tựu khoa học được
công bố và lĩnh vực sáng tạo cũng bắt đầu được quan tâm nghiên cứu như là
một hiện tượng phổ biến trong xã hội. Đặc biệt có sự xuất hiện nhu cầu
nghiên cứu hoạt động sáng tạo trong khuân khổ của sự phát triển tâm lý, đặc
biệt là sự phát triển trí tuệ.
Ở các nước xã hội chủ nghĩa tâm lý học xuất phát từ nguyên lý của chủ
nghĩa duy vật biện chứng để nghiên cứu vấn đề sáng tạo, tư duy sáng tạo đã
được tổ chức ở Matxcơva, Praha, Budapest…
Tuy nhiên phải đến những năm 50 của thế kỷ XX vấn đề sáng tạo mới
được nghiên cứu một cách có hệ thống. Từ đó rất nhiều nhà tâm lý học tiến
hành nghiên cứu vấn đề này cùng với sự trợ giúp và đầu tư ngân sách nhà
nước. Nội dung của các cơng trình nghiên cứu đề cập đến những vấn đề cơ
bản của hoạt động sáng tạo như:
- Những tiêu chuẩn cơ bản của hoạt động sáng tạo.
- Sự khác biệt giữa sáng tạo và không sáng tạo.
- Bản chất của hoạt động sáng tạo.
- Quy luật của quá trình sáng tạo.
- Các giai đoạn của quá trình sáng tạo.
- Vấn đề phát triển năng lực sáng tạo và kích thích hoạt động sáng tạo.
1.1.1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ở Việt Nam
Cùng với sự phát triển nghiên cứu vấn đề sáng tạo của các nước. Đảng
và nhà nước ta rất quan tâm đến hoạt động sáng tạo và các tài năng sáng tạo.
Nhiều hoạt động được thể hiện sự chăm lo, bồi dưỡng, khuyến khích những
tài năng sáng tạo được tổ chức hàng năm. Ở bậc học mầm non thường xuyên
hàng năm đã tổ chức các hội thi: “Bé khéo tay”. Đây vừa là điều kiện vừa là



7

cơ sở bước đầu để kích thích phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo
nói chung – trẻ 5-6 tuổi nói riêng.
Năm 1990, viện khoa học giáo dục thuộc Bộ giáo dục và đào tạo là
cơ quan khoa học đầu tiên ở Việt Nam tiến hành nghiên cứu về khả năng
sáng tạo của học sinh nói chung, trẻ mẫu giáo nói riêng. Cho tới nay chúng
ta đã có được một số cơng trình nghiên cứu về khả năng sáng tạo của trẻ
mẫu giáo như: “Ảnh hưởng của tri giác tới tưởng tượng sáng tạo trong hoạt
động vẽ của trẻ 5-6 tuổi” của T.S Lê Thanh Thủy 1996, “Khả năng sáng tạo
của trẻ mẫu giáo và học sinh tiểu học thông qua hoạt động vui chơi và qua
môn kể chuyện” của Th.S Trần Thị Nga, Phạm Thị Thu Hoa nghiên cứu;
“Hoạt động sáng tạo trong hoạt động vui chơi” của G.S Nguyễn Ánh
Tuyết, Ngơ Cơng Hồn.
Năm 1991, trung tâm sáng tạo khoa học kỹ thuật (TSK) được thành lập
tại trường khoa học tự nhiên – Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Hoạt động của trung tâm là: Giảng dạy, đào tạo, nghiên cứu, tư vấn và áp
dụng… những vấn đề thuộc về tư duy và sáng tạo. Hầu hết các phương pháp
luận, thủ thuật sáng tạo cũng như các tài liệu tham khảo mà Trung tâm thực
hiện và sử dụng đều được dựa theo những nghiên cứu của nước ngoài.
Các tác giả như: Lê Thanh Thủy, Trương Thị Bích Hà với một số
nghiên cứu về tưởng tượng sáng tạo. Trong đó những nghiên cứu của tác giả
Lê Thanh Thủy về ảnh hưởng của tri giác tới tưởng tượng sáng tạo trong hoạt
động vẽ của trẻ 5 tuổi. Trò chơi đối với sự phát triển tri giác tưởng tượng sáng
tạo trong hoạt động tạo hình của trẻ mẫu giáo. Mối quan hệ giữa tính tích cực
nhận thức và sự phát triển tính sáng tạo trong hoạt động tạo hình của trẻ 5
tuổi… là cơ sở lý luận quan trọng trong việc nghiên cứu tính sáng tạo của trẻ
mầm non.
Trên cơ sở thấy được vai trị, ý nghĩa vơ cùng quan trọng của HĐTH

đối với trẻ Mầm non, đồng thời đứng trước nhiệm vụ đổi mới nội dung,
phương pháp và hình thức dạy học mầm non. Các cán bộ nghiên cứu, các
giảng viên trường sư phạm, cán bộ quản lý giáo viên Mầm non đã đi sâu


8

nghiên cứu và đưa ra nhiều biện pháp khác nhau nhằm nâng cao tính sáng tạo
cho trẻ ở trường mầm non, đưa các chương trình chăm sóc giáo dục cho trẻ
lứa tuổi mầm non
Khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo thông qua HĐTH là vấn đề hết sức
cần thiết mang ý nghĩa giáo dục cao. Muốn trẻ bộc lộ hết khả năng sáng tạo
thì các nhà giáo dục phải biết sử dụng các loại hình của HĐTH trong đó có
việc sử dụng NVLTN nhằm phát huy tính sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi,
đó là một trong những nhiệm vụ của đề tài mà chúng tôi lựa chọn nghiên cứu.
Qua đề tài chúng tôi hi vọng và mong muốn được góp một phần rất nhỏ vào
sự nghiệp phát triển nguồn nhân lực, cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
1.1.2. Hoạt động tạo hình của trẻ mầm non.
1.1.2.1.Khái niệm tạo hình và hoạt động tạo hình.
Theo Từ điển tiếng Việt (Hồng Phê) thì: Tạo hình là “tạo ra các hình
thể bằng đường nét, màu sắc và hình khối”.
Tạo hình là hoạt động nghệ thuật nói chung, một trong các hoạt động
nghệ thuật quan trọng và được trẻ mầm non yêu thích. Là một hoạt động rất lý
thú và bổ ích, nó giúp trẻ phát triển trí tuệ, dễ dàng hòa nhập – cảm thụ vẻ đẹp
phong phú đa dạng của thế giới xung quanh. Nó rèn luyện phát triển cho trẻ
khả năng sáng tạo ra cái đẹp và đặc biệt là hình thành bồi dưỡng cho trẻ các
cảm xúc tình cảm, thẩm mỹ trí tuệ, một yếu tố cơ bản trong việc hình thành
nhân cách tồn diện.
Tạo hình là mơn học tổng hợp, ở đó trẻ khơng chỉ được rèn luyện kỹ

năng kỹ xảo, phát triển trí tuệ, mà cịn được hình thành các cảm xúc thẩm mỹ,
phát huy được trí tưởng tượng, sáng tạo ở trẻ. Vì thế khi tổ chức hoạt động tạo
hình cho trẻ cần đưa ra các phương pháp, biện pháp và cách thức sao cho phù
hợp với tâm lý trẻ. Không nên đưa các nội dung quá khó khăn hoặc quá dễ
đến trẻ, vì điều đó sẽ làm ảnh hưởng tới sự phát triển của trẻ.


9

Hoạt động là: “Những việc làm có quan hệ chặt chẽ với nhau nhằm
mục đích chung trong một lĩnh vực nhất định” (theo Từ điển tiếng Việt
(Hoàng Phê)).
Hoạt động là sự tiêu hao năng lượng, thần kinh và cơ bắp của con
người tác động vào hiện thực khách quan nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình
(Theo sinh lý học).
Hoạt động là phương thức tồn tại của con người, là sự tác động một
cách tích cực giữa con người với hiện thực, thiết lập mối quan hệ giữa con
người với thế giới khách quan để tạo ra sản phẩm (Theo tâm lý duy học
biện chứng).
HĐTH là một trong những hoạt động hấp dẫn đối với trẻ mẫu giáo, nó
giúp trẻ tìm hiểu, khám phá và thể hiện một cách sinh động những gì chúng
nhìn thấy ở thế giới xung quanh, những gì làm trẻ rung động mạnh mẽ và gây
cho chúng những xúc cảm, tình cảm tích cực.
Như vậy: HĐTH là một dạng hoạt động nghệ thuật nhằm giúp trẻ nhận
biết và phản ánh thế giới xung quanh thông qua những hình tượng nghệ thuật
nhưng chỉ dừng lại ở mức độ nhằm thỏa mãn nhu cầu, ý thích và phù hợp với
khả năng của trẻ. Hoạt động này là một dạng hoạt động có sản phẩm đặc
trưng của trẻ mầm non.
1.1.2.2. Ý nghĩa của hoạt động tạo hình đối với trẻ mầm non.
HĐTH chính là mơi trường, một phương tiện để hình thành ở trẻ những

cơ sở ban đầu của hoạt động học tập ở trường phổ thông.
- Trong hoạt động vẽ, nặn, xếp dán,… trẻ được bồi dưỡng khả năng độc
lập tổ chức một quá trình hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn để tạo nên
các sản phẩm vật thể: xác định mục tiêu – lựa chọn nội dung – xây dựng kế
hoạch – tìm kiếm thơng tin phương thức tạo hình và tổ chức quá trình hoạt
động thực hiện dự định tạo hình.
- HĐTH giúp hình thành và rèn luyện ở trẻ khả năng đánh giá và tự đánh
giá: khả năng đánh giá, tự đánh giá thẩm mỹ được bồi dưỡng không chỉ khi đã


10

kết thúc q trình tạo hình, đã có sản phẩm hồn thiện mà cịn được thực hiện
ngay từ khi bắt đầu các quá trình quan sát, và trong quá trình thể hiện.
- HĐTH góp phần khơng nhỏ trong việc chuẩn bị cho trẻ vốn kiến thức
sơ đẳng về tự nhiên, xã hội, khoa học kỹ thuật để giúp trẻ nhanh chóng làm
quen với các mơn học mới mẻ ở trường phổ thơng.
- Việc bồi dưỡng các kỹ năng tạo hình, đặc biệt là rèn luyện các kỹ năng
đồ họa trên các giờ vẽ, tập nặn sẽ giúp phát triển ở trẻ khả năng phối hợp,
điều chỉnh hoạt động của mắt và tay, rèn luyện sự khéo léo, linh hoạt trong
vận động của tay, từ đó giúp cho việc học viết ở trường phổ thơng sẽ đạt kết
quả tốt.
- HĐTH góp phần chuẩn bị về tâm lý cho trẻ bước vào học tập ở trường
phổ thông: hoạt động này giáo dục ở trẻ lòng ham muốn nhận thức, ham
muốn tiếp thu những điều mới lạ, những phương thức hoạt động mới, giúp trẻ
hình thành thói quen học tập một cách có mục đích, có tổ chức, biết lắng nghe
và thực hiện lời chỉ bảo của thầy cô. HĐTH là môi trường cho trẻ rèn luyện
năng lực điều khiển hành vi của mình nhằm thực hiện nhiệm vụ đã đề ra.
1.1.2.3. Đặc điểm hoạt động tạo hình của trẻ mẫu giáo.
Theo tác giả Lê Thanh Thủy [10]: Tạo hình là một loại hình nghệ

thuật hấp dẫn khơng chỉ đối với trẻ em mà có thể nói: Khơng có em nhỏ
nào lại khơng thích ngắm những bức tranh, những đồ chơi đẹp. Đặc biệt trẻ
thích tự mình vẽ hay nặn, xé dán ra những con người, con vật hay những
đồ vật, phong cảnh mà mình thích. Chúng ta thường hay bắt gặp những
“họa sĩ”tí hon say sưa ngồi vẽ hang giờ đồng hồ. Chúng vẽ la liệt ở khắp
mọi nơi như: trên giấy, trên bảng, trên sàn,…và bằng các phương tiện:
phấn, bút chì, bút mực,…
Đối với trẻ mẫu giáo lớn trí nhớ có chủ định đã dần được hoàn thiện
song về căn bản trí nhớ của trẻ vẫn mang bản chất khơng chủ định.
HĐTH của trẻ mẫu giáo khơng nhằm mục đích tạo nên những sản
phẩm phục vũ xã hội, cải tạo thế giới hiện thực mà kết quả lớn nhất của nó là
sự biến đổi, phát triển chính bản thân chủ thể lao động.


11

Ở trẻ 5-6 tuổi tri giác chủ định đã được hình thành. Tuy nhiên trẻ tri
giác hiện thực và thế giới xung quanh chưa hồn thiện và thiếu chính xác,
chưa tự mình phân tích được đặc điểm của đồ vật hoặc bức tranh. Sự tri giác
của trẻ còn phụ thuộc vào mức độ cảm ứng.
Trong cuốn “Lý luận và phương pháp tổ chức HĐTH cho trẻ mẫu giáo”
[11] TS. Lê Thanh Thủy đã khẳng định: Tính duy kỷ là đặc điểm rõ nét nhất
trong HĐTH của trẻ mẫu giáo, điều mà trẻ quan tâm hơn cả là “vẽ cái gì” chứ
không phải là “vẽ như thế nào”. Trẻ với sự hồn nhiên sẵn sàng vẽ bất cứ cái
gì, khơng biết sợ, khơng biết tới những khó khăn trong miêu tả. Chúng có thể
cầm bất cứ thứ gì như que, viên phấn, bút vạch trên giấy hoặc đất những nét
nghuệch ngoạc, chúng thích thú và ngạc nhiên khi mình tạo ra những nét
ngoằn nghèo đó, cứ như việc chúng chơi với vật liệu và sản phẩm mà chúng
vừa tạo ra đó là những tác phẩm kỳ diệu, đường nét bất ngờ đó đã kích thích
chúng tích cực hoạt động hơn.

Tính khơng chủ định trong qua trình tâm lý cũng tạo cho trah vẽ của trẻ
mẫu giáo có những nét khác biệt so với tranh của người lớn. Thực tế cho thấy
trong hoạt động của trẻ mẫu giáo chưa có khả năng độc lập suy tính cơng việc
sắp tới một cách chi tiết mà các ý tưởng tạo hình thường xuất hiện trong óc trẻ
một cách tình cờ. Khi bắt gặp một hình ảnh, một sự vật gây ấn tượng, hấp
dẫn, hướng thú ở trẻ nảy sinh ý muốn miêu tả lại chúng. Để thực hiện được ý
định đó trẻ cũng phải đề ra kế hoạch chung song các kế hoạch đó thường bị
thay đổi bởi các yếu tố ngẫu nhiên trong quan sát, trong trí nhớ hoặc trong
cảm xúc.
Chú ý, trí nhớ, tưởng tượng thể hiện trong khi vẽ, nặn, cắt dán,… trẻ
thường trú tâm vào biểu hiện nội dung các ý định, trẻ thường vẽ rất say sưa
nhưng khác với người lớn, vẽ xong từng chi tiết trẻ hầu như khơng quay lại,
khơng quan tâm tới những gì đã vẽ, không biết sửa sang tô vẽ lại. Tranh vẽ
của trẻ thường như một câu chuyện đồ họa, trong câu chuyện đó trẻ thường
bắt đầu bằng một chi tiết nào đó sau thêm dần các chi tiết mới, đôi khi trẻ liên
kết vào tranh một vài hành động, vài sự kiện xảy ra cùng với một nhân vật và


12

kết quả là tạo nên một bức tranh gồm nhiều cảnh, mà nhiều khi người xem
không hiểu được ý nghĩa của nó nếu như khơng có sự giải thích của trẻ.
Trẻ tri giác khi hoạt động thường khó phân biệt với sự vật, nhân vật
chính và khơng biết làm cho chúng nổi bật, trẻ chưa có khả năng thể hiện
chiều sâu của khơng gian, những gì trẻ muốn thể hiện thường được liệt kê trên
một đường thẳng ngang. Đôi khi tranh vẽ của trẻ đã phá vỡ tỉ lệ vì muốn thể
hiện mọi cái thật đúng thật đầy đủ như trẻ đã biết, đã nhớ từ thực tế. Trẻ vẽ cả
những gì khơng thể nhìn thấy bên trong đối tượng vào thời điểm tri giác.
- Ví dụ: Khi trẻ vẽ con mèo trẻ vẽ cả con chuột trong bụng con mèo (trẻ
nhìn thấy con mèo vồ con chuột). Hay khi trẻ vẽ ngôi nhà trẻ vẽ cả bàn, ghế,

giường tủ,… Điều này cho thấy trẻ vẽ tất cả những gì trẻ biết mà khơng phải
những gì trẻ thấy chứng tỏ trẻ mẫu giáo vẫn còn hạn chế trong việc thể hiện
các mối quan hệ khơng gian.
1.1.3. Tính sáng tạo của trẻ mầm non trong hoạt động tạo hình.
1.1.3.1.Một số vấn đề chung về sáng tạo.
a, Khái niệm về sáng tạo.
Sáng tạo được coi là dạng hoạt động đặc biệt, biểu hiện cao nhất trong
đời sống tâm hồn con người. Sức sáng tạo và trình độ sáng tạo của con người
quy định trình độ phát triển của sức sản xuất xã hội. Xã hội phát triển, con
người văn minh hơn, bình đẳng hơn, được tự do phát triển khả năng của mình
hơn, đồng thời địi hỏi của xã hội về sự sáng tạo của mỗi cá nhân cũng ngày
càng cao hơn. Vì vậy sáng tạo được xem là cơ chế của sự phát triển và sáng
tạo là cuộc sống – cuộc sống là sáng tạo.
Ngồi ra hoạt động sáng tạo cịn có vai trị quan trọng trong sự phát
triển nhân cách. Các cơng trình nghiên cứu đã đưa ra kết luận: Hoạt động
sáng tạo làm biến đổi một số chức năng tâm lý cơ bản của con người đã tạo ra
những trạng thái tâm lý đặc biệt có vai trị quan trọng và tích cực trong sự
phát triển nhân cách.
Sáng tạo là gì? Câu hỏi này đã thu hút sự quan tâm, tìm kiếm và sự lý
giải của rất nhiều nhà nghiên cứu.


13

Sáng tạo (Creation) là tạo ra giá trị mới” .Từ “sáng tạo” có gốc từ tiếng
la tinh là “crearus” có nghĩa là sự biến đổi, đi đến trưởng thành.
Trong từ điển tiếng Việt thông dụng, sáng tạo được quan niệm: “Làm
ra cái mới chưa ai làm (sáng tạo ra con tàu vũ trụ). Tìm tịi làm cho tốt hơn
mà khơng bị gị bó, có đầu óc sáng tạo”. Ở đây sáng tạo đã được hiểu theo
một nghĩa rộng hơn nữa, khơng chỉ tạo ra một cái mới hồn tồn mà cịn có

thể tìm tịi và phát triển cái đã có cho tốt hơn.
Trong cuốn từ điển triết học của nhà xuất bản tiến bộ Matxcơvacos
viết: Quá trình hoạt động của con người tạo nên giá trị tinh thần và vật chất
mới về chất. Ở đây sáng tạo được hiểu là cái gì đó ln gắn bó với cái mới, nó
vượt ra những kinh nghiệm cũ. Tuy nhiên không nên biểu hiện một cách máy
móc là cái mới hồn tồn khơng có gì liên quan tới cái cũ mà cần hiểu rằng
kinh nghiệm cũ là sự khởi đầu của sự sáng tạo, cái mới ra đời bằng cách kế
thừa và phát triển cái cũ.
Trong thực tế còn rất nhiều các nhà khoa học đã đưa ra các khái niệm
về sáng tạo cả ở trên thế giới và ở Việt Nam.
Nhà tâm lý học L.X Vưgốtxki đã quan niệm: “Hoạt động sáng tạo là
hoạt động tạo ra được một cái gì mới, khơng kể cái được tạo ra một vật nào
đó của thế giới bên ngồi hay một cấu tạo nào đó của trí tuệ hoặc tình cảm,
đời sống và biểu lộ trong bản thân con người”. Sáng tạo là sự phối hợp các
yếu tố và tạo nên một hệ thống mới - đây là cơ sở của sự sáng tạo.
Trong cuốn Khơi gợi tiềm năng sáng tạo của tác giả Nguyễn Cảnh
Tồn đã chỉ ra rằng: sáng tạo có nghĩa là tìm ra cái mới, cách giải quyết mới,
khơng bị gị bó phụ thuộc vào cái có sẵn. Như óc sáng tạo, áp dụng có sáng
tạo kinh nghiệm của người nước ngồi.
Theo tác giả Nguyễn Huy Tú [13] thì “sáng tạo thể hiện khi con người
đứng trước hồn cảnh có vấn đề. Quá trình này là tổ hợp các phẩm chất và
năng lực và nhờ đó con người trên cơ sở kinh nghiệm và bằng tư duy độc lập
tạo ra được ý tưởng mới, độc đáo, hợp lý trên bình diện cá nhân hay xã hội. Ở


14

đó người sáng tạo gạt bỏ được các giải pháp truyền thống để đưa ra những
giải pháp mới độc đáo và thích hợp cho vấn đề đặt ra.”
Trong cuốn sách “Tâm lý học, mỹ học hiện đại” của G.S đại học Bắc

Kinh Chu Quang Tiềm [15] có viết: “Khi nói đến sáng tạo, tức không phải
chỉ làm sống lại những kinh nghiệm cũ mà chính là nó bao hàm những yếu
tố mới.
Vậy theo quan điểm này thì các sản phẩm của hoạt động sáng tạo rất
muôn màu muôn vẻ, mang ý nghĩa khác nhau không cái nào giống cái nào mà
nó mang tính chất độc đáo riêng. Trong cuốn từ điển tiếng Việt ( Hồng Phê)
có viết: Nói đến sáng tạo là nói đến việc làm ra cái mới chưa ai làm hoặc là
việc tìm tịi làm cho tốt hơn mà khơng bị gị bó.
Nhìn chung tất cả các quan điểm của các nhà nghiên cứu đã trình bày ở
trên về sáng tạo đều nhấn mạnh đến cái mới và ý nghĩa xã hội của sản phẩm
sáng tạo, tuy nhiên mỗi tác giả lại phân tích cái mới ở nhiều góc độ khác nhau
có nhiều tác giả quan tâm đến cái mới của sản phẩm hoạt động, có ý kiến lại
chú trọng tới cách thức và quá trình tạo ra cái mới đó. Song cái mới cũng có
nhiều mức độ: Có cái mới đối với tồn xã hội và có cái mới chỉ là với bản
thân người sáng tạo ra nó. Mặc dù có nhiều điểm khác biệt, song hầu hết các
tác giả đều nhấn mạnh ý nghĩa của hoạt động sáng tạo, sản phẩm sáng tạo đối
với sự phát triển con người và xã hội.
Tóm lại, các nhà nghiên cứu ở trong và ngoài nước đã đưa ra các định
nghĩa khác nhau về sáng tạo. Các định nghĩa đó đều có chung một khẳng định
rõ ràng đó là: “Sáng tạo là tạo ra cái mới” và mỗi tác giả đã có một cách lý
giải khác nhau về cái mới đó.
Qua tìm hiểu các khái niệm trên về sáng tạo của các nhà nghiên cứu,
theo chúng tơi sáng tạo có thể hiểu là: quá trình con người vận dụng những
kinh nghiệm của bản thân, độc lập đưa ra những ý tưởng mới lạ hoặc cải tạo
và biến đổi những sản phẩm có sẵn để tạo ra những sản phẩm mới nhằm phục
vụ cho lợi ích chính đáng của bản thân và của xã hội.
b, Bản chất của sáng tạo.


15


Sự xuất hiện cái mới là do nhu cầu phát triển đã chín muồi và cái mới
bao giờ cũng xuất hiện trong lịng cái cũ, có mầm mống từ cái cũ. Như vậy
nhu cầu kích thích hoạt động sáng tạo là lịng ham hiểu biết cái mới và khơng
bằng lịng với cái gì hiện có nó xuất hiện từ lịng hiếu kỳ và sự bất toại.
Có thể nói rằng tình huống có vấn đề làm nảy sinh hoạt động sáng tạo
và khi ta giải quyết một vấn đề có nghĩa là ta đã tạo ra một phản ứng độc đáo
và mới mẻ ít ra là đối với bản thân. Điều này cũng cho thấy, ranh giới giữa
hoạt động sáng tạo và hoạt động tư duy là không lớn lắm.
Bản chất xã hội của hoạt động sáng tạo đã được thừa nhận: “Khơng có
một thiên tài nào ở ngồi cái ổ của cuộc sống vĩ đại, cuộc sống lao động và
đấu tranh gian khổ, dũng cảm của muôn triệu con người làm nên lịch sử.
Thiên tài là gì nếu khơng phải là hương của hoa, núi của đất, là sự kết tụ ở
mức độ nào đó trí tuệ của con người.
Như vậy nguyên nhân, nguồn gốc của hoạt động sáng tạo là nhu cầu
của xã hội, nhu cầu của con người: “Có khó khăn, con người có nhu cầu giải
quyết nhiệm vụ mới vì vậy con người phải tìm tịi, phải khám phá, phải nỗ lực
vượt khó khăn để hồn thành nhiệm vụ do đó mà diễn ra hoạt động sáng tạo.
Theo nhà soạn nhạc Traicôpxki đã nhận định: “Cảm hứng là vị khách
khơng muốn đến thăm những kẻ lười biếng”.
Tóm lại, cũng như các hiện tượng tâm lý khác sáng tạo của con người
cũng có nguồn gốc từ hiện thực khách quan và mang bản chất xã hội lịch sử.
Sáng tạo là quá trình lao động vất vả của con người nhằm cải thiện cuộc sống
thúc đẩy xã gội phát triển, đó là hoạt động có ý thức, có mục đích của con
người, hồn tồn khơng phải là một khả năng huyền bí hay sự may mắn nào.
c, Sản phẩm sáng tạo.
Kết quả của bất kỳ một hoạt động nào cũng là sản phẩm, chỉ khác
nhau ở chỗ sản phẩm sáng tạo hay khơng sáng tạo. Có thể khẳng định rằng kết
của hoạt động sáng tạo bao giờ cũng là sản phẩm sáng tạo.
Một vấn đề được đặt ra là sản phẩm trong mọi hoạt động của trẻ em có

được gọi là sản phẩm sáng tạo không? Điều này được nhiều nhà khoa học


16

quan tâm, họ cho rằng nếu xét nghiêm ngặt theo chỉ số của hoạt động sáng tạo
thì sản phẩm của trẻ chưa được gọi là sản phẩm sáng tạo, vì vậy một số tác
giả đã loại bỏ thuật ngữ “sáng tạo của trẻ” thay bằng thuật ngữ “tiền sáng tạo”
để chỉ hoạt động sáng tạo của trẻ em. Hiện nay các nhà tâm lý học quan tâm
nghiên cứu phân biệt hai loại sản phẩm sáng tạo sau:
- Sản phẩm sáng tạo có giá trị một cách khách quan, là những sản phẩm
mới độc đáo có ý nghĩa xã hội lịch sử.
- Sản phẩm sáng tạo có giá trị chủ quan. Đó là những sản phẩm chưa
mang lại ý nghĩa xã hội, chưa mang đến xã hội cái mới, độc đáo, nhưng sản
phẩm đã có ý nghĩa đáng kể đối với sự phát triển nhân cách của chính cá nhân
tạo ra sản phẩm đó. Sản phẩm sáng tạo của trẻ thuộc loại này.
d, Môi trường sáng tạo.
Môi trường là vườn ươm mầm, sáng tạo là điều kiện bên ngoài của
hoạt động sáng tạo. Nó có một vai trị quan trọng trong việc hình thành nhân
cách sáng tạo, một mơi trường tốt sẽ có tác dụng làm tăng cường củng cố và
phát triển các thuộc tính tâm lý cá nhân, nếu trong một mơi trường xấu sẽ có
ảnh hưởng khơng tốt đến sự phát triển các thuộc tính tâm lý cá nhân và kìm
hãm hoạt động sáng tạo.
Ngồi mơi trường tự nhiên, mơi trường gia đình là điều kiện khơng thể
thiếu để hỗ trợ cá nhân sáng tạo. Trong tuổi thơ ấu thì giáo dục gia đình có
ảnh hưởng lớn đến phát triển năng lực nói chung và năng lực sáng tạo nói
riêng. Gia đình là mơi trường xã hội đầu tiên của trẻ, nếu gia đình hạnh phúc
thì đó là điều kiện thuận lợi để trẻ phát triển và bộc lộ khả năng sáng tạo.
Khi trẻ lớn đến tuổi đi học thì hệ thống giáo dục trong nhà trường có
vai trị quan trọng trong việc phát hiện và phát huy khả năng sáng tạo của học

sinh. Qua các thử nghiệm nghiên cứu nhiều nhà tâm lý học đã rút ra kết luận:
Có thể phát triển khả năng sáng tạo của mỗi học sinh nếu như có sự tác động
phù hợp của các nhà sư phạm.
Việc tạo ra khơng khí sáng tạo trong xã hội bằng việc giáo dục lòng
ham hiểu biết, sự ham thích tự tìm tịi phát triển khả năng sẵn sàng nắm bắt


17

mọi cái mới, tận dụng những thành tựu sáng tạo của người khác, trên cơ sở đó
phát triển khả năng sáng tạo của mình. Như vậy quan điểm này khơng chỉ phù
hợp và đúng đắn với người lớn và đối với trẻ mẫu giáo việc tổ chức dạy và
học không chỉ giúp trẻ tích lũy vốn hiểu biết mà cần phải khuyến khích, động
viên phát triển ở trẻ lịng ham muốn, sự say mê, ý chí quyết tâm thực hiện
cơng việc đến cùng. Đó chính là tiền đề cho những thành công trong hoạt
động sáng tạo ở mỗi con người.
Các nhà tâm lý học cũng đã chỉ ra kẻ thù số một của sáng tạo là sự sợ
hãi, thiếu tự tin, điều này đã làm thui chột đi ở con người trí tưởng tượng và
những sáng kiến mới, tiếp đó là sự phê bình quá mạnh mẽ và sự lười biếng.
Chính vì vậy, ngay từ khi cịn nhỏ các nhà giáo dục cần có niềm tin rằng ở
mỗi học sinh đều có tiềm năng sáng tạo, cần phải rèn luyện, dạy trẻ, cho trẻ
niềm u thích hoạt động, thói quen làm việc kiên trì và nghị lực vượt khó
khăn để đạt được mục tiêu đã đặt ra.
1.1.3.2. Một số vấn đề về sáng tạo ở lứa tuổi mẫu giáo.
* Khái niệm về sáng tạo của trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo.
Ở một đứa trẻ thì tính sáng tạo lại là chính là khi trẻ bắt đầu tái tạo, bắt
trước, mơ phỏng một điều gì đó và thường khơng có tính chủ định. Sự sáng
tạo của trẻ em phụ thuộc nhiều vào xúc cảm, vào tình huống và thường kém
bền vững.
L.X Vưgốtxki cho rằng: “ Khi trong đầu trẻ xuất hiện ý định chơi và

mong muốn tìm kiếm phương tiện để thực hiện nó có nghĩa là đứa trẻ đã bộc
lộ tính sáng tạo trong hoạt đơng chơi của nó”.
Có thể nói, sự sáng tạo của trẻ em khơng có nghĩa là tạo ra một cái mới
mà chỉ cần trẻ có nhu cầu chơi, có ý định chơi và tìm cách để chơi là trẻ đã có
sáng tạo. Như vậy, ở trẻ nhỏ sự sáng tạo phát triển từ kinh nghiệm của trẻ
trong một q trình nào đó chứ khơng phải ở một sản phẩm hoàn chỉnh.
* Đặc điểm sáng tạo của trẻ mẫu giáo.
Trẻ mẫu giáo đang ở thời kỳ phát triển mạnh mẽ về thể chất lẫn tinh
thần, các mối quan hệ xã hội, thời kỳ này rất quan trọng đối với việc hình


18

thành và phát triển nhân cách. Tuy nhiên những công trình nghiên cứu về
sáng tạo của trẻ trước tuổi học cịn rất ít. Ngun nhân chính của hiện tượng
này là những khó khăn trở ngại mà các nhà tâm lý học vấp phải khi làm việc
với trẻ ở lứa tuổi này:
- Khó khăn trong việc thực hiện điều tra, khảo sát hàng loạt trẻ.
- Khó khăn trong việc quan sát hoạt động của trẻ trong khơng gian và
thời gian.
- Khó thiết lập được mối quan hệ thiện cảm với trẻ trong hợp tác
nghiên cứu.
- Khó khăn trong việc sử dụng phương pháp chẩn đoán tâm lý,, trắc
nghiệm khi trẻ chưa biết đọc, biết viết.
Để đánh giá khả năng sáng tạo của trẻ người ta cũng căn cứ vào 4 chỉ số:
Nhanh, linh hoạt, chi tiết, độc đáo.
- Nhanh nhạy: Thể hiện khả năng nhanh chóng, dễ dàng tạo ra hình ảnh,
ý nghĩa, sáng kiến về một đề tài cho trước trong một thời gian quy định.
- Linh hoạt: thể hiện khả năng sáng tạo ra các cách giải quyết khác nhau
với cùng một bài tập trong cùng một thời gian quy định.

- Chi tiết: Thể hiện khả năng sáng tạo ra sản phẩm với nhiều chi tiết, tỉ
mỉ, công phu.
- Độc đáo: Thể hiện khả năng tạo ra cách giải quyết bất ngờ trong hoàn
cảnh tự nhiên.
Thực tiễn cho thấy, khả năng sáng tạo của những thiên tài thường xuất
hiện từ rất sớm: Mozart 3 tuổi đã tự mình hịa âm trên đàn và đánh lại những
bản nhạc mà mình vừa nghĩ được, 5 tuổi đã sáng tác nhạc và 8 tuổi đã viết
được những bản xônat, giao hưởng đầu tiên, 14 tuổi đã được bầu vào viện hàn
lâm Bôlơnhơn. Rêpin 3 tuổi đã cắt được hình đẹp và 6 tuổi đã vẽ được tranhh
sơn dầu có tiếng. Newtơn 8 tuổi đã biết làm trò chơi cơ học khiến cho mọi
người phải ngạc nhiên.
Giáo dục sáng tạo nhằm tạo điều kiện cho mỗi cá nhân thực hiện khát
vọng, khơi dậy, củng cố và phát triển tiềm năng. Đối với trẻ trước tuổi học


19

giáo dục là cần phải đưa ra các phương pháp, biện pháp phù hợp, tích cực để
tạo hứng thú, động viên, khuyến khích các em phát huy và phát triển khả năng
cuả mình qua các hoạt động vui chơi, tạo hình, âm nhạc,… góp phần hình
thành nhân cách và tạo cơ sở, tiền đề cho những hoạt động sáng tạo ở giai
đoạn sau.
1.1.3.3. Vai trị hoạt động tạo hình trong sự phát triển của trẻ mẫu giáo nói
chung và tính sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi nói riêng.
Vẽ, nặn, cắt dán là những dạng khác nhau của HĐTH, có một ý nghĩa
khơng nhỏ đối với việc hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ
mẫu giáo.
Giáo dục thông qua HĐTH cho trẻ là sự bồi dưỡng khả năng nhận thức
hiện thực có tính chất chun biệt bằng hình ảnh, nó có vai trị to lớn trong
giáo dục trí tuệ cho trẻ. Trước khi tiến hành cho trẻ em vẽ, nặn một vài vật gì

đó, trẻ được làm quen, tìm hiểu vật, ghi nhớ hình dạng, kích thước, cấu trúc,
màu sắc và cách sắp xếp, sắp đặt các phần của vật một cách có mục đích.
Trong tạo hình trẻ tái tạo lại các hình tượng quen thuộc đã tri giác trong
cuộc sống, đó chính là những biểu tượng được hình thành trong quá trình
nhận thức trực tiếp từ đồ vật, hiện tượng trong khi vui chơi, khi tiếp thu vốn
sống, vốn kinh nghiệm. Thông qua việc mô tả lại sự vật, hiện tượng bằng
tranh vẽ, tranh xé dán, sản phẩm nặn mà trẻ nhận biết được những thuộc tính
và khả năng biểu cảm khác nhau của vật liệu như lá, cây cỏ, sỏi, hạt, giấy,
bút, màu, đất nặn,
Như vậy, HĐTH đã góp phần đáng kể trong việc hình thành và phát
triển ở trẻ các thao tác tư duy (phân tích, so sánh, tổng hợp, khái qt hóa),
phát triển tư duy trực quan hình tượng, phát triển trí nhớ, trí tưởng tượng sáng
tạo. Trong q trình phân tích tác phẩm thì trẻ em nắm được tên gọi các hình,
các màu sắc của sự vật, hiện tượng, trẻ tự kể về các sản phẩm mà mình tạo ra,
nhận xét đánh giá sản phẩm của bản thân và của bạn. Sức hấp dẫn, thu hút của
những nhân vật mang hình ảnh văn thơ, nét đặc trưng thẩm mỹ của đồ vật đã
thúc đẩy ngơn ngữ mạch lạc, giàu hình ảnh và sức biểu cảm của các em.


20

HĐTH giúp trẻ phân biệt cái tốt, cái xấu, cái thiện, cái ác, rèn luyện
được đức tính kiên trì, bền bỉ và thói quen làm việc có mục đích. Qua việc
hòa đồng trong đời sống tập thể mà các em hình thành tinh thần đồn kết,
tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau và tính cởi mở với bạn bè.
Hơn nữa, HĐTH là một hoạt động mang tính nghệ thuật rất cao, thông
qua các giờ hoạt động này đã phát triển ở trẻ khả năng cảm thụ thẩm mỹ và
bồi dưỡng cho các em những xúc cảm với cái đẹp.
Đặc biệt là đối với trẻ mẫu giáo lớn (5-6 tuổi), các em đang ở giai đoạn
phát triển mạnh về tư duy, nhất là tư duy trực quan hình tượng, rồi tư duy trừu

tượng cũng đang được hình thành và phát triển. Do vậy HĐTH của các em
đang tiến dần tới việc thực hiện, mất dần tính chủ quan, trẻ thích xây dựng
hình tượng theo ý mình bằng vốn kinh nghiệm đã có. Nhà sư phạm cần tổ
chức tất cả các quá trình mà nó gắn liền với việc xây dựng một hình tượng
diễn cảm, với sự tri giác thẩm mỹ, sự hình thành biểu tượng về đặc điểm
hình dáng chung các vật, với việc giáo dục khả năng tưởng tượng sáng tạo
trên cơ sở những biểu tượng sẵn có và việc nắm vững những tính chất diễn
cảm của màu sắc, đường nét, hình dạng với việc trẻ em thể hiện ý đồ của
mình vào vẽ, nặn, cắt dán,… có như vậy mới phát triển hết các tiềm năng
sáng tạo ở các em.
Như vậy HĐTH có một vai trị rất quan trọng trong các hoạt động ở
trường mầm non. HĐTH có tác dụng to lớn trong việc giáo dục toàn diện của
trẻ ở tất cả các mặt: thể chất, đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ, tình cảm xã hội.
1.1.3.4. Sự phát triển tính sáng tạo trong hoạt động tạo hình của trẻ mẫu giáo.
Ngay từ khi cịn rất nhỏ, trẻ đã có những biểu hiện tích cực đối với
HĐTH. Màu sắc trong các sản phẩm của trẻ vui tươi hấp dẫn bởi những màu
nguyên chất ít pha trộn, thậm trí trẻ lấy nguyên vật liệu từ thiên nhiên để tạo
thành sản phẩm mô tả thế giới xung quanh đó là những đặc trưng cơ bản riêng
biệt trong sáng tạo của trẻ mẫu giáo.


21

Dựa vào kết quả nghiên cứu về quá trình phát triển khả năng sáng tạo
của trẻ trong hoạt động. Chúng ta có thể phân chia tồn bộ q trình phát triển
sáng tạo trong HĐTH của trẻ làm 4 bậc như sau:
a, Giai đoạn sơ đồ:
Ở giai đoạn này trẻ mô tả những hình sơ đồ về sự vật, khơng phụ
thuộc vào diễn tả sự thật, bởi trẻ mô tả theo trí nhớ điều mà trẻ biết về sự vật
chứ tuyệt nhiên khơng phải là cái mà trẻ đang nhìn thấy.

b, Giai đoạn nảy sinh ý thức về hình thức và đường nét:
Trẻ không chỉ liệt kê những dấu hiệu cụ thể của đối tượng được
miêu tả, mà diễn tả tương quan hình thức giữa các bộ phận. Sản phẩm của
trẻ vừa mang tính chất sơ đồ vừa xuất hiện mầm nống của các miêu tả
giống hiện thực.
c, Giai đoạn miêu tả giống thật:
Giai đoạn này hình mơ tả sơ đồ đã hồn tồn biến khỏi bức tranh của
trẻ, trẻ mơ tả hình thực của đối tượng.
d, Miêu tả tạo hình những bộ phận riêng biệt:
Trong giai đoạn này trẻ mô tả bằng cách diễn tả ánh sáng và bóng tối,
phép phối cảnh xuất hiện.
HĐTH là một hoạt động nghệ thuật, trong giáo dục “con đường” đi đến
trái tim ngắn nhất, nhanh nhất là “con đường” nghệ thuật. Thông qua HĐTH
đã giáo dục cho trẻ tình yêu đối với thiên nhiên đất nước con người, hình
thành ở trẻ khả năng cảm thụ về cái hay cái đẹp của cuộc sống xung quanh và
khả năng tạo ra cái đẹp. Nhiệm vụ đặt ra cho các cô giáo mầm non là cần phải
tiến hành tổ chức HĐTH cho trẻ một cách khoa học, hợp lý, phù hợp để phát
huy khả năng sáng tạo của trẻ, tạo điều kiện tốt cho trẻ phát triển các giai
đoạn tiếp.
1.1.3.5. Biểu hiện về tính sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi thông qua
HĐTH bằng việc sử dụng nguyên vật liệu thiên nhiên.
Trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong HĐTH bằng việc sử dụng NVLTN đã biết
sắp xếp hợp lý các bài tạo hình theo mẫu, theo đề tài miêu tả được từ đơn giản


22

đến phức tạp: thể hiện theo thứ tự các bộ phận chính tới các chi tiết phụ, thể
hiện liền mạch bắt đầu từ một chi tiết bất kỳ trong cấu trúc
Trẻ đã biết thể hiện sản phẩm của mình gắn với khung cảnh xung

quanh và cuộc sống của trẻ ở trường mầm non, ở gia đình. Cùng với cơ hướng
dẫn trẻ đã có thể tạo nên các bộ sưu tập được làm từ NVLTN. Ví dụ trong chủ
đề động vật trẻ đã làm được tranh con gà trống từ hạt đỗ nhỏ, chú kiến từ hạt
nhãn… Trẻ đã thể hiện sinh động các hình thể, màu sắc, ánh sáng, nhịp điệu,
trong việc làm đẹp cho môi trường sống của trẻ.
Các bé đã biết trình bày ý kiên riêng của mình, nhanh trí suy nghĩ, phán
đốn xử lý nhiệm vụ tạo hình theo cách của mình. Sau khi trẻ hồn thành các
bài tạo hình theo đề tài ta có thể nhận ra sự khác biệt giữa sản phẩm của các
trẻ: Màu sắc, cách bài trí… nó thể hiện tính sáng tạo của chúng.
1.1.4. Sử dụng nguyên vật liệu thiên thiên trong hoạt động tạo hình.
Thiên nhiên có một ý nghĩa vơ cùng quan trọng đối với cuộc sống của
con người. Thiên nhiên chính là nguồn gốc tạo nên những của cải vật chất
cũng như văn hóa tinh thần. Những tiềm năng giàu có của thiên nhiên chính là
cơ sở của sự phát triển kinh tế, văn hóa của xã hội lồi người.
Thiên nhiên xung quanh chúng ta rất phong phú và đa dạng với sự sặc
sỡ của các sắc, màu, ánh áng, hình dạng. Do vậy việc tiếp xúc và quan sát,
cảm nhận được sự hài hòa và phong phú của sắc màu, hình thể, âm thanh
trong thiên nhiên và các hiện tượng thiên nhiên sẽ gợi lên ở con người, ở trẻ
niềm vui sướng, những cảm xúc thẩm mỹ lành mạnh.
Nguyên vật liệu thiên nhiên (NVLTN) là những nguyên vật liệu sẵn có
trong tự nhiên ở xung quanh ta như: lá, hoa, quả, hạt, các vật liệu thiên nhiên
khác: sỏi, đá, vỏ ốc, hến, lông gà… được con người sử dụng vào mục đích
của mình để tạo ra những sản phẩm sử dụng trong HĐTH cho trẻ, hay phục
vụ nhu cầu khác của họ.
Từ mẫu giáo, bé đã có thể làm quen với các NVLTN và sử dụng trong
hoạt động tạo hình. Cụ thể là các trị chơi chắp ghép, nặn...


23


Sử dụng NVLTN trong hoạt động tạo hình, các nhà sư phạm sẽ có
nhiều cơ hội, điều kiện để phát triển ở trẻ trí tưởng tượng sáng tạo, thị hiếu
thẩm mỹ. Đi đơi với nó trẻ sẽ có hứng thú vì được tiếp xúc với loại nguyên
vật liệu phong phú về màu sắc, hình dạng... Từ đây, trẻ sẽ tạo ra các sản phẩm
tạo hình có chất lượng cao từ vật liệu thiên nhiên có thể xây dựng nên các
hình ảnh hình tượng được thể hiện ở khơng gian 2 chiều.
Ví dụ : Tranh xếp dán bằng lá, cánh hoa khơ...
Và cũng có thể tạo nên các vật thể ở dạng khối thể hiện trong khơng
gian 3 chiều.
Ví dụ : Các mơ hình đồ chơi, đồ dùng bằng que, cành, quả.
Như vậy, sử dụng NVLTN trong HĐTH có nghĩa là chúng ta cần đưa
NVLTN vào HĐTH để trẻ được tiếp xúc từ khi cịn nhỏ. Trẻ có thể được
thỏa sức sáng tạo từ những nguyên vật liệu mà cô cho cháu. Điều này góp
phần nâng cao hứng thú cho trẻ trong HĐTH và phát triển một cách toàn
diện cho trẻ.
- Các loại nguyên vật liệu thiên nhiên sử dụng trong hoạt động tạo hình.
NVLTN được phân chia thành nhiều loại :
+ Hoa, lá
+ Hột, hạt
+ Củ, quả
+ Các chất liệu khác…
Các loại nguyên vật liệu này, dưới sự khéo léo của đơi bàn tay con
người cùng với trí tưởng tượng phong phú, các cơ giáo có thể hướng dẫn
trẻ tạo ra nhiều sản phẩm tạo hình hấp dẫn. Hãy kiên trì và chịu khó một
chút, chúng ta sẽ có những bức tranh thật sinh động.
- Sử dụng NVLTN trong HĐTH nhằm phát huy tính sáng tạo cho trẻ
mẫu giáo lớn.
NVLTN rất phong phú và đa dạng. Sự đa dạng của NVLTN nhằm
khuyến khích tính chủ động sáng tạo của trẻ. Những hoạt động tạo hình liên
quan tới thể hiện màu sắc và biểu tượng như tô mầu, vẽ, và nặn khuyến



24

khích sự tự thể hiện ở trẻ. Những hoạt động này giải toả sự căng thẳng về tinh
thần và luyện tập cơ tay, cơ ngón tay cho trẻ. Thơng qua thao tác, động tác
nhịp nhàng khi trẻ thực hiện làm tăng sự phối hợp giữa mắt và tay. Mặt khác,
để kích thích tính sáng tạo và trí tưởng tượng cho trẻ, thì việc sử dụng các
NVLTN ln là rất thuận lợi; bởi đó là những thứ có sẵn trong mơi trường
xung quanh, dễ kiếm và rất gần gũi với trẻ. Bằng những thứ thông thường,
những vật tưởng chừng như vô tri vơ giác mà trẻ có thể tạo thành những sản
phẩm làm đồ dùng, đồ chơi hàng ngày và trẻ rất hứng thú khi được học, được
chơi bằng sản phẩm do chính bàn tay mình làm ra. Qua đó cũng giáo dục trẻ
yêu lao động, quý trọng công sức lao động.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Mục đích nghiên cứu thực trạng
Mục đích nghiên cứu thực trạng của chúng tơi nhằm tìm hiểu
- Thực trạng sử dụng các biện pháp nhằm phát huy tính sáng tạo cho trẻ
mẫu giáo 5-6 tuổi thông qua việc sử dụng NVLTN trong HĐTH.
- Thực trạng biểu hiện tính sáng tạo của trẻ 5-6 tuổi thơng qua việc sử
dụng NVLTN trong HĐTH .
1.2.2. Địa bàn và khách thể nghiên cứu thực trạng
1.2.2.1. Địa bàn nghiên cứu.
Để đảm bảo tính chung thực, khách quan và chứng cứ thực tiễn trong
nghiên cứu khoa học, chúng tôi tiến hành nghiên cứu ở trường mầm non Phú
Hộ – Thị xã Phú Thọ - tỉnh Phú Thọ.
Đánh giá chung: Trường mầm non Phú Hộ có số lượng giáo viên trình
độ cụ thể: trình độ trung cấp, cao đẳng, và đại học chuyên ngành mầm non, số
lượng trẻ ở các lớp đều khỏe mạnh, tâm sinh lý phát triển bình thường, trẻ đều
được quan tâm dạy dỗ chu đáo. Cơ sở vật chất đảm bảo cho việc dạy của giáo

viên và học tập, vui chơi của trẻ. Nhà trường tiếp nhận trẻ từ 24 đến 72 tháng
tuổi của khu vực dân thuộc địa bàn thị xã Phú Thọ, là một trong những trường
có phong trào HĐTH sơi nổi. Nhà trường được trang trí đẹp và phong phú bởi
các tác phẩm tạo hình từ NVLTN.


25

1.2.2.2. Khách thể nghiên cứu.
a. Đối tượng điều tra thực trạng.
Tiến hành điều tra 18 giáo viên đã và đang trực tiếp giảng dạy tại các
lớp mẫu giáo 5-6 tuổi thuộc trường mầm non Phú Hộ. Nhìn chung các giáo
viên đã trực tiếp giảng dạy ở các lớp mẫu giáo 5-6 tuổi từ 3-5 năm, có trình độ
từ trung cấp, đến cao đẳng, đại học.
b. Đối tượng khảo sát thực trạng.
Nghiên cứu trên 40 trẻ lớp mẫu giáo 5-6 tuổi thuộc trường mầm non
Phú Hộ – Thị xã Phú Thọ - tỉnh Phú Thọ.
Tất cả các trẻ ở trường đều khỏe mạnh, tâm sinh lý phát triển bình
thường, các cháu đều được gia đình và nhà trường quan tâm.
1.2.3. Nội dung và phương pháp nghiên cứu.
1.2.3.1. Nghiên cứu chương trình chăm sóc – giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
Phân tích nội dung chương trình quy định hiện nay, chủ yếu là hoạt
động tạo hình cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
1.2.3.2. Phương pháp nghiên cứu
Để đảm bảo cho việc đánh giá kết quả thực trạng được khách quan và
chính xác, tôi đã sử dụng nhiều phương pháp để thu thập, xử lý thông tin:
- Phương pháp quan sát.
Đây là phương pháp xuyên suốt quá trình từ khi xác định thực trạng
đến khi làm thực nghiệm, tôi xuống lớp mẫu giáo lớn để quan sát những biện
pháp sử dụng NVLTN trong HĐTH nhằm phát huy tính sáng tạo cho trẻ và

quan sát những hành vi, thái độ của trẻ trong suốt quá trình trẻ tham gia
HĐTH.
- Phương pháp đàm thoại.
Tiến hành đàm thoại với ban giám hiệu, giáo viên chủ nhiệm lớp 5-6
tuổi. Tìm hiểu về việc lập kế hoạch tổ chức giờ HĐTH cho trẻ. Những khó
khăn cơ sở thường gặp khi tổ chức HĐTH.
- Điều tra bằng mẫu phiếu Anket.


×