Tải bản đầy đủ (.docx) (58 trang)

Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (306.7 KB, 58 trang )

1

LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đang trên con đường đổi mới để xây dựng một xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Để đạt được điều
đó, một yêu cầu đặt ra đối với luật pháp là phải đảm bảo quyền con người, bảo
vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Điều 50 Hiến pháp 1992 quy
định: “Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về
chính trị, dân sự, kinh tế, văn hố và xã hội được tơn trọng, thể hiện ở các
quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật.”
Trong những năm gần đây, khi sự nghiệp đổi mới được Đảng ta khởi
xướng, thì vấn đề mở rộng dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
(XHCN), bảo vệ có hiệu quả các quyền công dân và quyền con người ngày càng
là nhiệm vụ cấp bách của toàn xã hội. Do vậy, việc xây dựng Nhà nước vững
mạnh với hệ thống pháp luật hồn chỉnh và những điều kiện kinh tế, chính trị, xã
hội thuận lợi là mục tiêu của cách mạng trong giai đoạn hiện nay.
Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) ra đời ngày 26/11/2003 “đã đáp ứng
được yêu cầu bảo vệ XHCN, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, xử lý kiên quyết mọi hành vi phạm tội”. Các hoạt động của cơ quan tiến
hành tố tụng hình sự đã góp phần quan trọng vào việc bảo đảm dân chủ, công
bằng xã hội. Trong số những người tham gia tố tụng thì người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo là người có vai trị trung tâm. Vì các hoạt động và các hành vi tố tụng của
các cơ quan và người tham gia tố tụng hình sự (TTHS) đều xoay quanh nhiệm
vụ là chứng minh họ có tội hay khơng có tội. Vì vậy, việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của cơng dân trong TTHS trước hết phải nói đến việc bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một chế định quan trọng


2


của luật TTHS, không những được thừa nhận ở Việt Nam mà còn được thừa
nhận rộng rãi tại các quốc gia trên thế giới. Đây là một nội dung quan trọng
trong việc bảo đảm quyền con người.
Tuy nhiên, thực tiễn những năm qua cho thấy, các cơ quan tiến hành tố
tụng chưa thực sự tôn trọng và bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo, nhiều cơ quan còn coi nhẹ nguyên tắc này, thực hiện chưa thực sự
nghiêm túc, có nhiều vi phạm, làm cho người dân vô tội bị kết tội oan, bị áp
dụng hình phạt quá nặng. Trong khoa học pháp luật TTHS, vấn đề lý luận và
thực tiễn liên quan đến việc bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo vẫn chưa được nghiên cứu một cách tồn diện và có hệ thống;
các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền bào chữa thì chưa được xác định cụ thể,
chi tiết dẫn đến việc khó thực hiện nguyên tắc trong thực tế.
2. Mục đích nghiên cứu của khóa luận
Mục đích của em khi lựa chọn đề tài này là nghiên cứu nhằm làm rõ một
số vấn đề lý luận chung về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo; làm rõ nội dung và sự thể hiện của nguyên tắc trong
pháp luật TTHS hiện hành; nghiên cứu thực trạng thực hiện nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; tìm hiểu những hạn chế,
vướng mắc và nguyên nhân của chúng, từ đó đưa ra các kiến nghị, giải pháp
khắc phục hạn chế, góp phần nâng cao hiệu quả, tính khả thi của nguyên tắc
trong các giai đoạn tố tụng.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được những mục đích đã đề ra, em sử dụng những phương pháp
nghiên cứu sau: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so
sánh, phương pháp thống kê hình sự… nhằm phân tích rõ nội dung của nguyên
tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và thực tiễn thi
hành ngun tắc. Từ đó góp phần hồn thiện các quy định của pháp luật tố tụng
hình sự về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo.



3
4. Cơ cấu khóa luận
Ngồi phần mở đầu, phần kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, khoá
luận được chia thành ba chương, bao gồm:
Chương 1: Một số vấn đề chung về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Chương 3: Thực tiễn thi hành nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và các giải pháp nâng cao hiệu quả nguyên tắc
này trong tố tụng hình sự.


4

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM
QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN,
BỊ CÁO
1.1 Khái niệm, ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
1.1.1 Khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo
* Khái niệm quyền bào chữa
Trong các giai đoạn khác nhau của lịch sử, Nhà nước ln có những quy
định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của cơng dân. Những quyền đó được Nhà
nước bảo đảm thực hiện, đồng thời công dân cũng có nghĩa vụ phải tơn trọng và
bảo đảm quyền lợi của người khác. Một trong các hình thức thực hiện quyền
cơng dân chính là quyền được bảo vệ mình trước cơ quan pháp luật, trong đó có

quyền bào chữa. Quyền bào chữa được ghi nhận trong BLTTHS là cần thiết,
giúp cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án được khách quan và tránh được
việc làm oan người vô tội.
Để hiểu khái niệm “quyền bào chữa”, trước hết phải hiểu khái niệm “bào
chữa” là gì? Bào chữa theo nghĩa chung nhất là hành vi của một người đưa ra
các bằng chứng chứng minh cho sự khơng có lỗi của chính mình (tự bào chữa)
hoặc của người khác (bào chữa cho người khác) [12]. Quyền bào chữa là một
chế định quan trọng trong luật TTHS và cho tới nay nó vẫn cịn cần được làm
sáng tỏ từ góc độ lý luận, làm tiền đề cho việc thực hiện nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa trong TTHS, một trong những điều kiện để TTHS đạt hiệu quả
cao.
Về khái niệm quyền bào chữa trong TTHS, hiện nay có nhiều quan điểm
khác nhau :


5
Quan điểm thứ nhất cho rằng : “Quyền bào chữa thuộc về bị can, bị cáo” [2].
Quan điểm thứ hai được đề cập trong các sách báo pháp lý là quan điểm
của Luật sư, PGS.TS Phạm Hồng Hải. Theo ông: “Trong TTHS, sự buộc tội đôi
khi xuất hiện cả khi chưa có quyết định khởi tố bị can trong trường hợp có
người bị tạm giữ và kết thúc khi TTHS kết thúc. Tất nhiên, bào chữa cũng xuất
hiện khi xuất hiện sự buộc tội và kết thúc khi sự buộc tội kết thúc. Điều đó có
nghĩa rằng trong TTHS, quyền bào chữa thuộc về các đối tượng sau: người bị
tạm giữ (người bị nghi phạm tội), bị can, bị cáo, người bị kết án”. Từ nhận xét
đó, ơng đưa ra khái niệm tổng quát về quyền bào chữa trong TTHS như sau:
“Quyền bào chữa trong TTHS là tổng hoà các hành vi tố tụng do người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án thực hiện trên cơ sở phù hợp với quy định
của pháp luật nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội của các cơ
quan tiến hành tố tụng, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự của
mình trong vụ án hình sự” [3, tr.29].

Quan điểm thứ ba là quan điểm trong BLTTHS năm 2003: Quyền bào
chữa thuộc về người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Ngoài những quan điểm trên, trong luật TTHS của các nước trên thế giới
cũng có những quan điểm rất khác nhau về chủ thể của quyền bào chữa.
Trong luật TTHS một số nước thuộc hệ thống pháp luật Commomlaw:
TTHS được coi là bắt đầu từ thời điểm vụ án hình sự được chuyển sang Tồ án
và quyền bào chữa chỉ thuộc về bị cáo.
Trong BLTTHS Liên Bang Nga, tại khoản 1 Điều 16 quy định: “Người bị tình
nghi và bị can được bảo đảm quyền bào chữa. Họ có thể tự mình bào chữa hoặc
nhờ sự giúp đỡ của người bào chữa và (hoặc) người đại diện hợp pháp”.[8, tr11]
Theo BLTTHS Nhật Bản thì quyền bào chữa chỉ thuộc về người bị tình
nghi, bị cáo. Điều 30 Bộ luật này quy định: “Bị cáo hoặc người bị tình nghi có
thể lựa chọn luật sư bất cứ lúc nào” [14].
Như vậy, khái niệm về quyền bào chữa trong TTHS đã được hiểu rất khác
nhau và thực tế đã được quy định khác nhau trong luật TTHS của các nước. Để


6
tìm hiểu rõ hơn về các quan điểm trên, trước hết chúng ta hãy đi tìm hiểu khái
niệm người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Người bị tạm giữ: “Là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả
tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và
đối với họ đã có quyết định tạm giữ”. (khoản 1 Điều 48 BLTTHS năm 2003)
Bị can: “Là người bị khởi tố về hình sự”.(khoản 1 Điều 49 BLTTHS năm 2003)
Bị cáo: “Là người đã bị Toà án quyết định đưa ra xét xử”. (khoản 1 Điều
50 BLTTHS năm 2003)
Bị can bị buộc tội bằng quyết định khởi tố bị can, đề nghị truy tố của cơ
quan điều tra (CQĐT), bản cáo trạng của Viện kiểm sát (VKS) và phải chịu
những hậu quả pháp lý nhất định như: bị áp dụng các biện pháp điều tra theo
luật định, bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn, các biện pháp cưỡng chế khác…

Bị cáo bị buộc tội bằng bản án của Tòa án và có thể phải chịu hình phạt…
Người bị tạm giữ tuy chưa bị buộc tội bằng một văn bản có tính chất pháp lý
nhưng đối với họ đã có quyết định tạm giữ và họ đã bị áp dụng biện pháp cưỡng
chế tố tụng là tạm giữ.
Từ sự phân tích ở trên, chúng tôi thấy rằng: quan điểm quy định tại Điều
11 của BLTTHS Việt Nam năm 2003 về chủ thể quyền bào chữa là hồn tồn
chính xác và chúng tơi đồng ý với quan điểm này. Quyền bào chữa chỉ thuộc về
những chủ thể: người bị tạm giữ, bị can, bị cáo - những người có thể bị buộc tội,
với nội dung: đưa ra những chứng cứ chứng minh cho sự vơ tội hoặc làm giảm
nhẹ tội cho mình. Ngồi những chủ thể trên, những người khác không chịu sự
buộc tội thì khơng có quyền bào chữa; để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình, họ có thể sử dụng những quyền năng khác được pháp luật quy định và
đảm bảo thực hiện.
Từ những phân tích trên đây, chúng tôi đưa ra khái niệm về quyền bào
chữa trong TTHS như sau: “Quyền bào chữa trong TTHS là tổng hoà các hành
vi tố tụng do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện trên cơ sở phù hợp với
các quy định của pháp luật nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội


7
của các cơ quan tiến hành tố tụng, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình
sự của mình trong vụ án hình sự”.
* Khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo.
Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một trong các
quyền tố tụng cơ bản của công dân, chế định này là cơ sở để quy định nguyên
tắc: bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Điều 11
BLTTHS Việt Nam năm 2003 quy định: “người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có
quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện

quyền bào chữa của họ”.
Việc pháp luật quy định bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo là một nguyên tắc trong TTHS xuất phát từ yêu cầu bảo vệ quyền
con người, bảo đảm tính khách quan trong quá trình giải quyết vụ án.
Từ nhận xét nêu trên, chúng tôi đưa ra khái niệm về nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa như sau:
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
là tư tưởng chủ đạo, có tính bắt buộc chung, được quy định trong luật TTHS,
trong đó xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc
nhờ người khác bào chữa, đồng thời quy định các cơ quan tiến hành tố tụng có
nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào
chữa của họ theo quy định của pháp luật.
1.1.2 Ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo
* Ý nghĩa chính trị
Thứ nhất, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo có ý nghĩa chính trị sâu sắc.
Nó là một trong những nguyên tắc hiến định quan trọng được ghi nhận ở
Điều 132 Hiến pháp 1992 và được quy định cụ thể hơn tại Điều 11 BLTTHS.


8
Việc quy định bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
trong BLTTHS chứng tỏ ở nước ta, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, các quyền
công dân ngày càng được tôn trọng và bảo đảm thực hiện.
Thứ hai, thực hiện tốt nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo chính là việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng
dân.
Với cơng cuộc đổi mới tồn diện của đất nước, chúng ta đã đạt được
những thành quả to lớn, đặc biệt là phát huy toàn diện quyền tự do dân chủ của

công dân, bảo đảm các quyền của con người. Việc Hiến pháp và các văn bản
pháp luật ghi nhận quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thành
một nguyên tắc và quy định cơ chế bảo đảm việc thực hiện đã chứng tỏ bản chất
dân chủ của Nhà nước ta luôn lấy con người là mục tiêu, trung tâm và là động
lực cho sự phát triển của đất nước.
Thứ ba, thực hiện tốt nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo là sự thể hiện rõ nét quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN trong sự nghiệp đổi
mới ở nước ta.
* Ý nghĩa xã hội
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do
dân và vì dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, mọi cơng dân đều
bình đẳng trước pháp luật. Một trong những quyền của công dân khi tham gia
TTHS với tư cách là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là quyền bào chữa. Quyền
bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một biểu hiện của nền dân chủ
XHCN, góp phần bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân khi tham
gia tố tụng; làm cho công tác điều tra, xử lý vụ án được chính xác, khách quan,
tồn diện và đầy đủ. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo là nguyên tắc mang ý nghĩa xã hội sâu sắc, thể hiện tính nhân đạo
trong TTHS Việt Nam. Pháp luật TTHS không chỉ quy định việc bảo đảm quyền
tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa mà trong một số trường hợp nhất định cơ


9
quan tiến hành tố tụng phải bảo đảm có sự tham gia của người bào chữa, như: bị
can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy
định trong Bộ luật hình sự; bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có
nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
là một biểu hiện của tính dân chủ trong hoạt động TTHS. Do là người có nguy

cơ bị cơ quan có thẩm quyền buộc tội nên người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
thường tham gia tố tụng một cách thụ động. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào
chữa đã tạo điều kiện thuận lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có cơ hội
đưa ra những chứng cứ cần thiết, lưu ý cơ quan tiến hành tố tụng xem xét tình
tiết minh oan hoặc giảm nhẹ tội cho mình theo quy định của pháp luật, có cơ hội
được tranh tụng bình đẳng trước Tồ án.
Việc quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo góp phần tích cực vào việc bảo vệ pháp chế XHCN, củng cố lòng
tin của quần chúng nhân dân vào hoạt động của hệ thống tư pháp hình sự.
* Ý nghĩa pháp lý
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
được thực hiện trên thực tế chính là việc thực hiện chức năng cơ bản của luật
TTHS. Đó cũng là biểu hiện cụ thể của yếu tố tranh tụng trong TTHS, điều mà
Nghị Quyết 08 của Bộ chính trị ngày 02/01/2002 về cơng tác tư pháp địi hỏi cần
được thực hiện trong hoạt động tư pháp hình sự, đặc biệt là trong hoạt động xét
xử hiện nay.
Việc thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo góp phần vào việc xác định sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm
trong q trình tố tụng khơng để lọt kẻ phạm tội, không làm oan người vô tội,
đảm bảo điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Thực
hiện nguyên tắc này một cách có hiệu quả sẽ hạn chế tối đa tình trạng oan sai
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.


1
0
Đối với cơ quan tiến hành tố tụng, việc quy định nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa là cơ sở pháp lý đảm bảo tính có căn cứ và hợp pháp của các
quyết định tố tụng mà các cơ quan tiến hành tố tụng đưa ra. Trong bất cứ giai
đoạn nào của TTHS, các cơ quan tiến hành tố tụng đều phải làm việc dựa trên

nguyên tắc tôn trọng sự thật khách quan. Muốn vậy thì các cơ quan này phải
đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong quá trình
điều tra, truy tố, xét xử. Chứng cứ rút ra từ những lời khai của người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo kết hợp với những chứng cứ khác giúp các cơ quan tiến hành tố
tụng xác định họ có tội hay khơng có tội.
1.2. Sơ lược lịch sử nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can. bị cáo
1.2.1 Giai đoạn từ khi cách mạng tháng Tám thành công (năm 1945)
cho đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988
Cách mạng tháng Tám 1945 thành cơng, nước Việt Nam dân chủ cộng
hồ ra đời, nhiệm vụ của Nhà nước non trẻ lúc này là củng cố chính quyền, kịp
thời ban hành pháp luật cách mạng làm vũ khí chống lại thù trong giặc ngồi,
xây dựng xã hội mới. Mặc dù trong những ngày đầu cách mạng mới thành cơng
có biết bao nhiệm vụ cần giải quyết, trong đó có nhiệm vụ đấu tranh chống các
loại tội phạm, nhưng chính quyền dân chủ nhân dân vẫn rất quan tâm tới nhiệm
vụ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, trong đó có quyền bào
chữa trước Tồ án.
Ngày 13/09/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 33C về việc
thành lập các Toà án quân sự. Đoạn 4 Điều 5 sắc lệnh này quy định: “Bị cáo có
thể tự bào chữa hay nhờ người khác bênh vực cho họ”.
Ngày 10/10/1945, Nhà nước ban hành Sắc lệnh số 46-SL quy định tổ
chức các đoàn thể luật sư. Theo quy định tại Điều 2 Sắc lệnh này thì: “Các luật
sư có quyền bào chữa ở tất cả các Toà án hàng tỉnh trở lên và trước tất cả các
Toà án quân sự”.


1
1
Sắc lệnh số 13/SL về tổ chức Toà án và ngạch thẩm phán cũng quy định
rõ tại Điều 46 với nội dung: “Các luật sư có quyền biện hộ trước tất cả các tồ

án, trừ tồ án sơ cấp”.
Có thể nói, pháp luật TTHS sau cách mạng tháng Tám đã trở thành cơ sở
pháp lý để bảo vệ các quyền của cơng dân, trong đó có quyền bào chữa của bị
cáo trước Toà án. Tuy nhiên, trong các văn bản pháp luật nêu trên, quyền bào
chữa của bị cáo chỉ được đề cập thông qua việc quy định về quyền của luật sư
bào chữa được tham gia bào chữa trong một số phiên toà. Bảo đảm quyền bào
chữa cho bị cáo chưa được coi là nguyên tắc trong TTHS.
Để khắc phục tình trạng trên, Nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số 21
ngày 14/02/1946 về tổ chức các Toà án quân sự. Điều 5 của Sắc lệnh này có
đoạn viết: “Bị cáo có quyền tự bênh vực lấy hay nhờ luật sư hoặc một người
khác bênh vực cho”.
Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp đầu tiên của nước ta đã được thông qua
ngày 09/11/1946. Với ý nghĩa là luật cơ bản, Hiến pháp 1946 đã đề cập đến
nhiều nguyên tắc quan trọng, trong đó có nguyên tắc về quyền bào chữa của bị
cáo.
Đoạn 2 Điều 67 Hiến pháp năm 1946 quy định: “Người bị cáo được
quyền bào chữa lấy hoặc mượn luật sư”.
Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, vấn đề bảo đảm quyền bào
chữa của bị cáo được coi là nguyên tắc hiến pháp. Cùng với một số nguyên tắc
khác, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo đã thể hiện rõ nét bản chất
ưu việt của pháp luật cách mạng so với các kiểu pháp luật trước đây. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nhận định: “Pháp luật của ta hiện nay bảo vệ quyền lợi cho
hàng triệu người lao động… Pháp luật của ta là pháp luật thực sự dân chủ vì nó
bảo vệ quyền tự do dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động” [1, tr.187]. Những
nội dung về quyền bào chữa của bị cáo được quy định trong Hiến pháp 1946 đã
thực sự là nền móng cho q trình phát triển và hoàn thiện nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa trong luật TTHS của nước Việt Nam hiện nay.


1

2
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền
Bắc hồn tồn được giải phóng, miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và bọn tay
sai thống trị. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ VIII khoá II
(8/1955) đã xác định: “Đường lối củng cố miền Bắc của ta là: củng cố và phát
triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến dần từng bước vững chắc lên chủ nghĩa xã
hội”.
Pháp luật TTHS trong thời kỳ này ở miền Bắc đã một lần nữa ghi nhận
quyền bào chữa của bị cáo. Điều 101 Hiến pháp 1959 quy định: “Quyền bào
chữa của người bị cáo được bảo đảm”. Như vậy, so với Hiến pháp 1946, Hiến
pháp năm 1959 có tiến bộ hơn là, khơng chỉ quy định bị cáo có quyền bào chữa
mà cịn khẳng định cả cơ chế bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo. Cùng với sự
ra đời của Hiến pháp, Luật tổ chức Tòa án nhân dân ngày 15/07/1960 quy định
cụ thể hơn nữa quyền bào chữa của bị cáo là: “Quyền bào chữa của bị cáo được
bảo đảm, ngoài việc tự bào chữa ra, bị cáo có thể nhờ luật sư bào chữa cho
mình. Bị cáo cũng có thể nhờ một cơng dân được đồn thể nhân dân giới thiệu
hoặc được Toà án nhân dân (TAND) chấp nhận bào chữa cho mình. Khi cần
thiết, TAND chỉ định người bào chữa cho bị cáo.”
Mặc dù tới trước khi ban hành BLTTHS năm 1988, quyền bào chữa của
bị can chưa được thừa nhận và thể chế hoá trong các văn bản pháp luật, nhưng
so với thời kỳ trước thì quyền bào chữa của bị cáo cũng có những điểm khác
biệt, tiến bộ và thể hiện tính chất dân chủ hơn.
Trong bản hướng dẫn trình tự tố tụng sơ thẩm về hình sự (kèm theo
Thơng tư số 16 – TAND ngày 27/08/1974 của Tồ án nhân dân tối cao) khẳng
định, quyền bào chữa là quyền quan trọng nhất của bị cáo nên TAND phải bảo
đảm cho họ thực hiện đầy đủ quyền đó và nghiên cứu lời bào chữa một cách
khách quan. Bản hướng dẫn đã quy định ba trường hợp bắt buộc phải có sự tham
gia của người bào chữa trong giai đoạn xét xử, đó là các trường hợp sau:
+ Bị cáo có thể bị phạt tù chung thân hoặc tử hình;



1
3
+ Bị cáo là vị thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất, tâm thần
(ví dụ: có bệnh động kinh hoặc trước khi phạm pháp, kẻ phạm pháp đã bị điên
nhưng đã chữa khỏi…) mà phạm pháp nghiêm trọng;
+ Vụ án có tính chất quan trọng, phức tạp và có ảnh hưởng lớn trong dư
luận của nhân dân.
Hiến pháp 1980 và Luật tổ chức TAND năm 1981 quy định quyền bào
chữa trong TTHS về căn bản giống quy định trong Hiến pháp 1959 và Luật tổ
chức TAND năm 1961. Trong điều kiện chưa có BLTTHS, nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa của bị cáo đã được cụ thể hố trong một số Thơng tư hướng dẫn
và bản tổng kết cơng tác năm của Tồ án nhân dân tối cao [3, tr.95].
Tóm lại, giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi BLTTHS năm 1988 có
hiệu lực pháp luật là giai đoạn dân tộc ta tiến hành cuộc cách mạng thống nhất
đất nước. Trong giai đoạn này, sự phát triển của chế định quyền bào chữa trong
TTHS luôn luôn gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế, xã hội của đất nước.
Mặc dù cịn rất nhiều khó khăn nhưng chế định bào chữa vẫn tiếp tục phát triển
theo hướng dân chủ và ngày càng hoàn thiện hơn, thể hiện tính nhân đạo và dân
chủ trong pháp luật TTHS của nước ta. Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo đã
trở thành nguyên tắc hiến định, được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản
pháp luật khác. Tuy nhiên, những quy định về quyền bào chữa trong thời kỳ này
vẫn còn những hạn chế, như chỉ coi quyền bào chữa là của bị cáo. Do vậy việc
bào chữa thường chỉ được thực hiện ở giai đoạn xét xử.
1.2.2 Giai đoạn từ khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 ra đời cho đến
trước năm 2003
Bộ luật TTHS đầu tiên của nước ta được Quốc hội khoá VIII kỳ họp thứ 3
thơng qua ngày 28/06/1988, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1989. Đây là
một bước tiến lớn trong lịch sử lập pháp TTHS ở nước ta. Sự ra đời của
BLTTHS đã đánh dấu một bước phát triển mới, quan trọng trong việc từng bước

hoàn thiện chế định bào chữa, nó đánh dấu sự thay đổi về chất của nguyên tắc
bảo đảm quyền bào chữa. Tại Điều 12 BLTTHS năm 1988, có quy định về


1
4
nguyên tắc này như sau: “Bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người
khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tồ án có nhiệm vụ bảo
đảm cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ.”
Như vậy, chủ thể của quyền bào chữa trong BLTTHS bây giờ không chỉ
thuộc về bị cáo mà còn thuộc về bị can. Bộ luật TTHS cũng phân biệt rõ khái
niệm bị can, bị cáo tại Điều 34. Theo đó, “bị can là người đã bị khởi tố về hình
sự, bị cáo là người đã bị Toà án quyết định đưa ra xét xử.” Đồng thời Điều 34
cũng khẳng định một lần nữa bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ
người khác bào chữa cho mình.
Cùng với BLTTHS, Hiến pháp năm 1992 cũng xác định: “Quyền bào
chữa của bị cáo được bảo đảm.” Có thể nói lần đầu tiên, quyền bào chữa của bị
can, bị cáo được ghi nhận trong một điều luật của TTHS. Việc ghi nhận đó
chứng tỏ Nhà nước ta ln đặt lợi ích của nhân dân lên hàng đầu, bảo vệ mọi
quyền lợi của nhân dân.
1.2.3 Giai đoạn từ năm 2003 đến nay
Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới tồn diện đất nước, cải cách hành
chính, cải cách tư pháp theo đường lối của Đảng, BLTTHS năm 1988 đã bộc lộ
một số mặt hạn chế, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng và
chống tội phạm trong tình hình mới. Bộ luật TTHS năm 2003 được Quốc hội
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khố XI, kỳ họp thứ 4 thơng qua
ngày 26/11/2003 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2004 nhằm giải quyết
các yêu cầu trên, đồng thời cũng nhằm góp phần bảo đảm thực hiện đúng Bộ
luật hình sự năm 1999, cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp 1992 đã được sửa
đổi bổ sung năm 2001.

Bộ luật TTHS năm 2003 gồm tám phần, trong đó nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa được ghi nhận tại phần thứ nhất: “Những quy định chung”.
Theo quy định của BLTTHS năm 2003, chủ thể của quyền bào chữa đã được mở
rộng thêm, khơng chỉ có bị can, bị cáo mà người bị tạm giữ cũng có quyền bào
chữa. Nhà nước cũng quy định trực tiếp các cơ chế bảo đảm thực hiện nguyên


1
5
tắc đó. Ngồi ra, để các quy định về việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo được thống nhất, Hội đồng thẩm phán TAND tối cao đã
ban hành Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP trong đó có hướng dẫn thi hành một
số quy định về việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo.
Qua nghiên cứu một số khái niệm về quyền bào chữa, lịch sử hình thành
và phát triển của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật TTHS, có thể
rút ra một số nhận xét :
+ Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo đã được ghi nhận trong các Điều ước quốc tế và trở thành một giá trị pháp lý
được quốc tế hoá. Quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa chính là một
sự tất yếu thể hiện xu thế của thời đại.
+ Quyền bào chữa là một trong các chế định quan trọng không thể thiếu
được của pháp luật TTHS Việt Nam. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa được
quy định xuất phát từ việc bảo đảm thực hiện quyền con người và những quyền
cơ bản kháccủa công dân. Đồng thời, việc thực hiện tốt nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo còn giúp các cơ quan tiến
hành tố tụng xác định được sự thật khách quan của vụ án, giúp TTHS được tiến
hành đúng mục đích, xét xử cơng minh, kịp thời, không để lọt tội phạm, không
làm oan người vơ tội.
+ Quyền bào chữa ở Việt Nam mang tính ổn định và tính hồn cảnh lịch
sử. Tính ổn định thể hiện: nguyên tắc bảo đảm quuyền bào chữa được ghi nhận

trong tất cả các bản Hiến pháp của nước ta. Tính hồn cảnh lịch sử thể hiện ở
những bảo đảm pháp lý và trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong
việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được tính
tốn, cân nhắc phù hợp với điều kiện hồn cảnh lịch sử cụ thể của từng giai
đoạn.


1
6
1.3. Mối quan hệ giữa nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo với các nguyên tắc khác của Tố tụng hình sự
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
có mối quan hệ hữu cơ gắn bó với một loạt các nguyên tắc khác của TTHS.
Trong TTHS, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa gắn liền với nguyên
tắc pháp chế XHCN, được quy định ở Điều 3 BLTTHS: “Mọi hoạt động tố tụng
hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia
tố tụng phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật này”.
Nguyên tắc pháp chế XHCN đòi hỏi các CQĐT, VKS, TAND và những
người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng phải nghiêm chỉnh chấp
hành các quy định của BLTTHS. Nhờ đó, một mặt đảm bảo cho việc phát hiện
nhanh chóng tội phạm, mặt khác đảm bảo cho sự công bằng, đúng pháp luật, bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia TTHS.
Để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của cơng dân, ngun tắc xác định sự thật của vụ án được ghi nhận tại
Điều 10 và nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự được ghi nhận
tại Điều 13 BLTTHS. Nội dung cơ bản của các nguyên tắc này thể hiện ở chỗ:
các cơ quan tiến hành tố tụng khi thực hiện chức năng của mình đều phải đứng
trên quan điểm bảo vệ lợi ích cơng cộng, lợi ích của nhà nước khỏi bị xâm
phạm, nhanh chóng phát hiện tội phạm, áp dụng hình phạt cơng bằng đối với
người phạm tội. Đây là một q trình địi hỏi hết sức thận trọng và chính xác. Từ

đó: nếu khơng bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thì
sự buộc tội dễ dàng chỉ là sự áp đặt thiếu dân chủ. Như vậy, nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa và hai nguyên tắc trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa cịn có mối liên hệ chặt chẽ với
ngun tắc khơng ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tịa án đã có
hiệu lực pháp luật quy định tại Điều 9 BLTTHS: “Không ai bị coi là có tội và
phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tồ án đã có hiệu lực pháp
luật.” Ngun tắc này khơng cho phép kết tội bị cáo dựa trên các giả thiết, mà


1
7
chỉ có thể được quyết định trong điều kiện hành vi phạm tội của bị cáo đã được
chứng minh đầy đủ. Do đó có thể thấy, nguyên tắc quy định tại Điều 9 BLTTHS
đã trở thành phương tiện rất hữu hiệu mà người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể
sử dụng khi cần thiết, yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng tuân thủ nguyên tắc
này.
Bảo đảm quyền bào chữa phải được thực hiện trên cơ sở bình đẳng cả về
mặt pháp lý và thực tiễn giữa các bên buộc tội và bên bào chữa trong quá trình
tiến hành các hoạt động TTHS dưới hình thức tranh tụng. Điều 19 BLTTHS thể
hiện rõ nét nội dung nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tịa án: “Kiểm
sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của
họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự đều có quyền bình đẳng trong việc đưa
ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Tồ án.”
Có quan điểm cho rằng: tranh tụng và bình đẳng giữa các bên tranh tụng
chỉ áp dụng cho giai đoạn xét xử mà không thể áp dụng cho giai đoạn điều tra,
truy tố. Điều này dẫn tới sự bất bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa.
Thực tế cho thấy, nếu ở giai đoạn điều tra, truy tố sự bình đẳng giữa hai bên
khơng được bảo đảm thì sẽ dẫn đến sự bất bình đẳng ở giai đoạn xét xử và tất

yếu sẽ khơng có sự bình đẳng trong tồn bộ q trình TTHS.
Yếu tố tranh tụng còn được phản ánh tương đối rõ trong các quy định
khác của BLTTHS về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể bên buộc tội, bên bào
chữa và Toà án trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
có mối quan hệ mật thiết với nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản
của công dân. Điều 4 BLTTHS quy định: “Khi tiến hành tố tụng, Thủ trưởng,
Phó thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó viện trưởng VKS, Kiểm
sát viên, Chánh án, Phó chánh án Tồ án, Thẩm phán, Hội thẩm trong phạm vi
trách nhiệm của mình phải tơn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
của cơng dân, thường xun kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những


1
8
biện pháp đã áp dụng, kịp thời huỷ bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu
xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc khơng cịn cần thiết nữa.”
Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn nói trên liên quan trực tiếp tới các
quyền cơ bản của cơng dân, nó gắn liền với quá trình tiến hành các hoạt động tố
tụng của các cơ quan có thẩm quyền như: CQĐT, VKS. Do đó, người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo khi thực hiện quyền bào chữa của mình chính là làm rõ những
căn cứ cho rằng không cần thiết phải áp dụng hoặc áp dụng những biện pháp
ngăn chặn theo hướng nhẹ hơn mà vẫn bảo đảm mục đích của TTHS. Như vậy
thông qua hoạt động bào chữa, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình, tránh khỏi sự thiệt hại không cần thiết
trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn hoặc từ các hành vi vi phạm pháp
luật của những người tiến hành tố tụng.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa được thực hiện trên thực tế có mối
quan hệ chặt chẽ với nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi cơng dân
trước pháp luật. Ngun tắc này được ghi nhận trong điều 52 Hiến pháp 1992 và

được cụ thể hoá trong Điều 5 và Điều 19 của BLTTHS. Mọi người đều bình
đẳng trước pháp luật và trước Tòa án thể hiện ở chỗ: mọi người đều được pháp
luật bảo vệ và đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi vi phạm của
mình. Sự bình đẳng trước pháp luật và bình đẳng trước Toà án được đánh giá
trong mối tương quan giữa việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khi
tham gia các hoạt động TTHS, khơng có sự ưu đãi ai hơn ai. Đối với bất kỳ
người nào, dù là Điều tra viên, Kiểm sát viên hoặc Thẩm phán…có hành vi vi
phạm pháp luật đều bị xử lý. Đối với người phạm tội thì họ phải chịu trách
nhiệm hình sự dù họ là ai, ở cương vị nào, làm nghề gì. Ngược lại, với những
người khơng có hành vi trái pháp luật thì khơng ai có quyền xâm hại đến quyền
và lợi ích của họ.
Mặt khác, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi cơng dân trước
pháp luật và bình đẳng trước Tồ án cũng địi hỏi ở các chủ thể tham gia TTHS
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình.


1
9
Tóm lại có thể nói, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo là nguyên tắc cơ bản và có tầm quan trọng lớn. Các nguyên
tắc khác của TTHS đều có quan hệ gắn bó mật thiết với quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; và quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo chỉ có ý nghĩa khi việc bảo đảm cho quyền đó được thực hiện đồng bộ với
việc thực hiện các nguyên tắc nêu trên.


2
0

Chương 2

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ
NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI
BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN, BỊ CÁO
2.1 Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm quyền tự bào
chữa và nhờ người bào chữa
2.1.1 Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm quyền tự bào
chữa
Tự bào chữa là một trong những hình thức thực hiện quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và là nội dung quan trọng của nguyên tắc bảo
đảm quyền bào chữa trong TTHS. Tự bào chữa có nghĩa là người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo được tự mình thực hiện các hành vi tố tụng như: đưa ra các chứng
cứ, đưa ra những yêu cầu có lợi cho mình khi tham gia tố tụng.
Xuất phát từ việc bào chữa là quyền chứ không phải là nghĩa vụ, cho nên
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể bảo vệ mình một cách tích cực bằng các
hành vi như: đưa ra chứng cứ, yêu cầu, đề xuất đối chứng, nhận xét chứng cứ,
tranh luận trước Toà án. Đối với các trường hợp này, cơ quan tiến hành tố tụng
không nên coi đây là biểu hiện của hành vi ngoan cố, chối tội của họ. Muốn xác
định được người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có tội hay khơng có tội phải dựa trên
cơ sở đánh giá những chứng phản ánh những tình tiết khách quan của vụ án.
Quyền tự bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được thực hiện ở
các giai đoạn trong tố tụng hình sự, từ điều tra, truy tố đến xét xử.
Để người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể tự mình thực hiện quyền bào
chữa, pháp luật TTHS quy định họ có các quyền sau:
* Người bị tạm giữ có quyền được biết lý do mình bị tạm giữ
Ngay từ lúc bị bắt, họ được nghe đọc biên bản bắt người và có quyền ghi
ý kiến khơng đồng ý của mình vào biên bản và ký xác nhận. Khi bị tạm giữ, họ




×