Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

So sánh nhân vật Trạng Quỳnh và Th’Mênh Chây trong truyện Truyện Trạng Quỳnh và Th’Mênh Chây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.23 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
1. PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................. 3
1.1. Lý do chọn đề tài ......................................................................... 3
1.2. Mục đích ...................................................................................... 3
1.3. Đối tượng so sánh ........................................................................ 4
1.4. Phương pháp so sánh loại hình ................................................. 4
2. NỘI DUNG ........................................................................................... 6
2.1. Sơ lược về truyện Trạng Quỳnh và Th’mênh Chây ............... 6
2.1.1. Truyện Trạng Quỳnh ......................................................... 6
2.1.2. Truyện Th’Mênh Chây ...................................................... 6
2.2. Truyện Trạng là một thể loại hay một kiểu truyện................. 7
2.3. Quỳnh và Chây những kẻ ngụp lặn giữa những đường biên . 8
2.3.1. Đường biên giữa triều đình và quần chúng ..................... 8
2.3.2. Đường biên giữa nước lớn và nước nhỏ ......................... 14
2.4. Lý giải ......................................................................................... 16
2.4.1. Về điểm chung ................................................................. 16
2.4.2. Về điểm khác biệt ............................................................. 17
3. TẠM KẾT .......................................................................................... 19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................. 19
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ ...................................................... 22

2


1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Những mẩu chuyện được lưu truyền về kiểu nhân vật thông minh, lém lỉnh không
chỉ nổi tiếng ở Việt Nam (như Trạng Quỳnh, Trạng Lợn, Xiển Ngộ,...) mà còn ở nhiều
quốc gia khác (như Th’Mênh Chây ở Campuchia hay Xiêng Miệng của Lào, Sung Khâm
Tu ở miền Bắc Thái Lan, hay Roman de Renart ở Pháp).
Ở Việt Nam, Truyện Trạng Quỳnh mô tả nhân vật cùng tên thông minh, hay chữ


nhưng chủ động từ bỏ hoạn lộ, chọc phá Chúa, nhiều lần ứng biến được thử thách của sứ
thần bang giao. Còn ở Campuchia, Th’Mênh Chây được khắc họa là con người sáng dạ,
ln trót lọt thơng qua những thử thách của Chúa đất, vua lẫn sứ thần Trung Hoa. Cả Trạng
Quỳnh lẫn Th’Mênh Chây đều là những nhân vật thuộc vào văn học dân gian, được dân
gian đắp nặn, lưu truyền nhằm thể hiện mong muốn, ý chí của mình.
Qua so sánh Truyện Trạng Quỳnh và Th’Mênh Chây, nhóm nghiên cứu nhận thấy
vài nét tương đồng cơ bản về hành động, xuất thân,... giữa hai nhân vật trung tâm, cũng
như đặt vấn đề về vai trò lịch sử của hai nhân vật trên trong tiến trình lịch sử văn học dân
tộc và lịch sử văn học thế giới.
Đó chính là lý do nhóm nghiên cứu tiến hành thực hiện đề tài “So sánh nhân vật
Trạng Quỳnh và Th’Mênh Chây trong truyện Truyện Trạng Quỳnh và Th’Mênh Chây”.
1.2. Mục đích
Lý giải vai trò của hai nhân vật trạng Quỳnh và Th’Mênh Chây trong văn học Việt
Nam, Campuchia.
Nhìn nhận được vị trí của hai nhân vật trạng Quỳnh và Th’Mênh Chây trong văn
học thế giới.

3


1.3. Đối tượng so sánh
Khảo sát hai nhân vật ở những đặc điểm nổi bật về tính dân tộc và tính quốc tế của
nó.
1.4. Phương pháp so sánh loại hình
Văn học so sánh ra đời như một “bộ môn khoa học nghiên cứu các mối quan hệ giữa
các nền văn học dân tộc” (Nguyễn Văn Dân, 2003, tr.18-19). Văn học so sánh là sự nghiên
cứu các hiện tượng thuộc các nền văn học khác nhau. Mục đích của văn học so sánh là làm
sáng tỏ bản chất, lịch sử và giá trị của văn học bằng cách so sánh các hiện tượng văn học
thuộc các nền văn học khác nhau trong mối quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp. Các mối quan
hệ quốc tế của văn học là đối tượng được văn học so sánh quan tâm hàng đầu, dẫn đến nhu

cầu tìm hiểu về tiến trình văn học trên phạm vi rộng mang tính quốc tế. Ban đầu, việc
nghiên cứu mối quan hệ của văn học chỉ nằm trong phạm vi của một nền văn học, nhưng
về sau thì việc nghiên cứu đã tiến đến các nền văn học trên thế giới. Mối quan hệ quốc tế
được hiểu là mối quan hệ giữa hai hay nhiều nước với nhau. Trong văn học, mối quan hệ
quốc tế là nói đến hai hiện tượng thuộc hai nền văn học khác nhau có quan hệ tiếp xúc trực
tiếp ảnh hưởng, giao lưu hay quan hệ song song/ loại hình khơng tiếp xúc trực tiếp với
nhau.
Từ mối quan hệ của hai hiện tượng, ta tìm ra được điểm giống nhau và khác nhau
của hai hiện tượng và lý giải sự giống và khác nhau đó. Từ đó, ta sẽ đưa ra những quy luật
chung phát triển trên bình diện thế giới và tính độc đáo của văn chương, đặc thù của từng
dân tộc. Bên cạnh đó, một tác phẩm khơng thể tồn tại độc lập và chỉ được nghiên cứu
trong phạm vi của một nước mà cịn phải tìm hiểu nhiều yếu tố khác ngồi phạm vi của
một nước, ta có thể so sánh với các tác phẩm ngoài nước để thấy được vị trí của tác phẩm
trong văn học thế giới. Đồng thời, việc nghiên cứu văn học trên bình diện quốc tế để một
nền văn học góp phần hịa mình vào quá trình hội nhập quốc tế.

4


So sánh loại hình là nghiên cứu so sánh hai hiện tượng văn học khơng có ảnh hưởng
giao lưu trực tiếp, trên bất cứ phương diện nào như đề tài, chủ đề, văn thể, phong cách,
hình tượng, trường phái, lý luận, lịch sử phát triển,... để rút ra điểm tương đồng và những
nét khu biệt. Tựu trung lại, loại so sánh này tập trung vào vấn đề xác định bản chất của mối
quan hệ so sánh, tìm ra tính tất yếu, quy luật phát triển của văn học trên bình diện tồn thế
giới.
So sánh loại hình khơng hướng tới việc sắp đặt hơn thua giữa các tác phẩm, giữa
các nền văn học, mà mong muốn làm rõ và lý giải mỗi tác phẩm thể hiện khơng khí thời
đại của nó, bản thân văn chương trước hết đã phục vụ cho khơng gian, thời gian sinh thành
ra nó. Nghiên cứu so sánh đặt vấn đề nhằm xác định tính quốc tế - dân tộc của một hiện
tượng văn học.

Nhiều hiện tượng văn học trên thế giới có sự tương đồng dù khó có sự gặp gỡ trực
tiếp như: sử thi Ramayana, Mahabharata ở Ấn Độ hay Trường ca Iliad, Odysseus của Hy
Lạp đều phát triển tạo nên những thành tựu rực rỡ cho hai nền văn minh, văn hóa lớn của
nhân loại; hay thể loại truyện thơ không hề tồn tại hay phát triển gì ở Trung Quốc, trong
khi Việt Nam, vốn là đất nước vốn chịu ảnh hưởng từ văn hóa, văn học phương Bắc từ lâu
đời lại tạo nên sự khác biệt, đặc sắc của văn học mình qua nhiều câu chuyện được thuật lại
theo lối trữ tình, được u thích rộng khắp như Xống Chụ Xơn Xao, Lục Vân Tiên, Truyện
Kiều. Mặt khác truyện thơ cũng là thể loại thành cơng của vùng Đơng Nam Á này.
Tóm lại, so sánh loại hình lịch sử chủ trương lý giải việc bối cảnh thời đại đã ảnh
hưởng đến kiểu văn chương và kiểu nhân vật nhằm làm xuất hiện, thúc đẩy các thể loại
văn học hình thành. Nghiên cứu văn học từ góc độ loại hình giúp các khía cạnh trong tác
phẩm văn học được xem xét trên cả hai bình diện đồng đại - lịch đại, quan đó lý giải tính
quốc tế - dân tộc của hai tác phẩm, cũng như hai nền văn học sinh thành ra nó.

5


2. NỘI DUNG
2.1. Sơ lược về truyện Trạng Quỳnh và Th’mênh Chây
2.1.1. Truyện Trạng Quỳnh
Trong quyển Truyện trạng, Tinh hoa văn học dân gian người Việt, quyển 1, truyện
Trạng Quỳnh gồm 66 truyện. Trạng Quỳnh vốn thông minh từ trong bụng mẹ với nhiều tài
lẻ và đức tính tốt nên được mọi người quý mến. Bất cứ mọi chuyện gì cậu cũng có thể giải
quyết nhanh gọn lẹ, ln được thầy và đám bạn cùng lứa kinh phục. Khi lớn lên ông luôn
chống lại những điều xấu xa của tầng lớp thống trị lẫn những tính xấu của dân gian. Vì vậy,
ơng bị chúa căm thù và đầu độc, Với mưu trí của ơng, chúa cũng ăn thử món ăn có độc và
chết, Quỳnh chết nhưng cũng quyết khơng tha cho tên bạo chúa, nên mới có câu “Trạng
chết, chúa cũng băng hà” .
2.1.2. Truyện Th’Mênh Chây
Truyện Th’mênh Chây tái hiện bối cảnh xã hội Campuchia ở các thế kỷ XVII đến

thế kỷ XIX. Tác phẩm gồm 34 mẫu chuyện nhỏ gồm 6 truyện dành cho Sét Thây, 14 truyện
xử trí đối với vua,11 truyện nói về quan hệ với các sứ Trung Hoa và 3 truyện kể về quan
hệ của ông trạng với tần lớp nhân dân. Mỗi mẫu chuyện sẽ là một tình huống, một sự kiện
bất ngờ không kém phần hài hước đan xen những chân lý đời thực vốn có trong dân gian.
Câu chuyện bắt đầu với hình ảnh mẹ của Th’Mênh Chây có một giấc mơ tốt lành về
đứa con trai của bà, và sau đó bà thực sự sinh ra một cậu bé được dự đốn là thơng minh
kháu khỉnh nhưng số mệnh phải làm nơ lệ. Từ nhỏ, Chây đã sớm hình thành trong con
người mình tính cách sắc sảo cùng trí thơng minh vẹn tồn. Gần đó có ơng chúa đất tên Sét
Thây, sau một lần thua cuộc đấu trí với ơng ta, Chây từ đó mà ơm lịng ấm ức và về xin mẹ
cho phép đi làm nô lệ cho nhà chúa đất. Từ đây mn vàn câu chuyện dở khóc dở cười
giữa Chây và chúa đất Sét Thây bắt đầu. Mn lần chúa đất thách đố tài trí của cậu và lần
nào cũng thất bại và vẽ mặt thê thảm. Ông ta năm lần bảy lượt tính kế hãm hại Chây nhưng
đều thất bại. Bất lực, chúa đất dâng Chây đến nơi tay Đức Vua, nhà Vua cũng vì nhiều lần
thất bại khi thách đố Chây nên bèn nghĩ ra kế giết chết Chây. Với tài trí thơng minh lanh
6


lẹ của mình, cậu nhanh trí tẩu thốt và bỏ đi tu ở một ngôi chùa. Đến một ngày nọ, xứ
Trung Hoa khi biết được tin đồn rằng Chây đã chết, liền cho binh lính sang chiếm lấy
vương quốc Khme, cùng lúc đó Chây trong trang phục của thầy tu trở về, liền giúp nhà vua
chiến thắng sự thách đố của nước Tàu và giữ được vương quốc của mình. Câu chuyện kết
thúc, Th’mênh Chây chết và truyền lại đức tính thơng minh tháo vát của mình cho nhà
Vua.
2.2. Truyện Trạng là một thể loại hay một kiểu truyện
Việc nên xem truyện trạng như một thể loại hay là một kiểu truyện ở Việt Nam đã
có nhiều nhà nghiên cứu đưa ra. Cái tên Trạng - được tạo thành bởi hệ thống Hán học ở
Việt Nam thời phong kiến, tổng hợp từ những nhân vật gọi bằng danh hiệu này trong văn
học dân gian, một hiện tượng mang tính dân tộc. Nhân vật Trạng có thể phải trải qua thi cử
hoặc không, họ nổi bật lên nhờ năng lực sử dụng ngôn ngữ.
Theo chúng tôi việc xem truyện Trạng là một thể loại trong văn học dân gian hay là

kiểu truyện thì cần nhìn nó rộng ra ngồi văn học dân tộc để thấy được một bức tranh tổng
quan hơn. Truyện trạng Việt Nam nếu bỏ qua những khác biệt mang tính địa phương thì ta
có thể thấy nó rất gần với một kiểu cổ mẫu là “trickster” “kẻ chơi khăm”.
Kẻ chơi khăm là một kiểu nhân vật – một cổ mẫu xuất hiện trong rất nhiều trong
văn hóa của các quốc gia. Từ nền văn hóa Hi-La (Prometheus, Hermes (Mercury),…), đến
các nền văn minh lưỡng hà và Ai Cập, Ấn Độ, .... Kẻ chơi khăm là một kẻ nằm giữa những
đường biên của khái niệm, ngụp lặn, chơi đùa giữa những biên giới, giữa cái thiêng và
phàm, cái tinh hoa và cái tục tĩu, dân gian và triều đình, v.v. Nó là kẻ mang năng lực phá
hủy và sáng tạo, đặt câu hỏi cho những quy ước, tập tục, lễ nghi, quyền lực, v.v về giá trị
của chúng. Kẻ chơi khăm thường khốc lên mình những hình dáng rất bên lề, yếu thế ở
những lần hiện thân của nó trong các nền văn hóa: kẻ khờ, đứa trẻ, người bình dân, tên hề;
trường hợp con vật thì có những con vật nhỏ yếu (thỏ, cáo, gà, …) nhưng lại có năng lực

7


thắng được những thứ được cho là mạnh mẽ ở trung tâm như: nhà vua, quan lại, người
giàu,,… với con vật thì là sư tử, gấu, báo…
Nhân vật trạng Quỳnh và Th’mênh Chây đều có những đặc điểm trên. Họ là kẻ từ
chối quyền lực, đứng ở thế yếu và thắng được những người nằm ở trung tâm quyền lực, họ
đi xuyên qua những đường biên giữa trung tâm và ngoại vi, làm mờ nhịe nó, nỗ lực mở ra
những trung tâm mới, những khả tính mới cho những thứ ngồi trung tâm.
Từ điều trên chúng tơi cho rằng truyện trạng là một kiểu truyện trong văn học dân
gian.
2.3. Quỳnh và Chây những kẻ ngụp lặn giữa những đường biên
Những kẻ như Quỳnh và Chây luôn xuất hiện với nhiều thể tính, nếu nói những
nhân vật này chỉ đại diện cho một phe là chưa đủ. Nếu xét họ trong kiểu nhân vật kẻ chơi
khăm thì ta có thể lấy một ví vụ mang tính hình tượng đó là người đi trên dây, anh ta phải
luôn giữa được thăng bằng. Nếu anh ta lệch qua bên phải thì để cân bằng lại anh phải dịch
người qua bên trái và ngược lại.

Vì vậy họ khơng theo một phe cố định nào cả, lúc thì họ có thể dùng tư cách dân
gian để châm biếm vua, chúa, quan lại. Lúc thì họ dùng thân phận những kẻ có học thức
và danh tiếng để chỉ ra những thói xấu của dân gian. Họ làm mờ nhòe đi những đường biên
bằng tiếng cười, cái cười có sức mạnh xuyên thấu biên giới, mở ra những cơ hội để nhìn
nhận, đánh giá những vấn đề vốn được cho là cấm kị hay tục tĩu.
2.3.1. Đường biên giữa triều đình và quần chúng
Nhân vật trạng Quỳnh
Trong Truyện Trạng Quỳnh, xuất hiện sự đả phá vua, Chúa ở những mẩu chuyện:
Chúa ngủ ngày, Tiên sư thằng bảo thái, Ngáy đèo,...
Có lần Trạng bày với chúa một món ăn tên là “đại phong”, sẵn tính tị mị lại chưa
từng ăn món đấy bao giờ, chúa cho Trạng chuẩn bị thức ăn ngay. Nào ngờ lại sập bẫy của
8


Trạng, khi bị vua hỏi, Quỳnh giải thích: “Đại phong là gió to. Gió to thì đổ chùa. Đổ chùa
thì tượng lo. Tượng lo là lọ tương”. Món “đại phong” thực chất chính là lọ tương mà người
dân hay ăn mà thơi. (Món “Đại phong” dâng Chúa)
Khơng chỉ am hiểu tục ngữ dân gian và điển tích, Quỳnh cịn rành rọt và thường
xuyên nói lái, chơi chữ và dùng từ Hán - Việt để châm biếm người khác, Trạng thường hay
kích thích tính hiếu kỳ của chúa bằng tài năng ngơn ngữ của mình, khiến chúa nhiều lần bị
“sập bẫy”.
Lần khác, Trạng vào hầu đương lúc chúa đang ngủ, bèn lấy bút viết lên tường chữ
“ngọa sơn”. Lúc chúa thức dậy và tra hỏi thì Quỳnh mới giải thích: “Chữ “ngọa” nghĩa là
nằm, mà nằm hẳn phải ngủ, mà ngủ tất là ngáy. Chữ “sơn” nghĩa là núi, núi tất phải đèo,
vậy hợp hai chữ lại là “ngáy đèo”...” Thế là chúa bị làm bẽ mặt trước cả triều đình quan
bá văn võ bằng tài nói lái tục của Trạng Quỳnh. (Chúa ngủ ngày)
Có lần bị chúa bắt trói giữa sân rồng, biết chúa có tính tị mị nên Quỳnh bật cười
khanh khách, chúa lại hỏi thì Quỳnh nói đang cười người đàn bà chửa, chúa không hiểu nên
cố gỏi cho bằng được thì bị Quỳnh chửi thẳng vào mặt: “Người đàn bà chửa ngủ với chồng
thì chẳng khác gì thằng ngồi đ… mẹ thằng trong, cịn thằng trong thì bú c… thằng ngồi!”.

Quỳnh dùng cách nói tục của dân gian để châm biếm chúa nhưng chúa chẳng thể bắt tội
Quỳnh được một lời nào nên đành ngậm đắng nuốt cay cho qua. (Chửi chúa)
Thậm chí Trạng cịn có tài làm thơ, nhưng thơ của Trạng là “thơ tục”. Trong tiểu
truyện Mừng chúa thắng trận, thấy chúa Trịnh sau khi tuần du trở về cứ huênh hoang rằng
vừa thắng trận do đối phương bị quân ta đánh bất ngờ. Trạng Quỳnh vốn chẳng ưa chúa,
nay cứ nghe chúa khoe khoang mãi nên làm tặng chúa một bài thơ tục, ý muốn ví trận đánh
thắng của chúa tương tự như việc ân ái nam nữ:
“Nửa đêm giờ tí trống canh ba
Thoắt tiến lên thành phá lũy ra
Một tướng thẳng vào trong cửa hiểm
9


Hai quân đứng núp chực bên hà
Quân ta đổ lộn cùng qn nó
Nước nó giao hịa với nước ta
Đánh đoạn rút về lau khí giới
Tìm nơi vũ khố để can qua.”
Bằng tài năng ngơn ngữ của mình cùng với lối nói thơ tục trong sinh hoạt dân gian,
Trạng Quỳnh đã đứng ra đối kháng với chúa một cách trực tiếp nhưng chúa lại chẳng thể
phản bác được sự mưu mẹo, lanh lợi của Quỳnh. Trạng Quỳnh không chỉ nhắm đến chúa
mà còn cả hệ thống cai trị lúc bấy giờ, những kẻ kém tài lại hay lấp liếm bằng vẻ hào
nhống giả tạo bên ngồi như bà chính cung cùng đám quan lại chỉ biết xu nịnh kẻ bề trên.
Nhờ vào tài năng ngơn ngữ của mình, Trạng Quỳnh đã mạnh mẽ bóc trần những thứ dối
trá bị che đậy lúc bấy giờ.
Vốn dĩ chẳng ưa chúa, Quỳnh lại càng ghét bọn quan chức có thói xu nịnh bề trên.
Bọn chúng biết chúa thích của ngon vật lạ nên thường xun biếu chúa những thức q lạ,
có hơm một người dâng chúa món tên là “đào trường thọ”, Quỳnh nhìn qua cũng biết là
chuyện lừa dối nên ra tay bóc mẽ sự thật rằng khơng hề có thức ăn nào có cơng dụng “trường
thọ” như thế cả. Sau lần ấy, đám xu nịnh bàn ơm lịng ghen ghét và bàn với chúa sẽ trả thù

Quỳnh. Chúa đồng ý tổ chức một buổi yến tiệc và mời Quỳnh đến dự, nhưng lại dọn một
mâm riêng ngồi sân cho Quỳnh, cịn vua và các quan thì ngồi bên trong nhà. Quỳnh chẳng
nói gì cứ điềm tĩnh ăn, sau đó bóc một quả chuối bỏ ruột và ăn vỏ rồi nói: “Sở dĩ tơi ăn bên
ngồi vì thấy ăn bên trong như ăn cứt vậy.”. Biết Trạng đang mỉa mai mình, lần sau chúa
sắp xếp cho Trạng ngồi bên trong, cịn mình thì ngồi bên ngoài sân. Lần này Trạng lại ăn
ruột chuối vì thấy ăn bên ngồi như ăn cứt. Cả chúa và bọn quan nghe xong chỉ biết im thin
thít khơng thể bắt bẻ Quỳnh được. (Truyện Ăn bên trong…và ăn bên ngồi)
Lần khác, biết chúa có viên ngọc q, đám quan thay nhau nịnh nọt ngọc của chúa,
duy chỉ có Quỳnh chẳng nói tiếng nào. Khi bị chúa hỏi, Quỳnh mới tâu chẳng có gì q giá
10


hơn “ngọc người”, chúa là người đang giữ viên ngọc trong người nhưng muốn lấy được
viên ngọc thì phải tìm ngự y để bổ óc chúa ra. Khơng chỉ mỉa mai thói xu nịnh của đám
quan lại mà Trạng Quỳnh cịn châm biếm thói xem trọng vật chất bề ngồi của chúa. Ngồi
ra, chúa cịn là người ưa thích thuật tướng số, biết được điểm này bọn quan mua chuộc chúa
ngay nhưng cũng sớm bị Trạng Quỳnh vạch trần thói mê tín. (Truyện Ngọc người)
Trạng cịn lột trần vỏ bọc của nhiều kẻ ham danh nhưng lại kém tài, nói láo và hay
chạy chữa đút lót, đồng thời cũng lật mặt bọn thầy thuốc dỏm thiếu hiểu biết. Ngoài ra,
Trạng Quỳnh còn gián tiếp đối kháng với hệ thống khoa cử, phơi bày việc làm của những
kẻ mua danh bán chức đầy gian xảo lúc bấy giờ.
Hay trên đường đến Thăng Long, đến một làng kia Quỳnh có ý định ghé vào nhà ấp
trưởng để nghỉ chân thì biết được ấp trưởng làng này là kẻ quỷ quyệt, gặp Quỳnh lại cịn
giở thêm thói “thấy sang bắt qng làm họ”. Sẵn dịp Quỳnh bày trò trừng trị ngay, khiến
tên ấp trưởng bị một phen dở khóc dở cười. (Mẹo trẩy kinh)
Cả Trạng Quỳnh và Th’Mênh Chây đều ghét thói vờ vĩnh của đám quan lại hay ton
hót. Trong Truyện Trạng Quỳnh, quan lại thành đối tượng phản pháo ở những truyện sau
(Đơn trình bị chết của cơ gái Kẻ Nghì, Trên câm điếc, dưới cũng câm điếc, Thừa giấy vẽ
voi, Quan trường mắc lỡm, Vụ kiện chôn văn).
Vốn dĩ chẳng ưa chúa, Quỳnh lại càng ghét bọn quan chức có thói xu nịnh bề trên.

Bọn chúng biết chúa thích của ngon vật lạ nên thường xuyên biếu chúa những thức q lạ,
có hơm một người dâng chúa món tên là “đào trường thọ”, Quỳnh nhìn qua cũng biết là
chuyện lừa dối nên ra tay bóc mẽ sự thật rằng khơng hề có thức ăn nào có cơng dụng “trường
thọ” như thế cả. Sau lần ấy, đám xu nịnh bàn ôm lòng ghen ghét và bàn với chúa sẽ trả thù
Quỳnh. Chúa đồng ý tổ chức một buổi yến tiệc và mời Quỳnh đến dự, nhưng lại dọn một
mâm riêng ngoài sân cho Quỳnh, cịn vua và các quan thì ngồi bên trong nhà. Quỳnh chẳng
nói gì cứ điềm tĩnh ăn, sau đó bóc một quả chuối bỏ ruột và ăn vỏ rồi nói: “Sở dĩ tơi ăn bên
ngồi vì thấy ăn bên trong như ăn cứt vậy.”. Biết Trạng đang mỉa mai mình, lần sau chúa
sắp xếp cho Trạng ngồi bên trong, cịn mình thì ngồi bên ngồi sân. Lần này Trạng lại ăn
11


ruột chuối vì thấy ăn bên ngồi như ăn cứt. Cả chúa và bọn quan nghe xong chỉ biết im thin
thít khơng thể bắt bẻ Quỳnh được. (Truyện Đào trường thọ)
Lần khác, biết chúa có viên ngọc quý, đám quan thay nhau nịnh nọt ngọc của chúa,
duy chỉ có Quỳnh chẳng nói tiếng nào. Khi bị chúa hỏi, Quỳnh mới tâu chẳng có gì q giá
hơn “ngọc người”, chúa là người đang giữ viên ngọc trong người nhưng muốn lấy được
viên ngọc thì phải tìm ngự y để bổ óc chúa ra. Khơng chỉ mỉa mai thói xem trọng vật chất
bề ngồi của chúa mà cịn phê phán sự xu nịnh của đám quan lại. Ngồi ra, chúa cịn là
người ưa thích thuật tướng số, biết được điểm này bọn quan mua chuộc chúa ngay nhưng
cũng sớm bị Trạng Quỳnh vạch trần thói mê tín. (Truyện Ngọc người)
Trạng cịn lột trần vỏ bọc của nhiều kẻ ham danh nhưng lại kém tài, nói láo và hay
chạy chữa đút lót, đồng thời cũng lật mặt bọn thầy thuốc dỏm thiếu hiểu biết. Ngồi ra,
Trạng Quỳnh cịn gián tiếp đối kháng với hệ thống khoa cử, phơi bày việc làm của những
kẻ mua danh bán chức đầy gian xảo lúc bấy giờ. Công chúa út bị mắc bệnh mấy ngày không
khỏi nên vua cho gọi Trạng Quỳnh đến xem tình hình, vừa nhìn qua Trạng đã biết cơng
chúa bị mắc bệnh sởi. Nhưng lại làm quá lên và tâu trình với vua phải làm lễ dâng sao thì
bệnh cơng chúa mới khỏi. Vì vốn dĩ Quỳnh khơng ưa gì chúa cùng với bọn quan lại xu nịnh
nên muốn trừng trị một phen. Bá quan biết tin Quỳnh muốn chọn một người học rộng hiểu
sâu trong số họ để đọc sớ thì đã bắt đầu đã lo lắng, lại còn thấy Quỳnh sai người chuẩn bị

sớ dài dằng dặc thì sợ lắm, e làm không được sẽ bị mất chức nên đành đút lót lễ vật cho
Trạng Quỳnh để thốt việc đọc sớ. Cũng trong lần chữa bệnh cho quận chúa, Quỳnh còn
gián tiếp vạch trần bọn thầy thuốc thiếu hiểu biết chữa trị mãi cho quận chúa vẫn không
khỏi.
Nhân vật Th’mênh Chây
Hành động châm biếm của Th’Mênh Chây thể hiện rõ nhất lúc cịn làm nơ lệ cho
nhà chúa đất Sétthây. Từ lúc cịn nhỏ Chây thể hiện nét thơng minh, lém lỉnh của mình
trong mọi tình huống từ việc nhỏ đến việc to: từ làm người hầu hạ riêng cho Sétthây, rồi bị
đuổi đi chăn bò cái, sau cùng chỉ ở yên trong nhà làm những công việc lặt vặt. Chây tuy
12


làm theo mọi lời căn dặn của ông chủ Sétthây mà vẫn bị la mắng, nhưng bằng tài giải thích
và đưa ra lý lẽ vô cùng xác đáng nên khiến Sétthây nhiều phen phải đuối lý, thậm chí là bị
làm nhục.
Về Th’Mênh Chây trong Tôi không dám tin, tuy bị vua cấm khơng được lui tới triều
đình nữa, nhưng Chây có cơ hội sẽ thừa dịp để châm biếm vua ngay. Biết tin vua sắp đi
thăm chợ ngang nhà mình, Chây chẳng những khơng dọn dẹp nhà cửa mà cịn bày trò với
vua. Lúc đức vua sắp đi tới, Chây dùng vơi trắng vẽ hình mặt người lên mơng, rồi chổng
mơng về phía đường đi qua bệ cửa sổ, cố tình để nhà vua trơng thấy. Rồi nhanh trí đối đáp
khiến vua phải đuối lý.
Riêng trong hai truyện Giấu đầu hở đuôi và Tôi không dám tin này, tuy cùng được
xây dựng trong một motif tương tự nhau, nhưng Quỳnh và Chây lại có kiểu châm biếm
khác nhau. Nếu nhân vật Trạng Quỳnh nghiêng về tài xử lý tình huống nhanh lẹ thì cách
ứng xử của Th’Mênh Chây lại thể hiện sự sắp đặt, có tính tốn từ trước, cố ý để xảy ra cuộc
gặp mặt với nhà vua dù đã bị đuổi khỏi triều đình. Cả Trạng Quỳnh và Th’Mênh Chây đều
là những nhân vật thông minh, mưu mẹo, làm chủ được tình hình và có cách xử lý khá hài
hước.
Th’Mênh Chây cũng phê phán thói soi mói, ham cá cược của bọn quan lại rỗi rãi,
nên đã tận dụng làm chúng một phen bẽ mặt trong Ra lệnh cho vua. Cũng chính bọn quan

lại đã căm ghét Chây, hiến kế cho vua đẩy chàng vào chỗ chết, bằng kế thâm độc trong
Người Trung Hoa phải tiễn.
Ngay cả đến chặng cuối của đời mình, Th’Mênh Chây đã đi guốc trong bụng đám
quan lại triều thần, vốn lúc chàng còn sống bị chơi khăm mà khơng làm gì được, hẳn lúc
chết sẽ khơng để Chây có mồ n mả đẹp. Nên trước khi chết, Chây dặn vợ hãy chơn mình
và cho người cắm cọc nhọn xung quanh mồ. Đúng như tính tốn của Chây, bọn quần thần
ngu ngốc sau khi nghe tin Chây chết đã rủ nhau đến nấm mồ phóng uế bừa bãi. Thế là liền
sập bẫy của Chây, chúng hành sự chưa xong đã bị cọc tre nhọn đâm cho chảy máu mơng.
Khơng giống địn trả đũa đau đớn như của Quỳnh, cái bẫy của Chây có phần “nhẹ nhàng”
13


và mang tính trào phúng hơn, khiến người đọc phải bật cười vì sự hài hước của một người
cho đến khi chết vẫn thể hiện được sự thông minh của mình. (Khơng ai dám ỉa)
2.3.2. Đường biên giữa nước lớn và nước nhỏ
Cả Đại Việt lẫn nhà nước Khmer khi ấy đều là hai nước nhỏ, phải chịu dưới Trung
Hoa một bậc, nên Trạng Quỳnh lẫn Th’Mênh Chây nói riêng, hai đất nước nói chung, sau
khi giành chiến thắng trước những phần thi, những câu hỏi thách đố của đối phương, đều
chọn con đường hịa bình, hịa hỗn để giữ mối bang giao cho dân tộc, giữ lấy thể diện cho
Thiên Triều mà cũng là hịa bình cho nhân dân.
Nhưng trong cả hai truyện đều có thể thấy, bằng sự nhanh nhẹn, ứng biến nhanh
chóng của trạng Quỳnh và Th’Mênh Chây đã giúp ngăn chặn chiến tranh không xảy ra,
cũng như khẳng định sức mạnh của dân tộc mình, ý chí khơng bao giờ chịu khuất phục
ngoại xâm.
Từ những truyện thuộc kiểu chống lại sứ giả Trung Hoa Thể hiện sự chín mùơi của
ngơn ngữ dân tộc và dân tộc tính. Những chuyện sứ giả Trung Quốc sang Việt Nam và
Campuchia lúc bấy giờ có thể khơng xảy ra thực sự như trong truyện. Nhưng từ đây ta có
thể thấy được nỗ lực chống lại ảnh hưởng của văn hóa Hán và nỗ lực đưa văn hóa bản địa
ngang hàng với nó. Và điều này chỉ có thể xảy ra ở những giai đoạn nhất định trong lịch
sử khi mà ngôn ngữ dân tộc và tinh thần dân tộc đạt đến những điểm mốc đáng kể.

Ở đây ta có thể thấy được mối liên hệ giữa văn học Việt Nam và Campuchia với những
nền văn học khác trong nỗ lực hồn thiện và biến ngơn ngữ dân tộc thành ngơn ngữ văn
chương ở Ý, Pháp, Anh, Nga v,v
Trạng Quỳnh
Thông qua khảo sát những lần Quỳnh ứng đối với sứ thần bang giao, bao gồm Thơ
trống vần thiên, Thi vẽ rồng, Tiền chủ hậu khách, Quỳnh đãi tiệc các quan Tàu, Sứ Tàu
mắc lõm, Cơ hàng nước, Anh lái đị, Đánh vỡ chai nước của sứ Tàu, Trạng chọi Trâu,
Chiếc vòng độc nhất vơ nhị, Trạng chọi trâu có thể tóm lại thành những vấn đề như sau:

14


Một là, ám chỉ khả năng quân sự của ta, tuy là nước nhỏ, dân số chênh lệch rõ ràng
nhưng khơng hề yếu, thậm chí cịn chiến thắng nếu xảy ra chiến tranh thật sự (truyện Trạng
chọi trâu)
Hai là, có sự hỗ trợ của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm (Truyện Chiếc vịng ngọc bội độc nhất
vơ nhị của Trung Quốc và Cơ hàng nước) Qua đó đề cao người phụ nữ tài năng của Quỳnh
nói riêng và của xã hội bấy giờ nói chung, người nữ cũng ngang tài thậm chí hơn (nhiều
lần Điểm thắng Quỳnh) cả đàn ơng.
Th’Mênh Chây
Những lần Th’Mênh Chây so tài với sứ Tàu xuất hiện ở những truyện: Bí mật sứ
Tàu. Thịt lợn để hai năm không ôi thiu, Xin dao làm cổ, Mời các ngài đến nhận, Chỉ còn
một người cũng đánh, Hai cách giải thích, Kính tặng Hồng đế Trung, Người Trung Hoa
phải tiễn.
Sau lần chết hụt, Th’Mênh Chây dần được vua trọng dụng khi gặp phải thử thách
của sứ thần Trung Hoa. Th’Mênh Chây đối mặt với học giả uyên thâm nước bạn, hai người
khơng nói mà chỉ dùng thủ ngữ. Vào lần đối đầu thứ nhất, học giả giơ một ngón tay lên
trời thì Th’Mênh Chây chỉ đúng vào mặt trời. Học giả chỉ ngón tay về phía đường chân trời
thì Chây xịe bàn tay lên khơng trung. Học giả chỉ tay xuống đất thì Chây tự chỉ vào chính
mình. Lần thứ hai, sứ giả Trung Hoa xịe năm ngón tay rồi khoanh một vòng tròn. Chây

giơ cùi tay chĩa thẳng vào vị sứ giả, sau đó một ngón tay chỉ vào chính mình. Sau các lần
đối đầu Chây đều diễn giải lại các hành động của mình cho sứ thần Trung và vua mình
nghe. (Truyện Chỉ cịn một người cũng đánh)
Sau lần Th’Mênh Chây chiến thắng sứ Trung. Lần lượt ba người: một nhà sư, một
vị quan của triều đình Khmer và đức vua Khmer tìm đến Chây để nghe chàng giải thích.
Với mỗi người Chây lại lý giải một cách khác nhau, và cách nào cũng làm hài lòng mỗi vị
ấy cả. (Truyện Hai cách giải thích)

15


Nói theo Phật Giáo thì vốn dĩ, chân lí chỉ có một, tuy nhiên mỗi người đều có cách
nhìn khác nhau về chân lý, và khơng ai giống ai. Nói theo các cách giải thích của Th’Mênh
Chây thì mỗi người quan tâm đến một giá trị của vấn đề, nên vấn đề đó hồn tồn mở mà
khơng có sự kết luận cứng nhắc, Vua quan tâm đến đất nước mà ông ta cai trị, nhà sư quan
tâm đến đời sống con người, đến sự tối giản mà đem lại hiệu quả tốt nhất, quan lại quan
tâm đến sự hơn thua về kiến thức của tu hành, ai cũng đều có câu trả lời của riêng mình,
và câu trả lời nào cũng là đúng nhất đối với bản thân họ.
Thêm nữa ta có thể lí giải đây là nỗ lực mở rộng khả năng của tiếng dân tộc thông
qua việc Chây từ những thủ ngữ đối đáp của mình và sứ thần Trung Quốc mà có thể giải
thích ra ba cách khác và làm hài lịng các đối tượng khác nhau.
Tóm lại, có thể thấy màn ứng đối của Th’Mênh với sứ thần Trung Hoa có các đặc
điểm như mang đậm màu sắc Khmer cũng như Phật Giáo Tiểu Thừa và ở đó ta có thể thấy
được những thể nghiệm của dân gian trong việc làm giàu thêm ngôn ngữ dân tộc.
2.4. Lý giải
2.4.1. Về điểm chung
Kiểu nhân vật chơi khăm
Cả Quỳnh và Chây đều là những kẻ chơi khăm, họ băng qua lại giữa những biên
giới, làm tan vỡ những thói xấu của cả dân gian lẫn vua, quan lại và các thế lực tơn giáo.
Bằng tiếng cười của mình, họ đi xuyên qua những tầng văn hóa khác nhau, đặt ra những

thước đo về giá trị của chúng.
Và cũng từ những đặc tính trên ta có thể lí giải tại sao kiểu nhân vật này lại xuất
hiện trong văn học dân gian đương thời. Họ là những kẻ dùng tiếng cười của mình để mở
đường, đánh giá lại giá trị của những hiện tượng cũ, mở ra những khả tính mới.

16


Tiến trình phát triển ngơn ngữ dân tộc
Việt Nam và Campuchia lúc bấy giờ có những điểm tương đồng với nhau về việc
chịu ảnh hưởng bởi văn hóa ngoại lai là Trung Quốc và Ấn Độ và giai đoạn này đều đi trên
con người mở rộng, phát triển ngôn ngữ dân tộc để dần thay thế văn tự ngoại lai.
Có thể thấy ở cả Quỳnh và Chây, xuất hiện rất nhiều tiểu truyện có sử dụng ngơn
ngữ làm phương tiện chính để chế giễu, chỉnh đốn các thành phần trong xã hội. Ngôn ngữ
được vận dụng, biến tấu rất thuần thục. Thê hiện được phần nào quá trình dân gian biến
ngôn ngữ sinh hoạt thành ngôn ngữ văn chương. Việc chơi đùa với ngôn ngữ thể hiện
những nỗ lực trong việc trau chuốt, tu sức tiếng dân tộc để nó đi vào vị trí trung tâm thay
thế cho tiếng vay mượn từ những từ trường mạnh (Trung Quốc, Ấn Độ).
2.4.2. Về điểm khác biệt
Về kiểu nhân vật chơi khăm
Quỳnh và Chây tuy cùng một kiểu nhân vật nhưng do sự khác biệt về văn hóa của
mỗi quốc gia, ta có thể thấy được sự khác biệt của hai bên. Một số sự khác tiêu biểu như
việc kẻ chơi khăm luôn đứng ở phe trung lập, khơng hồn tồn thuộc về một bên nào. Nhân
vật trạng Quỳnh thể hiện việc đó ở chỗ anh ta có thi đỗ một số kì thi do nhà vua tổ chức
nhưng cũng rất nhiều lần anh đi thi để châm biếm chế độ khoa cử. Việc anh ta chỉ trích,
pha trị cả vua, quan lẫn người bình dân nếu họ có những thói xấu. Một kẻ vừa trong vừa
ngồi và khơng khái niệm nào trói buộc được anh ta.
Cịn ở Th’Mênh Chây có một điểm khác biệt rất rõ là so với Quỳnh, Chây đã thực
hiện nghi lễ trưởng thành:
Th’Mênh Chây trước khi xuất gia chưa bao giờ được nhà vua công nhận, vua thử

tài anh liên tục nhưng dù mỗi lần Chay đều thông qua thì vua vẫn khơng thỏa mãn, vì Chay
chưa bao giờ ở trong khuôn khổ như một người nam Khmer, anh tuy tài giỏi nhưng là một
con người không thể khống chế được, mãi khi vua đe dọa bằng cái chết thì anh mới chịu
tn theo vào khn khổ. Từ đó nhà vua bắt đầu cơng nhận anh.
17


Tính chất nghi lễ của nó thể hiện ở việc Chây khi nhảy sống sông giả chết. Mà xuống
nước là biểu tượng của việc chết đi, sau đó Chây xuất gia, tu vài năm trong chùa. Thể
hiện sự chuyển tiếp từ con người cũ sang con người mới. Và quá trình này cũng trùng khớp
với những điều mà một người nam Khmer phải trải qua để trưởng thành.
Từ điểm này, ta có thể lí giải tiếp tục cho sự khác biệt trong cái chết của hai nhân
vật Quỳnh và Th’mênh Chây cuối truyện.
Ở trạng Quỳnh tựa truyện là Trạng chết chúa cũng băng hà như một lời sấm truyền,
một sự khẳng định giá trị của người dân trong mối tương quan quyền lực với chúa(người
cầm quyền). Rằng nếu khơng có dân thì cũng khơng cịn chúa.
Ta cũng có thể nhìn nhận nó một cách khác, rằng nhân vật Trạng Quỳnh – với tư
cách là kẻ chơi khăm, là nhân vật mà hành động của nó phục hồi lại những trật tự trong xã
hội, việc chúa đầu độc trạng Quỳnh, là để loại bỏ đi một kẻ hạn chế quyền hành của ơng
ta. Nếu Quỳnh chết đi, thì cán cân quyền lực sẽ nghiêng về bên chúa, cịn nếu chỉ mình
chúa chết, thì điều ngược lại sẽ xảy ra. Vì thế nên mới có chuyện cả hai cùng chết, vì khi
kẻ gây rối trật tự đã khơng cịn thì người hành pháp cũng vậy.
Cịn ở Th’mênh Chây, do đã vào khn khổ của nhà vua nên trước khi mất Th’mênh
Chây vẫn làm trịn nhiệm vụ với Thần Vương của mình, nhắc nhở ơng về đạo trị nước.
Về Tiến trình phát triển ngơn ngữ dân tộc
Ở trạng Quỳnh ta có thể thấy được những thử nghiệm của dân gian trong việc biến
ngôn ngữ sinh hoạt thành ngôn ngữ văn chương. Ở việc sử dụng những từ láy, lam thơ
Đường luật bằng ngôn ngữ bình dân, dùng những từ tục vào trong các bài thơ. Và việc hòa
tan chữ Hán vào vốn từ ngữ của dân tộc, qua các câu chơi với sự đồng âm giữa Hán-Việt
và Việt. “Cây xương rồng, trồng đất rắn, long vẫn hoàn long”, “Quả dưa chuột, tuột thẳng

gang, thử chơi thì thử” (Đối đáp với Thị Điểm); “Đại phong là gió to. Gió to thì đổ chùa.
Đổ chùa thì tượng lo. Tượng lo là lọ tương”(Món “Đại phong” dâng Chúa), v.v.

18


Trong truyện Th’mênh Chây, những trò chơi khăm của Chây bằng ngôn từ đa phần
là luồng lách trong những khoảng trống của ngôn ngữ. Như Tôi không dám nhặt, Tôi nhặt
tất cả Chây cố tình lí giải mệnh lệnh của Setthay khác với ý của ông ta.
3. TẠM KẾT
Thông qua q trình nghiên cứu chúng tơi đi đến một số kết luận như sau:
Giá trị lịch sử của truyện Trạng Quỳnh và Th’mênh Chây nằm ở việc lưu trữ ngôn
ngữ được dùng lúc bấy giờ. Và những thể nghiệm của dân gian để biến ngôn ngữ dân tộc
thành ngôn ngữ văn chương, mở rộng vốn từ bằng cách Việt hóa hồn tồn những từ gốc
Hán, biến nó thành ngơn ngữ sinh hoạt thơng thường. Từ đó đưa tiến trình văn học Việt
Nam và Campuchia vào trong tiến trình chung của văn học thế giới.
Ngoài ra việc đặt hai nhân vật Quỳnh và Chây vào trong kiểu nhân vật kẻ chơi khăm,
mở ra những hướng tiếp cận mới, những lí giải mới cho cả hai và góp phần đánh giá đúng
vị trí, vai trị của kiểu nhân vật như Quỳnh, Chây trong dòng chảy văn học thế giới.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Hoàng Văn Trụ. (1992). Vấn đề tiếp cận tác phẩm văn học dân gian qua việc nghiên
cứu giới thiệu truyện Trạng Quỳnh, Tạp chí văn học số 1/1992 - Trích xuất từ:
/>2. Hồng Tuấn Phổ. 2002. “Ngày Xn nói chuyện "Trạng"". Tạp chí Văn hóa dân gian,
số 80/2002, Tr. 54 - 56. Truy xuất từ:
/>19


3. Nguyễn Ngọc Chiến. 2019. “Định vị truyện Trạng trong dịng tự sự dân gian Việt Nam”.

Tạp chí Khoa học Đại học Đà Lạt, Tập 9, Số 4/2019, tr. 18-27. Truy xuất từ:
/>wAR0xV3FzS9aE_agu3NHEdhE9Xx2mGHEIB_UfvoQ4Jx7XUYf43dsQH95vZww
4. Nguyễn Văn Dân. (2003). Lý luận văn học so sánh. Hà Nội: Đại học quốc gia Hà Nội.
5. Trương Sỹ Hùng. (1994). Thơ Mênh Chây với truyện Trạng Việt Nam và Đông Nam Á.
Nghiên cứu Đông Nam Á số 3/1994 – Trích xuất từ:
/>6. Trương Sỹ Hùng (Biên soạn). (2018). Truyện Trạng Đông Nam Á. Hà Nội: Văn học
7. Bài viết "Lịch sử Campuchia" truy cập lần cuối lúc 12h53p ngày 15-11-2022 truy xuất
tại:
/>-P.Pelliot,_Le_Fou_Nan,_Hanoi_1903-3
TÀI LIỆU NƯỚC NGOÀI
1. Bookbridge.

The

education

system

in

Cambodia.

Truy

xuất

từ:

/>2. Carl G. Jung và đồng nghiệp. (1964). Man and his symbol. New York: DoubleDay.
3. Jacob. (1993). The short stories of Cambodian popular tradition. Truy xuất từ:

/>4. Eternalized, The Psychology of The Trickster, truy xuất từ:
/>
20


5. Nietupski, P. 2019. Medieval Khmer Society: The Life and Times of Jayavarman VII (ca.
1120–1218). ASIANetwork Exchange: A Journal for Asian Studies in the Liberal Arts,
26(1), pp.33–74. doi. Truy xuất tại: />6. Nietupski, P. 2019. Medieval Khmer Society: The Life and Times of Jayavarman VII (ca.
1120–1218). ASIANetwork Exchange: A Journal for Asian Studies in the Liberal Arts,
26(1), pp.33–74. doi. Truy xuất tại: />7. Phillipe Hunt. (1992). Semiotic and Agonistic Reason in Thmenh Chey. Viet Nam
Generation: A Journal of Recent History and Contemporary Issues. Truy xuất từ:
/>01.html?fbclid=IwAR1TAEcAi6DtrP9UkMdq-kGIkn18mKjbVbekdSuolOXr_9Jt7i5ciogosY

21



×