TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI: Hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động
ngân hàng ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
Họ và tên sinh viên: Nguyễn Thị An Ly
Lớp: Pháp 3
Khoá: 42
Giáo viên hướng dẫn: TS. Đặng Thị Nhàn
Hà Nội, tháng năm 2007
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ 4
HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG VÀ PHÁP LUẬT
ĐIỀU CHỈNH CÁC HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG 4
1. Khái quát chung về sự hình thành ngân hàng 4
2. Cấu trúc hệ thống ngân hàng 6
Ngân hàng trung ương 6
2.2. Ngân hàng thương mại và các định chế tài chính phi ngân hàng 9
3. Các hoạt động ngân hàng 15
Các hoạt động ngân hàng của NHTW 16
Các hoạt động ngân hàng của NHTM 18
II. PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH CÁC HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG 21
1. Khái niệm pháp luật điều chỉnh hoạt động của ngân hàng 21
2. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật 23
đối với hoạt động ngân hàng
3. Những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến pháp luật điều chỉnh 24
hoạt động ngân hàng
4. Nguồn quy phạm pháp luật điều chỉnh các hoạt động ngân hàng 30
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH 32
HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM
I. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG 32
NGÂN HÀNG CỦA NHNN VIỆT NAM
1. Quy định của pháp luật Việt Nam về hoạt động tái cấp vốn 33
2. Quy định của pháp luật Việt Nam về dự trữ bắt buộc 36
3. Quy định của pháp luật Việt Nam về nghiệp vụ thị trường mở 38
II. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH 42
HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG CỦA NHTM Ở VIỆT NAM
1. Quy định của pháp luật Việt Nam 42
về hoạt động nghiệp vụ ngân hàng của NHTM
1.1. Hoạt động huy động vốn 42
1.2. Hoạt động cấp tín dụng 44
1.3. Hoạt động dịch vụ thanh toán 50
1.4. Hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán 52
2. Quy định của pháp luật Việt Nam về đảm bảo an toàn
trong hoạt động ngân hàng của NHTM 56
2.1. Các quy định về bảo đảm tiền vay 57
2.2. Các quy định về giới hạn an toàn trong kinh doanh 60
III. NHẬN XÉT CHUNG VỀ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ 63
ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG
Ở VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP
1. Những thành tựu cơ bản trong việc ban hành 63
và áp dụng pháp luật điều chỉnh hoạt động ngân hàng ở Việt Nam
2. Những hạn chế, bất cập chủ yếu của pháp luật 67
điều chỉnh hoạt động ngân hàng ở Việt Nam
CHƯƠNG III: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN 71
PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG
Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP
I. ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH
71 HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP
1. Xu hướng phát triển của ngân hàng trên thế giới và ở Việt Nam 71
2. Sự cần thiết phải hoàn thiện hành lang pháp lý cho 73
hoạt động ngân hàng ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
3. Các mục tiêu và nguyên tắc cơ bản của việc hoàn thiện 76
hành lang pháp lý cho hoạt động ngân hàng trong bối cảnh hội nhập
3.1. Các mục tiêu chủ yếu 76
3.2. Những nguyên tắc cơ bản 78
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN 85
PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG
Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1. Những giải pháp chung 85
1.1. Xây dựng cơ sở pháp lý cho việc tái cơ cấu 85
hệ thống ngân hàng Việt Nam
1.2. Nội luật hoá các nguyên tắc, quy phạm được thừa nhận chung 91
của pháp luật và tập quán quốc tế trong hoạt động ngân hàng
2. Những giải pháp cụ thể 93
KẾT LUẬN 99
PHỤ LỤC
DANH MỤC
Mức vốn pháp định của tổ chức tín dụng
(Ban hành kèm theo Nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006 của
Chính phủ)
STT
Loại hình tổ chức tín dụng
Mức vốn pháp định áp
dụng cho đến năm
2008
2010
I
Ngân hàng
1
Ngân hàng thương mại
a
Ngân hàng thương mại Nhà nước
3.000 tỷ đồng
3.000 tỷ đồng
b
Ngân hàng thương mại cổ phần
1.000 tỷ đồng
3.000 tỷ đồng
c
Ngân hàng liên doanh
1.000 tỷ đồng
3.000 tỷ đồng
d
Ngân hàng 100% vốn nước ngoài
1.000 tỷ đồng
3.000 tỷ đồng
đ
Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài
15 triệu USD
15 triệu USD
2
Ngân hàng chính sách
5.000 tỷ đồng
5.000 tỷ đồng
3
Ngân hàng đầu tư
3.000 tỷ đồng
3.000 tỷ đồng
4
Ngân hàng phát triển
5.000 tỷ đồng
5.000 tỷ đồng
5
Ngân hàng hợp tác
1.000 tỷ đồng
3.000 tỷ đồng
6
Quỹ tín dụng nhân dân
a
Quỹ tín dụng nhân dân TW
1.000 tỷ đồng
3.000 tỷ đồng
b
Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở
0,1 tỷ đồng
0,1 tỷ đồng
II
Tổ chức tín dụng phi ngân hàng
1
Công ty tài chính
300 tỷ đồng
500 tỷ đồng
2
Công ty cho thuê tài chính
100 tỷ đồng
150 tỷ đồng
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác, Sự khốn cùng của triết học, Nxb. Sự thật, H.1971.
2. Bernard & Colli, Từ điển thuật ngữ kinh tế – tài chính.
3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật ngân hàng Việt Nam, Nxb.
Công an nhân dân, H. 2007
4. Trường Học viện Tài chính, Giáo trình Quản lý và kinh doanh tiền tệ, Nxb.
Thống kê, H.2006
5. Nguyễn Ninh Kiều – MBA, Tiền tệ – Ngân hàng, Nxb. Thống kê, H.1998
6. TS. Ngô Quốc Kỳ, Hoàn thiện pháp luật về hoạt động của NHTM trong
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Nxb. Tư pháp, H.2005
7. TS. Nguyễn Văn Tuyến, Các giao dịch thương mại chủ yếu của NHTM
trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, 2004.
8. Jean Prerr Mattout, Luật Quốc tế về ngân hàng, Viện tiền tệ, tín dụng và
Ngân hàng Nhà nước An Giang xuất bản, 1991.
9. Frederic Mishkin, Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, NXB. Khoa
học và kỹ thuật, H.1994.
10. Thanh Lộc, áp dụng mô hình AMC để xử lý nợ tồn đọng, Thị trường tài
chính tiền tệ, (13), 2000, tr.8-10.
11. Báo cáo thường niên 2006, Ngân hàng Nhà nước
12. Quản trị NHTM, Peter Rose, NXB. Tài chính, H. 2001
13. Tình hình thực hiện nhiệm vụ ngân hàng năm 2006 và định hướng năm
2007, Tạp chí ngân hàng số 3+4, tháng 2 năm 2007.
14. Môi trường pháp lý cho hoạt động ngân hàng ở nước ta hiện nay, Viên Thế
Giang, cập nhật ngày 16/12/2005
15. Những công việc cần triển khai của ngành ngân hàng khi bắt đầu lộ trình
mở cửa dịch vụ ngân hàng, TTBC1, cập nhật ngày
25/04/2007.
16. Giải pháp để ngân hàng hội nhập, Cổ phần hoá, Phước Hà,
cập nhật ngày 13/10/2006.
17. Nợ tồn đọng ngân hàng, chưa có cách giải quyết hữu hiệu, Quyết Thắng,
18. Nguyên nhân ngân hàng tăng mạnh vốn điều lệ, Quang Long
cập nhật ngày 09/07/2007
19. Xây dựng mô hình tập đoàn tài chính – ngân hàng Việt Nam,
cập nhật ngày 08/09/2006.
Các Website:
20. www.mof.gov.vn
21. www.mot.gov.vn
22. www.moj.gov.vn
23. www.sbv.gov.vn
24. www.vneconomy.com.vn
25. www.vietcombank.com.vn
26. www.vnba.org.vn/
27.
28.
29.
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AMC : Công ty quản lý tài sản
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước
HTXTD : Hợp tác xã tín dụng
NĐ : Nghị định
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
NHTM : Ngân hàng Thương mại
NHTW : Ngân hàng Trung ương
QĐ : Quyết định
TCTD : Tổ chức tín dụng
TTCK : Thị trường chứng khoán
TTTTTD : Trung tâm thông tin tín dụng
UCP : Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ
URC : Quy tắc thống nhất về nhờ thu
WTO : Tổ chức thương mại thế giới
1
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày 07 tháng 11 năm 2006, sau một quá trình dài liên tục cố gắng, Việt
Nam đã chính thức được kết nạp trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức
thương mại thế giới WTO. Sự kiện này đã mở ra con đường hội nhập một cách
toàn diện, tạo cơ hội mở rộng quan hệ hợp tác thương mại quốc tế để phát triển
kinh tế ngày càng mạnh mẽ và bền vững.
Lý do chọn đề tài
Đối với nước ta, trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, hệ thống
ngân hàng được xác định như người mở đường, còn trong thời kỳ hậu gia nhập
WTO, ngân hàng vẫn giữ vai trò chủ đạo là một trong những ngành mũi nhọn
mà nước ta cam kết mở cửa mạnh mẽ, có ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình phát
triển kinh tế của cả đất nước. Thực hiện những cam kết quốc tế về lĩnh vực ngân
hàng, một lĩnh vực vốn đã rất nhạy cảm, nhiều rủi ro, lại nắm trong tay toàn bộ
nguồn vốn của một quốc gia, hệ thống ngân hàng Việt Nam đang đối mặt với
những thách thức vô cùng to lớn. Đến năm 2010, lĩnh vực ngân hàng sẽ mở cửa
hoàn toàn các dịch vụ cho khối ngân hàng nước ngoài, sẽ không còn phân biệt
đối xử giữa ngân hàng trong nước và ngân hàng nước ngoài, vì thế, tất cả các
ngân hàng sẽ phải tìm mọi cách cố gắng, tận dụng mọi cơ hội để đứng vững,
không để thua trên “sân nhà”. Để làm được điều đó, thì một phần không thể
thiếu là cần sự hỗ trợ của Nhà nước, những giải pháp phù hợp của Chính phủ
trên cơ sở cân nhắc và phân tích kỹ hoàn cảnh cũng như các yếu tố khác để giúp
hệ thống ngân hàng hoạt động hiệu quả, tránh được các tác động tiêu cực của
việc hội nhập. Một trong những công việc cấp bách cần làm là hoàn thiện hành
lang pháp lý cho hoạt động ngân hàng, đảm bảo sự an toàn cho toàn hệ thống,
góp phần ổn định nền kinh tế.
Tình hình nghiên cứu
Trải qua nhiều năm thực hiện quá trình đổi mới, nhiều công trình nghiên
cứu khoa học có giá trị về lĩnh vực ngân hàng đã đóng góp không nhỏ vào việc
2
cải cách, xây dựng nền kinh tế ngày càng hiện đại và hoàn thiện hơn. Với phạm
vi và mức độ khác nhau, các công trình nghiên cứu này đã đề cập đến mọi vấn đề
của hệ thống ngân hàng, bao gồm cả khía cạnh pháp lý. Tuy nhiên, trong bối
cảnh Việt Nam đã chính thức hội nhập vào sân chơi toàn cầu, lĩnh vực ngân hàng
nói chung và pháp luật ngân hàng nói riêng cần được tiếp tục triển khai nghiên
cứu.
Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Xuất phát từ nhận thức như vậy, khoá luận này được thực hiện nhằm góp
phần làm rõ hơn nữa những vấn đề lý luận cơ bản về ngân hàng, hoạt động ngân
hàng và đặc biệt là pháp luật điều chỉnh hoạt động ngân hàng trong bối cảnh Việt
Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới. Trên cơ sở đó,
bước đầu khóa luận nêu lên một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật điều
chỉnh hoạt động ngân hàng trong bối cảnh hội nhập.
Phương pháp nghiên cứu
Nhằm thực hiện mục tiêu nghiên cứu nêu trên, khoá luận sử dụng những
phương pháp nghiên cứu phổ biến trong khoa học pháp lý như phương pháp tiếp
cận lịch sử, tổng hợp, phương pháp phân tích, so sánh, thống kê kết hợp giải
thích và hệ thống hoá một cách khoa học.
Kết cấu
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của khoá luận được chia thành 3
chương với tiêu đề như sau:
Chương I: Những vấn đề lý luận về hoạt động ngân hàng và pháp luật
điều chỉnh hoạt động ngân hàng.
Chương II: Thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động ngân hàng ở Việt
Nam.
Chương III: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh
hoạt động ngân hàng ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập.
3
Do trình độ nghiên cứu có hạn, cùng với sự hạn hẹp về thời gian nghiên
cứu và sự thiếu thốn tài liệu, khoá luận này chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết,
cần được sự góp ý, bổ túc nhiều hơn nữa của quý thầy cô giáo, bạn bè và những
người quan tâm đến vấn đề này.
Em xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến cô Đặng Thị Nhàn, các
thầy cô trong trường Đại học Ngoại thương cùng gia đình và bạn bè đã đóng góp
nhiều ý kiến quý báu, tạo mọi điều kiện giúp đỡ để em có thể hoàn thành khoá
luận này đúng hạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2007
Sinh viên
Nguyễn Thị An Ly
4
CHƢƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG
VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG
1. Khái quát chung về sự hình thành ngân hàng
Thuật ngữ “ngân hàng” đã được nhắc đến từ rất lâu, để chỉ một tổ chức
kinh doanh tiền tệ chuyên nghiệp trong nền kinh tế. Từ 3000 năm trước công
nguyên, thậm chí người ta đã tìm thấy những dấu vết đầu tiên của hoạt động
ngân hàng thông qua việc nhận gửi đồ đạc, tiền của và cho vay tiền của các vị
linh mục, bởi nhà thờ là nơi tôn nghiêm, được dân chúng tin tưởng để ký gửi tài
sản, tiền bạc.
Thật vậy, ngân hàng bắt nguồn từ một công việc rất đơn giản là giữ các đồ
vật quý cho những người chủ sở hữu nó, tránh gây mất mát. Đổi lại, những
người chủ sở hữu phải trả cho người giữ đồ một khoản tiền công. Khi công việc
này mang lại nhiều lợi ích, thì các đồ vật cần gửi ngày càng đa dạng hơn, và đại
diện cho các vật có giá trị như vậy là tiền. Dần dần, ngân hàng trở thành nơi giữ
tiền cho những người có tiền. Khi xã hội phát triển, thương mại phát triển, nhu
cầu về tiền ngày càng lớn, tức là phát sinh nhu cầu vay tiền, những người giữ
tiền khi nắm trong tay một lượng tiền nhất định mà không phải bao giờ cũng
phải trả trong cùng một thời gian, nảy ra ý định cho vay số tiền đó, vậy là có độ
chênh lệch giữa lượng tiền cần gửi và lượng tiền cần rút của người chủ sở hữu.
Ngân hàng lại trở thành nơi cung cấp tiền cho những người cần tiền. Từ đó phát
sinh nghiệp vụ đầu tiên của ngân hàng, đó là huy động vốn và cho vay vốn.
Như vậy, khi thương mại quốc tế phát triển với các hoạt động khác nhau,
nhu cầu đổi tiền xuất hiện và nghề kinh doanh tiền tệ ra đời. Những nghiệp vụ
đầu tiên của tổ chức kinh doanh tiền tệ bao gồm: đổi tiền, nhận tiền và bảo quản
tiền, cho vay và chuyển tiền. Nghiệp vụ cho vay thời kỳ đầu là cho vay nặng lãi.
5
Thời kỳ Phục hưng, các tổ chức kinh doanh tiền tệ phát triển nhanh và mở
rộng thêm nhiều nghiệp vụ mới như: chi trả bằng thương phiếu, tổ chức thanh
toán bù trừ, thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh… Thời kỳ này đánh dấu sự xuất
hiện của các tổ chức kinh doanh tiền tệ được xem là tiền thân của ngân hàng.
Thế kỷ 17 được biết đến như là sự khởi đầu của kỷ nguyên ngân hàng hiện
đại, với sự ra đời của tổ chức kinh doanh tiền tệ lớn, thực hiện nhiều nghiệp vụ
kinh doanh tiền tệ và đặc biệt đã phát hành loại tín phiếu chứng nhận về tiền gửi
và được dùng vào việc giao dịch (chi trả) gần giống như các giấy bạc ngân hàng
ngày nay. Đó là các tổ chức được coi là những ngân hàng đầu tiên, bao gồm:
Ngân hàng Amsterdam (Hà Lan) thành lập năm 1609; Ngân hàng Hamburg
(Đức) 1619; Ngân hàng Anh quốc (Bank of England) 1694.
Đầu thế kỷ 18, lưu thông hàng hoá được mở rộng cả về quy mô và phạm vi.
Việc nhiều ngân hàng cùng phát hành tiền, một mặt gây cản trở quá trình phát
triển, khiến cho việc quản lý gặp nhiều khó khăn, xuất hiện nạn lừa đảo. Mặt
khác, do nguồn lợi phát hành lớn nên Nhà nước can thiệp nhằm hạn chế số lượng
ngân hàng được phép phát hành tiền. Những ngân hàng này gọi là Ngân hàng
phát hành, còn những ngân hàng không được phép phát hành tiền - được gọi là
Ngân hàng trung gian.
Đến cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, ở các nước Châu Âu, các Nhà nước đã
ban hành các đạo luật chỉ cho phép một ngân hàng duy nhất được phép phát
hành tiền, còn lại các ngân hàng khác chuyển thành Ngân hàng Thương mại.
Các ngân hàng đến giai đoạn này vẫn là các Ngân hàng tư nhân và Ngân
hàng cổ phần (kể cả Ngân hàng Phát hành). Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 –
1933 đã buộc Nhà nước các nước Tư bản phải can thiệp sâu vào nền kinh tế
thông qua phương tiện cơ bản của nền kinh tế thị trường - đó là tiền tệ, bằng
cách nắm lấy Ngân hàng Phát hành, quốc hữu hoá Ngân hàng phát hành và giành
lấy quyền bổ nhiệm cơ quan quản lý ngân hàng này.
Thời kỳ này khái niệm Ngân hàng Trung ương (NHTW) đã ra đời thay thế
6
cho khái niệm Ngân hàng phát hành. Đó không chỉ là sự thay đổi đơn giản về tên
gọi mà còn thay đổi cả về chức năng hoạt động của ngân hàng. NHTW không
chỉ phát hành giấy bạc lưu thông, mà còn là cơ quan thực hiện chức năng quản lý
Nhà nước về tiền tệ và ngân hàng thực hiện chính sách tiền tệ.
Điểm lại những dấu mốc quan trọng của lịch sử, có thể thấy sự ra đời và
phát triển của ngân hàng được đặt trong những điều kiện lịch sử, kinh tế – xã hội
nhất định, trong sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá, lưu thông hàng hoá và
đặc biệt trong cơ sở phát triển của tiền tệ. Tóm lại, “bản thân sự phát triển của
nghề kinh doanh tiền tệ cũng tạo tiền đề và đòi hỏi phải xuất hiện ngân hàng, tức
đòi hỏi phải có một hình thức tổ chức và bộ máy thích hợp, đảm nhiệm lĩnh vực
lưu thông tiền tệ.”
(
1
)
Như vậy, trong dòng phát triển của tiền tệ, sự ra đời, tồn tại và phát triển
của ngân hàng là một tất yếu khách quan. Chính sự tập trung hoá nền sản xuất và
phân công lao động xã hội đạt đến một trình độ cao đã làm xuất hiện ngân hàng,
và ngân hàng, đến lượt mình lại đóng vai trò thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển
nhanh hơn.
2. Cấu trúc hệ thống ngân hàng
Trên thế giới, hệ thống ngân hàng ở các quốc gia ngày nay được tạo lập là
sản phẩm của một quá trình phát triển lâu dài của lịch sử. Cho đến nay, mô hình
ngân hàng phổ biến ở các nước kinh tế thị trường là hệ thống ngân hàng hai cấp.
Trong hệ thống ngân hàng hai cấp, Ngân hàng Trung ương vừa làm chức
năng phát hành tiền, vừa làm chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ và giám sát
an toàn của hệ thống ngân hàng. Còn các Ngân hàng trung gian (với tư cách là
những tổ chức tài chính trung gian) có chức năng thực hiện kinh doanh tiền tệ và
cung cấp các dịch vụ ngân hàng. Trong số các loại hình ngân hàng trung gian,
Ngân hàng thương mại chiếm số lượng áp đảo và giữ vai trò quan trọng hơn cả.
1
TS. Nguyễn Quốc Việt, Ngân hàng với quá trình phát triển kinh tế – xã hội ở
Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1995, tr16.
7
Đây cũng là những chủ thể chính tham gia vào hoạt động ngân hàng.
2.1. Ngân hàng Trung ương
a) Khái niệm
Ngân hàng Trung ương (NHTW), theo Bernard và Colli định nghĩa trong từ
điển thuật ngữ kinh tế – tài chính là ngân hàng có chức năng phát hành tiền và
điều tiết trực tiếp hoặc gián tiếp số lượng và giá cả tín dụng trong khuôn khổ
quốc gia.
NHTW ra đời trên cơ sở nhu cầu Nhà nước cần phải nắm lấy một phương
tiện quan trọng để can thiệp vào kinh tế, đó là tiền tệ. Sự ra đời của nó là hệ quả
của quá trình chuyển hoá từ NHTM thành Ngân hàng Phát hành, từ Ngân hàng
Phát hành thành NHTW gắn liền với sự can thiệp của Nhà nước trên lĩnh vực
tiền tệ, tín dụng, ngân hàng. Trong hệ thống ngân hàng hai cấp, nó ở vị trí cấp
một, làm nhiêm vụ quản lý, phân biệt với chức năng kinh doanh của các NHTM.
Dù tên gọi ở mỗi quốc gia không giống nhau (chẳng hạn như Ngân hàng dự
trữ, Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Quốc gia, Viện phát hành, Cục dự trữ Liên
bang…) nhưng chúng đều có chung những chức năng và vai trò cơ bản của
NHTW.
b) Chức năng của NHTW trong nền kinh tế
Thứ nhất, NHTW là cơ quan phát hành giấy bạc ngân hàng và điều tiết lưu
thông tiền tệ: Khi NHTW ra đời và hoạt động thì toàn bộ việc phát hành tiền
được tập trung vào NHTW theo chế độ Nhà nước độc quyền phát hành tiền.
NHTW trở thành trung tâm phát hành tiền của một đất nước. Tiền do NHTW
phát hành có nội dung tiền tín dụng. Nó thay thế cho tất cả các loại tiền tín dụng
Ngân hàng tư nhân trước đó. Tất cả các loại tiền do NHTW phát hành là những
phương tiện thanh toán duy nhất thay thế cho tiền thật “tiền vàng, bạc” làm chức
năng phương tiện thanh toán và phương tiện lưu thông. Do vậy, việc NHTW
phát hành tiền tác động trực tiếp đến tình hình lưu thông tiền tệ, làm cho quan hệ
tiền hàng thay đổi, tác động đến giá cả. Mối quan hệ đó đòi hỏi việc phát hành
tiền phải tuân theo những nguyên tắc nghiêm ngặt, đồng thời phải thực hiện theo
8
một cơ chế phù hợp.
Thứ hai, NHTW là ngân hàng của các ngân hàng.
Chức năng này có thể được hình dung như là việc quản lý tài khoản và dự
trữ tiền tệ trên tài khoản tiền gửi của các ngân hàng và cho các ngân hàng trung
gian vay tiền khi cần thiết. Trong hoạt động kinh doanh của mình, các ngân hàng
trung gian phải mở tài khoản tiền gửi tại NHTW và tiền gửi vào tài khoản đó
theo quy định của pháp luật. Thông thường có hai loại tiền gửi khác nhau:
- Tiền gửi thanh toán. Tất cả các ngân hàng kinh doanh (bao gồm cả các tổ
chức tài chính kinh doanh tiền tệ) khi được phép hoạt động đều phải mở tài
khoản loại này tại NHTW và gửi tiền vào tài khoản đó theo quy định. Trong quá
trình hoạt động kinh doanh, các ngân hàng này phải duy trì trên tài khoản đó một
mức dự trữ tiền tệ theo quy định để đảm bảo thoả mãn nhu cầu chi trả.
- Tiền gửi dự trữ bắt buộc. Loại này áp dụng đối với các tổ chức tài chính
có huy động tiền gửi để kinh doanh. Mức dự trữ bắt buộc được tính theo tỷ lệ
trên từng loại tiền gửi đã huy động thể hiện trên số dư, tỷ lệ này do NHTW quy
định theo từng thời kỳ.
- Cấp tín dụng cho các ngân hàng. Mục đích cấp tín dụng của NHTW là
nhằm cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế theo nhịp điệu đã tăng trưởng của từng
thời kỳ, đồng thời sử dụng tín dụng và lãi suất, để điều tiết khối lượng tiền cung
ứng theo mục tiêu của chính sách tiền tệ.
- NHTW là trung tâm thanh toán của các ngân hàng: Gắn với nghiệp vụ
phát hành tiền, nghiệp vụ tiền gửi và cho vay đối với các ngân hàng, NHTW là
đầu mối thanh toán liên ngân hàng, giúp cho các ngân hàng thực hiện thống nhất
quan hệ thanh toán. NHTW có một mạng lưới thanh toán trong toàn quốc. Ngày
nay, với sự trợ giúp của kỹ thuật tin học điện tử làm cho việc thanh toán qua
ngân hàng trở nên an toàn, nhanh chóng.
Thứ ba, NHTW là định chế tài chính công quyền.
Hiện nay, trên thế giới tồn tại hai mô hình NHTW, bao gồm mô hình
NHTW thuộc sở hữu Nhà nước và mô hình NHTW được thành lập dưới dạng
9
Công ty cổ phần.
Mô hình NHTW thuộc sở hữu Nhà nước là loại mô hình phổ biến được áp
dụng ở nhiều nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp, Việt Nam, Trung Quốc…
Đối với mô hình NHTW loại này thì Nhà nước là chủ sở hữu, là người cung cấp
vốn để NHTW hoạt động và hoạt động của nó do Nhà nước quyết định.
Mô hình NHTW được thành lập theo hình thức Công ty cổ phần được áp
dụng ở một số nước như Hoa Kỳ (Hệ thống dự trữ liên bang), Hungari (Ngân
hàng quốc gia Hungari)… Đối với mô hình NHTW loại này, hình thức pháp lý
của nó được định rõ trong luật. Chẳng hạn, Điều 54 đạo luật Liên Xô năm 1991
về Ngân hàng Quốc gia Hungari (NBH) quy định: NBH là một tổ chức pháp
nhân hoạt động dưới dạng một công ty cổ phần.
Mặc dù hình thức sở hữu của các loại mô hình NHTW có khác nhau nhưng
luật NHTW của các nước đều xác định tư cách pháp lý của nó là một định chế
công quyền. Tính chất công quyền này thể hiện trong các quy định về quan hệ
của nó đối với các cơ quan lập pháp, hành pháp, nhiệm vụ quyền hạn quản lý
Nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng. Ngoài ra, NHTW còn đóng vai trò quan
trọng trong việc thay mặt cho Nhà nước trong quan hệ với nước ngoài trên lĩnh
vực tiền tệ, tín dụng và ngân hàng để ký kết các hiệp định hay đại diện cho Nhà
nước tại các tổ chức tài chính quốc tế.
2.2. NHTM và các định chế tài chính phi ngân hàng
a) Khái niệm Ngân hàng Thương mại
Ngân hàng theo từ điển thuật ngữ kinh tế – tài chính của Bernard và Colli,
được định nghĩa là: “doanh nghiệp hành nghề bằng cách nhận từ công chúng,
dưới hình thức tiền gửi hoặc hình thức khác, các khoản vốn mà ngân hàng sử
dụng cho bản thân mình bằng các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hoặc tài chính.”
Định nghĩa pháp lý này được Đạo luật số 2-532 về quy định và tổ chức nghiệp
vụ ngân hàng (Loi n
0
2-532 relative à la réglementation et à l’organisation de la
profession bancaire) ngày 13/6/1941 của Pháp sử dụng, hay ở chỗ đã nhấn mạnh
10
được sự liên kết giữa hai dạng nghiệp vụ là quản lý tiền gửi và cấp tín dụng.
Điều này giúp phân biệt được ngân hàng với các tổ chức khác, đặc biệt là tổ
chức tài chính.
Cũng theo định nghĩa này, bằng cách nhấn mạnh vào các nghiệp vụ, ngân
hàng trước tiên được hiểu là các Ngân hàng Thương mại (NHTM).
Các nhà kinh tế và các luật gia đều thống nhất với nhau trên những nét tổng
quát nhất về NHTM và cho rằng NHTM là một trung gian tài chính có giấy phép
kinh doanh của Chính phủ trong việc tiến hành các nghiệp vụ thu nhận tiền gửi
từ công chúng, cho vay và thanh toán.
Một cách khái quát, có thể hình dung NHTM có các chức năng cơ bản sau:
Chức năng trung gian tài chính của NHTM xuất phát từ “cung – cầu” vốn
trong xã hội. “Cung” về vốn hình thành từ nhu cầu tạo thu nhập của những người
có vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi, muốn chuyển giao vốn cho người khác sử dụng
dưới nhiều hình thức khác nhau như đầu tư thông qua việc mua cổ phiếu, trái
phiếu, cho các tổ chức tín dụng vay vốn… để hưởng lợi tức. Song song với nó,
“cầu” về vốn luôn tồn tại cho kinh doanh của các doanh nghiệp, nhà kinh doanh
và tiêu dùng của một bộ phận dân cư. Những người có “cung” và “cầu” về vốn
trên thực tế lại không phải lúc nào cũng dễ dàng gặp nhau để thoả mãn nhu cầu
của mình. Vì vậy, họ tìm đến người trung gian là các ngân hàng.
Là trung gian tài chính, ngân hàng, vừa đóng vai trò người đi vay và vừa
đóng vai trò người cho vay. Đây là hành vi mà ngân hàng thực hiện cho chính
mình. Tức là, các ngân hàng thu nhận tiền từ những người gửi tiền và được sử
dụng vốn của họ để cho vay (hay sử dụng vào việc khác), trong thời gian do hai
bên thoả thuận. Ngân hàng cho ai vay và sẽ cho vay như thế nào là do họ tự
quyết định, lỗ lãi sau đó tự chịu vì ngân hàng tự kinh doanh nhưng vẫn phải đảm
bảo trả cả vốn và lãi cho những người gửi tiền đúng hạn.
Vai trò trung gian còn được mở rộng ra khi ngân hàng đứng làm môi giới
trên thị trường chứng khoán. Bằng cách chuyển giao các mệnh lệnh trên thị
trường chứng khoán, đảm nhận việc mua, bán chứng khoán cho khách hàng,
11
ngân hàng đứng ra làm trung gian cho các công ty (khi phát hành cổ phiếu) với
những người đầu tư. Trong trường hợp này, các ngân hàng không hoạt động cho
bản thân mình, họ chỉ là người “môi giới” giữa hai bên có vốn và cần vốn gặp
nhau và thiết lập quan hệ pháp lý trực tiếp với nhau.
Từ việc nghiên cứu vai trò trung gian tài chính của các NHTM, có thể kết
luận rằng với chức năng trung gian tài chính, các NHTM đóng vai trò quan trọng
trong tích tụ và tập trung vốn, tạo hiệu quả sử dụng vốn cho nền kinh tế quốc
dân. Điều đó đặt ra yêu cầu là Nhà nước cần phải có thái độ đúng đắn và cơ chế
điều chỉnh pháp luật thích hợp để phát vai trò tín dụng của các NHTM trong sự
nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở nước ta.
Chức năng thanh toán của các NHTM vừa có tính độc lập tương đối vừa có
mối quan hệ tác động qua lại với chức năng trung gian tài chính.
Đây là một trong những chức năng đặc thù của NHTM so với các tổ chức
tín dụng nói chung, liên quan đến khả năng tạo tiền của NHTM, đây là điều mà
các nhà kinh tế gọi là đồng tiền ghi sổ hay là tín dụng tạo ra tiền gửi. Bởi lẽ, quá
trình tạo tiền của NHTM được thực hiện thông qua hoạt động tín dụng, tổ chức
việc trung gian thanh toán và quản lý phương tiện thanh toán.
Bằng cách sử dụng đồng tiền ghi sổ, thẻ ngân hàng, chuyển khoản, cung
cấp các dịch vụ: giữ tài khoản, ngân quỹ, xử lý séc, chuyển nhượng thương
phiếu, nhận gửi tiền và séc từ khách hàng, ngân hàng có thể sử dụng tiền của họ
không phải trả lãi hoặc trả lãi thấp. Trong khi thực hiện chức năng trung gian
thanh toán và cho vay, ngân hàng có khả năng tạo ra một chu trình tạo tiền gửi
và phát sinh bội số tín dụng rất phức tạp. Điều này sẽ góp phần giải thích tại sao
một trong những biện pháp để thực hiện chính sách tiền tệ là kiểm soát tín dụng
và các ngân hàng có ảnh hưởng mạnh mẽ tới việc thực hiện chính sách tiền tệ.
Về phương diện luật học, sự nhìn nhận chức năng thanh toán của NHTM và
mối liên hệ của nó với chức năng trung gian tài chính cho phép lý giải hiện
tượng phổ biến ở các nước là: cùng với sự điều chỉnh các quan hệ trung gian tài
chính, pháp luật ở các nước đều có những quy phạm pháp luật điều chỉnh các
12
quan hệ thanh toán qua ngân hàng. Chẳng hạn ở Anh có luật về kỳ phiếu năm
1882, luật về séc năm 1975…
Thực hiện chuyển hoá các phương tiện tiền tệ là chức năng quan trọng của
các NHTM: trong nền kinh tế, các doanh nghiệp đều có vai trò chuyển hoá
những yếu tố sản xuất “đầu vào”: nguyên liệu, vật liệu… để chuyển thành sản
phẩm tiêu thụ. Ngân hàng cũng có vai trò chuyển hoá “đầu vào” tương tự như
các doanh nghiệp khác, nhưng nét đặc thù của “nguyên liệu” của các ngân hàng
là tiền tệ. Khách hàng vừa là người cung cấp “nguyên liệu”, vừa là người sử
dụng “sản phẩm” dịch vụ một cách thường xuyên liên tục. Họ vừa là người gửi
tiền vừa là người vay tiền, có mặt ở cả hai bên của bảng cân đối tài sản của ngân
hàng.
Trên đây là các chức năng chính của NHTM, các chức năng này thể hiện
bản chất của chúng.
Nhìn nhận đúng bản chất của Ngân hàng Thương mại có ý nghĩa quan
trọng trong việc xây dựng cơ chế điều chỉnh bằng pháp luật một cách đúng đắn
đối với hoạt động của chúng.
b) Khái niệm các định chế tài chính phi ngân hàng
Sự phát triển của kinh tế thị trường đã làm xuất hiện ngày càng nhiều
phương thức kinh doanh tiền tệ với những hình thức tổ chức đa dạng mà khái
niệm “ngân hàng” không thể bao hàm được hết và thường được gọi chung là các
định chế tài chính phi ngân hàng. Diễn đạt một cách tổng quát thì các định chế
tài chính phi ngân hàng là các tổ chức trung gian tài chính, thực hiện việc thu
nhận các nguồn vốn trong xã hội mà chúng huy động được để đầu tư thông qua
việc cấp tín dụng, các trái khoán hay các hoạt động tài chính khác. Điều khác
nhau cơ bản giữa các định chế tài chính phi ngân hàng so với NHTM là các định
chế tài chính này không được nhận tiền gửi không kỳ hạn, vì vậy, không được
thực hiện nghiệp vụ thanh toán (không cấp séc cho khách hàng để chi trả).
Các định chế tài chính phi ngân hàng tồn tại ở các nước rất đa dạng, với
13
nhiều tên gọi khác nhau. Chúng có thể là: Hội tài chính, Công ty tài chính, Công
ty thuê mua tài chính, Tổ chức tài chính, Công ty bảo hiểm… được thực hiện
một hoặc một số nghiệp vụ ngân hàng theo quy định của pháp luật từng nước.
Các định chế tài chính phi ngân hàng có thể được khái quát bao gồm một số loại
hình sau:
- Các hội tài chính.
Loại thứ nhất thường do các NHTM lớn lập ra để thực hiện một nghiệp vụ
riêng biệt, chẳng hạn như chuyên cấp bảo lãnh, cho vay bất động sản, thuê mua
tài chính
Loại thứ hai, thường do các nhóm tập đoàn công nghiệp lớn lập ra dưới
hình thức công ty tài chính để thực hiện một việc riêng biệt nhằm cung ứng
nguồn tài trợ cho sản xuất hoặc tiêu thụ sản phẩm của tập đoàn công nghiệp đó.
- Các tổ chức tài chính chuyên môn.
Đây là những tổ chức công, bán công hoặc cổ phần hoạt động trong nhiều
lĩnh vực chuyên trách mà thông thường là những lĩnh vực thường xuyên phục vụ
cho lợi ích công cộng để thực hiện nhiệm vụ tài trợ trung, dài hạn.
- Các tổ chức tài chính phi ngân hàng khác.
Loại hình này không được xếp chung với ngân hàng, cũng không xếp
chung với các tổ chức tài chính trên đây, nhưng có tầm quan trọng và vị trí đặc
biệt, có quy chế pháp lý riêng biệt, đó là các tổ chức bảo hiểm, các quỹ tiết kiệm
quốc gia, Kho bạc Nhà nước
Nhìn chung, các định chế tài chính phi ngân hàng được hình thành hết sức
đa dạng và phong phú ở các nước, được pháp luật các nước cho phép hoạt động
thông qua việc thực hiện một hoặc một số thao tác nghiệp vụ ngân hàng. Song về
mặt lý thuyết, các tổ chức này có một số điểm khác biệt cơ bản so với các
NHTM như sau:
Thứ nhất, các định chế tài chính phi ngân hàng chỉ làm trung gian tài
chính, không được huy động tiền gửi của công chúng. Các NHTM có thể thực
hiện các nghiệp vụ tổng hợp, đa năng, còn các định chế tài chính phi ngân hàng
14
thì chỉ thực hiện chuyên về một số lĩch vực.
Thứ hai, phần lớn các nước đều không cho phép các định chế tài chính phi
ngân hàng phát hành và quản lý các phương tiện thanh toán.
Như vậy, trong khi các NHTM được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân
hàng và các hoạt động kinh doanh có liên quan thì các định chế tài chính phi
ngân hàng chỉ thực hiện một số hoạt động ngân hàng. Vì thế, so với các NHTM,
quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các định chế tài chính phi ngân hàng sẽ bị
hạn chế đáng kể. Việc phân định NHTM với các định chế tài chính phi ngân
hàng thông qua việc xác định những nội dung và phạm vi hoạt động của chúng là
cơ sở để xây dựng một hành lang pháp lý thích hợp và bảo đảm an toàn đối với
hệ thống các tổ chức tín dụng. Đây cũng là một trong những cơ sở và đặc điểm
quan trọng của việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật ngân hàng xuất phát từ các
nội dung cơ bản của hoạt động ngân hàng.
c) Vai trò của NHTM đối với nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập
Hệ thống NHTM có tầm quan trọng đặc biệt trong nền kinh tế.
Thứ nhất, thúc đẩy nền kinh tế hàng hóa phát triển. Với tư cách là một
trung gian tín dụng, bằng việc tạo ra nguồn vốn hỗ trợ cho quá trình sản xuất,
kinh doanh và đầu tư, NHTM thực hiện chức năng thúc đẩy lưu thông hàng hóa
và phát triển sản xuất, đáp ứng cho nhu cầu vốn của nền kinh tế, góp phần thúc
đẩy nền kinh tế hàng hóa phát triển.
Thứ hai, đóng vai trò trung gian thanh toán các nguồn vốn cho nền kinh tế.
Như đã nói ở trên, đây là một trong những chức năng cơ bản của NHTM tạo ra
sự vận động của vốn trong nền kinh tế. Khi đóng vai trò là trung gian thanh toán,
ngân hàng đồng thời còn là thủ quỹ của các nhà doanh nghiệp và của mọi khách
hàng. Do vậy, ngân hàng góp phần tác động đến việc tăng cường chế độ hạch
toán kinh tế của các doanh nghiệp, giám sát kỷ luật tài chính doanh nghiệp, tạo
điều kiện nâng cao lợi nhuận doanh nghiệp. Đóng vai trò là trung gian thanh toán
vốn cho nền kinh tế, ngân hàng tạo điều kiện cho việc giao lưu hàng hóa dịch vụ
15
trở nên thuận lợi, tiết kiệm và an toàn. Do vậy, ngân hàng còn tiếp tục thúc đẩy
lưu thông hàng hóa và dịch vụ, thúc đẩy tập trung vốn và tập trung sản xuất.
Thứ ba, cung cấp các dịch vụ tài chính và các dịch vụ ngân hàng. Cùng với
sự phát triển của nền kinh tế thị trường, ở mỗi nước khác nhau, ngân hàng còn
đảm nhận các dịch vụ khác nhau cho các đối tượng khách hàng khác nhau, từ
việc làm các dịch vụ ngân quỹ, dịch vụ tư vấn tài chính tiền tệ hay là việc cho
thuê két sắt theo nhu cầu của khách hàng.
Thứ tư, NHTM góp phần thực thi chính sách tiền tệ của Nhà nước. NHTM
đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách tiền tệ, góp phần ổn định
giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thực hiện
các mục tiêu xã hội. Hoạt động của NHTM tạo ra một kênh dẫn vốn để cung ứng
tiền cho nền kinh tế, hoặc rút bớt tiền khỏi lưu thông thông qua các hoạt động tín
dụng, thanh toán, đầu tư… để thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Các
NHTM Việt Nam đóng vai trò là cầu nối trong việc chuyển tiếp các tác động của
chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đến khu vực phi ngân
hàng và cả nền kinh tế.
Thứ năm, NHTM phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại. Thực hiện chính
sách mở cửa, NHTM góp phần thu hút vốn, mở rộng đầu tư trong và ngoài nước,
tài trợ ngoại thương, góp phần đắc lực trong việc hội nhập kinh tế khu vực và
quốc tế, góp phần thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ sáu, NHTM góp phần hình thành và phát triển thị trường chứng khoán.
Vai trò đó thể hiện rõ nét thông qua việc NHTM tham gia vào cả thị trường
chứng khoán sơ cấp lẫn thị trường chứng khoán thứ cấp. Trên thị trường chứng
khoán sơ cấp, NHTM có thể phát hành trái phiếu hoặc cổ phiếu (đối với NHTM
cổ phần), đóng vai trò là nhà tư vấn phát hành, đại lý, bảo lãnh phát hành (bao
tiêu). Trên thị trường chứng khoán thứ cấp, NHTM có thể trực tiếp tiến hành các
hoạt động kinh doanh chứng khoán, tư vấn đầu tư, môi giới, thanh toán bù trừ,
lưu ký…, hoặc có thể thành lập công ty chứng khoán trực thuộc để thực hiện các
loại hình kinh doanh chứng khoán như: môi giới chứng khoán, tự doanh chứng
16
khoán, quản lý danh mục đầu tư, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư
chứng khoán… theo quy định của pháp luật. Thực tế đã cho thấy, giữa NHTM
và thị trường chứng khoán có mối quan hệ chặt chẽ lẫn nhau. Nếu thị trường
chứng khoán ra đời từ chế độ tín dụng, từ thị trường tiền tệ và phát triển trên nền
của thị trường tín dụng ngân hàng, thì khi đã hình thành, nó quay lại hỗ trợ tín
dụng làm cho giữa NHTM và thị trường chứng khoán có một mục tiêu chung:
làm cầu nối cho cung và cầu vốn gặp nhau. Đồng thời, sự phát triển của thị
trường chứng khoán cũng sẽ tạo điều kiện và khả năng cho các NHTM tham gia
các nghiệp vụ của thị trường tiền tệ, thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển hơn.
3. Các hoạt động ngân hàng
Theo định nghĩa tại Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 1997,
hoạt động ngân hàng là “hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với
nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và
cung ứng các dịch vụ thanh toán”. Với cách hiểu như vậy, có thể phân biệt các
hoạt động ngân hàng với các hoạt động khác thông qua những khía cạnh sau đây:
- Các thao tác giao dịch ngân hàng (còn gọi là các nghiệp vụ ngân hàng).
- Các thao tác giao dịch phi ngân hàng, nhưng có liên quan đến hoạt động
ngân hàng.
- Các tổ chức được làm các thao tác giao dịch đó khi được phép của cơ
quan có thẩm quyền.
Trước khi tìm hiểu các quy định của pháp luật về hoạt động ngân hàng,
thiết nghĩ cần hiểu và phân biệt rõ các hoạt động có tính chất là hoạt động ngân
hàng của NHTW và hoạt động ngân hàng của NHTM.
3.1. Các hoạt động ngân hàng của NHTW
Kinh tế thị trường về thực chất là một nền kinh tế tiền tệ. Ở đó, bên cạnh
những chính sách khác như tài khoá, phân phối thu nhập, kinh tế đối ngoại… thì
chính sách tiền tệ là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng
17
và đắc lực nhất của Nhà nước. Trên hết, đó là hoạt động cơ bản, chủ yếu nhất, là
linh hồn xuyên suốt mọi hoạt động của ngân hàng đóng vai trò trung tâm đầu
não trong hệ thống ngân hàng của một quốc gia, đó là NHTW. Vì thế, tìm hiểu
hoạt động của NHTW chính là tìm hiểu nội dung những công cụ của chính sách
tiền tệ bao gồm: nghiệp vụ thị trường mở, chính sách chiết khấu, dự trữ bắt buộc,
hạn mức tín dụng và quản lý lãi suất.
Nghiệp vụ thị trƣờng mở
Là việc NHTW mua và bán các chứng khoán có giá, mà chủ yếu là tín
phiếu kho bạc Nhà nước, nhằm làm thay đổi lượng tiền cung ứng. Bằng công cụ
thị trường mở, NHTW có thể thu hẹp tín dụng, giảm khổi tiền tệ lưu thông theo
ý muốn để ngăn chặn lạm phát thông qua việc bán các tín phiếu ngắn hạn.
Ngược lại, khi cần NHTW có thể mua vào các loại chứng khoán ngắn hạn nhằm
kích thích khối tiền tệ, mở rộng tín dụng, thức đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế.
Qua đó, kiểm soát được hoàn toàn lượng nghiệp vụ thị trường tự do, góp phần ổn
định nền kinh tế.
Sử dụng công cụ Dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các TCTD phải giữ lại, mà không được dùng
để cho vay hoặc đầu tư, được gửi ở NHTW mà không được hưởng lãi. Mức dự
trữ này do NHTW quy định và bằng một tỷ lệ nhất định so với tổng số tiền gửi
của khách hàng tại các TCTD.
NHTW sử dụng dự trữ bắt buộc để tác động đến lượng tiền cung ứng trên
hai phương diện:
Thứ nhất, tác động đến cơ chế tạo tiền gửi của các NHTM. Theo thuyết tạo
tiền, từ một lượng tiền dự trữ ban đầu, hệ thống NHTM có thể tạo ra một lượng
tiền gửi lớn gấp nhiều lần. Do vậy, nếu NHTW quyết định tăng hoặc giảm tỷ lệ
dự trữ bắt buộc sẽ làm cho hệ số tạo tiền thu hẹp hoặc tăng lên.
Thứ hai, tác động đến lãi suất cho vay của NHTM. Vì các NHTM đều phải
mở tài khoản và gửi tiền dự trữ bắt buộc ở NHTW mà không được hưởng lãi,
trong khi vẫn phải trả lợi tức cho các khoản tiền gửi ở ngân hàng mình, nên khi