Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển việt nam sau khi gia nhập WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 96 trang )


TRNG I HC NGOI THNG H NI
KHOA KINH T V KINH DOANH QUC T









KHO LUN TT NGHIP
TấN TI:

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh bảo hiểm
hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng
đ-ờng biển khi Việt Nam gia nhập WTO


H v tờn sinh viờn : Ngụy Thị Hiền L-ơng
Lp : Anh 4
Khoỏ : K42 A
Giỏo viờn hng dn : THS. Phạm Thanh Hà










H ni, thỏng 11/2007

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A –
KT&KDQT
1
LỜI NÓI ĐẦU

Những năm qua, đặc biệt từ khi Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa,
dịch vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển đã và
đang phát triển nhanh chóng, thị trường bảo hiểm hàng hải Việt Nam đang dần
mở rộng theo nhịp độ chung của xu hướng thương mại hoá khu vực và toàn cầu.
Đất nước mở cửa hội nhập với khu vực và thế giới cùng nền kinh tế phát triển,
xuất nhập khẩu tăng đã tạo điều kiện cho hàng loạt những công ty bảo hiểm quốc
tế có mặt tại thị trường Việt Nam cạnh tranh với nhau và với ngành Bảo hiểm
phi nhân Việt Nam còn nhỏ yếu.
Dịch vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường
biển có ảnh hưởng rất lớn đến thương mại quốc tế và nền kinh tế Việt Nam hiện
nay. Trong quá trình hội nhập kinh tế, Việt Nam phải tuân thủ những ràng buộc
nhất định về lĩnh vực dịch vụ nói chung và dịch vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu chuyên chở bằng đường biển nói riêng của các tổ chức kinh tế khu vực và
thế giới. Trong tình hình ngành Bảo hiểm Việt Nam tham gia một cách sâu rộng
vào các hoạt động thương mại quốc tế thì việc nghiên cứu các giải pháp phù hợp
và hiệu quả nhất được đề cập trong khoá luận “Giải pháp nâng cao năng lực
cạnh tranh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển
khi Việt Nam gia nhập WTO” nhằm tăng năng lực cạnh tranh của ngành là hết

sức cần thiết.
Là một đề tài mang tính nghiên cứu với đối tượng là dịch vụ bảo hiểm
hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam, khoá luận giới
hạn phạm vi nghiên cứu theo như phân loại của Tổ chức Thương mại Thế giới
WTO cho loại hình dịch vụ này. Phương pháp nghiên cứu là phương pháp duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp với việc sử dụng một số các phương
pháp khác như phương pháp tổng hợp, thống kê, phương pháp so sánh, logic,
phương pháp thực chứng và dự báo
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A –
KT&KDQT
2
Khoá luận được nghiên cứu dựa trên những học thuyết kinh tế học hiện
đại về thương mại và chính sách thương mại quốc tế, dựa trên những quan điểm
về đổi mới kinh tế và cải cách chính sách kinh tế đất nước của Đảng và Nhà
nước Việt Nam. Khóa luận được xây dựng trên kết cấu sau:
 Chương 1: Tổng quan về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở
bằng đường biển - làm rõ cơ sở lý luận liên quan đến dịch vụ bảo hiểm hàng hoá
xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển .
 Chương 2: Thực trạng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở
bằng đường biển tại Việt Nam - đánh giá thực trạng phát triển của dịch vụ bảo
hiểm Việt Nam trong những năm gần đây, trên cơ sở đó đánh giá chung những
điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội cũng như thách thức đối với dịch vụ bảo hiểm hàng
hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển tại Việt Nam khi hội nhập
WTO.
 Chương 3: Một số giải pháp cho dịch vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế -
trên cơ sở mục tiêu và định hướng phát triển của Chính phủ, đề ra những biện

pháp cụ thể nhằm tăng khả năng cạnh tranh cho dịch vụ bảo hiểm hàng hoá xuất
nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển.
Do thời gian nghiên cứu và trình độ có hạn nên khoá luận này không tránh
khỏi những sai sót. Tác giả rất mong nhận được những góp ý chân thành và tích
cực từ thầy cô và bạn đọc.





Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A –
KT&KDQT
3
Ch-¬ng I: TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT
NHẬP KHẨU CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƢỜNG BIỂN.
I. Bảo hiểm hàng hải.
1.Sự ra đời và khái niệm về bảo hiểm hàng hải.
Trước lợi nhuận mà ngành thương mại hàng hải mang lại cũng như mức độ
và số lượng rủi ro phải ứng phó, các chủ tàu, các nhà buôn, những người vận tải
luôn luôn tìm kiếm những hình thức bảo đảm an toàn cho quyền lợi của mình.
Đầu tiên là vào khoảng thế kỷ thứ V trước Công nguyên, người ta đã tìm
cách giảm nhẹ tổn thất toàn bộ một lô hàng bằng cách san nhỏ lô hàng của mình
ra làm nhiều chuyến hàng. Đây là cách phân tán rủi ro, tổn thất và có thể coi đó
là hình thức nguyên khai của bảo hiểm. Sau đó để đối phó với những tổn thất
nặng nề thì hình thức cho vay mạo hiểm đã xuất hiện. Theo đó, trong trường hợp
xảy ra tổn thất đối với hàng hoá trong quá trình vận chuyển, người vay sẽ được
miễn không phải trả khoản tiền vay cả vốn lẫn lãi. Ngược lại họ sẽ phải trả một

lãi suất rất cao khi hàng hoá đến bến an toàn. Như vậy có thể hiểu lãi suất cao
này là hình thức sơ khai của phí bảo hiểm. Song số vụ tổn thất xảy ra càng nhiều
làm cho các nhà kinh doanh cho vay vốn cũng lâm vào thế nguy hiểm và thay
thế nó là hình thức bảo hiểm ra đời.
Vào thế kỷ XIV, ở Floren, Genoa, Italia đã xuất hiện các hợp đồng bảo
hiểm hàng hải đầu tiên mà theo đó một người bảo hiểm cam kết với người được
bảo hiểm sẽ bồi thường những thiệt hại về tài sản khoản phí. Sau đó cùng với
việc phát hiện ra Ấn Độ Dương và Châu Mỹ, ngành hàng hải nói chung và bảo
hiểm hàng hải nói riêng đã phát triển rất nhanh.
Tuy nhiên, phải đến thế kỷ XVI - XVII, cùng với sự ra đời của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thì hoạt động bảo hiểm mới phát triển rộng rãi và
ngày càng đi sâu vào nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A –
KT&KDQT
4
Ngày nay, cùng với sự phát triển của thương mại quốc tế, bảo hiểm hàng
hải đóng vai trò rất quan trọng đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập
khẩu và vận tải. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về bảo hiểm hàng hải, nhưng
định nghĩa dưới đây được thừa nhận rộng rãi.
Bảo hiểm hàng hải là bảo hiểm những rủi ro trên biển hoặc những rủi ro
trên bộ, trên sông liên quan đến hành trình đường biển, gây tổn thất cho các đối
tượng bảo hiểm chuyên chở trên biển.
2. Các loại bảo hiểm hàng hải.
2.1 Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu.
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu là bảo hiểm những thiệt hại phát
sinh từ trách nhiệm của chủ tàu đối với người thứ ba trong quá trình sở hữu, kinh
doanh, và khai thác tàu biển.

Như vậy đối tượng bảo hiểm trong trường hợp này chính là trách nhiệm
dân sự của chủ tàu đối với người thứ ba.
2.2 Bảo hiểm thân tàu.
Bảo hiểm thân tàu là bảo hiểm những rủi ro vật chất xảy ra đối với tàu,
máy móc và các thiết bị trên tàu, đồng thời bảo hiểm cước phí, các chi phí hoạt
động của tàu và một phần trách nhiệm mà chủ tàu phải chịu trong trường hợp tàu
đâm va.
Đối tượng bảo hiểm trong bảo hiểm thân tàu là vỏ tàu, máy móc, thiết bị,
cước phí, chi phí hoạt động và một phần trách nhiệm chủ tàu phải chịu trong
trường hợp hai tàu đâm va nhau (thông thường là 3/4 trách nhiệm đâm va).
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A –
KT&KDQT
5
2.3. Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển.
Là nghiệp vụ bảo hiểm mà đối tượng được bảo hiểm là hàng hóa vận
chuyển bằng đường biển.
Đây là một trong trong các nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải đã hình thành và
phát triển từ rất sớm.
II. Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đƣờng
biển.
1. Khái niệm:
Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển là cam kết bồi thường
của người bảo hiểm cho người tham gia bảo hiểm trong trường hợp xảy ra rủi ro
thuộc phạm vi bảo hiểm đối với hàng hoá chuyên chở trên biển hoặc trên bộ,
trên sông liên quan đến hành trình biển, với điều kiện người tham gia bảo hiểm
phải đóng một khoản phí bảo hiểm.
2. Sự cần thiết phải bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển.

2.1. Đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu.
Khi thực hiện phương thức vận tải hàng hóa bằng đường biển thì các doanh
nghiệp (người bán hoặc người mua) phải mua bảo hiểm cho hàng hóa của mình
vì những lý do sau:
 Hàng hóa xuất khẩu vận chuyển bằng đường biển gặp rất nhiều rủi ro có
thể gây ra những hư hỏng, mất mát Đó thường là những rủi ro bất ngờ, không
lường trước được và thường gây ra tổn thất lớn, thiệt hại nặng nề như thiên tai,
bão lụt, tàu bị mắc cạn, đắm, cháy nổ, tại nạn đâm va
Nếu chủ hàng không mua bảo hiểm thì sẽ phải tự gánh chịu hậu quả, điều
này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của họ.
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A –
KT&KDQT
6
 Trách nhiệm của người chuyên chở đường biển đối với hàng hoá rất hạn
chế và phụ thuộc vào các quy định trong các Công ước quốc tế về vận đơn hoặc
về vận tải đường biển và các nghị định thư sửa đổi, bổ sung thể hiện ở ba Quy
tắc: Hague, Hague Visby và Hamburg, theo đó trách nhiệm của người chuyên
chở cũng khác nhau.
- Đối với quy tắc Hague và Hague_Visby, thông thường người chuyên chở
sẽ phải chịu trách nhiệm về hàng hoá bị tổn thất trong trường hợp:
+ Tàu không đủ khả năng đi biển gây ra mà người chuyên chở không
chứng minh được là mình đã có sự cần mẫn hợp lý, hoặc
+ Hàng hóa hư hỏng do người chuyển chở đã không xếp hàng lên tàu một
cách cẩn thận, đúng quy trình kỹ thuật, đúng sơ đồ xếp hàng và sơ đồ hầm tàu
- Đối với Quy tắc Humburg, người chuyên chở phải chịu trách nhiệm về
thiệt hại do mất mát, hư hỏng của hàng hoá và chậm giao hàng, nếu sự cố gây ra
mất mát, hư hỏng hoặc chậm giao hàng diễn ra khi hàng hoá còn thuộc trách

nhiệm của người chuyên chở, trừ phi người chuyên chở chứng minh được rằng
anh ta, người làm công và đại lý của anh ta đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết
hợp lý để ngăn ngừa sự cố xảy ra và hậu quả của nó.
Ngoài ra, theo quy tắc Hague và Hague_Visby, để khiếu nại đòi người
chuyên chở bồi thường, chủ hàng thường gặp rất nhiều khó khăn vì phải trải qua
một giai đoạn chứng minh lỗi do người chuyên chở gây nên. Nếu chủ hàng
không chứng minh được lỗi là do người chuyên chở hoặc người chuyên chở có
thể chứng minh được rằng anh ta không có lỗi hoặc anh ta đã áp dụng các biện
pháp cần thiết, hợp lý để ngăn ngừa tổn thất thì chủ hàng phải chịu toàn bộ
những tổn thất về hàng hóa của mình.
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A –
KT&KDQT
7
Như vậy, bảo hiểm hàng hóa sẽ giúp bảo vệ được lợi ích của các doanh
nghiệp trong trường hợp có tổn thất xẩy ra và tạo ra tâm lý an tâm trong kinh
doanh.
2.2. Đối với nền kinh tế.
Hoạt động bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển
có vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế của một quốc gia:
 Là biện pháp hữu hiệu nhất để khắc phục những nhược điểm của việc
vận chuyển hàng hoá bằng đường biển, đáp ứng nhu cầu đảm bảo an toàn cho
chủ hàng, bồi thường những thiệt hại, mất mát cho các doanh nghiệp, tổ chức
kinh tế - xã hội, các cá nhân và Nhà nước do việc hàng hóa bị tổn thất
 Trong nền kinh tế mở, ngành bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu ra đời
không những đáp ứng nhu cầu đảm bảo an toàn cho những chủ hàng, mà còn góp
phần thúc đẩy mối quan hệ kinh tế quốc tế thông qua con đường thương mại và
có ảnh hưởng sâu sắc tới vấn đề kinh tế - xã hội cho cả hai nước xuất khẩu và

nhập khẩu.
 Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển góp
phần giúp các doanh nghiệp có thể tăng thêm vốn đầu tư cho hoạt động kinh
doanh xuất nhập khẩu từ các quỹ mà lẽ ra phải giữ lại làm dự phòng cho những
tổn thất tương lai.
 Trong hoạt động kinh doanh của mình, để nâng cao hiệu quả, các nhà
kinh doanh bảo hiểm hàng hải luôn luôn chú trọng khâu đề phòng và hạn chế tổn
thất cho khách hàng bảo hiểm, việc này sẽ giúp cho người tham gia bảo hiểm
giảm thiểu tổn thất, tiết kiệm chi phí kinh doanh.
 Tăng thu, giảm chi ngoại tệ và cải thiện được cán cân thương mại quốc
gia: Việc mua bảo hiểm cho hàng hoá tại Việt Nam giúp chúng ta giữ được một
lượng ngoại tệ khá lớn, không để chảy ra nước ngoài. Đối với hàng hoá xuất
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A –
KT&KDQT
8
khẩu, việc làm này lại giúp chúng ta thu thêm được ngoại tệ từ nước ngoài đưa
vào trong nước.
Với những vai trò nói trên, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển
bằng đường biển đóng một vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế của một
quốc gia. Cho đến nay hoạt động này đã trở thành tập quán thương mại quốc tế
và cũng là loại bảo hiểm phổ biến nhất trong buôn bán ngoại thương.
3. Các điều kiện bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển.
3.1. Các điều kiện bảo hiểm của hiện hành trên thị trƣờng.
3.1.1. Các điều kiện bảo hiểm của Anh.
Nước Anh là một nước có nền bảo hiểm hàng hải ra đời sớm và rất phát
triển. Từ thế kỷ XVII, Anh đã có mẫu đơn bảo hiểm đầu tiên. Luật bảo hiểm
hàng hải 1906 của Anh cho đến nay vẫn được nhiều nước áp dụng. Các điều kiện

bảo hiểm hàng hóa cũng như tàu bè của Viện những người bảo hiểm Luân Đôn
(Institute of London Underwriters _ ILU) từ lâu đã trở thành quen thuộc và được
áp dụng rộng rãi trên thị trường bảo hiểm thế giới. Về bảo hiểm hàng hóa, Viện
ILU đã soản thảo và đưa vào sử dụng các điều kiện bảo hiểm gốc như FPA, WA,
All Risk từ những năm 1963 hay các điều kiện A, B, C từ những năm 1982 và
các điều kiện bảo hiểm thêm như điều kiện bảo hiểm chiến tranh, đình công. Từ
1-1-1982, Viện ILU đã cho ra đời mẫu đơn bảo hiểm hàng hải mới và một loạt
các điều kiện bảo hiểm mới để áp dụng trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu
bằng đường biển sau đây:
3.1.1.1. Các điều kiện bảo hiểm gốc.
 Điều kiện bảo hiểm A (Institute Cargo Clauses A)
 Điều kiện bảo hiểm B (Institute Cargo Clauses B)
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A –
KT&KDQT
9
 Điều kiện bảo hiểm C (Institute Cargo Clauses C)
3.1.1.2. Các điều kiện bảo hiểm áp dụng cho một số hàng đặc biệt.
 Các điều kiện bảo hiểm hàng hóa buôn bán theo lô
 Điều kiện bảo hiểm than
 Điều kiện bảo hiểm dầu thô
 Điều kiện bảo hiểm đay
 Điều kiện bảo hiểm cao su tự nhiên
 Điều kiện bảo hiểm thực phẩm đông lạnh trừ thịt đông lạnh
 Điều kiện bảo hiểm thịt đông lạnh
3.1.1.3. Các điều kiện bảo hiểm phụ.
 Điều kiện bảo hiểm chiến tranh áp dụng cho hàng vận chuyển bằng
đường biển

 Điều kiện bảo hiểm đình công áp dụng cho hàng vận chuyển bằng đường
biển.
 Điều kiện bảo hiểm đình công áp dụng cho vận chuyển dầu thô.
 Điều kiện bảo hiểm thiệt hại do ác ý.
 Điều kiện bảo hiểm mất trộm, mất cắp và không giao hàng.
3.1.2. Các điều kiện bảo hiểm của Việt Nam.
Từ xưa đến nay, Việt Nam đã ban hành một số các điều kiện bảo hiểm
hàng hóa sau đây:
 Điều kiện bảo hiểm FPA, WA, All Risk theo Quy tắc chung về bảo hiểm
hàng hóa vận chuyển bằng đường biển 1965 của Bộ Tài Chính
 Điều kiện bảo hiểm A, B, C theo Quy tắc chung về bảo hiểm hàng hóa
vận chuyển bằng đường biển 1990 của Bộ Tài Chính
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A –
KT&KDQT
10
 Điều kiện bảo hiểm A, B, C theo Quy tắc chung về bảo hiểm hàng hóa
vận chuyển bằng đường biển 1998 của Bảo Việt.
Trong các bản "Quy tắc chung" nói trên, bản QTCB_98 của Bảo Việt là
hoàn thiện hơn cả.
Khi mua bảo hiểm cho hàng hóa, trừ những trường hợp đặc biệt, chủ hàng
hóa phải mua bảo hiểm theo một trong ba điều kiện bảo hiểm gốc là A, B, C.
Ngoài ra, tùy theo hành trình của hàng mà chủ hàng có thể yêu cầu bảo hiểm
thêm các rủi ro chiến tranh hay đình công Nếu có bảo hiểm thêm những rủi ro
này, chủ hàng phải nộp thêm phí bảo hiểm. Chủ hàng cũng có thể yêu cầu bảo
hiểm hàng hóa theo các điều kiện bảo hiểm A, B, C của Anh hay A, B, C của
Việt Nam. Về người bảo hiểm, chủ hàng có thể lựa chọn Bảo Việt, Bảo Minh,
Pjico, Bảo Long hay công ty bảo hiểm nước ngoài.

3.2. Trách nhiệm của ngƣời bảo hiểm đối với hàng hóa theo các điều kiện
bảo hiểm A, B, C của Việt Nam.
3.2.1. Phạm vi bảo hiểm.
Theo quy tắc chung về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển
của công ty Bảo hiểm Việt Nam năm 1998, phạm vi trách nhiệm của người bảo
hiểm theo các điều kiện A, B, C như sau:
3.2.1.1. Điều kiện C.
Rủi ro được bảo hiểm: là những mất mát, hư hỏng của hàng hóa do các
nguyên nhân sau:
 Cháy hoặc nổ
 Tàu hay xà lan bị mắc cạn, đắm hoặc lật úp
 Tàu đâm va nhau hoặc tàu, xà lan hay phương tiện vận chuyển đâm va
phải các vật thể khác.
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A –
KT&KDQT
11
 Dỡ hàng tại cảng lánh nạn
 Phương tiện vận chuyển đường bộ bị lật đổ hoặc trật bánh
 Hàng hóa bị mất tích do tàu hoặc phương tiện chở hàng mất tích.
 Hy sinh tổn thất chung.
 Ném hàng khỏi tàu.
3.2.1.2. Điều kiện B.
Rủi ro được bảo hiểm: như điều kiện bảo hiểm C, còn thêm các trường hợp
sau đây:
 Động đât, núi lửa phun hoặc sét đánh.
 Nước cuốn khỏi tàu.
 Nước biển, nước hồ hay nước sông chảy vào tàu, xà lan, hầm hàng,

phương tiện vận chuyển, container hoặc nơi chứa hàng.
 Tổn thất toàn bộ của bất kỳ kiện hàng nào do rơi khỏi tàu hoặc rơi trong
khi đang xếp hàng lên hay dỡ khỏi tàu hay xà lan.
3.2.1.3. Điều kiện A.
Theo điều kiện này, ngoài việc bảo hiểm những điều kiện bảo hiểm B và C,
người bảo hiểm phải chịu trách nhiệm về:
 Mọi rủi ro gây ra mất mát, hư hỏng cho hàng hóa được bảo hiểm trừ
những rủi ro loại trừ ở mục 3.2.2 dưới đây.
 Các chi phí tổn thất chung và cứu hộ đã chi ra nhằm tránh hoặc có liên
quan tới việc tránh khỏi tổn thất do bất kỳ nguyên nhân nào, loại trừ những
nguyên nhân đã quy định trong các điều 3.2.2 hay ở những điều khác trong hợp
đồng bảo hiểm theo điều kiện này. Các chi phí này được tính toán hoặc xác định
theo hợp đồng chuyên chở và/hoặc theo pháp luật và tập quán hiện hành.
 Bồi thường cho người được bảo hiểm phần trách nhiệm theo điều khoản
"Hai tàu đâm va nhau cùng có lỗi" trong hợp đồng chuyên chở có liên quan đến
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A –
KT&KDQT
12
một tổn thất thuộc phạm vi bồi thường của bảo hiểm này. Trường hợp chủ tàu
khiếu nại theo điều khoản nói trên thì Người được bảo hiểm phải thông báo cho
Người bảo hiểm là người có quyền bảo vệ Người được bảo hiểm đối với khiếu
nại và tự chịu mọi phí tổn.

3.2.1.4. Những trách nhiệm khác thuộc công ty bảo hiểm.
Ngoài những rủi ro được bảo hiểm nói trên, người bảo hiểm còn phải chịu trách
nhiệm về những tổn thất và chi phí sau đây:
 Tổn thất chung và chi phí cứu hộ được phân bổ hay xác định theo hợp

đồng vận tải và hoặc theo luật lệ hay tập quán hiện hành;
 Những chi phí và tiền công hợp lý mà người được bảo hiểm hoặc đại lý
của họ đã chi ra nhằm phòng tránh hoặc giảm nhẹ tổn thất cho hàng hóa được
bảo hiểm hay những chi phí kiện tụng để đòi người thứ ba bồi thường;
 Những chi phí hợp lý cho việc dỡ hàng, lưu kho và gửi tiếp hàng hóa tại
cảng dọc đường hay cảng lánh nạn do hậu quả của một rủi ro thuộc phạm vi hợp
đồng bảo hiểm.
 Những chi phí hợp lý cho việc giám định hoặc xác định số tổn thất mà
người bảo hiểm phải bồi thường.
 Phần trách nhiệm mà người được bảo hiểm phải chịu theo điều khoản
"Hai tàu đâm va nhau đều có lỗi" ghi trong hợp đồng vận tải.
3.2.2 Rủi ro loại trừ.
Theo cả ba điều kiện A, B, C, người bảo hiểm sẽ không chịu trách nhiệm
về rủi ro sau đây:
3.2.2.1. Trừ khi có thỏa thuận khác, người bảo hiểm không chịu trách nhiệm
đối với những mất mát, hư hỏng hay chi phí gây ra bởi:
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A –
KT&KDQT
13
 Mất mát, hư hỏng hay chi phí được quy cho là hành vi xấu cố ý của
Người được bảo hiểm.
 Đối tượng được bảo hiểm bị rò chảy thông thường, hao hụt trọng lượng
hoặc giảm thể tích thông thường hoặc hao mòn thông thường
 Mất mát hư hỏng hoặc chi phí gây ra do việc đóng gói hoặc chuẩn bị cho
đối tượng được bảo hiểm chưa đầy đủ hoặc không thích hợp. Chú ý: đóng gói
phải được coi như bao gồm cả việc xếp hàng vào "container" hoặc "kiện gỗ"
nhưng chỉ khi nào việc xếp hàng đó được thực hiện trước khi hợp đồng bảo hiểm

này có hiệu lực hoặc được tiến hành bởi người được bảo hiểm hoặc những người
làm công cho họ.
 Mất mát hư hỏng hay chi phí phát sinh do khuyết tật vốn có hoặc tính
chất riêng của đối tượng được bảo hiểm.
 Mất mát hư hỏng hay chi phí trực tiếp gây ra bởi chậm trễ ngay cả khi
chậm trễ do một rủi ro được bảo hiểm gây ra (trừ những chi phí được trả theo
điều khoản tổn thất chung)
 Mất mát hư hỏng hay chi phí phát sinh từ việc sử dụng bất kỳ một loại
vũ khí chiến tranh gì có sử dụng năng lượng nguyên tử, hạt nhân và/hoặc phản
ứng hạt nhân, phóng xạ hoặc tương tự.
 Mất mát hư hỏng hay chi phí phát sinh từ tình trạng không trả được nợ
hoặc thiếu thốn về tài chính của chủ tàu, người quản lý, người thuê tàu hoặc
người điều hành tàu.
 Hư hại hay một bộ phận hàng hóa bị hư hại hay bị phá hoại có chủ tâm
do hành động sai lầm của bất kỳ người nào gây ra (điều này không áp dụng cho
điều kiện A)
3.2.2.2. Điều khoản loại trừ tàu không đủ khả năng đi biển
Trong bất kỳ trường hợp nào, các điều kiện bảo hiểm sẽ không bảo hiểm
cho những mất mát hư hỏng hoặc chi phí gây ra bởi:
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A –
KT&KDQT
14
 Tàu hoặc thuyền không đủ khả năng đi biển
 Tàu, thuyền, phương tiện vận chuyển container hoặc kiện gỗ không thích
hợp cho việc chuyên chở an toàn đối tượng được bảo hiểm, nếu Người được bảo
hiểm hoặc những người làm công cho họ biết riêng về trạng thái không đủ khả
năng đi biển hoặc không thích hợp đó vào thời gian đối tượng được bảo hiểm

được xếp vào các phương tiện trên.
Người bảo hiểm bỏ qua mọi trường hợp vi phạm những cam kết ngụ ý tàu
đủ khả năng đi biển và thích hợp cho việc chuyên chở đối tượng được bảo hiểm
tới nơi đến trừ khi Người được bảo hiểm hoặc người làm công cho họ được biết
riêng về trạng thái không đủ khả năng đi biển hay không thích hợp đó.
3.2.2.3. Điều khoản loại trừ chiến tranh.
Trong bất kỳ trường hợp nào các điều kiện bảo hiểm sẽ không bảo hiểm
cho những mất mát, hư hỏng hoặc chi phí gây ra bởi:
 Chiến tranh, nội chiến. cách mạng. nổi loạn, khởi nghĩa hoặc xung đột
dân sự phát sinh từ những biến cố đó, hoặc bất kỳ hành động thù địch nào gây ra
hoặc chống lại bên tham chiến.
 Bắt giữ, tịch thu, kiềm chế hay cầm giữ và hậu quả của những sự việc đó
hoặc bất kỳ mưu toan nào nhằm thực hiện những hành vi đó.
 Mìn, thủy lôi, bom hoặc những vũ khí chiến tranh hoang phế khác.
3.2.2.4. Điều khoản loại trừ đình công
Trong bất kỳ trường hợp nào bảo hiểm này sẽ không bảo hiểm cho những
mất mát hư hỏng hoặc chi phí sau:
 Gây ra bởi những người đình công, công nhân bị cấm xưởng hoặc những
người tham gia gây rối lao động, náo loạn hoặc bạo động dân sự.
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A –
KT&KDQT
15
 Hậu quả của đình công, cấm xưởng, gây rối lao động, náo loạn hoặc bạo
động dân sự.
 Gây ra bởi bất kỳ kẻ khủng bố hoặc bất kỳ người hành động vì động cơ
chính trị.



3.2.2.5. Trong mọi trường hợp người bảo hiểm không chịu trách nhiệm đối
với những mất mát, hư hỏng và chi phí do:
 Việc làm xấu cố ý của người được bảo hiểm.
 Chậm trễ là nguyên nhân trực tiếp.
 Tàu hoặc xà lan không đủ khả năng đi biển và do tàu, xà lan, phương
tiện vận chuyển hoặc container không thích hợp cho việc chuyên chở hàng hóa
mà người được bảo hiểm hay người làm công cho họ đã biết về tình trạng không
đủ khả năng đi biển và không thích hợp đó vào thời điểm bốc xếp hàng hóa.
 Bao bì không đầy đủ hoặc không thích hợp.
 Hao hụt tự nhiên, hao mòn tự nhiên, rò chảy thông thường.
 Chủ tàu, người quản lý tàu hoặc người thuê tàu không trả được nợ hoặc
thiếu thốn về mặt tài chính.
 Xếp hàng quá tải (đối với hàng chuyên chở nguyên chuyến) hoặc xếp
hàng sai quy cách, không đảm bảo an toàn cho hàng hóa khi vận chuyển.
3.3. Phạm vi không gian và thời gian bảo hiểm (cả ba điều kiện A, B, C).
Trách nhiệm bảo hiểm bắt đầu có hiệu lực kể từ khi hàng hóa được bảo
hiểm rời kho đi hoặc nơi chứa hàng tại địa điểm ghi trong hợp đồng bảo hiểm để
bắt đầu vận chuyển và tiếp tục có hiệu lực trong suốt quá trình vận chuyển bình
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A –
KT&KDQT
16
thường. Trách nhiệm bảo hiểm kết thúc tại một trong số các thời điểm sau đây,
tùy theo trường hợp nào xảy đến trước:
 Khi giao hàng vào kho hay nơi chứa hàng cuối cùng của người nhận
hàng hoặc của một người nào khác tại nơi nhận có tên trong hợp đồng bảo hiểm,
hoặc

 Khi giao hàng cho bất kỳ kho hay nơi chứa hàng nào khác, dù trước khi
tới hay tại nơi nhận ghi trong hợp đồng bảo hiểm mà người được bảo hiểm chọn
dùng làm. Đó là nơi chia hay phân phối hàng hoặc nơi chứa hàng ngoài quá trình
vận chuyển bình thường, hoặc
 Khi hết hạn 60 ngày sau khi hoàn thành việc dỡ hàng hóa bảo hiểm khỏi
tàu biển tại cảng dỡ hàng cuối cùng ghi trên đơn bảo hiểm.
Nếu sau khi dỡ hàng khỏi tàu biển tại cảng dỡ hàng cuối cùng, nhưng trước
khi kết thúc bảo hiểm, hàng hóa được gửi tới một nơi nhận hàng không đúng với
địa danh nhận hàng ghi trong đơn bảo hiểm thì bảo hiểm này trong khi giữ
nguyên hiệu lực, sẽ không mở rộng giới hạn quá lúc bắt đầu vận chuyển tới một
nơi nhận hàng khác như vậy.
Nếu do những tình huống ngoài khả năng kiểm soát của người được bảo
hiểm mà hợp đồng kết thúc tại một cảng hay một nơi không đúng với ghi nhận
ghi trên đơn bảo hiểm hoặc việc vận chuyển được kết thúc theo cách khác trước
khi giao hàng như những quy định đã nêu ở trên thì hiệu lực bảo hiểm cũng sẽ kết
thúc, trừ khi có giấy báo gửi ngay cho người bảo hiểm yêu cầu tiếp tục bảo hiểm
trong khi bảo hiểm vẫn còn hiệu lực, với điều kiện người bảo hiểm chấp nhận và
người được bảo hiểm phải trả thêm phí bảo hiểm nếu người bảo hiểm yêu cầu,
khi:
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A –
KT&KDQT
17
 Hàng được đem bán hoặc được giao tại cảng hoặc địa điểm đó hoặc trừ
khi có thỏa thuận riêng khác, khi hết hạn 60 ngày sau khi hàng bảo hiểm đến
cảng hay địa điểm đó, tùy theo trường hợp nào đến trước, hoặc
 Nếu hàng hóa được gửi đi trong phạm vi 60 ngày đó (hoặc bất kỳ phạm
vi mở rộng nào đã thỏa thuận) để tới nơi nhận hàng có tên ghi trong đơn bảo

hiểm hay tới bất kỳ nơi nhận hàng nào khác thì tới khi kết thúc bảo hiểm theo
những quy định nói trên.
III. Khái quát chung về năng lực cạnh tranh.
1. Một số vấn đề về năng lực cạnh tranh.
1.1. Khái niệm.
Năng lực cạnh tranh là yếu tố quyết định đối với doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường và nhất là trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế vì bản chất
của cạnh tranh trong cơ chế thị trường và hội nhập là quá trình doanh nghiệp
trong nước ngoài việc cạnh tranh với nhau còn phải trực tiếp cạnh tranh với
doanh nghiệp nước ngoài có tiềm lực tài chính, kinh nghiệm, trình độ phát triển
cao hơn. Như vậy, hiểu khái niệm "năng lực cạnh tranh" góp phần giúp cho các
doanh nghiệp định hướng phát triển năng lực cạnh tranh của mình rõ ràng hơn
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Theo lý thuyết thương mại truyền thống, năng lực cạnh tranh được xem xét
qua lợi thế so sánh về chi phí sản xuất và năng suất lao động. Theo M.Porter
"năng lực cạnh tranh phụ thuộc vào khả năng khai thác các năng lực độc đáo
của mình để tạo ra sản phẩm có giá thành thấp và sự dị biệt của sản phẩm".
Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức hợp tác và Phát
triển kinh tế (OECD) đã lựa chọn một định nghĩa kết hợp cho cả doanh nghiệp,
ngành, quốc gia như sau: "Sức cạnh tranh là khả năng của các doanh nghiệp,
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A –
KT&KDQT
18
ngành, quốc gia, khu vực trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong
điều kiện cạnh tranh quốc tế". Định nghĩa này được đánh giá là phù hợp và phản
ánh được khái niệm cạnh tranh quốc gia trong mối liên hệ gắn kết với hoạt động
cạnh tranh của các doanh nghiệp, tạo việc làm, tăng thu nhập và mức sống của

nhân dân.
Theo Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) thì năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp "là khả năng có thể đứng vững trên thị trường cạnh tranh, mở rộng thị
phần và tăng lợi nhuận thông qua một số chỉ tiêu như năng suất, chất lượng,
công nghệ, sự khác biệt về hàng hoá dịch vụ được cung cấp, giá trị tăng thêm,
chi phí sản xuất, là khả năng của doanh nghiệp thực hiện tốt hơn đối thủ cạnh
tranh trong việc đạt mục tiêu quan trọng nhất: lợi nhuận". Có thể nói, khái niệm
về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mà WEF đưa ra đã tóm lược nội dung
của hầu hết các định nghĩa về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đưa ra
trên thế giới hiện nay. Do đó, tác giả sử dụng khái niệm về năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp mà WEF đưa ra cho toàn bộ Khoá luận tốt nghiệp.
2. Các yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Bất kỳ doanh nghiệp nào cũng hoạt động trong một môi trường kinh doanh nhất
định, các doanh nghiệp bảo hiểm cũng không nằm ngoài quy luật này. Các yếu
tố môi trường kinh doanh tác động đến các doanh nghiệp bảo hiểm theo hai
hướng tích cực và tiêu cực, từ đó có thể tạo thuận lợi hay khó khăn cho doanh
nghiệp trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh. Các nhân tố này thường được
chia thành hai nhóm: Các nhân tố bên trong và các nhân tố bên ngoài.
2.1. Các nhân tố bên ngoài.
 Về mặt kinh tế.
- Tăng trưởng kinh tế: Là nhân tố tác động mạnh đến hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận
chuyển bằng đường biển. Khi kinh tế tăng trưởng thì dẫn đến hoạt động xuất
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A –
KT&KDQT
19
nhập khẩu tăng lên, do đó nhu cầu về bảo hiểm cho hàng hoá chuyên chở bằng

đường biển cũng tăng theo. Các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu sẽ
quan tâm nhiều hơn đến các công ty bảo hiểm và chất lượng dịch vụ của họ. Còn
các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm khi đó sẽ có cơ hội phát triển kinh doanh
và đạt được tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ, tăng khả năng tích tụ tư bản từ đó dẫn
tới năng lực cạnh tranh cũng tăng. Mặt khác, tăng trưởng kinh tế làm tăng cầu
trên thị trường bảo hiểm sẽ tạo sức hấp dẫn cho các doanh nghiệp bảo hiểm đang
và sẽ tham gia thị trường. Do đó, môi trường cạnh tranh trong ngành bảo hiểm sẽ
ngày càng gay gắt và khốc liệt hơn. Nếu các doanh nghiệp không nâng cao khả
năng cạnh tranh của mình thì sẽ bị tụt lại phía sau, thậm chí bị mất thị phần cho
những doanh nghiệp khác có sức cạnh tranh cao hơn hoặc là các doanh nghiệp
mới tham gia thị trường.
- Mức độ mở cửa của nền kinh tế: Nền kinh tế càng mở và càng hội nhập
với nền kinh tế thế giới thì môi trường cạnh tranh càng gay gắt, đưa đến cho các
doanh nghiệp bảo hiểm trong nước nhiều cơ hội cũng như nhiều thách thức. Các
doanh nghiệp bảo hiểm trong nước phải cạnh tranh với những đối thủ nước ngoài
với nhiều ưu thế hơn về vốn, kinh nghiệm kinh doanh và công nghệ hiện đại.
Bên cạnh đó, khi mở cửa nền kinh tế, Chính phủ phải dỡ bỏ những rào cản đối
với các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài như dỡ bỏ rào cản các doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ và tái bảo
hiểm, đồng thời nhà nước cũng phải xoá bỏ những ưu đãi dành cho các doanh
nghiệp bảo hiểm trong nước. Khi đó, nếu các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước
không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh của mình sẽ bị các doanh nghiệp bảo
hiểm nước ngoài đánh bại ngay trên thị trường bảo hiểm nội địa.
 Về mặt chính sách pháp luật.
Pháp luật và các chính sách của Chính phủ tạo ra môi trường pháp lý để
các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động kinh doanh. Chính trị ổn định, pháp luật
về kinh doanh bảo hiểm minh bạch và chặt chẽ sẽ tạo điều kiện cho các doanh
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto


Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A –
KT&KDQT
20
nghiệp kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường
biển cạnh tranh công bằng và có hiệu quả.
Bên cạnh đó, các cam kết song phương và đa phương về bảo hiểm mà một
quốc gia tham gia ký kết với các nước và các tổ chức khác trên thế giới cũng tác
động đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm. Các doanh nghiệp
buộc phải tuân theo lộ trình gia nhập hay cam kết về bãi bỏ các biện pháp bảo
hộ. Muốn không bị mất dần thị phần vào các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài,
các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước không còn cách nào khác là phải nâng
cao năng lực cạnh tranh.

 Các ngành nghề liên quan.
Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển chịu sự
tác động trực tiếp của các nghiệp vụ kinh doanh hàng hoá xuất nhập khẩu và vận
tải đường biển.
Kim ngạch xuất nhập khẩu tham gia bảo hiểm trong nước tăng có ý nghĩa
hết sức quan trọng thúc đẩy ngành bảo hiểm phát triển. Hoạt động xuất nhập
khẩu của các doanh nghiệp có mạnh thì nhu cầu về bảo hiểm hàng hoá chuyên
chở bằng đường biển mới cao. Tuy nhiên, việc lựa chọn các điều kiện giao hàng
của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu như thế nào mới là yếu tố tác động lớn
nhất đến sự phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận
chuyển bằng đường biển trong nước. Nếu doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập
khẩu trong nước có thói quen xuất theo điều kiện FOB và nhập theo điều kiện
CIF, tức chúng ta không giành được quyền thuê tàu và mua bảo hiểm thì dịch vụ
bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu trong nước không thể phát triển được. Ngược
lại, nếu các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu ký được các hợp đồng xuất
khẩu theo điều kiện CIF và nhập khẩu theo điều kiện FOB thì không những giúp
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu

chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A –
KT&KDQT
21
cho Nhà nước tránh được việc chảy máu ngoại tệ mà còn thúc đẩy sự phát triển
của các nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường
biển và nghiệp vụ giao nhận vận tải.
Bên cạnh đó, chúng ta không thể không tính đến sự tác động của các doanh
nghiệp giao nhận vận tải bằng đường biển trong nước. Chúng ta biết rằng, trong
buôn bán quốc tế, người xuất khẩu cũng như nhập khẩu đều mong muốn giành
được "quyền vận tải", nhất là "quyền về thuê tàu" vì nó sẽ mang lại những lợi thế
nhất định như bên giành được "quyền vận tải" hoàn toàn có thể chủ động trong
việc thuê tàu, tổ chức giao nhận hàng hoá ở cảng gửi hàng, giảm chi và tăng thu
ngoại tệ liên quan đến ngành vận tải
Việc ngành vận tải đường biển phát triển mạnh sẽ tăng khả năng giành
được "quyền về vận tải" trong đàm phán của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu
và thông thường sẽ giành được luôn "quyền mua bảo hiểm" cho hàng hoá được
chuyên chở. Như vậy, nếu ngành vận tải hàng hải của một quốc gia phát triển sẽ
thúc đẩy sự phát triển kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở
bằng đường biển của chính quốc gia đó.
 Đối thủ cạnh tranh.
Đối thủ cạnh tranh là một trong những nhân tố bên ngoài ảnh hưởng mạnh
mẽ nhất tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh trong
lĩnh vực bảo hiểm hàng hoá xuất khẩu chuyển chở bằng đường biển. Các doanh
nghiệp trong cùng ngành bảo hiểm sẽ cạnh tranh với nhau gay gắt bằng cách
nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp mình như tăng cường khả năng
tài chính, đào tạo đội ngũ cán bộ giỏi về nghiệp vụ, nâng cao chất lượng dịch
vụ Đối thủ cạnh tranh cũng chia làm hai nhóm:
- Nhóm đối thủ cạnh tranh tiềm năng (bao gồm các doanh nghiệp bảo

hiểm chưa tham gia vào lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A –
KT&KDQT
22
chuyên chở bằng đường biển nhưng sẽ tham gia trong tương lai gần bao gồm các
doanh nghiệp bảo hiểm trong nước và các công ty bảo hiểm ở ngoài nước ).
Các đối thủ tiềm năng với sự cải tiến sản phẩm, quy mô vốn, chi phí và khả năng
tiếp cận thị trường là những nguy cơ cạnh tranh mà doanh nghiệp bảo hiểm cần
xem xét kỹ lưỡng.
- Nhóm khác là nhóm đối thủ cạnh tranh trong hiện tại phụ thuộc vào số
lượng, quy mô và uy tín của các doanh nghiệp trên thị trường, năng lực tài chính
và chất lượng dịch vụ của những doanh nghiệp bảo hiểm đó trong kinh doanh
bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển.
Mức độ cạnh tranh sẽ gay gắt hơn khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương
mại thế giới WTO và thực hiện các chính sách mở cửa nền kinh tế thế giới. Lúc
này, các doanh nghiệp bảo hiểm không chỉ phải cạnh tranh với các doanh nghiệp
bảo hiểm trong nước mà còn phải cạnh tranh với cả doanh nghiệp bảo hiểm nước
ngoài ở cả thị trường nội địa và quốc tế,
2.2. Các nhân tố thuộc môi trƣờng bên trong.
Có rất nhiều yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: công
tác quản trị doanh nghiệp, nguồn nhân lực, cơ sở vật chất kỹ thuật và máy móc
thiết bị, sản phẩm và cơ cấu sản phẩm, giá cả, chất lượng sản phẩm, uy tín của
doanh nghiệp trên thị trường, hoạt động nghiên cứu và triển khai của doanh
nghiệp (R&D) Tuy vậy, trong giới hạn Khoá luận tốt nghiệp này, tác giả chỉ
đưa ra 4 yếu tố để phân tích, bởi đây là những yếu tố tác động mạnh mẽ nhất tới
các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển
bằng đường biển: Năng lực tài chính, nguồn nhân lực, chất lượng sản phẩm, hiệu

quả hoạt động và môi trường hoạt động của doanh nghiệp.
 Năng lực tài chính
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A –
KT&KDQT
23
Năng lực tài chính là nhân tố tiên quyết cho việc nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp. Vai trò của năng lực tài chính đối với việc nâng cao
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được thể hiện trên một số khía cạnh sau:
- Năng lực tài chính đảm bảo cho doanh nghiệp khả năng thanh toán, tạo
uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng.
- Năng lực tài chính giúp cho doanh nghiệp khai thác tiềm năng, mở rộng
hoạt động kinh doanh. Việc mở rộng thị trường cũng như đa dạng hoá hoạt động
kinh doanh có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao uy tín cũng như khả năng chi
phối của doanh nghiệp đối với thị trường kinh doanh nói riêng và nền kinh tế nói
chung.
- Tạo điều kiện để các doanh nghiệp hiện đại hoá công nghệ, nâng cao
hiệu quả kinh doanh. Trong thời đại kinh doanh điện tử, tri thức và thông tin tạo
ra nhiều lợi thế cạnh tranh bền vững cho các doanh nghiệp. Trong cuộc cạnh
tranh gay gắt như hiện nay, đổi mới phương thức tồn tại của doanh nghiệp, ứng
dụng công nghệ thông tin vào hoạt động kinh doanh và quản lý là một nhu cầu
tất yếu khách quan.
Năng lực tài chính của doanh nghiệp được thể hiện qua các chỉ tiêu như:
vốn tự có, nợ phải trả, lợi nhuận trước thuế và quy mô của các quỹ Ngoài ra
còn một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của doanh nghiệp
 Nguồn nhân lực của doanh nghiệp bảo hiểm.
Cơ cấu nhân sự trong một doanh nghiệp bảo hiểm bao gồm cán bộ quản lý,
nhân viên và những trung gian trong hệ thống phân phối của doanh nghiệp. Một

công ty bảo hiểm có đội ngũ cán bộ nhân viên năng động sáng tạo trong kinh
doanh được đào tạo cơ bản, có nghiệp vụ cao, có kinh nghiệm trong hoạt động
thực tiễn, có đạo đức nghề nghiệp và có tinh thần đoàn kết, hợp tác sẽ tạo ra sức
mạnh to lớn có thể đưa công ty vượt qua mọi khó khăn và vươn lên trong cạnh
tranh.
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A –
KT&KDQT
24
Đội ngũ quản lý đóng vai trò đầu tàu trong công ty. Bên cạnh đó, đội ngũ
nhân viên trong công ty đóng vai trò rất quan trọng quyết định trực tiếp đến hiệu
quả cuối cùng trong quá trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm. Nhân viên bảo hiểm
là người tiếp xúc trực tiếp với khách hàng. Hình ảnh của công ty trong mắt khách
hàng trước hết phải là người trực tiếp gặp gỡ và tiếp xúc với họ trong quá trình
chào bạn sản phẩm, trong công việc chăm sóc những dịch vụ cụ thể. Mục tiêu
này chỉ đạt được khi công ty có đội ngũ công nhân viên, hệ thống đại lý đủ năng
lực trình độ về nghiệp vụ, có khả năng thuyết phục cao, có đạo đức nghề nghiệp,
có kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, quan hệ xã hội rộng và trung thành với công
ty.
Như vậy, để đáp ứng yêu cầu của hoạt động kinh doanh bảo hiểm hàng hoá
xuất nhập khẩu và hội nhập quốc tế, nguồn nhân lực trong doanh nghiệp bảo
hiểm phải được tiêu chuẩn hoá về chất lượng, năng lực chuyên môn, kỹ năng
nghề nghiệp, năng lực pháp lý, công nghệ, trình độ ngoại ngữ và đạo đức nghề
nghiệp.


 Sản phẩm bảo hiểm.
Sản phẩm bảo hiểm là thứ vũ khí cạnh tranh quyết định trực tiếp đến hiệu

quả và uy tín của doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
vận chuyển bằng đường biển. Sản phẩm bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
chuyên chở bằng đường biển cung cấp sự đảm bảo an toàn về tài chính cho các
doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, được ghi nhận trong hợp đồng bảo
hiểm cùng với dịch vụ hỗ trợ quản lý rủi ro và dịch vụ xử lý sự cố bảo hiểm.
Tuy nhiên, khác với nhiều loại dịch vụ khác là hoạt động mua và sử dụng dịch
vụ diễn ra ngay cùng một thời điểm, sản phẩm bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu vận chuyển bằng đường biển chỉ được sử dụng trong tương lai. Tại thời
điểm bán, khách hàng chỉ nhận được những cam kết những lời hứa từ các doanh

×