Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Cơ sở hình thành của nền văn minh Đông Nam Á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (870.92 KB, 22 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN TP.HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM

----------

BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN: LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
ĐỀ TÀI: Tìm hiểu cơ sở hình thành của nền văn minh Đông Nam Á:
Sự giao thoa văn hoá và tiến bộ xã hội

Sinh viên thực hiện
Mã sinh viên
Khoa
Lớp
Giáo viên hướng dẫn

:
:
:
:
:

Hà Nội, tháng 06 năm 2023


MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ TỰ NHIÊN KHU VỰC ĐÔNG NAM Á ................. 1
1. Vị trí địa lí ........................................................................................ 1
2. Các quốc gia và vùng lãnh thổ của Đông Nam Á ........................... 2
3. Địa hình ............................................................................................ 2


3.1. Đơng Nam Á lục địa ..................................................................... 2
3.2. Đông Nam Á biển đảo .................................................................. 3
4. Khí hậu ............................................................................................. 4
5. Thuỷ văn, thổ nhưỡng và tài nguyên thiên nhiên .......................... 6
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ XÃ HỘI CỦA NỀN VĂN MINH ĐÔNG NAM Á .. 8
1. Tên gọi “Đông Nam Á” .................................................................... 8
2. Đông Nam Á thời kỳ tiền sử ............................................................ 8
2.1. Quá trình chuyển biến từ vượn thành người ................................. 8
2.2. Quá trình phát triển của các nền văn hố khảo cổ: ...................... 9
3. Đơng Nam Á tiếp thu ảnh hưởng văn hoá Ấn và Hoa ................. 10
3.2. Tinh thần .................................................................................... 13
3.3. Tính “thống nhất” trong sự đa dạng .......................................... 15
4. Quá trình thực dân hố và giải phóng dân tộc của các quốc gia
Đơng Nam Á ......................................................................................... 16
4.1. Quá trình xâm chiếm các quốc gia Đông Nam Á của thực dân
phương Tây ......................................................................................... 16
4.2. Chính sách cai trị và bóc lột của chủ nghĩa thực dân ................. 17
5. Đông Nam Á sau chiến tranh thế giới thứ hai và quá trình hội
nhập ...................................................................................................... 18
5.1. Quá trình phát triển kinh tế - xã hội của các nước Đông Nam Á
sau chiến tranh thế giới thứ hai .......................................................... 18
5.2. Đông Nam Á sau “Chiến tranh lạnh” ........................................ 19
5.3. Quá trình liên kết khu vực (ASEAN) ........................................... 20


(222000172) - HOÀNG THỊ HƯƠNG GIANG – GDTH D2022CLC

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ TỰ NHIÊN KHU VỰC ĐÔNG NAM Á
1. Vị trí địa lí

Đơng Nam Á là một khu vực khá rộng, trải ra trên một phần trái đất, từ 920 đến
1400 kinh Đông và từ khoảng 280 vĩ Bắc chạy qua xích đạo đến khoảng 150 vĩ Nam,
nên giữa các vùng khơng có sự thuần nhất về điều kiện tự nhiên. Đông Nam Á nằm ở
"ngã tư đường" giữa châu Á và châu Đại Dương, Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương,
phía bắc giáp với Trung Quốc, phía tây giáp với Ấn Độ và Bangladesh, phía đơng giáp
với biển Đơng và biển Ấn Độ Dương, và phía nam giáp với Úc và Thái Bình Dương.
Đơng Nam Á là tiểu vùng duy nhất khác của châu Á nằm một phần trong Nam Bán
cầu. Phần lớn tiểu vùng này vẫn ở Bắc bán cầu.
Vùng này bao gồm 4.545.792 km2 (1.755.140 dặm vng Anh), chiếm 10,5%
diện tích châu Á hoặc 3% tổng diện tích Trái đất. Tổng dân số của Đơng Nam Á là
hơn 655 triệu người, mật độ dân số khoảng 136 người/km2 chiếm khoảng 8,5% dân
số thế giới. Đây là khu vực địa lý đông dân thứ ba ở Châu Á sau Nam Á và Đơng Á.

Hình 1: Bản đồ khu vực Đơng Nam Á

Có vị trí cầu nối giữa lục địa Á – Âu với Liên bang Úc (Trung Quốc, Nhật Bản
với Ấn Độ; Tây Á và Địa Trung nằm án ngữ trên con đường hàng hải nối liền giữa Ấn
Độ Dương và Thái Bình Dương. Vị trí địa lý này giúp khu vực tiếp giáp với nhiều quốc
gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, giáp với biển và có biển, để thực hiện phát triển và
khai thác các tiềm năng từ biển. Vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu đã xem Đông Nam Á là
một bộ phận của hệ thống mậu dịch thế giới, nối liền hai thế giới Đơng – Tây. Chính
vì thế, đây là nơi giao thoa giữa nhiều nền văn hoá lớn (như Ấn Độ, Trung Quốc bản
địa,…) song sự tác động ấ y không vì thế mà biế n vùng này thành khu vực "Ấn Độ hóa"
hay "Hán hóa" mà nó đã "lựa cho ̣n những gì thích hơp̣ trong thế giới Đraviđa, đồng
thời phu ̣c tùng các đặc điể m của mình, chứ không phải tiế p thu tấ t cả những gì xa la ̣
với ho ̣."
4

1



(222000172) - HỒNG THỊ HƯƠNG GIANG – GDTH D2022CLC

Tính khu vực của Đông Nam Á được nhận thức rõ rệt đầy đủ hơn khi nước Anh
lập ra Bộ chỉ huy qn sự Đơng Nam Á trong thời kì chiến tranh thế giới thứ hai, cố
gắng hợp nhất các nước thuộc địa tách biệt của các đế quốc Anh, Hà Lan, Pháp, Mỹ
lại thành một khu vực chung. Có thể thấy rằng từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, Đông
Nam Á mới xuất hiện trên bản đồ chính trị thế giới như là một trong những trung tâm
văn minh, một khu vực địa lí – lịch sử - văn hố trước khi trở thành một khu vực địa lí
– chính trị.

2. Các quốc gia và vùng lãnh thổ của Đông Nam Á
Về mặt địa lí hành chính, Đơng Nam Á, một bộ phận, một khu vực ở phần đông
nam – châu Á. Hiện nay, khu vực này gồm 11 quốc gia và vùng lãnh thổ, đang hợp tác
chặt chẽ và ngày càng tạo được vị thế của mình trên bình diện khu vực và quốc tế
(thông qua Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á – ASEAN, thành lập ngày 08/08/1967).
Tính chất gắn kết – liên kết tiến dần tới sự đồng thuận giữa các quốc gia này đã thực
sự đạt được trong những năm gần đây. Đó là nền tảng và là động lực cho sự hiểu biết
lẫn nhau cũng như tạo đà phát triển trên nhiều lĩnh vực, cho mỗi quốc gia trong khu
vực, một thực thể mà gần đây đã ví như “trái tim của châu Á năng động”.
Đông Nam Á được chia thành hai tiểu khu vực là Đông Nam Á lục địa (hoặc Bán
đảo Đông Dương) và Đông Nam Á hải đảo (hoặc Quần đảo Mã Lai).

3. Địa hình
3.1.

Đơng Nam Á lục địa

Địa hình của Đơng Nam Á lục địa có địa hình phức tạp và đa dạng, bị chia cắt
thành hai phần: phần đất liền gồm các dải núi của bán đảo Trung Ấn là những dải núi

nối liền dãy Hi-ma-lai-a chạy dài theo hướng bắc – nam và tây bắc – đông nam, bao
quanh những khối cao nguyên thấp.
Chiếm phần lớn diện tích là các núi và cao nguyên. Dãy núi Himalaya nằm ở phía
bắc và chạy qua Nepal, Bhutan và miền bắc Ấn Độ. Đây là dãy núi cao nhất trên thế
giới, với đỉnh cao nhất là Everest. Dãy núi Annamite chạy dọc theo biên giới Việt
Nam-Lào, tạo ra một ranh giới tự nhiên giữa hai quốc gia và là nơi có nhiều đỉnh núi
cao như Fansipan và Phou Bia. Dãy núi Tenasserim chạy dọc theo biên giới MyanmarThái Lan và tạo thành một ranh giới tự nhiên. Khu vực Đông Nam Á lục địa có nhiều
cao ngun. Cao ngun Đơng Bắc của Việt Nam và Lào là một ví dụ, có độ cao trung
bình từ 600m đến 1.200m. Cao nguyên Shan nằm ở miền bắc Myanmar và phía tây
Thái Lan, với độ cao trung bình khoảng 1.000m. Cao ngun này có các ngọn núi cao
và là nơi có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống.
Các thung lũng sông cắt xẻ sâu làm cho địa hình của khu vực bị chia cắt mạnh.
Nổi bật với thung lũng sông Mekong là một trong những đặc điểm địa lý quan trọng
của khu vực Đông Nam Á lục địa. Được hình thành từ sơng Mekong, thung lũng này
có sự phát triển vượt bậc trong lĩnh vực kinh tế, nơng nghiệp và văn hóa, góp phần
quan trọng vào sự phát triển của các quốc gia trong khu vực. Thung lũng sơng Mekong
có chiều dài hơn 4.350 km, là một trong những hệ thống sông lớn nhất và dài nhất tại
Đơng Nam Á. Nó chảy qua 6 quốc gia, bao gồm Trung Quốc, Myanmar, Lào, Thái
Lan, Cam-pu-chia và Việt Nam, trước khi đổ vào Biển Đông. Thung lũng này tạo nên
4

2


(222000172) - HOÀNG THỊ HƯƠNG GIANG – GDTH D2022CLC

một mạng lưới sơng ngịi, đồng bằng và hệ sinh thái phong phú. Thung lũng sông
Mekong là một đặc điểm địa lý quan trọng của Đông Nam Á lục địa, mang lại lợi ích
kinh tế, nơng nghiệp và văn hóa cho khu vực. Nó là một nguồn tài nguyên quý giá và
một trung tâm của sự phát triển và sự đa dạng văn hóa trong khu vực này.

Ở vùng Đơng Nam Á lục địa các hoạt động giao thông thuận lợi đối với hướng
thuận lợi địa hình, các hoạt động giao thơng khác lại khó khăn. Việc phát triển giao
thơng theo hướng Đơng Tây ở đây gặp nhiều khó khăn và trở ngại. Một số quốc gia
trong khu vực khó giao thương, thực hiện giao thông trên đất liền. Đặc biệt là đối với
những nước như Mi-an-ma, Thái Lan, Việt Nam, Lào có chiều dài lãnh thổ gần như
theo hướng Bắc Nam. Nên việc xây dựng các tuyến đường giao thông theo hướng
Đông Tây là rất cần thiết. Giúp các quốc gia này tiếp cận, triển khai trong hoạt động
hợp tác, vận chuyển hàng hóa hay đi lại. Các nhu cầu cần được đáp ứng để tạo thuận
lợi cho việc thông thương, hợp tác cùng phát triển. Chính vì điều đó, các hầm đường
bộ đã được xây dựng để phục vụ cho việc đi lại. Hiệu quả giao thông và cơ sở hạ tầng
cũng được cải thiện.

3.2.

Đông Nam Á biển đảo

Đông Nam Á biển đảo, một khu vực tuy nhỏ gọn trên bản đồ thế giới, nhưng lại
tạo nên một vẻ đẹp tựa như một thiên đường đầy màu sắc và đa dạng. Địa hình của khu
vực này đặc trưng bởi những phong cảnh đa dạng từ núi non uốn lượn, bãi biển trắng
mịn, vùng rừng rậm mát mẻ cho đến những đảo nhỏ xinh đẹp và san hô đa màu. Ngược
lại với tiểu vùng Đông Nam Á lục địa, Đông Nam Á hải đảo chủ yếu là đồi núi và núi
lửa, đồng bằng ven biển nhỏ hẹp. Đây là những nơi thường xảy ra động đất, núi lửa do
nằm trong khu vực không ổn định của vỏ Trái Đất và được hình thành bởi nhiều cung
đảo thuộc về Vành đai núi lửa Thái Bình Dương.
Khu vực này cũng nằm gần giao điểm của các mảng địa chất, với cả các hoạt
động địa chất và núi lửa mạnh mẽ. Mảng Sunda là mảng địa chất chính của khu vực,
bao gồm hầu hết các quốc gia Đông Nam Á trừ Myanmar, bắc Thái Lan, bắc Lào, bắc
Việt Nam và bắc Luzon của Philippines. Các dãy núi ở Myanmar, Thái Lan và bán đảo
Malaysia là một phần của vành đai Alpide, trong khi các đảo của Philippines là một
phần của Vành đai lửa Thái Bình Dương. Cả hai vành đai địa chấn đều gặp nhau ở Inđơ-nê-xi-a, khiến khu vực này có khả năng xảy ra động đất và phun trào núi lửa tương

đối cao.
Nhóm Đơng Nam Á biển đảo là một trong những khu vực có hoạt động núi lửa
mạnh nhất thế giới. Dải núi lửa nằm theo hình vịng cung thuộc In-đơ-nê-xi-a, Ma-lai
-xi-a và Phi-lip-pin. Tiêu biểu với Núi lửa Mayon, là một núi lửa tầng còn hoạt động
ở vùng Bicol, trên đảo Luzon, tại Phi-lip-pin. Núi Mayon cao 2.5 km cách thủ đơ
Manila 498 km về phía Nam là một núi lửa rất hoạt động trong thời hiện đại.Núi lửa
Mayon, dù hoạt động nguy hiểm nhưng vẫn giữ kỷ lục là hình nón hồn hảo nhất thế
giới được cấu thành từ hoạt động ở quá khứ và việc liên tục phun trào. Từ năm 1616
đến nay núi đã 49 lần phun lửa, lần phun trào gần nhất vào năm 2010.
Hàng ngàn hịn đảo nằm rải rác trên Biển Đơng và Ấn Độ Dương thuộc khu vực
địa lý Đông Nam Á hải đảo. Ví dụ, quần đảo Philippines là một trong những quần đảo
lớn nhất trên thế giới, với hơn 7.000 đảo. Quần đảo Indonesia cũng rất phong phú với
4

3


(222000172) - HOÀNG THỊ HƯƠNG GIANG – GDTH D2022CLC

khoảng 17.000 đảo, là quốc gia đảo lớn nhất trên thế giới. Các quần đảo như Quần đảo
Maldives, Quần đảo Andaman và Nicobar đều là những điểm đáng chú ý trong khu
vực này.
Ngoài ra, bãi cạn, rừng ngập mặn cũng là những thành phần khơng kém quan
trọng với địa hình khu vực đa dạng và phức tạp này. Rừng ngập mặn Sundarbans, nằm
trên biên giới của Bangladesh và Ấn Độ, là một trong những khu rừng ngập mặn lớn
nhất và quan trọng nhất trên thế giới. Nó là nơi sinh sống của nhiều loài động vật quý
hiếm, bao gồm cả hổ Bengal. Rừng ngập mặn Mekong Delta ở Việt Nam và Rừng ngập
mặn Borneo cũng là những khu vực quan trọng với đa dạng sinh học và giá trị kinh tế.
Bãi biển Boracay ở Philippines cũng nổi tiếng với cát trắng mịn và nước biển trong
xanh. Ngoài ra, quần đảo Maldives cũng có nhiều bãi cát trắng tuyệt đẹp và rạn san hơ

độc đáo.
Khu vực Đơng Nam Á hải đảo cũng có vùng biển rộng lớn và đa dạng. Biển Đông
là một trong những vùng biển quan trọng nhất trên thế giới, là đường lưu thơng chính
cho thương mại và giao thơng hàng hải. Vùng biển này cũng có sự đa dạng sinh học
đáng kể với nhiều lồi cá, san hơ và sinh vật biển khác. Biển mang đến lợi thế, thuận
lợi thực hiện các hoạt động khai thác, phát triển công nghiệp. Bên cạnh đó là các ngành
ni trồng và chế biến sản phẩm nuôi trồng. Biển mang đến cách thức di chuyển, giao
thương và hợp tác khác cho các quốc gia trong khu vực.
Đông Nam Á biển đảo thực sự là một hòn ngọc quý của trái đất, nơi tạo nên một
sự phong phú và đa dạng về địa hình. Từ những ngọn núi hiểm trở cho đến những bãi
biển tuyệt đẹp, từ rừng núi mát mẻ cho đến san hô kỳ diệu, khu vực này hứa hẹn mang
đến những trải nghiệm đầy kỳ thú cho những ai đặt chân đến đây.

4. Khí hậu
Khu vực Đơng Nam Á nằm ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, nơi có một hệ
thống khí hậu đa dạng và phức tạp. Các quốc gia trong khu vực này chịu ảnh hưởng
của nhiều yếu tố khác nhau như địa hình, địa vị địa lý, hướng gió và dịng biển.
Đơng Nam Á chịu ảnh hưởng lớn bởi điều kiện địa lí, chủ yếu của gió mùa, tạo
nên hai mùa thương đối rõ rệt: mùa khô lạnh, mát và mùa mưa tương đối nóng ẩm. Vì
thế Đông Nam Á được coi là khu vực “Châu Á gió mùa”. Nế u theo khái niệm này thì
ranh giới điạ lí khu vực Đông Nam Á còn bao gồ m cả miề n Nam Trường Giang và
vùng Đông Bắ c Ấn Độ nữa.
Khí hậu Đơng Nam Á chủ yếu là nhiệt đới nóng ẩm quanh năm với lượng mưa
dồi dào. Đơng Nam Á hải đảo có khí hậu nhiệt đới gió mùa và xích đạo, trải qua hai
mùa chính: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10, trong
thời kỳ này, các vùng lãnh thổ như quần đảo Philippines chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ
gió mùa Tây Nam. Cơn mưa rào dồn dập từ biển cuốn vào đất liền, tạo ra những bức
tranh xanh tươi của cánh đồng, lúa mì và đồng cỏ. Đây là thời điểm mà mưa và gió
thường làm nền cho cuộc sống hàng ngày, tạo nên một khơng khí ẩm ướt và mát mẻ.
Ngược lại, mùa khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 3, mang đến khơng khí ấm áp và

nắng rực rỡ. Hơn nữa, gió mùa chịu trách nhiệm cho sự biến đổi khí hậu đáng kể trong
khu vực. Gió mùa Tây Nam mang theo mưa và tạo ra mùa mưa dài trong nhiều nơi,
4

4


(222000172) - HOÀNG THỊ HƯƠNG GIANG – GDTH D2022CLC

như quần đảo Maldives. Trái ngược lại, Đông Nam Á lục địa có khí hậu nhiệt đới gió
mùa và đặc trưng có mùa đơng lạnh ở phía Bắc – Việt Nam và Mi-an-ma. gió mùa
Đơng Bắc từ lục địa mang đến khí hậu khô ráo và mát mẻ, như trong vùng biển Đơng
Bắc của Malaysia. Sự thay đổi của gió mùa tạo nên những biến đổi đáng chú ý trong
nhiệt độ và độ ẩm của vùng. Nhiệt độ có sự biến đổi theo mùa và địa phương, nhiệt độ
trung bình hàng năm thường dao động từ 25 đến 35 độ Celsius. Chính gió mùa và khí
hậu biể n làm cho khí hậu vùng Đông Nam Á đáng lẽ có thể trở nên khô cằ n như một
số khu vực lu ̣c điạ khác có cùng vi ̃ độ, nhưng nó đã trở nên xanh tố t và trù phú với
những đô thi ̣đông đúc và thinh
̣ vươṇ g như Kuala-Lumpua, Xing-ga-po, Gia-ca-ta,…
Không thể không đề cập đến sự ảnh hưởng của Biển Đơng đối với khí hậu Đơng
Nam Á. Vành đai mưa nhiệt đới gây ra lượng mưa bổ sung trong mùa gió mùa. Ví dụ,
quần đảo Hải Nam, Trung Quốc, nằm ở vùng biên giới của Biển Đông, trải qua một
mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10. Biển Đơng cũng là nơi hình thành nhiều cơn
bão nhiệt đới, gây ra sóng biển mạnh và mưa lớn. Điều này có thể tạo ra những điều
kiện thời tiết khắc nghiệt (bão, lũ lụt và sạt lở đất), nhưng đồng thời cũng mang lại độ
ẩm và nguồn năng lượng quan trọng cho khu vực lân cận.
Gió mùa kèm theo những cơn mưa nhiệt đới đã cung cấ p đủ nước cho con người
dùng trong đời số ng và sản xuấ t hàng năm, ta ̣o nên những cánh rừng nhiệt đới phong
phú về thảo mộc và chim muông, Đông Nam Á từ lâu đã trở thành quê hương của
những cây gia vi,̣ cây hương liệu đặc trưng như hồ tiêu, sa nhân, đậu khấ u, hồ i, quế ,

trầ m hương,…và đặc biệt là lúa nước. Đông Nam Á đươc̣ coi là "cái nôi" của cây lúa
nước và là một trong năm trung tâm cây trồ ng lớn trên thế giới. Văn hóa Hòa Bình đã
chứng minh cư dân ở đây đã thuầ n hóa nhiề u giố ng lúa, thực vật khác nhau, xuất hiện
nề n nông nghiệp sơ khai với các loa ̣i cây trồ ng đặc biệt là các loa ̣i cây có củ và bầ u bí,
các cây ho ̣ đậu ở vùng thung lũng chắ n núi. Có nhà nghiên cứu còn cho rằ ng chủ nhân
văn hóa Hòa Bình là người biế t trồ ng tro ̣t đầ u tiên trên thế giới; niên đa ̣i nông nghiệp
ở đây có thể lên đế n hơn 1 va ̣n năm TCN và vì thế "Đông Nam Á đã có một cuộc cách
ma ̣ng nông nghiệp sớm nhấ t thế giới". Đế n thời đa ̣i đồ đồ ng, trong điề u kiện của vùng
nhiệt đới, cư dân Đông Nam Á đã bước sang kinh tế trồ ng lúa khô ở nương rẫy và lúa
nước ở vùng thung lũng he ̣p châu thổ . Cây lúa đầ u tiên đươc̣ thuầ n dưỡng ở vùng thung
lũng hệ chân núi dầ n dầ n đươc̣ chuyể n xuố ng vùng châu thổ thích nghi với vùng ngập
nước. Cùng với việc trồ ng lúa nước, người ta đã thuầ n dưỡng trâu bò làm sức kéo, xuấ t
hiện các nghề thủ công, đặc biệt là nghề sông biể n. Từ đó nông nghiệp trồ ng lúa nước
đã trở thành cội nguồ n, thành mẫu số chung của nề n văn minh khu vực. Đó là một "nề n
văn minh có đủ sắ c thái đồ ng bằ ng, biể n, nửa đồ i núi, nửa rừng với đủ các da ̣ng kế t
cấ u đan xen phức ta ̣p... nhưng mẫu số chung là văn minh nông nghiệp trồ ng lúa nước,
văn hóa xóm làng". Khơng chỉ có cây lúa, nền văn minh thực vật
Đơng Nam Á cịn tạo ra chè, quế, hồ tiêu và nghề trồng dâu
nuôi tằm.
Tự nhiên ảnh hưởng đến khu vực, phải nói rằ ng gió mùa không chỉ đem la ̣i
thuận lơị cho con người mà những yế u tố tự nhiên vẫn tác động và ta ̣o nên sự thấ t
thường cho khí hậu trong vùng tuy với biên độ không lớn lắ m. Mưa nhiệt đới trên điạ
bàn tự nhiên của khu vực làm thành những vùng nhỏ, xen kẽ giữa rừng nhiệt đới, đồ i
4

5


(222000172) - HOÀNG THỊ HƯƠNG GIANG – GDTH D2022CLC


núi, bờ biể n và đồ ng bằ ng, ta ̣o nên những cảnh quan đa da ̣ng. Thực tế đó khiế n cho
Đông Nam Á thiế u những không gian rộng cho sự phát triể n kinh tế - xã hội trên quy
mô lớn, thiế u những điề u kiện tự nhiên cho sự phát triể n những ki ̃ thuật tinh tế , phức
ta ̣p. Ở đây không có những đồ ng bằ ng rộng lớn như vùng châu thổ sông Ấn, sông
Hằ ng hay sông Hoàng Hà; cũng không có những đồ ng cỏ mênh mông như vùng thảo
nguyên. Không gian sinh tồ n ở đây tuy nhỏ hep̣ nhưng la ̣i rấ t phong phú, đa da ̣ng; con
người có thể khai thác ở thiên nhiên đủ loa ̣i thức ăn để sinh số ng. Vì thế có người đã
go ̣i Đông Nam Á là khu vực khai thác thức ăn theo phổ rộng. Những điề u kiện đó rấ t
thuận lơị cho cuộc số ng của con người trong buổ i đầ u nhưng không khỏi ảnh hưởng
nhấ t đinh
̣ đế n sự phát triể n của một nề n kinh tế sản xuấ t lớn, ta ̣o nên một khố i lươṇ g
sản phẩ m lớn trong những giai đoa ̣n phát triể n sau này của khu vực. Đồ ng thời, sự đa
da ̣ng, đan xen của những điạ bàn sinh tu ̣ nhỏ này đã góp phầ n không nhỏ trong việc
ta ̣o nên tính đa da ̣ng trong văn hóa tộc người của cả khu vực và trong mỗi quố c gia.

5. Thuỷ văn, thổ nhưỡng và tài nguyên thiên nhiên
Do chịu ảnh hưởng của kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa, mưa nhiều đã tạo ra nhiều
con sông lớn với mạng lưới sơng ngịi dày đặc. Vậy nên Đơng Nam Á có nguồn nước
dồi dào, thoả mãn nhu cầu nông nghiệp? nhiệt đới, đặc biệt là nền nông nghiệp nước.
Đây cũng là khởi nguồn hình thành nên và bồi đắp lượng đất phù sa rất màu mỡ cho
nhiều đồng bằng lớn ở Đông Nam Á như đồng bằng sông Hồng, sông Mê Kông hay
đồng bằng sông Mê Nam,…giúp cho các đồng bằng này trở nên trù phú, phát triển
thành vựa lúa lớn nhất khu vực Đông Nam Á.
Cũng nhờ mạng lưới sông ngòi dày đặc, phân bổ khắp nơi trên các nước Đơng
Nam Á cực kỳ đa dạng về các loại hình đất đai, như đất đỏ đá vôi, đất đỏ bazan, đặc
biệt thích hợp để sản xuất các loại cây cơng nghiệp nhiệt đới đặc sản như cà phê và cao
su. Thổ nhưỡng có hai loại chính là đất Feralit và đất phù sa mà trong đó đất phù sa
đóng vai trị quan trọng trong việc đảm bảo phát triển nơng nghiệp. Mang đến các sản
phẩm nông nghiệp xuất khẩu hay ngun liệu cho các ngành cơng nghiệp chế biến.
Ngồi ra, thổ nhưỡng ở Đông Nam Á hải đảo cũng khá màu mỡ bởi khoáng chất từ

dung nham núi lửa được phong hố.
Mang đặc trưng của khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới nên rừng xích đạo và nhiệt
đới ở Đông Nam Á, thành phần hệ sinh vật phong phú với nhiều loài động thực vật
quý hiếm, sinh trưởng nhanh, tạo nên hệ sinh thái phồn tạp đặc trưng của Đông Nam
Á. Cảnh quan Đông Nam Á bao gồm những rừng nhiệt đới ẩm thường xanh, rừng rụng
lá theo mùa, rừng lá thưa và xa van cây bụi góp phần đa dạng cho hệ thực vật nơi đây.
Trong đó, rừng nhiệt đới Đơng Nam Á đa dạng thứ nhì trên Trái Đất (chỉ sau rừng
nhiệt đới Amazon). Ở khu vực này chứa đựng hàng ngàn loài cây, từ cây gỗ quý hiếm
cho đến các loại thực vật leo và cây cỏ; ở một số quốc gia có núi đủ cao, thảm thực vật
khí hậy ơn hồ có thể được tìm thấu. Rừng nhiệt đới Đông Nam Á cung cấp một loạt
các dịch vụ sinh thái, bao gồm việc duy trì hệ thống suối, kiềm chế sự xói mịn đất,
cung cấp nước sạch và là mơi trường sống cho nhiều lồi động vật quý hiếm.
Rừng nhiệt đới Đông Nam Á – nơi sinh sống của các loài động vật quý hiếm và
đa dạng, bao gồm các lồi khỉ như khỉ đi lợn và khỉ hút thuốc, linh trưởng, hươu gấu
4

6


(222000172) - HOÀNG THỊ HƯƠNG GIANG – GDTH D2022CLC

và đa dạng lồi chim. Các lồi động vật này thích ứng với mơi trường này và đóng vai
trị lớn trong việc duy trì cân bằng sinh thái. Với sự đa dạng địa hình, Đơng Nam Á có
một loạt các lồi động vật núim bao gồm hươu sao, tê giác, linh dương và sóc. Rừng
núi cũng là mơi trường sống của nhiều lồi chim đặc hữu, bao gồm chim cơng và chim
bướm.
Khu vực địa lý bao quanh biển, cửa sơng và có lượng hải đảo lớn nên hệ sinh thái
biển cũng giàu có khơng kém. Tại vùng nước nơng của các rạn san hơ Đơng Nam Á có
mức độ đa dạng sinh học cao nhất đối với các hệ sinh thái biển trên thế giới, tại đây có
rất nhiều san hơ, cá và động vật thân mềm. Sự đa dạng lớn hơn đáng kể so với bất kỳ

khu vực nào khác được lấy mẫu trong Tam giác San hô bao gồm In-đô-nê-si-a, Philip-pin và Papua New Guinea. Bên cạnh đó, hệ sinh thái đầm lầy và vùng đồng cỏ là
nơi sinh sống của nhiều loài cá, chim và động vật khác, trong khi các vùng đồng cả
cung cấp môi trường sống cho các loài trâu rừng, hươu và các loài thú mỏ khác.
Do nằm trong vành đai sinh khoáng nên khu vực Đơng Nam Á giàu tài ngun
khống sản với nhiều giá trị khác nhau, trong đó nhiều loại tài nguyên chiếm một trữ
lượng lớn của toàn thế giới. Đây là nguồn ngun liệu cho phát triển ngành cơng
nghiệp. Nhìn chung, các nước Đơng Nam Á có địa thể tốt, có nguồn tài nguyên khoáng
sản phong phú, đa dạng ở cả trên đất liền lẫn dưới biển. Đây chính là cơ sở để đẩy
mạnh phát triển các ngành cơng nghiệp khai khống với chế biến khống sản, thuận
lợi tạo địn bẩy để phát triển kinh tế nông nghiệp và công nghiệp, tạo nền tảng và cơ
sở để thúc đẩy các hoạt động hợp tác cũng như nâng cao chất lượng nghiên cứu, ứng
dụng thành tựu khoa học.

4

7


(222000172) - HOÀNG THỊ HƯƠNG GIANG – GDTH D2022CLC

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ XÃ HỘI CỦA NỀN VĂN MINH
ĐÔNG NAM Á
1. Tên gọi “Đông Nam Á”
Định danh Đông Nam Á (Southeast Asia) xuất hiện khá muộn, nó được nhìn nhận
trong lịch sử hiện đại từ nửa sau thế kỷ XX. Tên gọi này được các nhà nghiên cứu Hà
Lan, Anh, Hoa Kỳ đưa ra trong Đệ Nhị thế chiến, chính thức đi vào lịch sử như là khu
vực chính trị, địa quân sự quan trọng khi Anh và Hoa Kỳ, nhất trí thành lập Bộ chỉ huy
tối cao quân Đồng Minh ở Đông Nam Á (Hội nghị Québec tháng 8-1943). Đông Nam
Á bị lôi cuốn vào chiến tranh như là một lực lượng thuộc địa của các đế quốc Anh, Hà
Lan, Pháp, Mỹ. Đông Nam Á đã xuất hiện trên bản đồ chính trị thế giới như một khu

vực chính trị có nét tương đồng rõ rệt.
Những phát kiến địa lý phát xuất từ những nhà hàng hải châu Âu vào khoảng thế
kỷ XV – XVI, trên những hải trình dài mà họ đẫ trải qua, vùng đất này như là những
viễn xứ, vùng đất bán lục địa và hải đảo trong cương vực rộn glowns của thế giới bán
đảo Ấn Độ, có khi được miêu tả gồm Cực Đơng và Cực Nam châu Á với tên gọi là
Viễn Đông. Khu vực này cịn được nhìn nhận bên cạnh nền văn minh Trung Quốc và
được gọi là Đông Dương hay Nam Dương… Từ cuối thế kỷ XIX, các học giả người
Áo đã đặt tên cho khu vực này là “Sudost Asien” (Đơng Nam Á), nó trở thành một
thực thể địa – sinh thái riêng biệt, khác với Đông Bắc Á và Tây Nam Á.

2. Đông Nam Á thời kỳ tiền sử
2.1. Quá trình chuyển biến từ vượn thành người
Điều kiện tự nhiên của Đông Nam Á thuận lợi cho những bước đi đầu tiên của
con người. Điều đó giải thích vì sao con người đã có mặt ở đây từ rất xa xưa. Các nhà
khảo cổ học đã tìm thấy nhiều dấu vết của quá trình chuyển biến từ vượn thành người
ở Đông Nam Á.
Chủng tộc chủ yếu ở Đông Nam Á là Mơn-gơ-lơ-it và Ơ-xtra-lơ-it. Cư dân Đơng
Nam Á được cho là kết quả của sự pha trộn giữa hai chủng tộc này. Từ mỗi loại hình
nhân chủng trên và sự pha trộn giữa các nhóm đã hình thành nên những tộc người khác
nhau. Vì thế, thành phần tộc người ở Đông Nam Á rất phong phú, mỗi tộc người hay
nhóm tộc người lại có những nét văn hố khác nhau. Điểm chung là các quốc gia Đông
Nam Á đều có mặt hầu hết các tộc người thuộc cả nhóm Nam Á và Anh-đô-nê-điêng.
Cách đây không lâu người ta đã phát hiện dấu vết hoá thạch vượn bậc cao
Pondaung (Mi-an-ma) có niên đại 40 triệu năm và vượn khổng lồ ở In-đơ-nê-xi-a sống
cách đây khoảng triệu năm. Đặc biệt hố thạch của người Pi-tê-can-tơ-tốp tìm thấy ở
Giava cách đây 2 triệu năm trong kỷ Pleistocen giữa là dấu vết xưa nhất của người tối
cổ ở Đông Nam Á. Di cốt, mảnh di cốt và những công cự bằng đồ đá của người tối cổ
cịn tìm thấy ở nhiều nơi khác trong khu vực như Việt Nam, Thái Lan, Phi-lip-pin, Malai-xi-a,… Nghệ thuật trên đá có niên đại từ 40.000 năm trước (hiện là lâu đời nhất thế
giới) đã được phát hiện trong các hang động của Borneo.
Các nhóm Người Tinh khôn (Hômô Sapiêns) khác biệt, tổ tiên của các quần thể

Đông – Á – Âu (liên quan đến Đông Á), và các quần thể người Nam-Âu - Á (liên quan
4

8


(222000172) - HOÀNG THỊ HƯƠNG GIANG – GDTH D2022CLC

đến Papuan), đã đến khu vực này trong khoảng từ 50.000 TCN đến 70.000 TCN, với
một số tranh cãi rằng họ đã đến Đơng Nam Á trước đó nữa. Việc phát hiện chiế c so ̣
Người Tinh khôn (Hômô Sapiêns) ở hang Nia (Saraoắ c đảo Boócnêô) với niên đa ̣i là
396.000 năm và một chỏm so ̣ Hômô Sapiêns trong hang Tabon (Philippin) có niên đa ̣i
30.500 năm đã cho thấ y quá trình chuyể n biế n từ vươṇ thành người ở Đông Nam Á là
trực tiế p và liên tu ̣c.

2.2.

4

Q trình phát triển của các nền văn hố khảo cổ:

Cùng sinh tụ trên một khu vực địa lí, cư dân ở Đông Nam Á đã sáng tạo ra một
nền văn hố bản địa có nguồn gốc chung từ thời tiền sử và sơ sử trước khi tiếp xúc với
văn hoá Trung Quốc và Ấn Độ.
Sau khi giai đoạn đồ đá cũ với những di chỉ nổi tiếng như: núi Đọ, núi Quan Yên,
Xuân Lộc (Việt Nam), Anya ( Mi-an-ma), Pingnoi (Thái Lan), Tampan (Ma-lai-xi-a),
Cabaloan (Phi-lip-pin),…
Người ta vẫn thấy sự phát triển liên tục từ đồ đá giữa đến sơ kỳ đồ sắt ở Đơng
Nam Á. Điển hình của thời kỳ đồ đá giữa của khu vực là văn hố Hồ Bình với loại
hình cơng cụ đặc trung là những viên đá cuội được ghè đẽo trên cả hai mặt, rìu đá cuội

có lưỡi ở một đầu, chày nghiền,… Ki ̃ thuật chế tác đá Hòa Bình đã có mặt trên nhiề u
điạ điể m ở Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia , Thái Lan, In-đô-nê-xi-a.. Sự giố ng nhau của
ki ̃ thuật chế tác đá thuộc văn hóa Hòa Bình đã khiế n cho nhiề u nhà nghiên cứu cho
rằ ng văn hóa Hòa Bình là một nề n văn hóa chung của cả Đông Nam Á. Vì thế một số
người đã dùng khái niệm "phức hơp̣ ki ̃ thuật Hòa Bình" để chỉ một truyề n thố ng ki ̃
thuật ghè đeõ chung cho cả khu vực.
Đế n thời đại đá mới, kỹ thuật tạc đá đạt tới đỉnh cao, mặc dù có những con đường
phát triể n ki ̃ thuật khác nhau giữa Đông Nam Á lu ̣c điạ và Hải đảo mà có người đã go ̣i
là những con đường hậu Hòa Bình, người ta
vẫn không thể không thừa nhận sự đồ ng đề u cơ
bản về trình độ chế tác đá thời kì đá mới ở Việt
Nam và các vùng khác của khu vực. Ngay ở
lớp trên của một số di chỉ thuộc văn hóa Hòa
Bình, người ta đã tìm đươc̣ những công cu ̣ đá
có mài lưỡi. Nhưng những chiế c rìu mài lưỡi
như thế đã đươc̣ phát hiện chủ yế u trong các di
chỉ thuộc văn hóa Bắ c Sơn (Việt Nam). Rìu mài
lưỡi kiể u Bắ c Sơn còn đươc̣ phát hiện ở Nia
(Xa-ra-oắ c) với niên đa ̣i sớm hơn đôi chút, ở
Guatêchin (Ma-lai-xi-a) nhưng la ̣i muộn hơn
một ít, ở Bukit Talang (Xu-ma-tơ-ra), Kendeng
Lambu (Gia-va)... Niên đa ̣i của văn hóa Bắ c là
khoảng 10.000 – 6000 năm cách ngày nay. Như
thế rìu mài lưỡi Nia và Bắ c Sơn cũng là những Hình 2: Tượng cự thạch được tìm thấy
ở In-đô-nê-xi-a năm 1500 sau CN
công cu ̣ đá mài sớm nhấ t trên thế giới.
Cũng bắt đầu từ thời đá mới hậu kì, cư dân Đơng Nam Á chuyển dần từ nông
nghiệp trồng vườn (rau, củ) sang trồng lúa. Từ khoảng đầ u thiên niên kỉ II TCN, cư
9



(222000172) - HOÀNG THỊ HƯƠNG GIANG – GDTH D2022CLC

dân Đông Nam Á mà tiêu biểu là nền văn hố đờ ng sông Hồ ng và ở Thái Lan, đã biế t
đế n công cu ̣ bằ ng đồ ng thau – nền văn minh đồng thau. Thời đại đồ đồng Văn hóa
Đơng Sơn phát triển mạnh ở miền Bắc - Việt Nam từ khoảng 1000 năm TCN đến năm
1 TCN, ảnh hưởng của nó lan rộng ra các khu vực khác ở Đông Nam Á. Khu vực Đông
Nam Á hầ u như không có một giai đoa ̣n đá đồ ng (tức đồ ng đỏ) riêng biệt. Đồ ng thau
đươc̣ sử du ̣ng ngay từ đầ u cùng với các công cu ̣ bằ ng đá và tre gỗ... Tiếp đến là các
nền văn hố Đồng đậu, Gị mun, Đơng Sơn ở Việt Nam; Non Nóc; Ban Chiang; Bản
Nadi ở Thái Lan,… càng cho thấy Đơng Nam Á đã có một nền văn minh đồng thau
phát triển rất sớm. Tiế p sau, việc khai quật các di chỉ đồ ng thau ở Non Nóc Thà, Ban
Chiang, bản Na Di ở Thái Lan đã làm chấ n động giới tiề n sử ho ̣c và càng khẳ ng đinh
̣
tính chấ t bản điạ của nghề đúc đồ ng ở nơi đây, và như thế , cũng cho thấ y rằ ng Đông
Nam Á đã có một nề n văn minh đồ ng thau phát triể n sớm và rực rỡ không thua kém gì
các nề n văn minh cổ đa ̣i khác.
Vào những thế kỉ tiế p giáp của công nguyên, trên cơ sở phát triể n của đồ đồng,
đồ sắ t bắ t đầ u đươc̣ sử du ̣ng phổ biế n ở Đông Nam Á. Khu vực Đông Nam bước
vào thời kỳ đồ sắt vào năm 500 TCN, khi đồ sắt được rèn, ngay ở miền Bắc Việt Nam
vẫn cịn dưới thời đồ đồng Đơng Sơn cũng đã biết rèn sắt, nhờ giao thương thường
xuyên với nước láng giềng Trung Quốc. Với đồ sắ t phát triể n, các dân tộc Đông Nam
Á nói chung (trừ cư dân đồ ng bằ ng sông Hồ ng phát triể n sớm hơn) bắ t đầ u đứng trước
ngưỡng cửa của xã hội có giai cấ p và nhà nước.

3. Đông Nam Á tiếp thu ảnh hưởng văn hố Ấn và Hoa
Có thể bắt đầu từ công nguyên, từ cái nền chung là cơ tầ ng văn hóa bản điạ Đông
Nam Á, những cư dân ở đây đã bắ t đầ u gập làn sóng văn hóa Ấn Độ đế n đây theo chân
các thương gia và những nhà truyề n đa ̣o một cách hòa bình và tiế p nhận nề n văn hóa
Trung Hoa từ những người Trung Quố c thố ng tri.̣ Chính sự tiế p xúc văn hóa này đã

làm cho các tộc người ở đây đinh
̣ hình và phát triể n hơn với sự ra đời của các vương
q́ c cở ở Đông Nam Á.
Sự hình thành các quốc gia Đơng Nam Á cịn gắn liền với việc tiếp thu ảnh hưởng
văn hoá Ấn Độ và Trung Hoa. Những ảnh hưởng này là khá toàn diện và sâu sắc, cả
về chữ viết, văn chương, tôn giáo, nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc,… Họ đã tiếp nhận
mô hình văn hố Hán và văn hố Ấn Độ một cách chủ động và chọn lọc, thể hiện qua
hai phương diện: tổ chức bộ máy nhà nước và tinh thần.

3.1. Tổ chức bộ máy nhà nước
Hầu hết các nhà lãnh đạo ở đây đều muốn tìm đến vực ứng dụng mơ hình tổ chức
nhà nước đã khá hồn thiện từ Ấn Độ, Trung Quốc, cùng với mơ hình đó là sự mô
phỏng thiết chế xã hội, chủ yếu là chế độ đẳng cấp. Tất nhiên sự mô phỏng thiết chế
xã hội, sự mơ phỏng này chỉ về mặt hình thức và tuỳ tình hình cụ thể của mỗi nhà nước,
sự mô phỏng ở mức độ đậm nhạt khác nhau. Điểm cần nhấn mạnh ở đây là về mặt nội
dung, các nhà nước vẫn được xây dựng trên nền tảng chủ đạo đó là tinh thần dân tộc,
tính dân chủ và cởi mở của cư dân Đông Nam Á.
Từ bao đời nay, dưới con mắt của người Đông Nam Á, Trung Quốc bao giờ cũng
là một người láng giềng vĩ đại mà các quốc gia xung quanh đều phải đặc biệt quan tâm.
4

10


(222000172) - HOÀNG THỊ HƯƠNG GIANG – GDTH D2022CLC

Điều này dễ hiểu vì Trung Quốc là một nước đơng dân, là nhân tố quan trọng của khu
vực mà những thay đổi trong chính sách đối nội – đối ngoại đều trực tiếp tác động lên
Đơng Nam Á.
Chính sức mạnh của hội tụ văn hố Đơng Sơn (được ngày nay đánh giá là một

cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật, cuộc cách mạng nơng nghiệp – có vai trị ngang
với cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại) với tác động của văn hoá Trung Hoa
đã tạo ra một bước nhảy vọt kỳ diệu: tồn bộ Đơng Nam Á đều bỏ qua thời kỳ chiếm
hữu nô lệ - và nhà nước chủ tập quyền kiểu phương Đông đã lần lượt ra đời sau sự hội
tụ Đơng Sơn. Do đó, khi các quốc gia Đông Nam Á xuất hiện trên vũ đài lịch sử thì nó
khơng những đủ khả năng chống lại sự xâm lược từ bên ngoài, đủ khả năng bảo vệ nền
văn hố truyền thống mà cịn có đủ nội lực để tiếp thu những tinh hoa của một nền văn
hoá lớn như Trung Hoa, với tất cả khả năng “bản địa hoá”, sức mạnh hội tụ và truyền
thống khơng kì thị dân tộc vốn có của mình.
Sự mơ phỏng mơ hình Trung Hoa trong q trình tiếp xúc với văn hoá Trung Hoa
với ý thức xây dựng quốc gia độc lập đóng vai trị chủ đạo. Vì vậy, Đơng Nam Á dựa
vào cơ tầng văn hố vốn là của chung các dân tộc, là cái nền liên kết của các quốc gia
đa dân tộc mà sao phỏng mơ hình tổ chức nhà nước và kiến trúc thượng tầng của nền
văn hoá Trung Hoa được đẩy mạnh trong thời kỳ độc – lập tự chủ.
Lịch sử đã buộc các nước Đơng Nam Á vốn có chung một mơ hình truyền thống,
phải bước vào thế trận chống đồng hố để không ngừng phát triển, và do những điều
kiện giao thông thuận lợi nên xu hướng thân thiện láng giềng, tương trợ lẫn nhau là
điều dễ hiểu, nói theo kiểu Việt Nam là “bán anh em xa, mua láng giềng gần”.
Cũng cần phải lưu ý rằng, nếu chỉ căn cứ vào thư tịch cổ Trung Hoa do các sứ
thần và thương gia miêu tả theo hệ quy chiếu của họ, hoặc theo sự ghi chép trên văn
bia về công lao được phóng đại của các ơng vua thì nhiều quốc gia Đơng Nam Á cổ
đại được xác định là có một thể chế chặt chẽ, thậm chí có những “đế chế” có nhiều
cơng quốc, chư hầu thần phục và cống nạp kiểu đế chế Trung Hoa. Nhưng căn cứ vào
sự hiệu đính và việc phục nguyên ý nghĩa từ cổ trong văn bản và những phất hiện mới
qua thư tịch, qua nguồn tư liệu trên thực địa, thì các quốc gia cổ đại ở đây phần nhiều
dựa trên cơ tầng một xã hội cổ truyền mà cơ sở chủ yếu là những gia đình hạt nhân,
được tập hợp thành những tế bào – những cấu trúc đúc sẵn: làng, sóc, bản, phum, nổi
lên một đẳng cấp quân sự cầm đầu Nhà nước mà nguồn gốc gia đời chưa được xác
định. Tuy nhiên, có thể giải thiết ngay từ bây giờ rằng đẳng cấp quân sự ấy cũng đã
cung cấp cái khung đầu tiên cho bộ máy Nhà nước “tập quyền” chắc chắc cịn rất lỏng

lẻo. Do đó, cơ cấu thành phần tộc người và biên giới của các quốc gia ở đây đầy biến
động.
Khác với Trung Hoa, sau khi khu vực này tiếp xúc với tiểu lục địa Ấn Độ vào
khoảng năm 400 TCN, nó bắt đầu q trình Ấn Độ hóa dần dần, nơi các ý tưởng của
Ấn Độ như tơn giáo, văn hóa, kiến trúc và hành chính chính trị được các thương nhân
và các nhân vật tơn giáo đưa tới và được các vua chúa địa phương áp dụng không bằng
cách cưỡng bức, bằng sự đô hộ mà bằng con đường hồ bình. Như chính G.Coedes
cũng cho rằ ng, những người Ấn Độ đã không hề tiế n hành một cuộc chinh phu ̣c bằ ng
quân sự nhằ m thôn tính một quố c gia nào, rằ ng ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ chỉ như
4

11


(222000172) - HOÀNG THỊ HƯƠNG GIANG – GDTH D2022CLC

là một lớp vecni phủ trên một nề n văn hóa chung của "châu Á gió mùa", trong đó mỗi
vùng, mỗi quố c gia đã không bi ̣ mấ t đi tính cách riêng, độc đáo của mình. Điề u này
đươc̣ thể hiện trong nhiề u liñ h vực, ví du ̣ như, trong sự khác biệt giữa Ramayana với
Riêmkê của Cam-pu-chia với Rama Khiên của Thái Lan...
Trước hế t có lẽ ở một số nơi thương nhân Ấn Độ đã đế n hoa ̣t động làm cho nề n
kinh tế và việc trao đổ i sản phẩ m ở các khu vực này phát triể n. Đồ ng thời văn hóa Ấn
Độ cũng theo đó mà đươc̣ truyề n bá vào. Một số nhà truyề n đa ̣o cũng theo các thuyề n
buôn đế n Đông Nam Á. Trong số các thương nhân và các nhà truyề n đa ̣o Ấn Độ, không
ít người ở hẳ n đây sinh cơ lập nghiệp và thậm chí giữ những chức vu ̣ quan tro ̣ng trong
chính quyề n. Thương nhân Đông Nam Á cũng sang Ấn Độ để buôn bán và nhờ đó tiế p
thu văn hóa Ấn Độ. Cùng lúc đó ở nhiề u bộ tộc Đông Nam Á đang diễn ra quá trình
tan rã của xã hội nguyên thủy và hình thành xã hội có giai cấ p. Những thủ liñ h của các
bộ tộc này nhanh chóng tiế p nhận những cách thức tổ chức xã hội và chính quyề n của
Ấn Độ để ta ̣o dựng các quố c gia riêng.

Để tổ chức đươc̣ một nhà nước mang tính chấ t vương quyề n theo kiể u Ấn Độ,
không thể tách rời tôn giáo, mà những tôn giáo đó la ̣i vố n có sẵn ở Ấn Độ và đươc̣
truyề n bá đế n các nước Đông Nam Á. Vì thế cùng một lúc, khi tổ chức quố c gia, tầ ng
lớp trên của cư dân Đông Nam Á đã tiế p thu cả chữ viế t, các văn bản và tôn giáo Ấn
Độ. Đổi lại, những người Bà La Môn và tu sĩ Ấn Độ được các nhà cai trị địa phương
mời đến sống trong vương quốc của họ và giúp chuyển đổi các chính thể địa phương
trở nên Ấn Độ hóa hơn, pha trộn giữa truyền thống Ấn Độ và bản địa. Sau đó các thành
tựu khác của văn hóa Ấn Độ đươc̣ tầ ng lớp này tiế p nhận cũng là để phu ̣c vu ̣ cho việc
thiế t lập và củng cố vương quyề n. Như thế , có thể thấ y rằ ng, những ảnh hưởng này đã
có tác du ̣ng thúc đẩ y quá trình phân hóa xã hội, hình thành những nhà nước cổ đa ̣i và
góp
Bắ t đầ u từ khoảng thế kỉ VII đế n thế kỉ X ở Đông Nam Á đã diễn ra quá trình
hình thành các quố c gia "dân tộc" lấ y một bộ tộc tương đố i đông đúc và phát triể n hơn
cả làm nòng cố t. Bên ca ̣nh những quố c gia đã xuấ t hiện từ trước như Âu La ̣c của người
Việt, Chămpa của người Chăm, đây là thời kì hình thành các vương quố c Chân La ̣p
của người Khơme, Xri Vijaya trên đảo Xumatơra, Kalinga ở Giava...
Từ thế kỉ X đế n thế kỉ XV là giai đoa ̣n xác lập và phát triể n thinh
̣ đa ̣t của các
quố c gia phong kiế n "dân tộc" ở Đông Nam Á: ở khu vực Đông Nam Á hải đảo, Inđô-nê-xi-a dưới vương triề u Mô-giô-pa-hit bao gồ m hơn 10 nước nhỏ và đảo phu ̣ thuộc
"có sản phẩ m quý, đứng hàng thứ hai sau Arập" đã không ngừng lớn ma ̣nh trong suố t
3 thế kỉ (XIII - XVI). Ở Đông Nam Á lu ̣c điạ ngoài quố c gia Đa ̣i Việt và Chăm-pa,
Cam-pu-chia từ thế kỉ IX cũng bắ t đầ u bước vào thời kì Ăngco huy hoàng và trở thành
một trong những vương quố c ma ̣nh và ham chiế n trận nhấ t trong khu vực. Trên lưu
vực sông Mê Nam, từ giữa thế kỉ IX, quố c gia Pagan đã dầ n dầ n ma ̣nh lên, chinh phu ̣c
các tiể u quố c khác thố ng nhấ t lan
̃ h thổ , mở đầ u cho quá trình hình thành và phát triể n
của Mi-an-ma. Cũng trong giai đoa ̣n này, ở Đông Nam Á ngoài những quố c gia đã
đươc̣ hình thành từ trước, nay đang phát triể n thinh
̣ vươṇ g còn xuấ t hiện 2 vương quố c
mới là Su-khô-thay của người Thái và Lanxang của các bộ tộc người Lào.

Sau thế kỉ XV, Đông Nam Á bắ t đầ u bước vào thời kì suy thoái. Tuy nhiên ở mỗi
4

12


(222000172) - HỒNG THỊ HƯƠNG GIANG – GDTH D2022CLC

q́ c gia, sự suy thoái diễn ra không đồ ng đề u về thời gian. Nguyên nhân sâu xa của
tình tra ̣ng suy thoái bắ t nguồ n từ trong lòng của chế độ phong kiế n. Nề n kinh tế phong
kiế n đã trở nên lỗi thời, không còn tiế p tu ̣c phát triể n để đáp ứng nhu cầ u ngày càng
tăng của xã hội. Chính quyề n chuyên chế không chăm lo tới sự phát triể n kinh tế của
đấ t nước, nhấ t là thủy lơị mà chỉ tiêu hao sức người, sức của vào những cuộc chiế n
tranh nhằ m xác đinh
̣ lãnh thổ và quyề n lực của mình. Mâu thuẫn xã hội ngày càng trở
nên gay gắ t. Những cuộc khởi nghiã nông dân liên tiế p xảy ra. Chế độ phong kiế n đã
trở nên trì trệ và dầ n dầ n suy thoái. Trong bố i cảnh đó, sự xâm nhập của chủ nghiã thực
dân vào Đông Nam Á là nhân tố cuố i cùng có ý nghiã quyế t đinh
̣ dẫn tới sự suy su ̣p
của các quố c gia phong kiế n trong khu vực.

3.2. Tinh thần
Tiếp nhận những tinh hoa văn hoá phù hợp với phong tục, tập quán và lối sống
riêng. Sự tiếp nhận ở đây chủ yếu là từ tôn giáo (Hindu, Hồi giáo, Nho giáo và Phật
giáo). Ảnh hưởng có thể coi là rõ rệt nhất, đậm nét nhất của văn hoá Ấn Độ vào Đông
Nam Á là việc Hindu giáo và Phật giáo được truyền bá vào Đông Nam Á ngay từ những
thế kỷ đầu Công nguyên và phát huy ảnh hưởng tới đời sống văn hố tinh thần của các
dân tộc Đơng Nam Á. G.Coedes đã dành hẳng một chương trong cơng trình nghiên
cứu của minh để nói về q trình mà ơng gọi là “Ấn Độ hố”. Theo ơng “ảnh hưởng
của nền văn minh Ấn Độ chủ yếu là sự bành trướng của một nền văn hố có tổ chức,

dựa trên quan điểm Ấn về vương quyền, tiêu biểu bằng Ấn Độ giáo hoặc Phật giáo,
thần thoại Purana, pháp giới Phacmaxastra và lấy tiếng Phạn làm phương tiện biểu
đạt”. Từ thế kỷ XIII, dòng Phật giáo Tiểu thừa được phổ biến ở nhiều nước Đông Nam
Á. Văn học Phật giáo gồm các tích truyện gắn với sự tích lịch sử Phật giáo phát triển
mạnh, sự tiếp thu Phật giáo mỗi nơi mang màu sắc đậm nhạt khác nhau và theo từng
cách thức riêng. Triết học Yoga và triết học Phật giáo cũng đã được áp dụng và phát
triển trong cuộc sống và tri thức của các quốc gia trong khu vực.
Khoảng thế kỷ XII-XIII, Hồi giáo du nhập vào Đông Nam Á theo các thương
nhân Ả-Rập và Ấn Độ, trước tiên là ở một số nước hải đảo. Tuy nhiên, sự mở rộng của
Hồi giáo vào khu vực này chỉ xảy ra nhiều thế kỷ sau đó. Đến cuối thế kỷ XIV đầu thế
kỷ XV, hàng loạt tiểu quốc Hồi giáo ra đời ở Đông Nam Á hải đảo và bán đảo Mã Lai,
trong đó quan trọng nhất là vương quốc Nakon Sri Dharmmasat.
Song, không vì thế mà có thể nói, các cư dân Đông Nam Á đã ta ̣o dựng đươc̣ một
nề n văn hóa "phi Ấn", "phi Hoa", mà phải thừa nhận thuộc tính tiế p thu ̣, thâu hóa của
văn hoá Đông Nam Á để làm nên bản sắ c đa da ̣ng của mình. Có le,̃ chính vì tính thích
nghi, tính mở, tính uyể n chuyể n của Đông Nam Á mà ở đây có sự hòa đồ ng tôn giáo.
Đức Phật ngồ i trên tòa sen có rắ n thầ n Naga làm lo ̣ng che mưa nắ ng; bên ca ̣nh các vi ̣
thầ n của đa ̣o Bàlamôn và Hinđu, người Đông Nam Á vẫn thờ thầ n Thành hoàng, thờ
sinh thực khí, với nhiề u biế n thể khác nhau. Ngay như Hồ i giáo, người ta nói nhiề u về
tính cuồ ng tín của tôn giáo này, nhưng ở Đông Nam Á, Hồ i giáo uyể n chuyể n và mề m
ma ̣i hơn nhiề u. Và ở Đông Nam Á, khó có thể chỉ ra ai là "tín đồ " thuầ n Phật giáo,
thuầ n Thiên chúa giáo hay thuầ n Hồ i giáo.
Tiếng Phạn và tiếng Pali đã trở thành ngôn ngữ bác học của khu vực, khiến Đông
Nam Á trở thành một phần của nền văn minh Ấn Độ. Hầu hết khu vực này đã bị Ấn
4

13


(222000172) - HỒNG THỊ HƯƠNG GIANG – GDTH D2022CLC


Độ hóa trong những thế kỷ đầu tiên, trong khi Philippines sau đó đã Ấn Độ hóa vào
khoảng thế kỷ thứ 9 khi Vương quốc Tondo được thành lập ở Luzon. Việt Nam, đặc
biệt là phần phía bắc, chưa bao giờ được Ấn Độ hóa hồn tồn do trải qua nhiều thời
kỳ bị Trung Quốc đô hộ. Cư dân Đông Nam Á tiếp thu và sử dụng văn tự và văn học
rất sớm thông qua Phạn ngữ. Trên cơ sở của văn tự Pha ̣n, người Khơme đã sáng ta ̣o ra
chữ Khơme cổ vào thế kỉ thứ VII và sớm hơn nữa, từ thế kỉ thứ IV người Chăm đã có
chữ viế t riêng của mình. Cùng với tổ ng thể kiế n trúc Bô-rô-bu-đua ở Gia-va, khu đề n
Ăng-co Vát và Ăng-co Thom ở Cam-pu-chia, That Luông ở Lào, Tháp Chàm ở Việt
Nam..., vừa mang dáng dấ p của kiế n trúc Ấn Độ, vừa có những nét riêng độc đáo của
từng dân tộc là những di tích lich
̣ sử - văn hóa nổ i tiế ng không chỉ của Đông Nam Á
mà của cả loài người.
Văn học gồm văn học dân gian và văn học viết và một loạt từ thuộc về Phật giáo
(“Bụt”, “bồ đề”, “bồ tát”, “chùa”, “tháp”, “tăng già”,…) có nguồn gốc từ Ấn Độ. Hai
bộ sử thi nổi tiếng của Ấn Độ là Ramayana và Mahabharata được truyền sang nhiều
vùng ở Đông Nam Á, đặc biệt một số nơi như đảo Giava (In-đô-nê-xi-a), dựa theo cốt
truyện gốc này, người ta tạo ra nhiều biến thể tương tự. Những giá trị đặc sắc về nghệ
thuật kiến trúc và điêu khắc của Ấn Độ được thể hiện rất rõ nét trong các đền tháp,
chùa chiền ở khắp Đông Nam Á, mà tiêu biểu là hệ thống các tháp, quần thể kiến trúc
ở Cam-pu-chia, In-đô-nê-xi-a, Lào,… Trong các cơng trình kiến trúc đồ sộ này, ảnh
hưởng của quan niệm nghệ thuật kiến trúc tôn giáo Ấn Độ rất đậm nét: đó là kiến trúc
Hindu giáo (Ăngco Vat, tháp Champa), kiến trúc Phật giáo (Burobudur, Thạt Luổng).
Sự hiện hữu ảnh hưởng của Trung Hoa cũng tạo nên sự cân bằng, sự mềm mại
trong q trình phát triển và góp phần tạo nên sự ổn định của khu vực, dù sự ổn định
đó có làm cho xã hội nơng nghiệp Đơng Nam Á có phần bị ngưng trệ. Nho giáo và
Đạo giáo đã có ảnh hưởng sâu sắc đến các quốc gia như Việt Nam, In-đô-nê-xi-a, Malai-xi-a và Phi-lip-pin. Các giá trị xã hội, gia đình và triết học đã thể hiện sự ảnh hưởng
của những triết lý này.
Chữ Hán đã từng một thời bị thực dân Phương Bắc áp đặt đồng hóa nhưng bất
thành, chữ viết trở lên quan trọng đối với dân tộc tuy nhiên chúng ta đã sáng tạo thêm

khi khơng hồn tồn dùng chữ Hán mà đó là cơ sở cho chữ Nơm ra đời dựa trên cơ sở
chữ Hán nhưng có sự thay đổi đi. Chữ Hán là chữ viết chi phối rất lớn đến hệ thống
văn học nghệ thuật và đời sống văn hoá của nhân dân. Văn học nghệ thuật Trung Hoa
cũng sớm du nhập vào Việt Nam với sự ảnh hưởng của các thể thơ Đường Cổ. Cơ sở
tư tưởng của văn học nghệ thuật dựa trên Phật giáo và Nho giáo. Trong đó, tư tưởng
nho giáo ảnh hưởng đến dịng văn học yêu nước dân tộc. Một thành tựu quan trọng của
văn học nền văn minh Đại Việt là việc phổ biến chữ Nơm, vừa mang tính dân tộc (Nam
Nơm), vừa mang tính dân gian (nơm na), cải biến và Việt hóa chữ Hán. Chữ Nơm lúc
bấy giờ được gọi là “Quốc ngữ”, “ Quốc âm”.
Ngoài ra, các thành tựu về khoa học tự nhiên như bàn tính, lịch can chi, chữa
bệnh bằng châm cứu… đều có tác động sâu rộng đến nền văn minh Đại Việt cũng như
nền văn minh nước ta trong giai đoạn hiện tại (nói rõ lịch 12 con giáp,các con vật
thiêng).
Kiến trúc truyền thống Trung Quốc, như kiến trúc đình, chùa chiền và các cơng
4

14


(222000172) - HỒNG THỊ HƯƠNG GIANG – GDTH D2022CLC

trình kiến trúc cổ, cũng đã được áp dụng và phát triển trong văn minh Đơng Nam Á.
Ví dụ, kiến trúc đình trong văn minh Việt Nam có ảnh hưởng từ kiến trúc Trung Quốc,
như đình Đại Việt (Bách Đình) ở Huế và đình Ngơ Gia Tự ở Hà Nội. Nghệ thuật Trung
Quốc, bao gồm hội họa, điêu khắc, chạm khắc và làm gốm, cũng đã có ảnh hưởng đáng
kể đến nghệ thuật và thủ công mỹ nghệ của Đông Nam Á. Các ảnh hưởng văn hố đó
đã trở thành một trong những sợi dây liên kết khu vực và được xem là mối quan hệ
truyền thống.
Qua tiếp xúc với nền văn hoá lớn, tiên tiến của thời đại lúc bấy giờ mà người dân
Đơng Nam Á đã khẳng định được tính đồng nhất trong cơ tầng và bản sắc của mỗi dân

tộc cũng như năng lực sáng tạo của mình. Dù sự tiếp xúc đã diễn ra gần hai thiên niên
kỷ, các yếu tố văn hố Trung Hoa vẫn khơng phá vỡ được với hai dịng chính: văn hố
cung đình và văn hố dân gian. Giữa chúng có mối quan hệ tác động qua lại thúc đẩy
sự phát triển văn hoá đát nước, trong đó ý thức dân tộc được hình thành sớm đóng vai
trị điều chỉnh trong suốt q trình tiếp xúc, quán triệt trong mọi tầng lớp xã hội.

3.3. Tính “thống nhất” trong sự đa dạng
Đặc trưng nổi bật của văn hố Đơng Nam Á là “thống nhất trong đa dạng” và quá
trình bắt nguồn từ nhiều trung tâm khác nhau cho nên chúng khơng mang tính đơn
tuyết trong sự biệt lập mà là đa tuyến trong sự tiếp xúc đan xen nhiều chiều, tạo nên
những đường đồng quy, những cấu trúc văn hoá - tộc người đa thành phần được vận
hành theo những cơ chế linh hoạt mà đồng nhất. Kết quả là tính đa dạng ngày càng
được mở rộng trong khơng gian, tính đồng nhất được tiềm ẩn trong thòi gian và sự tác
động qua lại giữa chúng tạo thành một cơ chế tổng hợp quy định sự phát triển của mỗi
nước và của tồn khu vực.
Đơng Nam Á là khu vực văn hoá, văn minh lúa nước lâu đời, có nguồn gốc và
bản sắc riêng của mỗi dân tộc, bên cạnh những nét chung do mối quan hệ từ lâu trên
nhiều lĩnh vực. Dù có chịu nhiều ảnh hưởng của văn hoá Trung Quốc, văn hoá Ấn Độ,
nền văn hố Đơng Nam Á vẫn mang tính riêng biệt độc đáo. Chính cuộc tiếp xúc văn
hố này đã làm cho các dân tộc ở đây định hình và phát triển hơn với sự ra đời của các
quốc gia cổ đại, điều này đã làm cho bản sắc văn hố Đơng Nam Á thêm đa dạng và
phong phú. Đông Nam Á đã hấp thụ sâu sắc tinh thần của Phật giáo Ấn Độ, nền tôn
giáo mà trong bản chất, là một triết học đạo đức, về cơ bản nhấn mạnh những cách
nghĩ và cách sống hơn là những hệ thống kinh điển, nghi lễ, tín điều chặt chẽ. Bên cạnh
tín ngưỡng bản địa là các tơn giáo hiện đại như Hindu giáo, Phật giáo; kiến trúc – điêu
khắc mang dấu ấn của tư tưởng triết học Ấn Độ, văn học nghệ thuật cũng tiếp nhận
những yếu tố của văn hoá Ấn Độ.
Với những bằng chứng xác thực về nhiều lĩnh vực, Đông Nam Á đã cho thế giới
thấy được một nền văn hố huy hồng trong q khứ. Văn hố truyền thống khơng chỉ
là cội nguồn, là động lực mà còn là sợi dây kết nối vững chắc từ quá khứ đến hiện tại

và tương lai. Các dân tộc Đơng Nam Á có một sức sống mãnh liệt, một vốn văn hố
cổ xưa. Vì vậy, sự tiếp biến giao lưu với những nền văn hố ngồi khu vực đã không
làm mất đi bản chất của con người Đông Nam Á mà càng làm tăng thêm sự phong phú,
đa dạng của nó. Trên cơ tầng đó, văn hố các quốc gia Đông Nam Á do những điều
kiện môi trường, hoàn cảnh lịch sử, chọn lọc, tiếp biến một cách sáng tạo trước ảnh
4

15


(222000172) - HOÀNG THỊ HƯƠNG GIANG – GDTH D2022CLC

hưởng sâu sắc văn hố Ấn Độ đã tạo cho mình những nền văn hoá riêng, rất phong phú
và đặc sắc trong một tổng thể khu vực Đông Nam Á thống nhất trong đa dạng. Vì thế
từ những truyện thầ n thoa ̣i đế n lễ hội; từ phong tu ̣c tập quán đế n âm nha ̣c nghệ thuật,
kể cả múa hát... đề u ít nhiề u chiụ ảnh hưởng và phản ánh đời số ng của cư dân nông
nghiệp trồ ng lúa nước.

4.

Q trình thực dân hố và giải phóng dân tộc của các quốc gia
Đơng Nam Á
4.1.
Q trình xâm chiếm các quốc gia Đông Nam Á của thực dân
phương Tây

Đến thế kỷ XVI, ở các nước Đông Nam Á cơ bản vẫn là xã hội phong kiến.
Nhưng thế kỷ XVI cũng đã trở thành mốc đánh dấu bước ngoặt trong sự phát triển của
khu vực. Cùng với sự xuất hiện của chủ nghĩa thực dân ở khu vực thì tiền đồ phát triển
lịch sử của Đông Nam Á cũng từng bước có những thay đổi.

Sau các cuộc phát kiến địa lí, các nước phương Tây lần lượt xây dựng các thương
điếm buôn bán, những chạm tiếp tế cho các hạm thuyền ở một số địa điểm của Đông
Nam Á. Tiếp đó các nước thực dân phương Tây tranh chấp nhau, chiếm các quốc gia
ở khu vực, thiết lập chế độ thuộc địa, lôi kéo các quốc gia này vào hệ thống kinh tế tư
bản chủ nghĩa, làm biến dạng cấu trúc xã hội truyền thống của các nước, điều đó cũng
có nghĩa làm biến dạng q trình phát triển lịch sử của Đông Nam Á. Nước duy nhất
ở khu vực Đông Nam Á – nước Xiêm – giữ được độc lập về chính trị, nhưng về kinh
tế cũng bị lôi cuốn vào hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa, bản đồ chính trị của các nước
Đơng Nam Á dần dần có sự thay đổi: từ các quốc gia phong kiến độc lập trở thành
những nước thuộc địa hoặc phụ thuộc của thực dân châu Âu.
Ở khu vực Đông Nam Á, sau thời kỳ phát triển thịnh đạt của chế độ phong kiến,
như đã nói ở trên, bước sang thế kỷ XVI chế độ phong kiến lâm vào suy yếu. Đây
chính là điều kiện thuận lợi cho các cuộc xâm nhập và xâm lược của chủ nghĩa thực
dân phương Tây.
Nhìn chung, thời điểm các nước Đơng Nam Á trở thành thuộc địa của thực dân
phương Tây khác nhau, quá trình chinh phục và xâm lược của thực dân phương Tây
trải qua một thời gian khá dài, không thể nhanh như họ mong muốn được, bởi do cuộc
kháng cự của các dân tộc nơi đây. Đồng thời có những khu vực chưa đầy nửa thế kỷ
như cuộc chinh phục của Pháp ở Đơng Dương. Rõ ràng q trình xâm lược diễn ra
khơng đồng đều và phức tạp.
Cơng cuộc thơn tính Đông Nam Á của thực dân Âu – Mĩ kéo dài trong gần 4 thế
kỷ. Kể từ khi đặt thương điếm đầu tiên vào đầu thế kỷ XVI, sau đó là các cuộc xâm
chiếm bằng nhiều thủ đoạn, lúc mềm mỏng, lúc lừa bịp, khi cứng rắn trắng trợn, thực
dân Châu Âu và tiếp đến là cả Mỹ, đến cuối thế kỷ XIX cơng cuộc xâm lược Đơng
Nam Á hồn tất. Các quốc gia phong kiến Đông Nam Á hoặc tiền phong kiến, cịn ở
trình độ bộ tộc chưa bao giờ có giao lưu với thế giới bên ngồi đã bị thực dân châu Âu
từng bước biến thành miền đất thuộc địa. Và cũng từ đây, cuộc đấu tranh chống thực
dân không lúc nào ngừng ở Đông Nam Á.
4


16


(222000172) - HỒNG THỊ HƯƠNG GIANG – GDTH D2022CLC

4.2. Chính sách cai trị và bóc lột của chủ nghĩa thực dân
Mặc dù hình thức thống trị của chủ nghĩa thực dân ở thuộc địa khơng giống nhau,
tính chất thuộc địa ở mỗi nước có nét khác nhau, nhưng điểm chung của các nước đế
quốc trong nhìn nhận thuộc địa là hậu phương, là nơi bóc lột đưa về cho họ những
nguồn lợi nhuận to lớn. Thuộc địa trở thành tiêu chuẩn đánh giá thực dân mạnh hay
yếu. Vì vậy, ngay sau khi chiếm và biến Đông Nam Á thành thuộc địa của mình, các
nước thực dân tiến hành chính sách cai trị và bóc lột dã man các dân tộc trong khu vực.
Trước hết các nước thực dân phương Tây biến các nước Đông Nam Á thành thị trường
tiêu thụ hàng hoá, thành nơi sản xuất nguyên liệu và là nơi đầu tư căn cứ chiến lược
của họ.
Về kinh tế: Đặc điểm chung của chính sách kinh tế thuộc đại thực dân ở Đông
Nam Á là khai thác, vơ vét và bòn rút các quốc gia trong khu vực bằng chính sách thuế
hố vơ nhân đạo đánh vào các tầng lớp nhân dân bản địa, cướp ruộng đất lập đồn điền,
bóc lột sức người, khai thác tài nguyên; khai thác triệt để sản phẩm nơng nghiệp, đầu
tư để bóc lột lâu dài trong cơng nghiệp; xuất khẩu những hàng hố công nghiệp kế thừa
vào khu vực để thu lợi nhuận cao, nhập vào chính quốc những nguyên liệu, nhiên liệu
với giá rẻ mạt, tiến hành đầu tư tư bản man lại siêu lợi nhuận… Việc chiếm đoạt ruộng
đất lập đồn điền trồng cao su, cà phê, chè, gạo,…là chính sách chung của thực dân
châu Âu. Bên cạnh thuế khoá nặng nề, người dân Đơng Nam Á thuộc địa cịn phải chịu
thêm chế độ phu phen, tạp dịch hà khắc.
Về chính trị: thể chế các nước tuy có khác nhau, nhưng nét chung đều có cơ cấu
của chính quyền thực dân, do chính thủ ở chính quốc khống chế. Các mặt hành chính
lập pháp, tư pháp, ngoại giao quân sự,…đều tập trung vào tay viên thống đốc, tổng đốc
hoặc một viên quan với chức danh cao cấp do chính quốc cử sang thuộc địa.
Hình thức cai trị của bọn thực dân là gián tiếp hoặc trực tiếp. Cai trị gián tiếp là

bọn thực dân điều người của mình sang các nước thuộc địa với những tên gọi khác
nhau như công sư, cố vấn,…
Ở các khu vực khác của Đông Nam Á, các nước thực dân áp dụng chế độ cai trị
trực tiếp với hệ thống các quan chức thực dân được sắp đặt từ trung ương đến hàng
tỉnh theo sơ đồ: Trung ương → vùng → tỉnh. Đứng đầu thuộc địa thường là các viên
tồn quyền, sau đó là các viên thống đốc, thống sứ, khâm sứ, tổng uỷ chính phủ hoặc
tổng đốc và tiếp đó là các quan cai trị thực dân hàng tỉnh. Khi thống trị các nước Đông
Nam Á, thực dân châu Âu biết rằng, họ không thể nào nắm chính quyền trực tiếp tới
tận huyện, phủ, xã; họ cũng không thể trực tiếp đi bắt phu, bắt lính hay thu thuế,…Do
đó, chính quyền thực dân vẫn duy trì ở thuộc địa chính quyền phong kiến bù nhìn, sử
dụng giai cấp phong kiến, địa chỉ, thân hào địa phương làm chỗ dựa.
Về mặt văn hố: chính sách “ngu dân” và đầu độc người dân thuộc địa bằng rượu
và thuốc phiện. Thực hiện chính sách ngu dân để dễ bề cai trị, chính quyền thuộc địa
đã kìm hãm người dân bản xứ trong vòng ngu dốt. Song song với chính sách “ngu
dân”, các chính quyền thực dân Đơng Nam Á cịn thực hiện chính sách đầu độc văn
hố đối với cư dân, chính quyền thực dân duy trì tư tưởng lạc hậu, bảo thủ, tín ngưỡng,
tơn giáo, mê tín nhằm ru ngủ người dân thuộc địa. Đặc biệt chính quyền thực dân ru
ngủ người dân bằng rượu cồn và thuốc phiện. Để nắm độc quyền phân phối những mặt
4

17


(222000172) - HOÀNG THỊ HƯƠNG GIANG – GDTH D2022CLC

hàng này, chính quyền thực dân bắt người dân bản xứ phải tiêu thụ một khối lượng lớn
rượu trắng và thuốc phiện.
Những bằng chứng trên đã chứng minh và chống lại những luận điểm mà thực
dân rêu rao là “khai hoá văn minh” là “chính sách đạo đức”. Mác đã chỉ ra tính hai mặt
của chủ nghĩa thực dân là: mặt phá hoại và xây dựng. Một mặt, nó tiêu diệt xã hội cũ

của châu Á; mặt khác, nó xây dựng những cơ sở vật chất của xã hội phương Tây châu
Á. Nhưng trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa thực dân, chưa hẳn có thể nói có sự biến
đổi nào đó của nền sản xuất truyền thống ở Đông Nam Á dưới những tác động của hoạt
dộng thực dân, mà trước hết là thực dân Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha.

5. Đông Nam Á sau chiến tranh thế giới thứ hai và quá trình hội nhập
5.1. Quá trình phát triển kinh tế - xã hội của các nước Đông Nam Á sau
chiến tranh thế giới thứ hai
Sau khi giành được độc lập về chính trị, các nước Đơng Nam Á phải đối mặt với
những khó khăn lớn về kinh tế - xã hội do những hậu quả của chế độ thống trị thực dân
hang trăm năm để lại. Trong bối cảnh đó, các nước Đơng Nam Á đã trải qua quá trình
lựa chọn con đường phát triển đi lên. Một số nước đã sớm nhận thức được con đường
xoá bỏ nghèo nàn, lạc hậu, từng bước xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ là phải
tiến hành công nghiệp hoá với mục tiêu chủ yếu là tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện
đại cho nền kinh tế và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với trình độ phát
triển của cơ sở vật chất - kỹ thuật. Xuất phát từ những điều kiện lịch sử cụ thể, các
nước Đông Nam Á sáng lập ra ASEAN gồm: In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Phi-lip-pin,
Thái Lan và Xing-ga-po tiến hành cơng nghiệp hố sớm hơn so với các nước trong khu
vực.
Khi bắt tay vào q trình cơng nghiệp hố, các nước Đơng Nam Á gặp phải khơng
ít những khó khăn trong lựa chọn những bước đi thích hợp. Nhìn chung các nước sáng
tạo ra ASEAN đều trải qua hai giai đoạn: giai đoạn thực hiện chiến lược công nghiệp
hố thay thế nhập khẩu (cơng nghiệp hố hướng nội) và giai đoạn cơng nghiệp hố
hướng về xuất khẩu (cơng nghiệp hoá hướng ngoại). Trong những năm đầu sau khi
giành độc lập,các nước ASEAN đều thực hiện chiến lược công nghiệp hoá thay thế
nhập khẩu nhằm giải quyết những vấn đề cấp bách của nền kinh tế như: giải quyết nạn
thất nghiệp, phát triển đa dạng hoá sản phẩm ngành cơng nghiệp chế biến, đáp ứng
hàng hố tiêu dùng trong nước…
Từ cuối những năm 60 và 70 của thế kỷ XX, các nước sáng lập ASEAN dần
chuyển sang thực hiện chiến lược cơng nghiệp hố hướng về xuất khẩu. Trong q

trình này các nước Ma-lai-xi-a, In-đơ-nê-xi-a, Phi-lip-pin, Thái Lan đều chú trọng kết
hợp sản xuất các mặt hàng truyền thống với các sản phẩm sử dụng hàm lượng kỹ thuật
cao, nhằm làm đa dạng thị trường… Để thu hút vốn đầu tư nước ngồi và cơng nghệ
cao, các nước đưa ra nhiều biện pháp chính sách ưu đãi đối với các nhà đàu tư. Khác
với các nước sáng lập ra ASEAN nền kinh tế cơ bản vẫn dựa vào nông nghiệp thì Xingga-po lại có điều kiện để phát triển ngành cơng nghiệp hướng ra xuất khẩu và dịch vụ.
Nhìn chung, cho đến giữa những thập niên 70 của thế kỷ XX, các nước thành viên sáng
lập ra ASEAN đều đạt được thành tựu to lớn trong việc phát triển kinh tế, đời sống xã
4

18


(222000172) - HỒNG THỊ HƯƠNG GIANG – GDTH D2022CLC

hội có những chuyển biến căn bản. Từ những năm 70 trở đi, tình hình kinh tế xã hội ở
các nước Đơng Nam Á có những thay đổi lớn. Những diễn biến chính trị phức tạp trên
thế giới và khu vực đã có ảnh hưởng lớn đến tình hình kinh tế xã hội nhưng không thể
đảo ngược được xu thế phát triển chung của các quốc gia trong khu vực. Sự phát triển
về kinh tế đã tạo điều kiện nâng cao cơ sở hạ tầng kỹ thuật, nguồn nhân lực, vai trò
quản lí của nhà nước, chú trọng phát triển cơng nghiệp và dịch vụ, phân bố lại lao động
trong nông nghiệp, các nước cũng chú trọng phát triển y tế, giáo dục, lập kế hoạch kàm
giảm sự chênh lệch, bất bình đẳng trong xã hội. Quá trình phát triển kinh tế - xã hội
sau chiến tranh thế giới thứ hai tuy trải qua những khó khăn, phức tạp song cuối cũng
cũng đạt được những thành quả to lớn.

5.2. Đông Nam Á sau “Chiến tranh lạnh”
Trong bối cảnh đó, cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển với tốc độ cao
tác động sâu rộng đến mọi mặt của đời sống quốc tế. Môi trường an ninh quốc tế sau
chiến tranh lạnh, khối đối thoại đã thay thế cho đối đầu, vẫn chưa hồn tồn ổn định
mà thậm chí cịn phát triển theo hướng phức tạp và đa dạng. Khả năng chiến tranh thế

giới bị đẩy lùi, nhưng xung đột sắc tộc và tơn giáo, khủng bố…cịn xảy ra nhiều. Những
biến đổi của tình hình thế giới như vậy, là những nhân tố tác động trực tiếp đến Đông
Nam Á.
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc sự đối đầu về hệ tư tưởng kéo dài hơn 40 năm,
đã khơng cịn mang ý nghĩa chi phối tình hình khu vực. Những thay đổi đã góp phần
cải thiện quan hệ giữ hai nhóm nước sau nhiều năm chia rẽ trong trật tự hai cực. Diễn
biến nhanh chóng của khu vực đã dẫn đến kết quả lần đầu tiên trong lịch sử từ sau
chiến tranh thế giới thứ hai, Đơng Nam Á khơng cịn tình trạng đối đầu, khơng cịn
qn đội nước ngồi. Các nước trong khu vực có điều kiện để xích lại gần nhau, cùng
hợp tác hội nhập để biến Đông Nam Á thành khu vực hồ bình, độc lập, ổn định và
phát triển. Bên cạnh những thuận lợi đó vẫn cịn tiềm ẩn những bất chắc, đe doạ an
ninh và sự phát triển bền vững của các nước như chủ nghĩa ly khai, xung đột sắc tộc,
tôn giáo, tranh chấp biên giới đất liền, đặc biệt là nguy cơ bùng nổ tranh chấp Biển
Đông…
Thập niên 90 của thế kỷ XX đã mở ra thời kỳ mới trong xu thế hợp tác của các
quốc gia Đông Nam Á với bước khởi đầu là q trình cải thiện quan hệ Việt NamASEAN. Để thích ứng với những diễn biến mới ở trên thế giới và trong khu vực, vấn
đề đối với ASEAN là tăng cường sức mạnh kinh tế của từng nước và trong khu vực,
thông qua đẩy mạnh hợp tác trong khu vực để vừa tăng vị thế bên ngoài vừa đảm bảo
an ninh khu vực và duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, trong tình hình đó việc
phát triển quan hệ với Việt Nam cũng như các nước Đông Dương khác trở thành một
chính sách quan trọng trong quan hệ của các nước ASEAN.
Những diễn biến của tình hình quốc tế đã ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình Đông
Nam Á những năm đầu thế kỷ XXI. Cùng với vấn đề trọng tâm là khôi phục phục phát
triển kinh tế và ổn định tình hình chính trị - xã hội sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền
tệ năm 1997, các nước Đơng Nam Á cịn phải đối mặt với sự ra tăng của nguy cơ khủng
bố và li khai ở một số nước. Từ một khu vực được xem là chiến trường chủ chốt trong
suốt thời kỳ chiến tranh lạnh đến nay Đông Nam Á đã xuất hiện trở lại như một điểm
4

19



(222000172) - HỒNG THỊ HƯƠNG GIANG – GDTH D2022CLC

nóng chống chiến tranh khủng bố. Nhìn chung sau chiến tranh lạnh, Đông Nam Á bước
vào thời kỳ tăng trưởng nhanh về kinh tế trong bối cảnh sự hợp tác và liên kết trong
khu vực có những chuyển biến thuận lợi. Trong thời gian này ổn định chính trị xã hội
đối với mỗi nước là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu và là tiền đề của sự phát triển kinh tế.
Cùng với chính sách mở cửa, điều chính và cải cách kinh tế, các nước đều thực hiện
đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế.
Những năm đầu thế kỷ XXI, các nước Đơng Nam Á đã khẳng định q trình khơi
phục kinh tế, ổn định chính trị. Mặc dù cịn khơng ít những khó khăn, song phần lớn
các nền kinh tế chủ chốt trong khu vực đã đạt được sự ổn định chắc chắn. Chính phủ
các nước, ở những mức độ thành công khác nhau, đã phát huy được những yếu tố bên
trong phục vụ cho tăng trưởng kinh tế, đồng thời gia tăng các nỗ lực liên kết bên trong
và bên ngoài khu vực nhằm phát huy tối đa thế mạnh, thay vì sự phụ thuộc quá nhiều
vào yếu tố bên ngồi như trước đây.

5.3. Q trình liên kết khu vực (ASEAN)
Sau khi giành được độc lập, đứng trước những yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội
của đất nước, nhiều nước Đông Nam Á chủ trương thành lập một tổ chức liên minh
khu vực, nhằm cùng nhau hợp tác và phát triển. Mặt khác, để hạn chế ảnh hưởng của
các cường quốc bên ngoài đối với khu vực, nhất là khi cuộc chiến tranh xâm lược của
Mỹ ở Đơng Dương ngày càng khơng thuận lợi, khó tránh khỏi thất bại. Ngày
08/08/1967, hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập tại Băng
Cốc (Thái Lan) gồm 5 nước: In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Xing-ga-po, Thái Lan. Trụ sở
của ASEAN đóng lại Gia-ka-ta (In-đơ-nê-xi-a).
Mục tiêu của ASEAN là thơng qua bản tuyên ngôn Băng Cốc – tuyên bố thành
lập nhằm phát triển kinh tế và văn hố thơng qua những nỗ lực hợp tác chung giữa các
nước thành viên trên tinh thần duy trì hồ bình và những nỗ lực hợp tác chung và ổn

định khu vực. Chính vì vậy từ cuối những năm 70, nền kinh tế nhiều nước ASEAN đã
có chuyển biến mạnh mẽ và đạt được sự tăng trưởng cao. Các nước này đã chuyển
sang chiến lược cơng nghiệp hố, đẩy mạnh xuất nhập khẩu hàng hố, gắn với thị
trường trong nước với bên ngoài như Xing-ga-po, Ma-lai-xi-a, Thái Lan. Đến đầu
những năm 90, khi thế giới bước vào thời kỳ chiến tranh lạnh chấm dứt, nhất là khi
“vấn đề Cam-pu-chia” được giải quyết, tình hình Đơng Nam Á đã được cải thiện rõ
rệt. Xu hướng nổi bật đầu tiên là sự mở rộng các thành viên của Hiệp hội ASEAN. Lần
lượt các nước đã gia nhập ASEAN: Việt Nam (1995), Lào và Mi-an-ma (1997), Campu-chia (1999). Với 10 thành viên, ASEAN trở thành tổ chức khu vực ngày càng có
uy tín với những hợp tác kinh tế (AFTA, 1992) và hợp tác an ninh (Diễn đàn khu vực
ARF, 1994). Đầu thế kỷ XXI, các nền kinh tế của khu vực Đông Nam Á tiếp tục tăng
trưởng nhanh, nhiều thời kỳ cao hơn mức trung bình thế giới và châu Á song chưa ổn
định, gặp phải các thời kỳ suy thoái kinh tế. Kinh tế phát triển dựa vào sản xuất và xuất
khẩu nguyên liệu, tài nguyên phong phú, nhân công dồi dào, thu hút được vốn đầu tư
nước ngồi,…
Về chính trị, các quốc gia tham gia trong tổ chức thống nhất và chuyển trọng tâm
hoạt động sang hợp tác kinh tế, đồng thời xây dựng một khu vực Đơng Nam Á hồ
bình, ổn định để cùng nhau phát triển.
4

20



×