TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA: KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGHỀ MÔI
GIỚI CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Nguyên Dung
Lớp : Anh 3
Khoá : K41A - KTNT
Giáo viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Đình Thọ
Hà Nội, tháng 11 năm 2006
Định hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán tại việt Nam
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Khi thị trƣờng chứng khoán tập trung đầu tiên của Việt Nam đi vào
hoạt động ngày 20 tháng 7 năm 2000 thì đã có một nghề mới đƣợc xuất
hiện, đó là nghề môi giới chứng khoán. Có thể nói một trong những đặc
trƣng của TTCK là hoạt động theo nguyên tắc trung gian, theo nguyên tắc
này các giao dịch trên TTCK bắt buộc phải đƣợc thực hiện qua các công ty
môi giới chứng khoán và nhân viên môi giới. Môi giới chứng khoán là một
trong những hoạt động nghiệp vụ đặc trƣng và cơ bản trong thị trƣờng
chứng khoán. Khác với nghề môi giới trong các lĩnh vực khác, môi giới
chứng khoán là một loại hoạt động chuyên nghiệp mang tính nhà nghề cao,
đòi hỏi phải có kỹ năng, nghiệp vụ, đạo đức, đồng thời đòi hỏi một môi
trƣờng hỗ trợ tƣơng đối phức tạp.
Cùng với sự ra đời cách đây chƣa lâu của TTCK Việt Nam, nghề
môi giới chứng khoán cũng đã hình thành và đang trên đà phát triển. Đây là
kết quả của nỗ lực nhằm rút ngắn khoảng thời gian cần thiết để tạo lập kênh
huy động vốn trung và dài hạn cho công cuộc tăng trƣởng kinh tế đất nƣớc.
Thị trƣờng tài chính phát triển ở trình độ cao là tiền đề để nghề môi giới
chứng khoán có thể đảm nhận tốt chức năng cung cấp các dịch vụ và sản
phẩm tài chính. Tuy nhiên, khi trƣờng thị trƣờng tài chính còn phát triển ở
mức độ thấp, sự xuất hiện và phát triển của hoạt động môi giới chứng
khoán sẽ có tác động ngƣợc lại, trở thành một nhân tố thúc đẩy sự phát
triển và hoàn thiện của thị trƣờng chứng khoán nói riêng và thị trƣờng tài
chính nói chung. Chính vì thế, nghề môi giới chứng khoán cần đƣợc nhận
thức một cách đầy đủ từ mọi khía cạnh pháp lý, đạo đức, cá nhân và cộng
đồng, tích cực và tiêu cực… để từ đó có thể hoạch định một chƣơng trình
xây dựng và phát triển nghề môi giới chứng khoán nhƣ một bộ phận quan
trọng của chiến lƣợc phát triển tổng thể ngành chứng khoán.
Định hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán tại việt Nam
2
Trên cơ sở nghiên cứu nghề môi giới chứng khoán cũng nhƣ phân
tích thực trạng nghề môi giới chứng khoán ở Việt Nam, đề tài “Định
hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán ở Việt Nam” có ý nghĩa
thiết thực cả về mặt lý luận và mặt thực tiễn, nhằm góp phần củng cố và
thúc đẩy nghề môi giới chứng khoán nói riêng và thị trƣờng chứng khoán
Việt Nam nói chung phát triển ổn định hơn.
2. Mục tiêu nghiên cứu của khóa luận:
- Làm rõ bản chất của nghề môi giới chứng khoán qua việc phân tích
chức năng, bản chất, đặc trƣng và các loại môi giới chứng khoán cũng nhƣ
mâu thuẫn nội tại của nó trong nền kinh tế, nhất là trong giai đoạn phát
triển ban đầu của thị trƣờng chứng khoán Việt Nam, từ đó phân tích vai trò
của nghề môi giới chứng khoán trong nền kinh tế nói chung và trên thị
trƣờng chứng khoán nói riêng.
- Xem xét cơ cấu tổ chức và vận hành của các công ty môi giới
chứng khoán; các kỹ năng cần thiết của ngƣời môi giới chứng khoán và
những chuẩn mực nghề nghiệp của họ với tƣ cách là những cá nhân hành
nghề, đặt trong xu hƣớng phát triển của thế giới hiện đại.
- Đánh giá thực trạng thị trƣờng chứng khoán Việt Nam và nghề môi
giới chứng khoán của Việt Nam trong giai đoạn đầu hoạt động.
- Đề xuất một số giải pháp cho việc xây dựng và phát triển nghề môi
giới chứng khoán ở Việt Nam.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu:
Khoá luận nghiên cứu nghề môi giới chứng khoán nói chung, đồng
thời nghiên cứu thực trạng nghề môi giới chứng khoán ở Việt Nam nhằm
tìm ra một hƣớng phát triển cho nghề môi giới chứng khoán Việt Nam
trong thời gian tới.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Định hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán tại việt Nam
3
Khoá luận sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu lý luận, phân tích,
so sánh để rút ra đƣợc các đánh giá, nhận xét tổng quát và đƣa ra các nhận
định, kiến nghị nhằm xây dựng và phát triển nghề môi giới chứng khoán
Việt Nam.
5. Bố cục khoá luận:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận đƣợc bố cục thành ba chƣơng:
Chƣơng 1. Tổng quan về nghề môi giới chứng khoán
Chƣơng 2.Thực trạng hoạt động môi giới chứng khoán ở Việt
Nam hiện nay
Chƣơng 3. Định hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán
ở
Việt Nam
Do những hạn chế về thời gian và nguồn tài liệu nên khóa luận
không thể tránh khỏi những thiếu sót. Những khuyến nghị đƣa ra chắc chắn
còn nhiều khiếm khuyết và chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu của ngƣời đọc. Vì
vậy, ngƣời viết rất mong nhận đƣợc ý kiến đóng góp của các thầy cô và bạn
đọc để khóa luận đƣợc hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Đình Thọ đã tận tình hƣớng
dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện khoá luận tốt
nghiệp của mình.
Định hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán tại việt Nam
4
CHƢƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NGHỀ MÔI GIỚI
CHỨNG KHOÁN
I. VÀI NÉT VỀ NGHỀ MÔI GIỚI CHỨNG KHOÁN
1. Khái quát về thị trƣờng chứng khoán
1.1. Khái niệm và chức năng của thị trƣờng chứng khoán
1.1.1. Khái niệm thị trƣờng chứng khoán
Trong xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa ngày càng phát triển nhƣ hiện
nay, TTCK đã trở thành một yếu tố căn bản, không thể thiếu đƣợc của một
nền kinh tế hiện đại. TTCK đã và đang trở thành một định chế tài chính
quan trọng nhất đối với những nƣớc có nền kinh tế thị trƣờng phát triển. Về
định nghĩa TTCK thì từ trƣớc tới nay cũng có rất nhiều định nghĩa khác
nhau về TTCK.
Theo tiếng Latin, TTCK có nghĩa là BURSA hay còn gọi là “sở giao
dịch chứng khoán”, nghĩa đen là ví đựng tiền, là một tổ chức hoạt động có
điều khiển. Theo chữ Hán, TTCK là giao dịch sở, sở có nghĩa là nơi chốn,
còn giao dịch có nghĩa là mua bán, đổi chác.
Từ điển Longman Dictionary of Business English, năm 1985, định
nghĩa TTCK nhƣ sau: “An organized market where securites are bought
and sold under fixed rules
1
”, dịch sang tiếng Việt có nghĩa là “TTCK là
một thị trƣờng có tổ chức, là nơi mà các chứng khoán đƣợc mua và bán
theo những nguyên tắc nhất định”. Cũng theo The America Heritage
Dictionary of the English Languahe, Dell, 1971, trong tiếng Anh, thì
securites có nghĩa là written evidence of ownership, có nghĩa tiếng Việt là
“chứng từ sở hữu bằng văn bản”
2
Tuy nhiên trong đời sống hàng ngày thì TTCK đã thoát ly định nghĩa
ban đầu và có thêm nhiều nội dung mới. “TTCK là một thị trƣờng mà ở
1
Longman Dictionary os Business English, 1985
2
The American Heritage Dictionary of the English Language, Dell, 1971, T.633
Định hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán tại việt Nam
5
nơi đó ngƣời ta mua bán chuyển nhƣợng, trao đối chứng khoán nhằm
mục đích kiếm lời”
3
.
Nghị định 48/CP – NĐ ngày 11/7/1998, khoản 19 điều 2, quy định: “
Thị trƣờng giao dịch tập trung là địa điểm hoặc hệ thống thông tin, tại đó
các CK đƣợc mua bán hoặc là nơi tham khảo để thực hiện các giao dịch
chứng khoán”
4
1.1.2 Chức năng chủ yếu của TTCK
TTCK có các chức năng chủ yếu sau:
Thứ nhất, TTCK là một kênh huy động vốn đầu tƣ hiệu quả cho nền
kinh tế. Khi các nhà đầu tƣ mua chứng khoán của các tổ chức phát hành,
điều đó có nghĩa là số tiền nhàn rỗi của họ đƣợc huy động và sử dụng để
đầu tƣ cho các hoạt động sản xuất cũng nhƣ kinh doanh dịch vụ, điều này
giúp phần quan trọng trong việc phát triển đầu tƣ cho cở sở hạ tầng và xây
dựng cơ sở vật chất kinh tế xã hội góp phần phát triển nền kinh tế.
Thứ hai, TTCK cung cấp môi trƣờng đầu tƣ cho công chúng thông
qua TTCK, các nhà đầu tƣ có thể lựa chọn một loại hình chứng khoán phù
hợp để đầu tƣ nhằm nâng cao hiệu quả đầu tƣ và thu lợi nhuận.
Thứ ba, TTCK tạo tính thanh khoản cho các loại chứng khoán. Nhờ
có TTCK mà các nhà đầu tƣ có thể chuyển cổ phiếu họ đang sở hữu thành
tiền mặt hoặc các loại chứng khoán một cách dễ dàng. TTCK càng hoạt
động hiệu quả càng nâng cao đƣợc tính thanh khoản của các loại chứng
khoán và thu hút càng nhiều nhà đầu tƣ tham gia thị trƣờng.
Thứ tƣ, TTCK là thƣớc đo đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp. Hoạt động của doanh nghiệp đƣợc phản ánh một cách tổng hợp và
chính xác trên TTCK. Điều này tạo môi trƣờng cạnh tranh giữa các doanh
3
GS. NGƢT Đinh Xuân Trình và PGS.TS. Nguyễn Thị Quy, “Giáo trình thị trƣờng chứng khoán” của
Trƣờng ĐH Ngoại Thƣơng, NXB Giáo Dục, T.8
4
Nghị định số 48/ 1998/ NĐ - CP ngày 11/ 7/ 1998 của Chính phủ về chứng khoán và thị trƣờng chứng
khoán
Định hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán tại việt Nam
6
nghiệp, là động lực cho doanh nghiệp phát triển. Các doanh nghiệp vì vậy
phải luôn nỗ lực, đổi mới trang thiết bị, nâng cao chất lƣợng hoạt động,
nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trƣờng.
Thứ năm, TTCK giúp cho chính phủ thực hiện quản lý vĩ mô nền kinh
tế. Chúng ta có thể thấy rằng TTCK với tính nhạy cảm vốn có, thì những
động thái trên TTCK phản ánh các biến động của nền kinh tế, qua đó chính
phủ có thể đƣa ra các quyết định nhanh chóng và hợp lý. Thông qua TTCK
thì chính phủ có thể mua bán các loại trái phiếu, điều chỉnh cán cân ngân
sách, điều tiết lƣợng cung tiền và quản lý lạm phát.
1.2 Các chủ thể tham gia TTCK
1.2.1 Nhà phát hành
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện việc huy động vốn thông qua
thị trƣờng chứng khoán bằng cách phát hành và bán các CK trên thị trƣờng
sơ cấp, nhƣ cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tƣ… “Tổ chức phát
hành là tổ chức thực hiện việc phát hành chứng khoán ra công chúng”.
5
Nhà phát hành là ngƣời cung cấp chứng khoán - hàng hoá của TTCK. Nhà
phát hành chứng khoán có thể là chính phủ, các cơ quan chính phủ, các tổ
chức tài chính, các doanh nghiệp và các công ty cổ phần. Trong đó nhà phát
hành ở Việt Nam chủ yếu là chính phủ và các công ty cổ phần.
Chính phủ và chính quyền địa phƣơng là nhà phát hành các trái phiếu
chính phủ và trái phiếu địa phƣơng. Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu
và trái phiếu công ty. Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài
chính nhƣ các trái phiếu, chứng chỉ thụ hƣởng… phục vụ cho hoạt động
của họ.
1.2.2 Nhà đầu tƣ
Đầu tƣ chứng khoán chỉ là việc bỏ vốn, tiền tệ ra mua chứng khoán
để kiếm lời, việc kiếm lời trong đầu tƣ chứng khoán có thể là do thu nhập
5
Luật chứng khoán 22 tháng 6 năm 2006, điểu6 khoản 13
Định hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán tại việt Nam
7
từ cổ tức, trái tức, nhƣng cũng có thể là từ chênh lệch giá do kinh doanh
chứng khoán đem lại.
Nhà đầu tƣ chứng khoán là những ngƣời có tiền nhàn rỗi, sử dụng tiền
đầu tƣ vào TTCK bằng cách thực sự mua các CK đang đƣợc phát hành trên
TTCK nhằm hƣởng lãi và lợi nhuận. Có thể chia nhà đầu tƣ chứng khoán
thành hai loại đó là:
Nhà đầu tƣ cá nhân: nhà đầu tƣ cá nhân chính là công chúng, là
khối lƣợng công chúng đông đảo có thể cung cấp một lƣợng tiền tệ rất lớn,
từ những nguồn thu nhập thƣờng xuyên của mình. Đầu tƣ từ công chúng là
một nguồn cung cấp rất quan trọng và có xu hƣớng ngày càng gia tăng
cùng với sự tăng trƣởng GDP của mỗi quốc gia.
Các tổ chức đầu tƣ: các quỹ hƣu bổng, quỹ tƣơng hỗ, các công ty
bảo hiểm, các ngân hàng thƣơng mại, các công ty đầu tƣ quốc gia, các quỹ
tài chính công, các quỹ bảo hiểm xã hội, các quỹ cứu trợ…Đây là những
nhà đầu tƣ có tiềm lực tài chính dồi dào, có kinh nghiệm và có những ảnh
hƣởng không nhỏ đến hoạt động của thị trƣờng chứng khoán.
Ở Việt Nam, “nhà đầu tƣ là tổ chức cá nhân Việt Nam và tổ chức cá
nhân nƣớc ngoài tham gia đầu tƣ trên TTCk”
6
1.2.3 Các trung gian chứng khoán
Trung gian là đƣa đƣờng dẫn lối để hai bên có thể gặp nhau. Nhà trung
gian chứng khoán có thể với tƣ cách là: nhà trung gian cá nhân hay các tổ
chức trung gian (pháp nhân) nhƣ các công ty chứng khoán.
Vai trò chủ yếu của nhà trung gian chứng khoán là: kinh doanh, môi
giới và bảo lãnh chứng khoán. TTCK hoạt động hiệu quả một phần là nhờ
sự thực hiện tốt vai trò của các trung gian chứng khoán. Hầu hết các công
ty chứng khoán đều vừa có hoạt động môi giới vừa có hoạt động kinh
6
Luật chứng khoán ngày 22 rháng 6 năm 2006, điều 6 khoản 10
Định hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán tại việt Nam
8
doanh chứng khoán, tuy nhiên trong giao dịch để đảm bảo tính trung thực,
công bằng và uy tín của ngành, hai hoạt động này đƣợc lƣu ý tổ chức và
giám sát tách bạch.
1.2.4 Ngƣời quản lý, giám sát và điều chỉnh hoạt động của TTCK
Là ngƣời có nghĩa vụ đảm bảo cho TTCK hoạt động theo đúng các
quy định của pháp luật, nhằm đảm bảo cho việc mua bán chứng khoán trên
thị trƣờng diễn ra một cách công khai, công bằng, tránh những yếu tố tiêu
cực có thể xảy ra, từ đó bảo vệ lợi ích cho những ngƣời đầu tƣ.
Vai trò quản lý, giám sát và điều chỉnh hoạt động của TTCK thuộc về
nhà nƣớc. Để thực hiện vai trò này, phải hình thành một cơ quan quản lý
giám sát và điều chỉnh thị trƣờng – cơ quan đó gọi là hội đồng chứng khoán
quốc gia (mà ở nƣớc ta gọi là Ủy Ban Chứng Khoán Quốc Gia). Thành
viên của cơ quan này thƣờng là những quan chức của: Bộ tài chính, ngân
hàng trung ƣơng, Bộ thƣơng mại, Bộ tƣ pháp và đại diện của sở giao dịch
chứng khoán.
II. NGHỀ MÔI GIỚI CHỨNG KHOÁN
1. Nghề môi giới chứng khoán là gì?
1.1 Thế nào là môi giới chứng khoán
Có thể nói, hoạt động MGCK là hạt nhân của TTCK, hoạt động
MGCK phát triển sẽ tạo đà phát triển cho TTCK. Điều này bắt nguồn từ
nguyên tắc chủ đạo đối với hoạt động của TTCK là chỉ dựa vào các hoạt
động giao dịch đƣợc cấp phép giữa những ngƣời trung gian làm nghề
MGCK. Luật Chứng Khoán Việt Nam 2006 định nghĩa MGCK nhƣ sau:
“Môi giới chứng khoán là việc công ty chứng khoán làm trung gian thực
hiện việc mua bán chứng khoán cho khách hàng”
7
MGCK là một hoạt động kinh doanh CK trong đó một công ty CK đại
diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại sở
7
Luật chứng khoán ngày 22 tháng 6 năm 2006, điều 6 khoản 20
Định hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán tại việt Nam
9
giao dịch chứng khoán hay thị trƣờng OTC mà chính khách hàng sẽ phải
chịu trách nhiệm đối với hậu quả kinh tế của việc giao dịch đó.
[
8
]
Với cách tiếp cận nhƣ vậy, ngƣời môi giới chứng khoán, hiểu theo
nghĩa rộng, là những ngƣời trung gian mua bán CK cho khách hàng để
hƣởng hoa hồng; trung gian mua bán CK bằng vốn của mình; và là ngƣời
bảo lãnh phát hành cho những tổ chức phát hành CK. Đó có thể là các tổ
chức tài chính quốc doanh, hoặc tổ chức tài chính thuộc khu vực kinh tế tƣ
nhân với hai hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần.
Ở Việt Nam, khái niệm MGCK còn khá mới mẻ, nhiều ngƣời vẫn coi
môi giới chứng khoán nhƣ một loại trung gian, hay một loại “cò” nhƣ là cò
nhà, cò đất, cò xe mà không hiểu bản chất của Môi giới chứng khoán là
một tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc nhất định. Để trở thành một nhà
MGCK giỏi, có tiếng tăm và có nhiều khách hàng chỉ có thể làm đƣợc
nếu nhƣ khách hàng của nhà môi giới đó thu đƣợc nhiều lợi nhuận. ở các
TTCK có tổ chức, các nhà MGCK không hoạt động với tƣ cách cá nhân
độc lập. Mỗi cá nhân ngƣời MGCK dù hoạt động trong lĩnh vực nào cũng
thƣờng đại diện cho công ty chứng khoán. Vì vậy, các công ty chứng khoán
phải chọn ngƣời môi giới có phẩm chất đạo đức, có kiến thức chuyên môn
về TTCK nói chung và về MGCK nói riêng.
[
9
]
Có thể nói việc hình thành và phát triển nghề môi giới chứng khoán là
một tất yếu khi TTCK phát triển ở trình độ cao, khi sản phẩm và dịch vụ
ngày càng đa dạng về số lƣợng và phong phú về chủng loại. Khi đó nhà đầu
tƣ sẽ ngày càng cần hơn những ngƣời môi giới có thể cung cấp cho họ
những thông tin cần thiết, những ý tƣởng đầu tƣ mới mẻ, những lời khuyên
mang tính chiến lƣợc và giúp cho họ đầu tƣ theo hƣớng có hiệu quả nhất.
Từ yêu cầu thực tế đó, đòi hỏi hoạt động môi giới chứng khoán phải phát
8
PTS. Đinh Xuân Hạ, “Quản lý và các nghiệp vụ giao dịch trên thị trƣờng chứng khoán”, NXB Thống
kê, Hà Nội 1999, T. 328
9
Bùi Nguyên Hoàn, “Thị trƣờng chứng khoán và các công ty cổ phần”, NXB Chính trị quốc gia, năm
2001, T. 101
Định hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán tại việt Nam
10
triển ở trình độ cao, mang tính chuyên nghiệp, nói cách khác là trở thành
nghề môi giới chứng khoán. Nhƣ vậy, có thể hiểu nghề môi giới chứng
khoán là hoạt động nghiệp vụ trong sự tƣơng tác giữa công ty môi giới, nơi
cung cấp phƣơng tiện vật chất, tổ chức và pháp lý, và nhân viên môi giới,
ngƣời trực tiếp giao dịch với khách hàng.
1.2 Lịch sử hình thành và phát triển của nghề môi giới chứng khoán
Nghề môi giới chứng khoán xuất hiện trƣớc đây khá lâu, lâu hơn nghề
tƣ vấn tài chính độc lập chuyên về hoạt động bảo hiểm rất nhiều. Ngay từ
trƣớc năm 1773 năm mà TTCK đƣợc hình thành, những ngƣời môi giới đã
tiến hành giao dịch cổ phiếu của các công ty tại các quán cafê của Anh.
Khi nhu cầu tài chính tăng lên, việc giao dịch các tài sản tài chính thƣờng
diễn ra trong các phòng trà trƣớc khi Sở giao dịch chứng khoán London
đƣợc thành lập. Tài sản tài chính ở đây chủ yếu là các cổ phiếu. Các công
ty thu hút vốn đầu tƣ bằng cách phát hành cổ phiếu và bán ở Sở giao dịch
chứng khoán. Trong khi đó, các nhà đầu tƣ chứng khoán thì kiếm tiền bằng
cách bán cổ phiếu ở mức giá cao hơn mức họ mua vào. Ban đầu, Sở giao
dịch chứng khoán London vận hành dựa vào hai đối tƣợng là các nhà môi
giới (stockbroker) và những ngƣời chạy việc (jobber). Những ngƣời chạy
việc chạy quanh sàn giao dịch để mua và bán cổ phiếu cho các nhà môi
giới. Họ kiếm tiền bằng khoản chênh lệch giữa mức mà nhà môi giới đồng
ý bỏ ra để mua cổ phiếu với mức mà họ mua vào. Trong khi các nhà môi
giới kiếm tiền bằng khoản phí hoa hồng họ đƣợc trả khi tiến hành giao dịch
mua bán cổ phiếu cho các nhà đầu tƣ.
Hệ thống vận hành nói trên của Sở giao dịch chứng khoán London
không thay đổi suốt từ những năm 1800 cho đến những năm 1980. Nhu cầu
sở hữu cổ phiếu của công chúng bắt đầu tăng lên. Các con số thống kê cho
thấy nếu những năm 1960, 30 tổ chức tài chính nắm giữ hầu hết các cổ
phiếu giao dịch trên thị trƣờng thì đến năm 1981 họ chỉ còn chiếm 58%
lƣợng cổ phiếu. Mà nhƣ thế nghĩa là Sở giao dịch chứng khoán London
Định hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán tại việt Nam
11
phải giải quyết một khối lƣợng lớn các giao dịch. Thực tế nhƣ vậy đòi hỏi
Sở giao dịch chứng khoán London phải thay đổi lại cách thức hoạt động.
Những ngƣời chạy việc-jobber- đƣợc phép mua và bán chứng khoán nhƣ
các nhà môi giới trong khi vẫn có thể tiếp tục làm việc cho các nhà môi
giới. Nhờ thế mà có thể giải quyết đƣợc số lƣợng giao dịch ngày càng tăng.
Nghề môi giới chứng khoán phát triển không đồng đều giữa các quốc
gia và ở mỗi quốc gia, quá trình phát triển nghề môi giới lại có sự khác
biệt. Ở Mỹ, vào ngày 17/05/1792 tại New York, một nhóm gồm 24 ngƣời
đã ký một hiệp định thoả thuận chỉ bán chứng khoán cho ngƣời trong nhóm
và đƣa ra mức hoa hồng cố định là 1 USD. Đến năm 1863, các thành viên
trong nhóm này – Uỷ ban giao dịch chứng khoán New York- chuyển hoạt
động đến nơi mà ngày nay chính là Sở giao dịch chứng khoán New York.
Khi cuộc cách mạng công nghiệp nổ ra, Wall Street trở nên nhộn nhịp
hơn với các hoạt động mua bán chứng khoán. Chứng khoán đƣợc mua đi
bán lại bởi những ngƣời không phải là thành viên trong Uỷ ban, và diễn ra
ngay trên đƣờng phố vì rất ít ngƣời có đủ khả năng tài chính để mở văn
phòng. Những ngƣời này đƣợc gọi là các “nhà môi giới đá lát đƣờng”-
Curbstone stockbrokers.
Nghề môi giới chứng khoán ở Mỹ cũng bắt đầu phát triển mạnh kể từ
đó. Thị trƣờng mua bán mà những ngƣời môi giới này tạo nên gọi là “thị
trƣờng lề đƣờng” – Curb Market (cũng giống nhƣ chợ trời, chợ vỉa hè).
Đầu những năm 1900, thị trƣờng “lề đƣờng” phát triển lớn mạnh và
các nhà môi giới đã mở đƣợc văn phòng ở các khu phố lớn. Do việc giao
dịch diễn ra ngay trên hè phố, mỗi lần nhƣ vậy, những ngƣời môi giới lại
phải hét thật to để ngƣời ở bên kia đƣờng nghe thấy. Cách liên lạc này quả
thật rất bất tiện vì rất dễ nhầm lẫn với những tiếng la hét khác trên đƣờng
phố. Vì vậy, hệ thống giao dịch bằng cách ra dấu hiệu tay đã đƣợc chính
các nhà môi giới này phát minh và sử dụng rộng rãi. Dần dần, cách ra dấu
Định hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán tại việt Nam
12
hiệu bằng tay đã trở thành dấu hiệu trong giao dịch giữa những ngƣời môi
giới.
Đầu những năm 1920, “thị trƣờng lề đƣờng” chuyển địa điểm tới nơi
mà ngày nay là số 86 Trinity Place, chấm dứt kiểu thị trƣờng giao dịch
ngoài hè phố. Nhiều năm sau đó, năm 1952, dựa trên cơ sở thị trƣờng vốn
có, Sở giao dịch chứng khoán Mỹ (AMEX) đã chính thức đƣợc thành lập.
Nghề môi giới càng có điều kiện phát triển mạnh hơn.
Cùng với sự phát triển của thị trƣờng chứng khoán ở một loạt các nƣớc
trên thế giới, nghề môi giới cũng ngày càng phát triển và không ngừng
hoàn thiện. Nghề môi giới chứng khoán từ chỗ diễn ra trên các đƣờng phố,
rồi tiến vào sàn giao dịch, ngày nay đã phát triển lên thành môi giới chứng
khoán trực tuyến. Nhà đầu tƣ với máy tính kết nối internet có thể giao dịch
chứng khoán qua mạng, vừa cập nhật thông tin vừa nhanh chóng, tiện lợi,
tiết kiệm đƣợc nhiều chi phí. Ngƣợc lại, với vai trò là nhịp cầu kết nối
ngƣời mua và ngƣời bán, tạo điều kiện thuận lợi để phát sinh các giao dịch,
các thƣơng vụ có thể nói nghề môi giới sẽ là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự
phát triển và hoàn thiện của thị trƣờng chứng khoán.
2. Phân loại môi giới chứng khoán
2.1 Phân loại theo loại dịch vụ cung cấp
Có hai loại môi giới nếu đánh giá theo tiêu chí dịch vụ cung cấp:
10
2.1.1 . Môi giới toàn phần ( Full - service)
Là những ngƣời MGCK có thể cung cấp đầy đủ các dịch vụ có liên
quan đến chứng khoán cho khách hàng nhƣ: đại diện cho khách hàng để
thƣơng lƣợng mua hoặc bán chứng khoán; thay mặt khách hàng giải quyết
mọi vấn đề liên quan đến chứng khoán của khách hàng Họ cung cấp một
dải dịch vụ hoàn hảo, từ việc đƣa ra những kết quả nghiên cứu, phân tích,
cho lời khuyên, đến việc theo dõi tài khoản và kịp thời đƣa ra những
khuyến nghị cần thiết cho khách hàng. Tóm lại, với tƣ cách là một cố vấn
10
TS. Trần Thị Thái Hà, “Một số vấn đề về hình thành và phát triển nghề MGCK”, (UBCKNN 2000), T. 35
Định hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán tại việt Nam
13
tài chính, ngƣời MG dịch vụ đầy đủ có thể phục vụ ngƣời đầu tƣ với nhiều
ý tƣởng tốt và sản phẩm tốt, giúp nhà đầu tƣ giải quyết các vấn đề của
mình.
2.1.2. Môi giới giảm giá (Discount - service)
Là những ngƣời môi giới chỉ cung cấp một số ít dịch vụ, tùy theo sự
ủy nhiệm của khách hàng. Hoạt động chủ yếu của họ là giúp khách hàng
thực hiện các lệnh mua, bán chứng khoán. Những ngƣời môi giới chứng
khoán này thích hợp với các nhà đầu tƣ tự mình đƣa ra các quyết định mua
bán mà không muốn lời khuyên hay kết quả nghiên cứu đầu tƣ của nhà môi
giới chứng khoán. Tuy nhiên, với loại hình MGCK này, nhà đầu tƣ dễ gặp
rủi ro hơn so với loại hình MGCK toàn phần, nhƣng chắc chắn mức phí hoa
hồng môi giới sẽ thấp hơn môi giới chứng khoán toàn phần.
2.2 Phân loại theo hoạt động của nhà môi giới chứng khoán
Theo hoạt động của nhà môi giới ta phân thành bốn loại môi giới
chứng khoán nhƣ sau:
11
2.2.1 Các nhà môi giới đƣợc ủy nhiệm hay thừa hành (Commission House
Brokers) hay ngƣời môi giới tại sàn giao dịch
Hầu hết họ là nhân viên của một công ty chứng khoán - Thành viên
chính của SGDCK. Theo hình thức này, công ty tính cho khách hàng của
mình tỷ lệ hoa hồng trên các dịch vụ của chính công ty. Hoạt động của họ
là thực hiện các lệnh cho khách hàng của công ty chứng khoán của SGDCK
nên họ đƣợc gọi là nhà môi giới ủy nhiệm hay nhà môi giới trên sàn giao
dịch. Họ làm việc hƣởng lƣơng của các công ty và đƣợc bố trí để thực hiện
các lệnh mua bán cho các công ty chứng khoán hay khách hàng của công
ty trên sàn giao dịch (vì thế họ cũng đƣợc gọi theo một tên chung khác là
“môi giới trên sàn – floor brocker). Một CTCK thuê ngƣời để làm chủ một
chỗ ngồi của công ty tại sở GDCK.
2.2.2 Nhà môi giới độc lập (hay nhà môi giới hai đôla- $2 dollar broker)
11
GS Lê Văn Tƣ , “ Thị trƣờng chứng khoán” , 2004, NXB Thống Kê. TR. 177
Định hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán tại việt Nam
14
Nhà môi giới 2 đôla là một thành viên của SGDCK, nhƣng là một nhà
môi giới chứng khoán độc lập, không thuộc về một công ty nào. Nhà môi
giới 2 đôla có thể sở hữu hoặc thuê chỗ cho mình, thực hiện các lệnh giao
dịch cho bất kỳ một công ty môi giới nào thuê mình. Trong trƣờng hợp một
nhà MGCK của một công ty CK không có khả năng thực hiện các lệnh giao
dịch của mình, hoặc vắng mặt trong phòng giao dịch, ngƣời này có thể
chuyển một số lệnh cho nhà môi giới độc lập. Công ty CK sẽ trả cho nhà môi
giới độc lập một khoản phí trên các dịch vụ của anh ta. Trƣớc đây, khoản phí
trả cho nhà môi giới độc lập là 2 đôla cho 100 cổ phiếu mua bán hộ công ty CK
(điều này giải thích tại sao lại có tên gọi là nhà môi giới 2 đôla). Tuy nhiên,
hiện nay, khoản phí của các nhà môi giới độc lập thƣờng lớn hơn 2 đôla.
Ngƣời môi giới 2 đôla thực hiện lệnh mua bán của những ngƣời môi giới
ủy nhiệm khi những ngƣời này quá bận rộn, không thể thực hiện hết tất cả các
lệnh nhận đƣợc từ công ty của họ. Ngƣời môi giới 2 đôla hoạt động cho bất cứ
công ty nào, bất cứ loại CK gì và sẽ đƣợc ăn hoa hồng.
2.2.3 Nhà giao dịch chứng khoán có đăng ký (Registered Floor Trader)
Một số ngƣời mua chỗ trên SGDCK chỉ nhằm mục đích mua bán
chứng khoán cho chính bản thân họ. Những ngƣời đó đƣợc gọi là “nhà giao
dịch chứng khoán có đăng ký”, không thuộc về một công ty môi giới nào.
Tuy nhiên, do sự gia tăng các nguyên tắc và các quy định nên hoạt động
của họ bị hạn chế rất nhiều. Ngày nay, các nhà giao dịch chứng khoán này
hoặc hỗ trợ cho các nhà môi giới chuyên môn với tƣ cách là những ngƣời tạo
lập thị trƣờng hoặc hoạt động nhƣ là “nhà môi giới 2 đôla”.
Ngƣời giao dịch có đăng ký thực hiện lệnh mua bán với tài khoản của
chính họ và tự gánh chịu mọi rủi ro. Họ ít khi thực hiện lệnh của hàng, nhƣng
nếu nhận lệnh của khách hàng thì phải ƣu tiên cho khách hàng trƣớc.
2.2.4 Nhà môi giới chứng khoán chuyên môn hay các chuyên gia
(Specialist)
Định hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán tại việt Nam
15
Mỗi chứng khoán niêm yết tại SGDCK chỉ đƣợc buôn bán trên một vị
trí nhất định trong phòng giao dịch, vị trí này đƣợc gọi là “quầy”. Trong
mỗi “quầy” có một số nhà môi giới đƣợc gọi là những nhà môi giới chuyên
môn. Họ chịu trách nhiệm mua bán một loại chứng khoán nhất định, đã
đƣợc Hội đồng quản trị của Sở giao dịch chứng khoán phân công. Những
ngƣời tụ tập chung quanh các vị trí giao dịch của chuyên gia đƣợc gọi quen
là nhóm giao dịch (trading crowd).
Nhà môi giới chuyên môn thực hiện hai chức năng chủ yếu: là thực
hiện các lệnh giao dịch và tạo thị trƣờng.
Thông thƣờng, các nhà môi giới chuyên môn thực hiện các lệnh giao
dịch theo giá hạn mức. Khi đó, họ đóng vai trò là một nhà MGCK và nhận
đƣợc các khoản phí môi giới thông thƣờng, hoặc tiền hoa hồng trên các
dịch vụ mà họ cung cấp.
Một chức năng khác mà nhà MGCK chuyên môn thực hiện là hỗ trợ việc
duy trì một thị trƣờng ổn định đối với loại cổ phiếu mà anh ta đƣợc phân công
bằng cách mua bán cổ phiếu với tƣ cách một nhà giao dịch để thu hẹp chênh lệch
giữa giá mua và giá bán.
Ngƣời môi giới và các công ty chứng khoán giữ vai trò quan trọng trong quá
trình kết nối cung cầu chứng khoán. Họ góp phần đẩy nhanh quá trình lƣu thông
và phân phối chứng khoán, qua đó giúp cho các dòng chảy của nguồn vốn trên thị
trƣờng đƣợc liên tục.
3. Đặc trƣng của nghề môi giới chứng khoán
Đặc trƣng của nghề môi giới chứng khoán là những xung đột, tranh
chấp lợi ích không thể tránh khỏi trong lĩnh vực này. ở đây khái niệm tranh
chấp lợi ích không bao hàm hành vi của ngƣời môi giới hoặc khách hàng cố
tình vi phạm pháp luật để kiếm lời một cách bất chính. Tranh chấp hay
xung đột lợi ích có thể xảy ra trong những trƣờng hợp nhƣ việc ngƣời môi
giới không sẵn sàng thông báo với khách hàng của mình về những diễn
biến xấu của khoản đầu tƣ do chính anh ta khuyến nghị với khách hàng,và
Định hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán tại việt Nam
16
khi khách hàng bị thiệt hại thì việc bắt lỗi và xử lý ngƣời môi giới là rất
khó. Hoặc có những trƣờng hợp khách hàng do không thực sự hiểu biết về
trách nhiệm và khả năng của ngƣời môi giới, nên đã kỳ vọng một cách
không hợp lý về những gì mà nhà môi giới có thể mang lại cho mình, và đã
khiếu nại khi thực tế xảy ra trái với những gì họ mong muốn.
Ngƣời môi giới sống bằng tiền hoa hồng hay là khoản chênh lệch giá
trong việc mua hoặc bán những lợi ích tài chính. Nhƣ thế, những lợi ích tài
chính của riêng họ có thể xung đột với nhu cầu và mục tiêu của khách
hàng. Với tƣ cách là ngƣời đại diện hay ngƣời đƣợc ủy quyền của khách
hàng, ngƣời môi giới luôn luôn phải dẹp đi xung đột này để phục vụ cho lợi
ích cao nhất của khách hàng là cái phải đƣợc ƣu tiên hàng đầu.
Các công ty môi giới có thể gây áp lực lớn buộc nhân viên môi giới
của mình phải bán đƣợc những sản phẩm nhất định hoặc đạt đƣợc mức tổng
sản lƣợng nhất định. áp lực nhƣ vậy có thể thấy dƣới nhiều hình thức, từ
việc cấp văn phòng riêng cho tới việc tiếp tục thuê nhân viên đó. Giải pháp
cho những xung đột nhƣ vậy nói chung chỉ đơn giản là đặt lợi ích của
khách hàng lên trên hết. Các công ty chứng khoán cũng có thể tăng hoa
hồng để khuyến khích ngƣời môi giới thực hiện nhiều giao dịch và nói
chung mức hoa hồng càng cao, và đƣợc tạo ra càng thƣờng xuyên thì càng
tốt về mặt kinh tế đối với ngƣời môi giới và cũng kích thích tăng nguồn thu
cho công ty. Song các công ty chứng khoán hay là những ngƣời môi giới
chứng khoán cũng phải luôn luôn vì lợi ích của khách hàng, khách hàng
phải đƣợc bán những sản phẩm phù hợp với nhu cầu cá nhân, với khối
lƣợng thích hợp và việc bán hàng việc bán hàng phải diễn ra một cách hợp
lý và trung thực trên cơ sở hai bên cùng có lợi. Và nếu nhƣ tƣ cách đại
diện đƣợc tạo lập với sự tín nhiệm và trên cơ sở hợp lý, thì một khách hàng
công bằng hầu nhƣ không thể trách cứ ngƣời môi giới hay công ty môi giới
của họ nếu nhƣ những khuyến nghị họ đƣa ra không phải bao giờ cũng
mang lại những kết quả mỹ mãn.
Định hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán tại việt Nam
17
Tóm lại, nếu các cố vấn tài chính và những khách hàng của họ ý thức
đƣợc đầy đủ hơn, thì họ sẽ hành động thận trọng và tránh đƣợc những tranh
chấp, hay ít nhất cũng giảm thiểu đƣợc những thiệt hại và chi phí để giải
quyết tranh chấp.
4. Chức năng của nghề môi giới chứng khoán
Với tƣ cách là một hoạt động nghiệp vụ trong sự tƣơng tác giữa công
ty môi giới – nơi cung cấp phƣơng tiện vật chất, tổ chức và pháp lý, và
nhân viên bán hàng – ngƣời trực tiếp tiếp thị và giao dịch với khách hàng,
nghề môi giới chứng khoán có hai chức năng chính sau đây:
12
4.1 Cung cấp thông tin và tƣ vấn cho khách hàng
Công ty môi giới chứng khoán thông qua các nhân viên bán hàng cung
cấp cho khách hàng các báo cáo nghiên cứu và những khuyến nghị đầu tƣ.
Việc nghiên cứu này đƣợc tiến hành thông qua bộ phận nghiên cứu trong
công ty chứng khoán nghiên cứu các lĩnh vực chủ yếu nhƣ: diễn biến tổng
thể của thị trƣờng, động thái của từng khu vực riêng biệt trong thị trƣờng
đó, hay hoạt động của từng công ty trong khu vực. Những thông tin này các
nhà nghiên cứu cung cấp cho các nhà môi giới hàng tuần, kèm theo đó là
những khuyến nghị cụ thể về từng loại chứng khoán cần mua và cần bán.
Nhà môi giới sẽ sử dụng những thông tin này để cung cấp cho khách hàng
của mình theo những yêu cầu cụ thể.
Các nhà môi giới hàng ngày tiếp cận với một mạng thông tin điện tử
cung cấp các thông tin tài chính liên tục và đƣợc cập nhật về lãi suất, kinh
tế, thông tin thị trƣờng, và cũng đƣợc tiếp cận với tất cả các tin tức mới
nhất từ khắp nơi trên thế giới liên quan tới cổ phiếu của khách hàng.
Nhờ nguồn thông tin đƣợc thu thập và sử lý công phu này, ngƣời môi
giới có đủ tri thức để trở thành nhà tƣ vấn tài chính riêng của khách hàng.
Ngoài việc đề xuất với khách hàng những chứng khoán và dịch vụ đơn
thuần, ngƣời môi giới cũng có thể giới thiệu với khách hàng những cổ
12
TS Trần Thị Thái Hà, “Nghề môi giới chứng khoán”, (NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2001) TR. 25
Định hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán tại việt Nam
18
phiếu, trái phiếu mới phát hành, các chứng chỉ quỹ đầu tƣ và những công
cụ đầu tƣ khác, và quan trọng hơn là đề xuất một cách thức kết hợp các
chứng khoán đơn lẻ trong một tổng thể (danh mục đầu tƣ) để giảm thiểu rủi
ro và tăng tối đa lợi nhuận.
Ngƣời môi giới cho nhà đầu tƣ biết lúc nào thì họ nên mua, lúc nào thì
nên bán và đồng thời cung cấp cho họ những thông tin kinh tế tài chính trên
thị trƣờng. Ngƣời môi giới khi đƣa ra các lời khuyên cho khách hàng của
họ, sẽ dựa trên các yếu tố nhƣ hệ số giá, thu nhập, các dự đoán về thu nhập
và giá, tình trạng chung của nhóm ngành của cổ phiếu và trạng thái tổng thể
của thị trƣờng.
Ngƣời môi giới không chỉ là ngƣời đƣa ra các khuyến nghị về tài
chính cho khách hàng mà đôi khi còn là một ngƣời bạn tin cẩn, có thể lắng
nghe tất cả câu hỏi liên quan tới tình trạng tài chính của khách hàng, và
trong một chừng mực có thể, đƣa ra giải pháp thích đàng giúp khách hàng
tháo gỡ những khó khăn. Do đó tìm đƣợc một nhà môi giới giỏi hành nghề
và thật tâm huyết là mong muốn của bất cứ nhà đầu tƣ chứng khoán nào.
4.2 Cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tài chính, giúp khách hàng thực
hiện giao dịch theo yêu cầu và lợi ích của họ.
Ngƣời môi giới nhận các đơn đặt hàng từ khách hàng và thực hiện
giao dịch cho họ. Quá trình này bao gồm một loạt công việc, từ hƣớng dẫn
khách hàng mở tài khoản tại công ty, tiến hành giao dịch, xác nhận giao
dịch, thanh toán và chuyển kết quả giao dịch cho khách hàng. Không chỉ có
vậy, sau khi giao dịch đã đƣợc thực hiện, ngƣời môi giới còn phải tiếp tục
chăm sóc tài khoản của khách hàng, tiếp tục đƣa ra những khuyến cáo và
cung cấp thông tin, theo dõi để nắm bắt những thay đổi trong đời sống,
công việc mà có thể dẫn tới những thay đổi trong tình trạng tài chính và
thái độ chấp nhận rủi ro của khách hàng, từ đó đề xuất những giải pháp hay
chiến lƣợc mới thích hợp.
Định hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán tại việt Nam
19
Công ty môi giới là nơi đảm bảo những điều kiện vật chất- bao gồm
địa điểm, hệ thống máy móc thiết bị nối mạng với Sở giao dịch- nhân lực
(đội ngũ nhân viên tác nghiệp), và pháp lý để cho quá trình này đƣợc thực
hiện nhanh chóng, chính xác và hiệu quả; đồng thời khi xảy ra tranh chấp
thì có thể xử lý đƣợc một cách thỏa đáng. Để làm đƣợc chức năng này,
công ty đƣợc tổ chức theo những phòng ban chức năng phù hợp, với những
quy trình hoạt động chặt chẽ, khoa học.
5. Vai trò của nghề môi giới chứng khoán
5.1 Phát triển sản phẩm và dịch vụ trên thị trƣờng
Công ty môi giới chứng khoán và các nhân viên bán hàng của họ, khi
thực hiện vai trò làm trung gian giữa ngƣời mua (nhà đầu tƣ) và ngƣời bán
(nhà phát hành) có thể nắm bắt nhu cầu của khách hàng và phản ánh với
ngƣời cung ứng hàng hóa và dịch vụ, cung cấp những ý tƣởng thiết kế sản
phẩm và dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng. Kết quả của quá trình đó là
đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ, phát triển cơ cấu khách hàng, thu hút
ngày càng nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội cho đầu tƣ và tăng
trƣởng.
Một ví dụ về sự thành công là công ty Merrill Lynch, trong thập niên
60, 70 trong khi hoạt động chủ yếu của các công ty chứng khoán mới chỉ là
buôn bán cổ phiếu và trái phiếu thì Merrill Lynch đã tìm kiếm những dịch
vụ mà khách hàng cần. Qua đó đã phát triển và tạo ra Tài khoản quản lý
tiền mặt (CMA) và Tài khoản tiếp cận vốn tự có. Nhờ vậy mà công ty này
đã vƣợt lên hẳn các đối thủ cạnh tranh vào thời kỳ đó.
5.2 Giảm chi phí giao dịch
Trên TTCK với đặc trƣng là một thị trƣờng của những sản phẩm và
dịch vụ bậc cao, để thẩm định chất lƣợng, giá cả của hàng hóa, ngƣời ta cần
một khoản chi phí khổng lồ để phục vụ cho việc thu thập và xử lý thông tin,
đào tạo kỹ năng phân tích và tiến hành quy trình giao dịch trên một thị
trƣờng đấu giá tập trung. Những chi phí đó chỉ có các công ty chứng khoán
Định hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán tại việt Nam
20
hoạt động chuyên nghiệp trên quy mô lớn mới có khả năng trang trải. Mặt
khác, một tổ chức trung gian chuyên nghiệp nhƣ vậy làm cầu nối cho các
bên mua và bán gặp nhau sẽ làm giảm đáng kể chi phí tìm kiếm đối tác, chi
phí soạn thảo và giám sát thực thi hợp đồng. Nhƣ thế, vai trò của nghề môi
giới chứng khoán là tiết kiệm đƣợc chi phí giao dịch, xét trong từng giao
dịch cụ thể cũng nhƣ trên tổng thể thị trƣờng, nhờ đó giúp nâng cao tính
thanh khoản của thị trƣờng.
5.3 Góp phần hình thành nền văn hóa đầu tƣ
Hoạt động của ngƣời môi giới chứng khoán khi thâm nhập sâu vào
cộng đồng các doanh nghiệp và ngƣời đầu tƣ sẽ là một yếu tố quan trọng
hình thành nên văn hóa đầu tƣ. Khi các nhân viên môi giới tiếp cận và
mang theo những sản phẩm tài chính phù hợp với yêu cầu của khách hàng,
hoạt động này lâu dần sẽ hình thành nên thói quen đầu tƣ vào tài sản tài
chính. Hơn nữa, hoạt động này sẽ làm tăng thói quen và các kỹ năng sử
dụng các dịch vụ đầu tƣ, mà phổ biến là dịch vụ môi giới chứng khoán.
Cùng với đó là sự tăng cƣờng hiểu biết môi trƣờng pháp lý, và ý thức tuân
thủ pháp luật vì hoạt động môi giới chứng khoán là một nơi phát sinh và
bộc lộ những xung đột lợi ích giữa các bên tham gia thị trƣờng.
5.4 Tăng chất lƣợng và hiệu quả của dịch vụ nhờ cạnh tranh
Để thành công trong nghề môi giới chứng khoán, các công ty chứng
khoán và từng ngƣời môi giới phải thu hút đƣợc khách hàng tìm đến, giữ
chân khách hàng, và tăng cƣờng khối tài sản mà khách hàng ủy thác cho họ
quản lý. Điều này tạo ra sự cạnh tranh giữa các công ty chứng khoán và
từng ngƣời môi giới chứng khoán với nhau. Chính vì vậy góp phần không
nhỏ làm tăng chất lƣợng và hiệu quả của dịch vụ,
5.5 Hình thành những dịch vụ mới trong nền kinh tế, tạo thêm việc làm
và làm phong phú thêm môi trƣờng đầu tƣ.
Với phƣơng châm là chủ động tìm đến với khách hàng, cung cấp
những dịch vụ tài chính tốt nhất, nên công ty CK nào cũng có lực lƣợng
Định hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán tại việt Nam
21
những ngƣời bán hàng rất đông đảo. Ví dụ nhƣ công ty Merrill Lynch ở Mỹ
có tới 13000 nhân viên môi giới hay những công ty chứng khoán nhỏ khác
của Mỹ cũng có không dƣới 1000 nhân viên môi giới. Có thể nói, phát dịch
vụ môi giới chứng khoán đã góp phần tạo ra nhiều việc làm mới cho nên
kinh tế và cũng làm phong phú thêm môi trƣờng kinh doanh.
III. CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VÀ NGƢỜI MÔI GIỚI CHỨNG
KHOÁN
1. Công ty chứng khoán với chức năng môi giới chứng khoán
1.1 Khái quát chung về công ty môi giới chứng khoán
1.1.1 Khái niệm công ty môi giới chứng khoán
Công ty chứng khoán có thể đƣợc hiểu là một định chế tài chính kinh
doanh chứng khoán trên thị trƣờng chứng khoán. Nếu coi thị trƣờng chứng
khoán là “chợ” thì “hàng hoá” là các loại chứng khoán và các công ty
chứng khoán là các “sạp hàng”.
Khi một doanh nghiệp muốn huy động vốn bằng cách phát hành CK,
họ cần phải nhờ đến những nhà chuyên nghiệp mua bán CK cho họ. Đó là
công ty CK - với nghiệp vụ chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp và bộ
máy tổ chức thích hợp, họ thực hiện đƣợc vai trò trung gian môi giới mua
bán, phát hành chứng khoán, tƣ vấn đầu tƣ và thực hiện một số dịch vụ
khác cho cả ngƣời đầu tƣ và ngƣời phát hành.
Các công ty chứng khoán là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển
của nền kinh tế nói chung và của thị trƣờng chứng khoán nói riêng. Nhờ
các công ty chứng khoán mà các cổ phiếu và trái phiếu lƣu thông, buôn bán
tấp nập trên thị trƣờng chứng khoán, qua đó, một lƣợng vốn khổng lồ đƣợc
đƣa vào đầu tƣ từ những nguồn vốn lẻ tẻ trong công chúng hợp lại. Nhƣ
vậy, “Công ty chứng khoán là một tổ chức kinh doanh chứng khoán, có tƣ
Định hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán tại việt Nam
22
cách pháp nhân, có vốn riêng hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế,
hoạt động theo giấy phép của UBCKNN cấp"
13
.
Ở Việt Nam, theo luật chứng khoán năm 2006, công ty chứng khoán
phải là công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn thành lập tại Việt
Nam đáp ứng đủ các điều kiện để đƣợc cấp giấy phép hoạt động. Các tổ
chức tín dụng, công ty bảo hiểm hoặc các tổng công ty muốn tham gia kinh
doanh chứng khoán phải thành lập công ty chứng khoán độc lập. Giấy phép
hoạt động của công ty chứng khoán do ủy ban Chứng khoán Nhà nƣớc cấp
cho phép thực hiện một hoặc một số loại hình kinh doanh chứng khoán.
Các loại hình nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của các công ty chứng khoán
là: môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng
khoán, tƣ vấn đầu tƣ chứng khoán và quản lý danh mục đầu tƣ.
14
1.1.2 Phân loại công ty chứng khoán
Cùng với sự phát triển của TTCK, và của nền kinh tế, các CTCK cũng
đƣợc hình thành và phát triển theo hƣớng rất đa dạng, về cả quy mô, lĩnh
vực hoạt động, hay cả tính chất hoạt động. Theo loại dịch vụ cung cấp thì
có hai loại công ty chứng khoán sau:
1.1.2.1. Công ty môi giới giảm giá
Công ty môi giới giảm giá chủ yếu chỉ giúp khách hàng thực hiện lệnh
mua và bán chứng khoán, loại hình công ty này chủ yếu thích hợp cho các
khách hàng thích tự mình đƣa ra các quyết định đầu tƣ.
Công ty môi giới giảm giá đƣợc sử dụng cho ba đối tƣợng chính sau
đây:
Các nhà đầu tƣ dài hạn tiến hành nghiên cứu thị trƣờng, đó là các
nhà đầu tƣ thích nghiên cứu theo dõi các xu hƣớng biến động của thị
trƣờng, của ngành rồi sau đó lựa chọn các cổ phiếu có tiềm năng lớn.
13
GS. NGƢT Đinh Xuân Trình và PGS.TS. Nguyễn Thị Quy, “Giáo trình thị trƣờng chứng khoán” của
Trƣờng ĐH Ngoại Thƣơng, NXB Giáo Dục, T.120
14
Luật chứng khoán ngày 22 tháng 6 năm 2006, điều 60
Định hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán tại việt Nam
23
Các nhà đầu tƣ ngắn hạn theo trƣờng phái kỹ thuật, họ tự mình vẽ
đồ thị cho các cổ phiếu, và tiến hành giao dịch trên cơ sở ngắn hạn, và họ
thƣờng sử dụng các công ty môi giới giảm giá.
Những nhà đầu tƣ chỉ giao dịch một lần. Ví dụ nhƣ trƣờng hợp
một ngƣời nhận đƣợc một khoản thừa kế và muốn bán nó đi, ngƣời đó cần
một công ty môi giới giảm giá để giúp tiến hành giao dịch.
1.1.2.2. Công ty môi giới dịch vụ đầy đủ (full-service firm)
Đây là công ty chứng khoán cung cấp một dịch vụ hoàn hảo, từ việc
đƣa ra những kết quả nghiên cứu, phân tích, cho lời khuyên tới việc theo
dõi tài khoản và kịp thời đƣa ra các khuyến nghị cần thiết cho khách hàng.
Những nhà đầu tƣ sử dụng ngƣời môi giới dịch vụ đầy đủ là:
Những ngƣời đánh giá cao sự thuận tiện của việc luôn luôn có
sẵn một cố vấn chuyên nghiệp hƣớng dẫn những quyết định mua bán của
họ. Những nhà đầu tƣ này coi ngƣời môi giới của họ cũng giống nhƣ luât
sƣ riêng hay kế toán riêng, họ thừa nhận những hạn chế của bản thân trên
thị trƣờng chứng khoán đầy phức tạp và coi ngƣời môi giới nhƣ là những
chuyên gia, những ngƣời giữ vai trò quan trọng để khoản đầu tƣ của họ
không ngừng tăng lên.
Là những ngƣời cần có sự quan tâm cá nhân của một ngƣời
môi giới đầy đủ. Họ muốn có một ngƣời môi giới luôn để mắt tới tài khoản
của mình, thông tin ngay khi cần thiết và quan tâm tới các vấn đề của họ.
1.2 Hoạt động môi giới của một công ty chứng khoán
Hoạt động môi giới chứng khoán trong thời gian đầu chỉ là hoạt động
của các cá nhân môi giới độc lập, nhƣng khi quy mô hoạt động giao dịch
của nhà MGCK tăng lên thì đã dẫn tới sự hình thành các công ty chứng
khoán, là tập hợp có tổ chức của những nhà môi giới chứng khoán riêng lẻ.
Một CTCK hay bất kỳ một doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ hay một
doanh nghiệp sản xuất nào khác thì phải thực hiện tốt chức năng marketing
và chức năng bán hàng. CTCK muốn thực hiện tốt chức năng bán hàng thì
Định hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán tại việt Nam
24
phải hoạt động môi giới phải có hiệu quả. Một nhân viên môi giới chứng
khoán hay một ngƣời bán hàng luôn luôn phải xác định xem công chúng
quan tâm tới loại chứng khoán nào. Để xác định đƣợc khách hàng quan tâm
đến những loại CK nào, các nhân viên bán hàng của công ty CK có thể xem
xét đến các điều kiện sau: điều kiện về kinh tế, điều kiện về TTCK hiện tại,
dự tính tăng trƣởng kinh tế
Việc xác định công chúng quan tâm tới loại chứng khoán nào sẽ giúp
cho các CTCK điều chỉnh các sản phẩm (nhƣ cổ phiếu, trái phiếu, chứng
chỉ quỹ ) sao cho phù hợp nhất với thị hiếu của khách hàng. Trong CTCK,
nhà MGCK hay những nhân viên bán hàng, chính họ sẽ tiếp xúc trực tiếp
với các khách hàng của công ty để giới thiệu về các sản phẩm đã đƣợc lựa
chọn. Khi tiếp xúc với các khách hàng, nhà MGCK có thể bán các CK đó
hoặc tƣ vấn giúp cho khách hàng nên mua loại CK nào là tốt nhất. Khi một
nhà MGCK bán hàng, quá trình xử lý bắt đầu diễn ra. Một giao dịch diễn ra
nhƣ thế nào là điều rất quan trọng. Nếu một giao dịch diễn ra hoàn hảo, nó
làm cho khách hàng thấy rằng các nhà MGCK của công ty quan tâm đến
họ, đến tài khoản của họ. Điều này sẽ tạo ấn tƣợng tốt cho khách hàng, và họ
sẵn sàng nhờ CTCK thực hiện các thƣơng vụ tiếp theo.
Việc thực hiện một giao dịch chứng khoán nói chung bao gồm các
công việc chuẩn bị và hệ thống đƣa vào và truyền lệnh giữa các bên, phát
hiện giá cân bằng, thực hiện lệnh, báo cáo giao dịch, giám sát và thông tin
thị trƣờng. Những công việc và hệ thống này có thể từ những thủ tục giấy
tờ đơn giản đến các hệ thống thông tin và xử lý bằng máy điện tử, phụ
thuộc vào yêu cầu của từng thị trƣờng. Các giao dịch giữa một khách hàng
và một ngƣời MGCK nói chung đƣợc thực hiện trực tiếp giữa hai bên. Trái
lại, giao dịch giữa hai ngƣời MGCK thƣờng đƣợc thực hiện thông qua một
cơ chế thị trƣờng, chẳng hạn nhƣ một sở buôn bán trung tâm nơi ngƣời mua
và ngƣời bán gặp nhau, thị trƣờng qua quầy truyền thống, hoặc hệ thống
thực hiện giao dịch tự động. Trong toàn bộ quy trình giao dịch, bộ phận