Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Vấn đề tự học của học sinh dân tộc ít người tại trường dự bị đại học thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (943.36 KB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN

---------------------

ĐOÀN THỊ PHƯƠNG HUYỀN

VẤN ĐỀ TỰ HỌC
CỦA HỌC SINH DÂN TỘC ÍT NGƯỜI
TẠI TRƯỜNG DỰ BỊ ĐẠI HỌC
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
nh: Xã hội học

LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC
I HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS, GVC. VŨ QUANG HÀ

Thành phố Hồ Chí Minh - năm 2013


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, tơi xin bày tỏ lòng biết ơn đối với:
- Ban Giám hiệu, Phòng Sau đại học, Khoa Xã hội học Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh.
- Quý thầy giáo, cô giáo đã trực tiếp giảng dạy và giúp đỡ tơi trong suốt
q trình học tập.
- Đặc biệt, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới thầy TS. Vũ Quang
Hà, người đã nhiệt tình hướng dẫn khoa học, giúp đỡ và động viên tôi rất
nhiều trong suốt q trình nghiên cứu để tơi có thể hoàn thành luận văn này.
- Lãnh đạo, giảng viên, cán bộ quản lý Ký túc xá, Phòng Đào tạo và các
đồng nghiệp tại Trường Dự bị đại học thành phố Hồ Chí Minh đã giúp đỡ tơi


trong q trình thu thập dữ liệu, cung cấp tài liệu tham khảo và những ý kiến
đóng góp q báu trong q trình nghiên cứu.
- Gia đình và bạn bè đã động viên, khích lệ tơi trong q trình học tập
và thực hiện luận văn.
Mặc dù đã hết sức cố gắng, nhưng do thời gian có hạn và chưa có nhiều
kinh nghiệm trong nghiên cứu nên không thể tránh khỏi những hạn chế và
thiếu sót. Tơi kính mong nhận được sự góp ý, bổ sung ý kiến của các thầy
giáo, cô giáo và các bạn học viên.
Trân trọng cảm ơn!

TP. Hồ Chí Minh, ngày 27 tháng 11 năm 2013

Đoàn Thị Phương Huyền


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu trong luận văn là trung
thực. Những kết luận khoa học trong luận văn
chưa từng được ai cơng bố trong bất kỳ cơng
trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đoàn Thị Phương Huyền


BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Các từ viết tắt được sử dụng
DT


Dân tộc

DBĐH

Dự bị đại học

HS

Học sinh

Nxb

Nhà xuất bản

PTDTNT

Phổ thông dân tộc nội trú

SV

Sinh viên

THPT

Trung học phổ thông

TP. HCM

Thành phố Hồ Chí Minh



MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
1.

MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1

1.1.

Lý do chọn đề tài ................................................................................... 1

1.2.

Tổng quan tài liệu nghiên cứu ............................................................. 5

1.2.1.

Tài liệu nước ngoài ............................................................................ 5

1.2.2.

Tài liệu trong nước ............................................................................ 8

1.3.

Mục tiêu nghiên cứu ........................................................................... 19

1.4.


Nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................... 20

1.5.

Đối tượng và khách thể nghiên cứu ................................................... 20

1.6.

Phạm vi nghiên cứu............................................................................. 21

1.7.

Phương pháp nghiên cứu và nguồn số liệu ....................................... 21

1.8.

Phương pháp xử lý dữ liệu ................................................................. 24

1.9.

Ý nghĩa của nghiên cứu ...................................................................... 25

1.10.
2.

Hạn chế trong quá trình thực hiện luận văn ................................ 26

CƠ SỞ LÝ LUẬN ................................................................................... 26

2.1.


Lý thuyết tiếp cận chính trong nghiên cứu ....................................... 26

2.2.

Khung phân tích .................................................................................. 30

2.3.

Câu hỏi nghiên cứu ............................................................................. 30

2.4.

Giả thuyết nghiên cứu......................................................................... 31

2.5.

Các khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài ....................................... 31

2.6.

Kết cấu của luận văn ........................................................................... 40

PHẦN: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU............................................................... 41


Chương 1: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA HỌC SINH
DÂN TỘC ÍT NGƯỜI TẠI TRƯỜNG DỰ BỊ ĐẠI HỌC TP. HỒ CHÍ
MINH............................................................................................................... 41
1.1.


TỔNG QUAN VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU .................................. 41

1.1.1.

Khái quát về Trường Dự bị đại học thành phố Hồ Chí Minh .... 41

1.1.2.

Địa bàn Trường tọa lạc ................................................................... 43

1.1.3.

Thành phần học sinh Dân tộc ít người .......................................... 44

1.1.4.

Đặc điểm học sinh Dân tộc ít người đang học DBĐH .................. 46

1.2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA HỌC SINH DÂN
TỘC ÍT NGƯỜI TẠI TRƯỜNG DỰ BỊ ĐẠI HỌC TP. HCM ................. 48
1.2.1. Chương trình học của học sinh DT ít người trong năm học
DBĐH ........................................................................................................... 48
1.2.2. Kết quả học tập của HS DT ít người tại Trường DBDH TP. HCM
trong những năm gần đây ............................................................................. 50
1.2.3.

Thực trạng hoạt động tự học đang diễn ra ................................... 53

1.2.4.


Phương pháp tự học ........................................................................ 56

Chương 2: VẤN ĐỀ TỰ HỌC CỦA HỌC SINH DÂN TỘC ÍT NGƯỜI
TẠI TRƯỜNG DỰ BỊ ĐẠI HỌC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ........... 62
2.1. NHẬN THỨC CỦA HỌC SINH VỀ NĂM HỌC DỰ BỊ ĐẠI HỌC
VÀ VẤN ĐỀ TỰ HỌC ................................................................................... 62
2.1.1.

Nhận thức về năm học dự bị đại học ............................................. 62

2.1.2.

Nhận thức về tự học ở năm học Dự bị đại học.............................. 65

2.2. KHÓ KHĂN CỦA HỌC SINH DÂN TỘC ÍT NGƯỜI Ở NĂM
HỌC DỰ BỊ ĐẠI HỌC .................................................................................. 73
2.2.1.

Khó khăn của học sinh trong quá trình tự học............................. 73

2.2.2. Cách học sinh giải quyết khó khăn của mình trong q trình tự
học tại trường ................................................................................................. 76
2.2.3.

Mối tương quan giữa tự học và kết quả học tập của học sinh .... 81


PHẦN: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.......................................................... 88
1.


Kết luận .................................................................................................... 88

2.

Kiến nghị .................................................................................................. 91

2.1.

Đối với nhà trường ............................................................................... 91

2.2.

Đối với giảng viên ................................................................................ 94

2.3.

Đối với học sinh.................................................................................... 95

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 97


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1.

MỞ ĐẦU

1.1. Lý do chọn đề tài


Trong sự phát triển chung của đất nước, bao giờ cũng có một bộ phận
dân cư sống ở những vùng khó khăn, chịu nhiều thiệt thòi hơn trong hưởng
thụ các thành quả do sự phát triển xã hội đem lại, đặc biệt là hưởng thụ về
giáo dục. Do vậy, chủ trương của Đảng, Nhà nước và của Ngành Giáo dục
luôn quan tâm đề ra các chính sách để giảm bớt sự thiệt thịi của một bộ phận
dân cư đó, đồng thời cũng là chiến lược lâu dài để tạo nguồn phát triển đất
nước.
Thực hiện Nghị quyết số 22/NQ-TW ngày 27 tháng 11 năm 1989 của
Bộ Chính trị và Quyết định số 72/QĐ-HĐBT ngày 13 tháng 03 năm 1990 của
Hội đồng Bộ truởng (Nay là Chính phủ) về một số chủ trương, chính sách lớn
phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng sâu, vùng xa..., Bộ Giáo dục và Đào
tạo ra Văn bản số 1160/KHTV ngày 15 tháng 06 năm 1990, giao nhiệm vụ
cho Trường Dự bị đại học thành phố Hồ Chí Minh (DBĐH TP. HCM) “Đào
tạo học sinh Dự bị đại học Dân tộc ít người ở các tỉnh phía Nam (từ Ninh
Thuận, Lâm Đồng vào đến Cà Mau)”.
Trường DBĐH TP. HCM là một trong bốn trường chuyên biệt trong hệ
thống giáo dục quốc dân (DBĐH TP. HCM, DBĐH Dân tộc Trung ương Nha
Trang, DBĐH Dân tộc Việt Trì và Trường vùng cao Việt Bắc), có nhiệm vụ
đào tạo, bồi dưỡng học sinh là người dân tộc (DT) ít người, sống ở vùng sâu,
vùng xa, vùng biên giới, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt
khó khăn; đã tốt nghiệp trung học phổ thơng theo hình thức giáo dục chính
quy hoặc giáo dục thường xuyên, trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp nghề đã
dự thi tuyển sinh đại học hệ chính quy các khối A, B, C, D1 (trừ các ngành
năng khiếu) nhưng không trúng tuyển, khơng có mơn thi nào bị điểm khơng


2

(0) và ngay trong năm dự thi đại học hệ chính quy, đạt điểm vào học hệ

DBĐH do các trường DBĐH quy định [33]; để sau một năm học DBĐH họ
đủ trình độ theo học tại các trường đại học; nhằm góp phần đào tạo cán bộ,
nguồn nhân lực cho các vùng chịu nhiều thiệt thòi trong hưởng thụ thành quả
kinh tế - xã hội.
Với chủ trương, chính sách thật đúng đắn, kịp thời của Đảng và Nhà
nước về ưu tiên trong giáo dục, nhằm nhanh chóng đào tạo cán bộ, đào tạo
nguồn nhân lực có trình độ đại học, xây dựng đội ngũ trí thức người DT ít
người để đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới đất nước là việc làm cần kíp và
là nhu cầu cấp bách hiện nay, đòi hỏi các cấp các ngành quan tâm sâu sắc, vì
lợi ích của đồng bào các DT ít người ln gắn với lợi ích từng vùng, từng dân
tộc và của cả nước. Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, đặc
biệt là việc xây dựng đội ngũ trí thức người DT ít người là việc làm thường
xuyên. Họ chính là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, trực tiếp đưa
khoa học kỹ thuật, văn hóa vào cuộc sống, góp phần vào q trình phát triển
kinh tế - xã hội ở vùng sâu, vùng xa, vùng DT ít người. Việc xây dựng đội
ngũ trí thức người DT ít người cũng chính là thực hiện chính sách đồn kết,
bình đẳng giữa các dân tộc của Đảng và Nhà nước ta.
Sau những năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII) và kết
luận Trung ương Đảng Khoá IX về giáo dục và đào tạo; Nghị quyết Trung
ương 7 (khố IX) về cơng tác dân tộc, các bộ, ngành Trung ương, cấp uỷ
Đảng, chính quyền địa phương đã quan tâm, đầu tư nhiều hơn cho công tác
giáo dục ở vùng đồng bào DT ít người. Hệ thống các trường PTDTNT được
phát triển mở rộng, thu hút được nhiều HS DT ít người đến trường. Theo đó,
các trường DBĐH cũng đóng vai trị rất quan trọng trong việc tạo nguồn
tuyển sinh vào đại học là cầu nối làm nhiệm vụ bồi dưỡng kiến thức, nâng cao
trình độ, rèn luyện phương pháp học tập, xem xét đánh giá và chuyển vào học


3


đại học cho các đối tượng được ưu tiên nói trên. Để công tác đào tạo nguồn
nhân lực cho vùng DT ít người, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn thực sự có hiệu quả thì vai trị, nhiệm vụ của các
trường DBĐH là rất nặng nề và hết sức khó khăn. Trong những năm qua,
Trường DBĐH TP. HCM đã có nhiều chủ trương, biện pháp đổi mới công tác
giáo dục, đào tạo, đã chú trọng giải quyết mối quan hệ giữa đào tạo và tự đào
tạo, đây được coi là khâu then chốt có tính đột phá để nâng cao chất lượng
giáo dục, đào tạo của Nhà trường.
Tuy nhiên, so với u cầu xây dựng đội ngũ trí thức có trình độ cao cho
người DT ít người trong thời kỳ mới thì chất lượng giáo dục, đào tạo của Nhà
trường vẫn còn những bất cấp. Mặc dù, hiện nay hệ thống các trường phổ
thông dân tộc nội trú, bán trú ở các vùng dân tộc, vùng khó khăn đã có tương
đối hoàn chỉnh, đáp ứng được phần nào nhiệm vụ được giao.
Tính đến năm học 2011 - 2012, trường PTDTNT có ở 50 tỉnh/thành
phố trực thuộc Trung ương với 294 trường, bao gồm: 03 trường trực thuộc Bộ
Giáo dục và Đào tạo, 50 trường cấp tỉnh, 241 trường cấp huyện. Hầu hết các
tỉnh, huyện ở vùng DT ít người đều có trường PTDTNT, một số địa phương
có trường liên huyện, trường cụm xã, tất cả các DT ít người đều đã có con em
theo học tại trường PTDTNT… Tính trung bình 05 năm học từ 2008 đến 2012
tỉ lệ HS xếp loại học lực giỏi, khá là 43%, học lực trung bình là 49% và học
lực yếu, kém là 8%... trung bình hàng năm có khoảng 30% đỗ thẳng vào đại
học, số còn lại chủ yếu được chuyển vào các trường Dự bị đại học để củng cố
kiến thức phổ thông trước khi vào học ở các trường ĐH, CĐ – ThS. Nguyễn
Thị Thu Huyền, Vụ trưởng Vụ giáo dục Dân tộc, chuyên đề Phát triển giáo
dục dân tộc gắn với đổi mới giáo dục [3, tr.11, tr.12].
Như vậy, các trường DBĐH đều gặp phải khó khăn chung là chất lượng
đầu vào khá thấp và đối tượng HS đều đến từ các vùng núi, vùng sâu, vùng


4


xa,… có nhiều khó khăn về cơ sở vật chất nên HS ít được tiếp xúc với các
phương tiện giảng dạy hiện đại, kiến thức nền còn nhiều thiếu hụt, ít có động
cơ phấn đấu,… Do đó, học sinh DT ít người gặp nhiều khó khăn trong việc
tiếp cận phương pháp học tập mới ở năm học DBĐH. Trong đó, khó khăn lớn
nhất phải kể đến là khó khăn trong quá trình tự học, học sinh lúng túng trong
việc tự học, không biết bắt đầu từ đâu cho việc tự học của mình. Bên cạnh đó,
cũng có khơng ít học sinh có tư tưởng “năm học DBĐH chỉ là thủ tục để vào
đại học”, “ỷ lại vào sự trợ giúp của Nhà nước”, trách nhiệm trong học tập
chưa tốt, còn ngại khó, ngại khổ, thụ động trong tự học… Mà vấn đề tự học là
một khâu không thể thiếu trong q trình dạy và học là yếu tố góp phần quyết
định đến kết quả học tập của học sinh. Giảng viên dù có dạy giỏi đến mấy mà
học sinh khơng tự nỗ lực học tập cũng khó có thể đạt được kết quả như mong
muốn. Đặc biệt là việc tự học đối với đối tượng là học sinh yếu như học sinh
DT ít người đang học hệ DBĐH càng có ý nghĩa quan trọng và thiết thực.
Đối với học sinh hệ DBĐH DT ít người do đến từ miền núi, vùng sâu,
vùng xa, vùng dân tộc ít người nên khái niệm tự học đối với học sinh cũng
còn rất mơ hồ, thậm chí cịn rất xa lạ đối với các em, nếu có cũng chỉ thơng
qua sợi dây ràng buộc từ phía giảng viên là các yêu cầu từ bài tập về nhà. Vì
vậy, tự học đối với học sinh hệ DBĐH DT ít người cịn có ý nghĩa to lớn là
luyện tập cho các em có thói quen lao động trí óc, rèn luyện phẩm chất tự giác
trong học tập và trong hoạt động thực tiễn sau này.
Để chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước thật sự có hiệu quả,
địi hỏi sự nỗ lực của q trình dạy và học. Trong đó yếu tố đóng vai trị quan
trọng, góp phần nâng cao hiệu quả của năm học DBĐH thuộc về học sinh, đặc
biệt khi học sinh phát huy được vai trị, trách nhiệm của mình, thấy được sự
ưu tiên của Đảng, Nhà nước và xã hội đối với người DT ít người, để tự nỗ lực
phấn đấu trong học tập, nâng cao ý thức trách nhiệm đối với bản thân.


5


Xuất phát từ những lý do trên, tác giả thấy rất cần thiết phải nghiên cứu
vấn đề tự học của học sinh DT ít người và tác giả chọn đề tài “Vấn đề tự học
của học sinh Dân tộc ít người tại Trường Dự bị đại học thành phố Hồ Chí
Minh” để nghiên cứu.
1.2. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
1.2.1.

Tài liệu nước ngoài

Thế kỷ XX chứng kiến những bước nhảy vọt lớn lao của toàn nhân loại
nhằm đào tạo những con người có đủ kiến thức, năng lực phục vụ cho sự phát
triển xã hội, các nhà nghiên cứu cũng đã đưa ra nhiều quan điểm tiến bộ dựa
trên những cơ sở lý thuyết xã hội học, tâm lý học, giáo dục học khác nhau.
Trên cái nền chung ấy, vấn đề tự học đã được nhiều nhà nghiên cứu đi sâu
nghiên cứu dưới nhiều gốc độ. Phần lớn các nghiên cứu đều nhấn mạnh đến
tầm quan trọng của hoạt động tự học đối với sự phát triển tư duy cũng như rèn
luyện thói quen học tập và nghiên cứu suốt đời cho người học.
- Nhà bác học, nhà văn hoá Nga N.A. Rubakin (1862 – 1946): “Tự học
như thế nào”, Nxb Thanh niên (1982) đã nhấn mạnh nội dung, phương pháp,
tính chủ động trong tự học cũng như vai trị của thái độ tích cực tự học trong
việc chiếm lĩnh tri thức của học sinh. Theo ông để tự học đạt kết quả thì “việc
giáo dục động cơ đúng đắn là điều kiện cơ bản để học sinh tích cực, chủ động
trong tự học” và “hãy mạnh dạn tự mình đặt câu hỏi rồi tự mình tìm lấy câu
trả lời – đó chính là phương pháp tự học” [16]. Điều này chứng tỏ Rubakin
đã thấy rõ vai trò của yếu tố động cơ trong hoạt động tự học của học sinh.
Như vậy, muốn hoạt động học tập đạt kết quả tốt, địi hỏi phải giáo dục cho
người học có động cơ đúng trong tự học. Ông cho rằng việc học chỉ đem lại
sự hưng phấn, hứng thú khi họ nhận được cái gì đó mới mẻ và thiết thực cho
cuộc sống. Trong đó người học phải tin vào sức mạnh trí tuệ và khả năng của

mình, phải nỗ lực hết sức để học một cách thường xuyên và có hệ thống. Tuy


6

nhiên, trong tác phẩm của mình, ơng chỉ mới dừng lại việc xem xét yếu tố
động cơ mà chưa đề cập đến các yếu tố khác như năng lực, điều kiện học
tập… mà trong thực tế, khi có động cơ đúng đắn nhưng người học thiếu kỹ
năng thực hiện thì hoạt động tự học vẫn khó đạt kết quả cao.
- I.F. Khaclamop: “Phát huy tính tích cực của học sinh như thế nào”
Nxb Giáo dục (1998) đã khẳng định vai trò to lớn của hoạt động tự học trong
việc nâng cao tính tích cực của hoạt động trí tuệ của học sinh khi thông hiểu
và tiếp thu tri thức mới. Tác giả cho rằng “Q trình nắm kiến thức mới
khơng thể tiến hành bằng việc học thuộc một cách bình thường các quy tắc,
các kết luận và khái quát hoá. Nó được xây dựng trên cơ sở của cải tiến cơng
tác tự lập của học sinh, của việc phân tích logic sâu sắc tài liệu, sự kiện làm
nền tảng cho sự hình thành các khái niệm khoa học” [10].
- Trong cơng trình nghiên cứu của A.V.Pêtrơvxki, M.P.Xcatkin,
Machiuskin… cho rằng trong quá trình dạy học, giáo viên phải tổ chức bồi
dưỡng, hình thành kỹ năng học tập cho sinh viên. Các tác giả khẳng định việc
giáo viên giao bài tập nhận thức cho sinh viên trong thời gian tự học là một
biện pháp quan trọng nhằm nâng cao tính tích cực, độc lập, sáng tạo của sinh
viên trong học tập [36].
- Vào thập niên 30 của thế kỷ XX, nhà giáo dục nổi tiếng Nhật Bản
Tsunesaburo Makiguchi (1871 – 1944) trong tác phẩm “Giáo dục vì cuộc
sống sáng tạo” do Trường Đại học Tổng hợp TP. HCM phối hợp cùng Nxb
Trẻ phát hành vào năm 1994 và tái bản năm 2009 bởi Trung tâm nghiên cứu
Việt Nam – Đông Nam Á thuộc Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn
TP. HCM và Nxb Trẻ, đã thể hiện tư tưởng cải cách giáo dục chống lại nền
giáo dục gia trưởng, bảo thủ đương thời. Cách quan niệm về học tập được

Makiguchi trình bày khác một cách căn bản với quan niệm truyền thống, ông
nhấn mạnh: “Giáo viên không bao giờ học thay cho học viên mà học viên


7

phải tự mình học lấy. Nói khác đi, dù giáo viên có làm gì đi nữa thì mọi tri
thức được truyền thụ vẫn khơng có giá trị nếu họ khơng làm cho học sinh tự
mình kiểm nghiệm và thực nghiệm những tri thức đó” [15, tr.152]. Trong lược
đồ của ơng, chính bản thân của học sinh chứ khơng phải nhà trường là trung
tâm của quá trình học tập. Nhà giáo dục là người hướng dẫn mà chức năng
chính là người khuyến khích và cổ vũ người học theo đuổi những mục tiêu và
những quan niệm học tập do chính người đó quy định và giúp người học loại
bỏ những chướng ngại có thể cản trở tiến trình học tập... Những nội dung về
giáo dục của ông hơn trăm năm qua vẫn có giá trị thiết thực với nền giáo dục
nước ta hiện nay.
- Nhà giáo dục Ấn Độ Raja Roy Singh: “Nền giáo dục cho thế kỷ XXI:
Những triển vọng của Châu Á – Thái Bình Dương”, Viện Khoa học giáo dục
Việt Nam (1994) đã nhấn mạnh “Học để học nữa, học thường xuyên và học
suốt đời, tất cả gắn liền với nhau. Cơ sở cho quá trình này là học cách học,
tóm lược mục tiêu giáo dục và mục tiêu của việc học và dạy ngay từ những
giai đoạn đầu tiên. Chính trong hoạt động học, trong khi tiếp thu tri thức và
vận dụng tri thức mà lòng ham học được kích thích và cũng chính từ đó, khả
năng độc lập được phát triển”. [ 24. tr.116]
- Năm 1996, hội đồng quốc tế Jacques Delors về giáo dục cho thế kỷ
XXI đã gửi UNESCO bản báo cáo “Học tập – một kho báu tiềm ẩn”. Báo cáo
đã phân tích nhiều vấn đề của giáo dục trong thế kỷ XXI, trong đó đặc biệt
nhấn mạnh đến vai trị của người học, cách học cần phải được dạy cho thế hệ
trẻ. Đến năm 1999, tổ chức UNESCO đã nhắc nhở các chuyên gia của mình:
Đừng biến người được đào tạo và bồi dưỡng trở thành một thứ “gà công

nghiệp”. Sự “no đầy kiến thức” sẽ là một tai họa hơn là một vận may. Hãy
giúp họ biết tự học nhiều hơn được đi học. Đó là mấu chốt của thành cơng [2.
tr.66].


8

- Hầu hết các nghiên cứu gần đây của các nhà giáo dục đều cho rằng:
giáo dục ở thế kỷ XXI đã có những thay đổi lớn nhắm hướng tới mục tiêu đào
tạo hướng tới những con người có năng lực tự quyết định. Trong tương lai
gần, mỗi người học sẽ phải có đủ các phẩm chất: tự học (self learning), tự tổ
chức (self organizing), tự quyết định (self defining) và tự phát triển (self
developing). [2. tr.87]
Như vậy, các công trình nghiên cứu ở nước ngồi nêu trên đều khẳng
định vai trò của tự học trong hoạt động học tập của học sinh, sinh viên và chỉ
ra một số kỹ năng cơ bản của tự học như yếu tố động cơ, kế hoạch tự học mà
chưa đề cập đến các yếu tố khác như năng lực, điều kiện học tập, các yếu tố
tác động, ... Trong thực tế, khi có động cơ đúng đắn, có kế hoạch tự học
nhưng người học thiếu những điều kiện thực hiện hoặc do ảnh hưởng của các
yếu tố khách quan... thì hoạt động tự học vẫn khó đạt kết quả cao. Đồng thời
cũng có tác giả đề cập đến vai trò của giáo viên trong việc tổ chức quá trình
dạy học để phát huy tính độc lập, tự giác, sáng tạo của người học để người
học đạt được kết quả cao nhất. Tuy nhiên, các nghiên cứu vẫn chưa đi sâu
nghiên cứu đến các yếu tố như nhận thức, thái độ của người học đối với vấn
đề tự học… Đặc biệt chưa có nghiên cứu nào đề cập đến vấn đề tự học của
đối tượng học sinh yếu hoặc đối tượng học sinh còn chịu nhiều thiệt thòi trong
hưởng thụ các thành quả kinh tế - xã hội cũng như trong hưởng thụ giáo dục
như học sinh hệ DBĐH DT ít người.
1.2.2.


Tài liệu trong nước

1.2.2.1. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước dành cho
người dân tộc ít người
Ngay từ sau Cách mạng tháng Tám thành công, Đảng, Nhà nước và
ngành Giáo dục đã chú trọng việc đào tạo con em đồng bào ở các vùng có
điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc ít người cho đến


9

nay. Trong thời kỳ hội nhập, việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc lại càng đặt ra
yêu cầu về đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao cho xã hội nói chung và
nguồn nhân lực cho dân tộc ít người nói riêng. Đây là một vấn đề có ý nghĩa
chiến lược, được thể hiện rõ và nhất quán trong các văn kiện của Đảng.
- Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII,
Đảng đã xác định: “Miền núi và Dân tộc là những vấn đề lớn. Đây là sự
nghiệp của cả nước. Miền núi đói nghèo đang là điểm nóng là sự quan tâm
đặc biệt của chúng ta…” vì vậy phải “Tăng cường đầu tư cho Miền núi và
vùng Dân tộc ít người, mở rộng các trường nội trú, quy hoạch đào tạo cán bộ
và trí thức người Dân tộc…” [41, tr 186].
- Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ tư (khoá VII),
một lần nữa Đảng nhấn mạnh đến ý nghĩa to lớn của việc đào tạo cán bộ dân
tộc ít người: “… phải củng cố và phát triển giáo dục vùng dân tộc ít người
nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ cốt cán cho miền núi, tạo tiền đề mở mang dân
trí, phát triển kinh tế - quốc phịng, nhằm đóng góp vào sự phát triển chung
của cả nước…” [19, tr. 47].
- Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII và Nghị
quyết Hội nghị lần thứ ba (khoá VIII) nhấn mạnh: “Phải quan tâm đào tạo, bồi
dưỡng và phát triển đội ngũ cán bộ là con em các dân tộc ít người”. Do đó,

cần phải “Tổ chức tốt các trường bổ túc văn hố, trường phổ thơng Dân tộc
nội trú, trường Dự bị đại học…” [42, tr. 93].
- Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX tiếp tục khẳng
định: “Ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển nông nghiệp, nông
thôn, miền núi, xuất khẩu lao động, một số ngành mũi nhọn, phát triển và
nâng cao chất lượng các trường Dân tộc nội trú; tăng cường đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ người dân tộc ít người…” [43, tr. 203].


10

- Trong Luật Giáo dục cũng đã thể hiện lại những chủ trương, chính
sách đó của Đảng và Nhà nước: “Nhà nước thành lập trường phổ thông dân
tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú, trường dự bị đại học cho con em
dân tộc ít người, con em các gia đình các dân tộc định cư lâu dài tại vùng có
điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nhằm góp phần tạo nguồn đào tạo
cán bộ cho các vùng này” [13, điều 61].
Như vậy, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo, bồi
dưỡng và phát triển đội ngũ cán bộ là con em các dân tộc ít người để họ làm
cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, trực tiếp đưa khoa học kỹ thuật,
văn hóa vào cuộc sống, góp phần vào q trình phát triển kinh tế – xã hội ở
vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít, góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của
đất nước. Để hiện thực hóa các chủ trương, chính sách đó của Đảng và Nhà
nước, hàng loạt các Thông tư, Văn bản thực thi đã được ban hành và được
điều chỉnh phù hợp theo thời gian:
+ Công văn số 1160/KHTV ngày 15 tháng 6 năm 1990 của Bộ Giáo
dục và Đào tạo về việc giao nhiệm vụ cho Trường Dự bị đại học thành phố
Hồ Chí Minh đào tạo học sinh Dự bị đại học Dân tộc ít người, để góp phần
tạo nguồn tuyển sinh đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học – kỹ thuật và quản lý
kinh tế có trình độ đại học, cao đẳng là người Dân tộc ít người của các tỉnh

phía Nam.
+ Quyết định số 1121/1997/QĐ-TTg ngày 23 tháng 12 năm 1997 của
Thủ tướng Chính phủ về học bổng và trợ cấp xã hội đối với học sinh, sinh
viên các trường đào tạo công lập, tại Điểm b, Điều 1 quy định học sinh thuộc
đối tượng đang học tại các trường Dự bị đại học được hưởng học bổng chính
sách 120.000 đồng/tháng và được hưởng 12 tháng trong năm.
+ Thông tư Liên tịch số 126/1998/TTLT/BTC-BGDĐT ngày 09 tháng
9 năm 1998 của Bộ Tài chính – Bộ Giáo dục và Đào tạo, hướng dẫn một số


11

chế độ tài chính đối với học sinh các trường phổ thông dân tộc nội trú và các
trường Dự bị đại học, theo đó học sinh Dự bị đại học Dân tộc ít người được
hỗ trợ để mua sắm một số đồ dùng cá nhân (chăn, màn, áo gió, chiếu, nilon đi
mưa, đồng phục) mức tiền hỗ trợ 01 lần cho cả thời gian học là 360.000
đồng/học sinh; tiền tàu xe về thăm gia đình vào dịp tết (cả lượt đi và lượt về);
hỗ trợ tiền học phẩm (tập, bút, viết…) 50.000 đồng/học sinh/năm học.
+ Quyết định số 194/2001/QĐ-TTg ngày 21 tháng 12 năm 2001 của
Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh mức học bổng chính sách và trợ cấp
xã hội đối với học sinh, sinh viên là người dân tộc ít người học tại các trường
Dự bị đại học Dân tộc, nâng mức học bổng chính sách từ 120.000 đồng/học
sinh/tháng lên 160.000 đồng/học sinh/tháng.
+ Quyết định số 152/2007/QĐ-TTg ngày 14 tháng 9 năm 2007 của Thủ
tướng Chính phủ quy định mức học bổng chính sách cấp cho đối tượng học
sinh, sinh viên đang học tại các trường Dự bị đại học là 360.000 đồng/học
sinh/tháng, được áp dụng từ ngày 01 tháng 01 năm 2008, thay cho mức học
bổng quy định tại các Quyết định số 1121/1997/QĐ-TTg ngày 23 tháng 12
năm 1997 và Quyết định số 194/2001/QĐ-TTg ngày 21 tháng 12 năm 2001
của Thủ tướng Chính phủ.

+ Thơng tư Liên tịch số 109/2009/TTLT/BTC-BGDĐT ngày 29 tháng
5 năm 2009 của Bộ Tài chính - Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn một số
chế độ tài chính đối với học sinh các trường phổ thông dân tộc nội trú và các
trường Dự bị đại học dân tộc, học sinh được ở nội trú ký túc xá miễn phí;
miễn hồn tồn học phí; hưởng học bổng chính sách bằng 80% mức lương tối
thiểu của Nhà nước/tháng; cấp hiện vật: chăn (mền) cá nhân; màn (mùng) cá
nhân; chiếu cá nhân; áo khoác; áo đi mưa; quần, áo dài tay (đồng phục); tiền
tàu xe về thăm gia đình vào dịp tết (cả lượt đi và về); học phẩm: cặp học sinh,
40 cuốn tập (vở), 24 bút bi, bút chì, tẩy, compa, thước đo độ, kéo, thước kẻ,


12

hồ dán, bìa kiếng. Thơng tư này thay thế cho Thông tư Liên tịch số
126/1998/TTLT/BTC-BGDĐT ngày 09 tháng 9 năm 1998 của Bộ Tài chính –
Bộ Giáo dục và Đào tạo. Thơng tư này vẫn đang cịn hiệu lực thi hành cho
đến nay.
Rõ ràng, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến các chế độ chính
sách dành cho học sinh người dân tộc ít người, tạo mọi cơ hội để học sinh có
đủ điều kiện theo học ở các cấp học. Tuy nhiên, để những chủ trương, chính
sách đó thực sự hiệu quả, khơng bị lãng phí, ngồi việc thực hiện tốt các chế
độ chính sách của Đảng và Nhà nước, người được hưởng thụ cũng cần phải
nâng cao trách nhiệm của bản thân, thấy được những ưu tiên của Đảng và Nhà
nước dành cho mình để tự nỗ lực phấn đấu và khơng có thái độ ỷ lại.
1.2.2.2. Những cơng trình nghiên cứu, tác phẩm liên quan đến đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh - tấm gương sáng về tự học, trong nhiều tác
phẩm và bài nói chuyện của mình, Bác đều nhấn mạnh đến vấn đề học tập và
tự học của học sinh, sinh viên. Trong tác phẩm “Bàn về học tập” (1957), Nxb
sự thật, Người chỉ rõ “Về học tập phải lấy tự học làm cốt”, “Khơng phải có
thầy thì học, thầy khơng đến thì đùa. Phải biết tự động học tập…” [14].

Quan điểm tự học – tự đào tạo được Đảng Cộng sản Việt Nam xem như
một chiến lược để thúc đẩy giáo dục phát triển. Điều này đã được khẳng định
một cách nhất quán ở nhiều văn bản khác nhau:
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng
khoá VIII (1996) đã nhấn mạnh “Nâng cao khả năng tự học, tự nghiên cứu
của người học” và “đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối
truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học.
Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào
quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học” [42, tr.45]. Quan
điểm này được tiếp tục khẳng định ở Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX


13

(2001) “Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh
viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề” [43, tr.110].
- Với mục tiêu tạo sự chuyến biến cơ bản về giáo dục đào tạo, Nghị
quyết Đại hội X (2006) vạch rõ: “Ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất
lượng dạy và học. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học...
phát huy khả năng sáng tạo và độc lập suy nghĩ của học sinh, sinh viên.” [44,
tr.207].
+ Chỉ thị 40 của Ban Bí thư TW Đảng ngày 15/6/2007 đã khẳng định:
“phải đổi mới mạnh mẽ và cơ bản phương pháp giáo dục nhằm khắc phục
kiểu truyền thụ một chiều, nặng lý thuyết, ít khuyến khích tư duy sáng tạo;
bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu, tự giải quyết vấn đề, phát triển
năng lực thực hành sáng tạo cho người học...”
Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng “Giáo dục là quốc sách hàng
đầu”: Điều 28.2 Luật Giáo dục nhấn mạnh: “Phương pháp giáo dục phổ
thơng phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh;
phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự

học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào
thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học
sinh.” Tồn ngành giáo dục đã có sự đổi mới toàn diện về phương pháp giảng
dạy để nâng cao chất lượng giáo dục, khơi dậy và phát huy tiềm năng của con
người, phát triển giáo dục toàn diện, công bằng giữa các vùng, miền.
Việc phát huy năng lực tự học cho HS đã dựa trên nền tảng quan điểm
chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân
lực phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá
– hiện đại hoá. Năng lực tự học được rèn luyện và dần dần được nâng cao
thành một năng lực cơ bản để người học có thể học suốt đời. Trong xã hội
hiện đại, tự học suốt đời là quyền và nghĩa vụ của con người, giúp họ có khả


14

năng thích ứng cao với mọi tình huống của đời sống, bắt nhịp được sự bùng
nổ của thông tin, khoa học và công nghệ.
Từ thập niên 70 của thế kỷ trước, các nhà giáo dục Việt Nam đã nhìn ra
được tầm quan trọng của việc tự học. Cố giáo sư Tạ Quang Bửu (nguyên Bộ
trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp) đã nhấn mạnh với sinh viên
Đại học Bách khoa Hà Nội nhân buổi nói chuyện tại trường vào năm 1970:
“Tự học là khởi nguồn của phong cách tự đào tạo, đồng thời là cái nơi ni
dưỡng trí sáng tạo. Ai giỏi tự học khi đang ở trường, người đó sẽ tiến xa” .
Các nhà sư phạm nổi tiếng của Việt Nam như Nguyễn Cảnh Toàn,
Nguyễn Kỳ, Đặng Vũ Hoạt, Hà Thế Ngữ, Thái Duy Tiên, Phạm Minh Hạc...
đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về hoạt động tự học của người học. Hầu
hết các tác giả đều cho rằng năng lực tự học không chỉ cần thiết cho HS khi
ngồi trên ghế nhà trường mà còn trong cả cuộc đời. Hình thành năng lực tự
học cho học sinh trở thành một mục tiêu cơ bản của giáo dục nhà trường.
Trong những năm gần đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo có chủ trương đổi

mới phương pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng dạy và học thì vấn đề tự
học càng được các trường đặc biệt quan tâm. Đã có nhiều cơng trình nghiên
cứu liên quan đến vấn đề tự học của học sinh, sinh viên.
- Nguyễn Tấn Hưng: “Tích cực hố học tập – một ngun tắc quan
trọng của quá trình dạy học ở đại học” đăng trên Tạp chí Dạy và Học ngày
nay, số tháng 1 – 2011, tr.25, tác giả cho rằng “đổi mới phương pháp dạy học
đúng nghĩa phải là phát huy được tính tích cực, chủ động của người học để
họ trở thành chủ thể của quá trình kiến tạo tri thức”. Theo tác giả, để phát
huy được tính tích cực, chủ động của người học, trước hết nội dung dạy học
phải chứa đựng cái mới, phù hợp với xu thế chung của thời đại và hướng tới
hình thành các kỹ năng để sinh viên khẳng định mình, để tồn tại, đồng thời để
cạnh tranh và phát triển, bên cạnh đó phải khơng ngừng đổi mới phương pháp


15

truyền đạt bài giảng một cách thiết thực nhằm tạo sức thu hút sinh viên theo
học. Tác giả nhấn mạnh đến vai trò của giảng viên: Giảng viên cần phải xác
định rõ nghĩa vụ và trách nhiệm của mình đối với việc học của sinh viên, phải
chuẩn bị kỹ giáo trình, bài giảng trước khi đến lớp, đồng thời phải có tư duy
sáng tạo trong việc đổi mới phương pháp truyền đạt, giảng viên cần tạo ra các
“tình huống” “vấn đề” để sinh viên chủ động đưa ra những ý kiến “trái chiều”
theo cảm nhận và hiểu biết của mình, như thế bài giảng sẽ trở nên sống động
hơn, sẽ được “nhập tâm”, “ở lại” với sinh viên lâu hơn. Bên cạnh đó, tác giả
cịn cho rằng tự học được tổ chức tốt, không những cung cấp cho sinh viên
những kiến thức mới, bổ ích mà cịn giúp họ rất nhiều trong công việc sau này
khi họ trở thành những người chủ thực sự góp phần xây dựng đất nước. Họ có
năng lực thực tiễn hay khơng? Chất lượng cơng tác như thế nào phụ thuộc
phần lớn vào công tác tự học. Khơng chỉ có vậy, tự học cịn có vai trị to lớn
trong việc giáo dục, hình thành nhân cách cho học sinh, sinh viên. Việc tự học

rèn luyện cho học sinh, sinh viên thói quen độc lập suy nghĩ, độc lập giải
quyết vấn đề khó khăn trong học tập, trong cuộc sống và trong nghề nghiệp
sau này, giúp họ tự tin hơn trong việc lựa chọn cuộc sống cho mình. Hơn thế,
tự học thúc đẩy học sinh, sinh viên lòng ham học, ham hiểu biết, khát khao
vươn tới những đỉnh cao của khoa học, sống có hồi bão, ước mơ. Nếu người
học khơng nỗ lực, khơng tích cực tương tác với giảng viên, khơng gây cảm
xúc tích cực ở họ, họ sẽ không muốn học, chán học.
- Trần Minh Hằng: “Bước đầu tìm hiểu việc tự học của sinh viên cao
đẳng sư phạm” đăng trên Tạp chí Giáo dục, số 328, tr.15 đã khái quát vai trò
của việc tự học trong đổi mới giáo dục đào tạo, muốn giúp sinh viên học tốt
thì điều quan trọng nhất là kỹ năng tự học cho sinh viên phải được định
hướng và giáo dục trong quá trình đào tạo. Năm 2002 khi trực tiếp khảo sát
“Tìm hiểu nhận thức của sinh viên Trường cao đẳng sư phạm Hà Nam về tự


16

học”, tác giả cho rằng phương pháp dạy có vai trò quan trọng quyết định cách
học của sinh viên và cơng tác giảng dạy địi hỏi người giảng viên phải tìm tịi,
nghiên cứu để đổi mới phương pháp giảng dạy cho phù hợp [8].
- Phan Thị Tố Oanh – Lê Khắc Mỹ Phượng: “Về năng lực tự học của
học sinh trung học phổ thông ở một số trường tại TP. Hồ Chí Minh” đăng trên
Tạp chí Giáo dục học, số 63-2003, tr.26 các tác giả cho rằng “để nâng cao
hiệu quả dạy học ở trường phổ thơng nói riêng và chất lượng giáo dục – đào
tạo nói chung, chúng ta không chỉ chú ý đến việc cải tiến phương pháp dạy
học, mà còn chú ý đến việc cải tiến hoạt động học – phương pháp học của
học sinh. Nói cách khác, phải chú ý nâng cao năng lực tự học cho học sinh.
Dạy học là một quá trình thống nhất, nếu hoạt động dạy thay đổi thì hoạt
động học cũng thay đổi theo. Nếu phương hướng cải tiến phương pháp dạy
của thầy là tăng cường tính chủ động trong lĩnh hội tri thức của học sinh

bằng cách khai thác các tri thức, thì học sinh cũng phải cải tiến phương pháp
học bằng cách tăng cường khả năng tự học, tự lĩnh hội tri thức” [20].
- Trần Thị Dung: “Quản lý hoạt động tự học trong khu nội trú – một
biện pháp nâng cao hiệu quả học tập của sinh viên” [4] tác giả nhấn mạnh tự
học là một yếu tố quan trọng, có tính chất quyết định sự phát triển của nhân
cách người học và hiệu quả đào tạo của nhà trường. Hoạt động tự học có quan
hệ chặt chẽ với hoạt động dạy của giáo viên; hoạt động quản lý học sinh, sinh
viên trong khu nội trú phụ thuộc vào cơ sở vật chất và các phương tiện kỹ
thuật dạy học. Để hoạt động tự học đem lại hiệu quả phải có biện pháp quản
lý tốt. Hoạt động tự học và quản lý hoạt động tự học được coi là vấn đề có
tính cấp bách của giáo dục và đào tạo nhằm phát huy tinh thần độc lập suy
nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện
học vấn và tay nghề.


17

- Lê Thị Thanh: “Thực trạng về khả năng tự học của sinh viên Khoa
Ngoại ngữ và các hướng hỗ trợ hoạt động tự học”, đề tài nghiên cứu khoa
học, Trường Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh [29] nghiên cứu cho thấy
việc tự học không chỉ riêng của mỗi cá nhân mà nó là sự tác động của nhiều
yếu tố từ nhận thức về tầm quan trọng của việc tự học đến sự tự giác học tập,
sự hỗ trợ của giảng viên về việc dạy cách học, tài liệu học tập, những yêu cầu
và cách đánh giá sinh viên, chương trình đào tạo và tổ chức đào tạo. Tác giả
cho rằng giảng viên là người đóng vai trị rất lớn thúc đẩy việc tự giác học tập
và kết quả học tập của sinh viên. Tuy nhiên, đề tài vẫn chưa đi sâu nghiên cứu
các hình thức và phương pháp tự học của sinh viên, chỉ nói về tự học nói
chung, chưa có sự so sánh và lý giải những yếu tố nào tác động đến việc sinh
viên chọn hình thức và phương pháp tự học đó mà chủ yếu mơ tả q trình tự
học của sinh viên.

- Lê Thị Thuỳ Dương: “Tìm hiểu vấn đề tự học của sinh viên Trường
Đại học Khoa học xã hội và nhân văn” tác giả tìm hiểu nhận thức của sinh
viên về tự học, khó khăn và những ảnh hưởng tích cực của tự học đến kết quả
học tập, trong phần khuyến nghị tác giả nêu lên vai trò của việc học nhóm. Đề
tài thiên về nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng của việc tự học và nhấn
mạnh đến vai trị của việc tự học theo nhóm, đây chỉ là một mảng rất nhỏ
trong hoạt động tự học của sinh viên. Đề tài chưa đề cập đến những khó khăn
mang tính chất khách quan vốn có tác động rất mạnh mẽ đến việc thực hiện
thành công hoạt động tự học và giải thích động cơ của sinh viên trong việc lựa
chọn phương pháp tự học đó [5].
- Hồng Anh, Đỗ Thị Châu: “Tự học của sinh viên”, Nxb Giáo dục
(2008) đã nêu khái quát chung về hoạt động tự học của sinh viên bao gồm
hình thức, chu trình, hoạt động học tập và các yếu tố tâm lý đều có ảnh hưởng
đến hoạt động tự học [36].


18

Nhìn chung, những cơng trình nghiên cứu về hoạt động tự học trên cho
thấy mỗi tác giả khai thác vấn đề ở mỗi khía cạnh khác nhau và đi sâu vào
từng đối tượng cụ thể. Kết quả của những công trình nghiên cứu cũng cho
thấy thực trạng tự học, những thuận lợi, khó khăn, những yếu tố tác động đến
hoạt động tự học và kết quả học tập của người học.
Do tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục và
đào tạo, trong năm học 2010 – 2011 tại Trường Dự bị đại học TP. Hồ Chí
Minh đã diễn ra Hội thảo với chủ đề “Đổi mới phương pháp giảng dạy và
quản lý, nhằm nâng cao chất lượng dạy và học” các báo cáo tại Hội thảo đều
khẳng định yếu tố tự học của học sinh góp phần quan trọng đến việc nâng cao
chất lượng đào tạo của Nhà trường. Tuy nhiên, khi đánh giá về công tác tổ
chức và quản lý hoạt động tự học mang tính chất bắt buộc (theo quy định, đến

giờ tự học, học sinh phải có mặt đầy đủ, có giảng viên trực theo dõi, giám sát,
điểm danh đồng thời hỗ trợ, hướng dẫn khi học sinh hỏi bài) mà Nhà trường
đã thực hiện từ nhiều năm nay thì có hai luồng ý kiến trái chiều nhau. Một số
giảng viên cho rằng, cần phải có giảng viên trực trong giờ tự học để có sự tác
động tích cực đến hoạt động tự học của học sinh, vì đối tượng học sinh của
Trường đều là học sinh yếu các em sẽ khó mà tự giác trong hoạt động tự học
của mình. Ngược lại, một số giảng viên khác thì cho rằng, việc tổ chức tự học
mang tính chất bắt buộc như hiện nay là không hiệu quả, làm mất thời gian
của thầy, cô giáo nhưng kết quả tự học không cao vì học sinh vẫn chưa chủ
động, chưa thực sự tự giác trong học tập và có thể bị ép buộc tự học nên
không đạt hiệu quả cao. Kết thúc buổi Hội thảo vẫn chưa có sự đồng nhất
giữa hai luồng ý kiến trên, Nhà trường vẫn tiếp tục tổ chức hoạt động theo
hình thức bắt buộc có sự quản lý của Nhà trường như đã thực hiện. Làm sao
để vấn đề “tự học bắt buộc có tổ chức sang tự học tự giác mọi lúc, mọi nơi”
vẫn đang là vấn đề cịn bỏ ngõ. Hiện tại, vẫn chưa có nghiên cứu nào đi sâu


×