Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Cuộc đầu tranh triết học giữa democrite-ng không để cáchDanh mục:plato

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.06 KB, 19 trang )

Mục lục
Mở đầu 2
Nội dung 3
Chương 1. Khái lược về triết học Hy Lạp cổ đại 3
1.1 Điều kiện ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại 3
1.1.1 Điều kiện tự nhiên 3
1.1.2 Điều kiện kinh tế 3
1.1.3 Điều kiện chính trị - xã hội 3
1.2 Đặc trưng cơ bản của triết học cổ Hy Lạp 4
Chương 2. Triết học Democritus 5
Chương 3. Triết học Plato 7
Chương 4. Cuộc đấu tranh giữa trường phái triết học Democritus và Plato 10
4.1 Về thế giới quan 10
4.2 Về lý lụân nhận thức 11
4.3 Về chính trị - xã hội 13
4.4 Về khoa học và tôn giáo 14
Kết luận 16
Tài liệu tham khảo 17
1
Mở đầu
“Nền triết học Hy Lạp cổ đại là khúc dạo đầu cho một bản nhạc giao hưởng, bản
hợp xướng của triết học phương Tây. Một giai đoạn lịch sử khởi nguyên tiềm tàng của
triết học nhân loại làm tiền đề cho toàn bộ hệ thống triết học phương Tây sau này. Trong
bản nhạc giao hưởng đầy tính bác học của triết học phương tây, mà khúc dạo đầu lại rực
rỡ âm sắc trang hoàng đó là những trường phái triết học Hy Lạp cổ đại…”
– Thích Trí Tuệ –
Thật vậy, triết học Hy Lạp cổ đại in dấu trong lịch sử triết học không chỉ đối với
những thành tựu to lớn trong sự hình thành và phát triển mà còn đối với sự nhận thức, tư
tưởng nói chung của nhân loại. Nếu nói rằng thời kỳ hưng thịnh nhất của nền triết học Hy
Lạp cổ đại là khúc dạo đầu của bản giao hưởng triết học phương Tây, thì quá trình đấu
tranh giữa trường phái Democritus và trường phái Plato là những nốt nhạc vàng tuyệt đẹp


làm nên sự rực rỡ cho khúc dạo đầu ấy. Quá trình này mở ra một cuộc đấu tranh giữa
trường phái triết học duy vật và trường phái triết học duy tâm, đặt ra và giải quyết những
vấn đề lý luận về thế giới quan, phương pháp luận, vấn đề nhân sinh quan, chính trị - xã
hội, tạo nên mầm mống của các trường phái triết học cũng như góp phần thúc đẩy sự phát
triển của triết học trong lịch sử loài người.
2
Vào khoảng thời gian từ thế kỷ VI - IV TCN, Hy Lạp cổ đại đi vào sự phát triển
vượt bậc về kinh tế, chính trị và văn hóa. Sự phát triển này làm xuất hiện sự liên minh
giữa các quốc gia thành bang; trong đó, có hai trung tâm kinh tế - chính trị điển hình là
thành bang Athens và thành bang Sparta. Chiếm hữu nô lệ là phương pháp sản xuất phổ
biến trong thời kỳ này. Giai cấp chủ nô của xã hội Hy Lạp là một giai cấp không đồng
nhất, nó bao gồm hai tầng lớp cơ bản là chủ nô dân chủ và chủ nô quý tộc. Tầng lớp chủ
nô dân chủ tập trung đông đảo ở thành bang Athens, và thành bang Sparta là nơi tập trung
tầng lớp chủ nô quý tộc. Điều này dẫn đến sự đối lập giữa hai chính thể nhà nước: nhà
nước chủ nô dân chủ Athens và nhà nước chủ nô quân chủ Sparta, dẫn đến những mâu
thuẫn giữa giai cấp chủ nô và nô lệ, giữa tầng lớp chủ nô quý tộc và chủ nô dân chủ, giữa
sự lựa chọn kiểu nhà nước quân chủ và nhà nước dân chủ. Điều đó được thể hiện rõ trong
lĩnh vực tư tưởng, triết học giữa những người theo trường phát duy vật tiêu biểu là
Democritus và những người theo trường phái duy tâm tiêu biểu là Plato.
Để hoàn thiện tư duy lý luận xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
thì không có cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ lịch sử triết học, đặc biệt là triết
học Hy Lạp cổ đại mà nổi bật là sự đấu tranh giữa đường lối triết học Democrite và triết
học Platon. Từ đó để nhận thức được sâu sắc hơn quá trình hình thành chủ nghĩa duy vật,
sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm, nhìn thấy được nền móng của
khoa học, tôn giáo và nguồn gốc của phép biện chứng trong lịch sử phát triển loài người.
Chương 1. Khái lược về triết học Hy Lạp cổ đại
1.1 Điều kiện ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại
1.1.1 Điều kiện tự nhiên
Triết học Hy Lạp cổ đại chính là cái nôi của nền triết học phương Tây. Đây là
quốc gia rộng lớn, lớn hơn nhiều lần so với đất nước Hy Lạp ngày nay và có khí hậu ôn

hòa. Lãnh thổ bao gồm phần lục địa miền Nam bán đảo Balcans, miền ven biển phía Tây
Tiểu Á và nhiều hòn đảo ở miền Egee.
Hy Lạp được chia làm ba khu vực Bắc, Nam và Trung bộ. Khu vực trung bộ có
nhiều dãy núi ngang dọc và những đồng bằng trù phú, có thành phố lớn như Athens. Nam
bộ là bán đảo Peloponnese với nhiều đồng bằng rộng lớn phì nhiêu thuận lợi cho việc
trồng trọt. Vùng bờ biển phía Đông của bán đảo Balcans khúc khuỷu nhiều vịnh, hải cảng
thuận lợi cho ngành hàng hải phát triển. Các đảo trên biển Egee là nơi trung chuyển cho
việc đi lại, buôn bán giữa Hy Lạp với các nước ở Tiểu Á và Bắc Phi. Vùng ven biển Tiểu
3
Á là đầu mối giao thương giữa Hy Lạp và các nước phương Đông. Với điều kiện tự nhiên
thuận lợi như vậy nên Hy Lạp cổ đại sớm trở thành một quốc gia chiếm hữu nô lệ có một
nền công thương nghiệp phát triển, một nền văn hóa tinh thần phong phú đa dạng. Nơi có
nhiều triết gia mà triết lý của họ trở nên bất hủ.
1.1.2 Điều kiện kinh tế
Hy Lạp cổ đại nằm ở một vị trí vô cùng thuận lợi về khí hậu, đất đai, biển cả và
lòng nhiệt thành của con người là những tài vật, tài lực vô giá để cho tư duy bay bổng,
mở rộng các mối bang giao và phát triển kinh tế.
Vào thế kỷ VIII – VI TCN, đây là thời kỳ quan trọng nhất trong lịch sử Hy Lạp cổ
đại là thời kỳ nhân loại chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Lúc bấy giờ đồ
sắt được dùng phổ biến, năng xuất lao động tăng nhanh, sản phẩm dồi dào, chế độ sở hữu
tư nhân được cũng cố. Sự phát triển này đã kéo theo phân công lao động trong nông
nghiệp, giữa nghành trồng trọt và ngành chăn nuôi. Xu hướng chuyển sang chế độ chiếm
hữu nô lệ đã thể hiện ngày càng rõ nét.
1.1.3 Điều kiện chính trị - xã hội
Từ điều kiện kinh tế đã dẫn đến sự hình thành chính trị - xã hội, xã hội phân hóa ra
làm hai giai cấp xung đột nhau là chủ nô và nô lệ. Lao động bị phân hóa thành lao động
chân tay và lao động trí óc. Đất nước bị chia phân thành nhiều nước nhỏ. Mỗi nước lấy
một thành phố làm trung tâm. Trong đó, Sparta và Athens là hai thành phố cổ hùng mạnh
nhất, nòng cốt nhất trong lịch sử Hy Lạp cổ đại.
Thành bang Athens nằm ở vùng đồng bằng thuộc Trung bộ Hy Lạp, có điều kiện

địa lý thuận lợi nên đã trở thành một trung tâm kinh tế, văn hóa của Hy Lạp cổ đại, và là
cái nôi của triết học Châu Âu. Tương ứng với sự phát triển kinh tế, văn hóa là thiết chế
nhà nước chủ nô dân chủ Athens.
Thành Sparta nằm ở vùng bình nguyên, đất đai rất thích hợp với sự phát triển nông
nghiệp. Chủ nô quý tộc thực hiện theo lối cha truyền con nối. Chính vì thế Sparta đã xây
dựng một thiết chế nhà nước quân chủ, thực hiện sự áp bức rất tàn khốc đối với nô lệ.
Do sự tranh giành quyền bá chủ Hy Lạp, nên hai thành phố trên tiến hành cuộc
chiến tranh khốc liệt kéo dài hàng chục năm và cuối cùng dẫn đến sự thất bại của thành
Athens. Đó cũng đánh dấu sự suy tàn của Hy Lạp, mở ra cơ hội xâm lược của đế chế La
Mã, đất nước phía Bắc Hy Lạp. Chính vì thế, đến thế kỷ II TCN, La Mã chinh phục Hy
4
Lạp, tuy nhiên Hy Lạp lại chinh phục La Mã về văn hóa. Ngoài ra, trong quá trình buôn
bán, trao đổi hàng hóa với các nước phương Đông như Ai Cập, Babylon, Ấn Độ… người
Hy Lạp cổ đại đã kế thừa được rất nhiều kiến thức của người phương Đông mà trước hết
là kiến thức khoa học tự nhiên.
1.2 Đặc trưng cơ bản của triết học cổ Hy Lạp
Đỉnh cao của nền văn minh cổ đại đó chính là triết học Hy Lạp cổ đại, và cũng là
điểm xuất phát của lịch sử thế giới. Nhìn chung triết học Hy Lạp có những đặc trưng sau:
Thứ nhất, thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai cấp chủ
nô thống trị. Đó là tầng lớp chủ nô dân chủ tiến bộ và tầng lớp chủ nô quý tộc phản động,
tạo ra sự phân chia rõ rệt giữa các trường phái: duy vật – duy tâm; biện chứng – siêu
hình; vô thần – hữu thần. Điển hình là cuộc đấu tranh giữa triết học Democritus – Plato.
Thứ hai, gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các
lĩnh vực khác nhau, nhằm xây dựng một bức tranh về thế giới như một hình ảnh chỉnh thể
thống nhất mọi sự vật, hiện tại xảy ra trong nó.
Thứ ba, triết học Hy Lạp cổ đại có xu hướng giải quyết vấn đề bản nguyên của thế
giới và vấn đề cơ bản của triết học. Quan điểm đi trước thời đại của Democritus về thuyết
nguyên tử luận là một bằng chứng cụ thể. Democritus cho rằng bản nguyên đầu tiên của
thế giới là nguyên tử, nguyên tử là một yếu tố vật chất có tính quy định và tính tích cực
nội tại, luôn vận động trong chân không, tác động lẫn nhau theo những quy luật khách

quan là cơ sở cho thế giới vạn vật.
Thứ tư, triết học cổ Hy Lạp còn ở trình độ trực quan, chất phát, đặc biệt hệ thống
triết học duy vật còn mang tính tự phát và biện chứng sơ khai.
Thứ năm, triết học cổ Hy Lạp coi trọng vấn đề con người, đạo đức, chính trị - xã
hội. Các triết gia Hy Lạp cổ đại đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về con người, cố
gắng lý giải về linh hồn và thể xác; về đạo đức, chính trị và xã hội. Nhìn chung, tư tưởng
triết học thời bấy giờ của các triết gia đều khẳng định con người là tinh hoa cao nhất của
tạo hóa.
Chương 2. Triết học Democritus
Democritus (460 – 370 TCN) là một triết gia người Hy Lạp, ông sinh trưởng tại
thành phố Abdera, một địa điểm trên bờ biển thuộc xứ Thrace (phần đất thuộc Hy Lạp và
5
Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay). Democritus là một đại biểu xuất sắc của nền triết học Hy Lạp cổ
đại, ông là học trò của Leucippus và là người kế tục tư tưởng của Leucippus về nguyên tử
để xây dựng nên học thuyết nguyên tử luận về thế giới riêng cho mình. Ông cho rằng bất
kỳ sự vật nào cũng được tạo thành từ nguyên tử (nguyên tử – atom – nghĩa là phần tử nhỏ
nhất) và chân không. Nguyên tử và chân không là những yếu tố tạo nên vạn vật và tồn tại
vĩnh cửu, nguyên tử thì đa dạng, đậm đặc, còn chân không thì trống rỗng và thuần nhất.
Học thuyết nguyên tử của Democritus khẳng định nguyên tử là khởi nguyên, là
nguồn gốc đầu tiên của thế giới sự vật, ngay cả linh hồn cũng được hình thành từ nguyên
tử. Theo ông, nguyên từ là các hạt vật chất nhỏ nhất, không thể phân chia, đồng nhất với
chính nó, không có màu sắc, âm thanh, mùi vị, nguyên tử là bất biến, vĩnh viễn. Nguyên
tử vận động không ngừng trong không gian, trong quá trình đó chúng va chạm vào nhau,
kết hợp với nhau sinh ra sự vật. Nguyên tử tồn tại vĩnh viễn, chỉ có sự vật do nó tạo ra
mới biến đổi, chuyển hóa. Các sự vật da dạng tồn tại trong thế giới là do sự kết hợp từ
các loại nguyên tử khác nhau, số lượng nguyên tử khác nhau và sự sắp xếp vị trí các
nguyên tử khác nhau. Dựa trên quan điểm của mình, Democritus đã vận dụng để lý giải
cho sự hình thành vũ trụ, Trái Đất, bầu trời và các vì sao… Ông cho rằng các nguyên tử
tồn tại khắp không gian nhưng mật độ phân bố không đều, những nơi mật độ cao các
nguyên tử luôn vận động và tạo thành các cơn xoáy, dưới tác động của cơn xoáy, các

nguyên tử to, xấu dồn vào trung tâm tạo thành Trái Đất, các nguyên tử nhẹ bắn ra xa kết
hợp với nhau tạo thành các hành tinh, vì sao… Những nguyên tử nhẹ hơn nữa bị bắn ra
xa hơn và tạo nên bầu trời, ta thấy bầu trời có hình cong là do nó tạo nên từ các nguyên tử
hình cong.
Democritus cho rằng sự kết hợp cũng như phân li giữa các nguyên tử bao giờ cũng
có tính tất yếu, tính nhân quả khách quan. Theo ông, trong tự nhiên không có tính ngẫu
nhiên, ngẫu nhiên đối với ông chỉ là một hiện tượng không có nguyên nhân, là quan niệm
chủ quan của con người. Ông phủ nhận quan niệm duy tâm, tôn giáo cho rằng thần linh
sản sinh ra sự sống và con người. Sự sống và con người đều do quá trình biến đổi tự
nhiên từ thấp đến cao trong điều kiện môi trường nước, bùn đất và nhiệt độ phù hợp. Ông
còn cho rằng sự vật không có linh hồn, còn sinh vật thì có. Linh hồn được tạo nên bởi
nguyên tử hình cầu, vận động với vận tốc lớn và sinh ra nhiệt, nhiệt làm cho cơ thể hưng
phấn và vận động, cái chết cũng chỉ là sự phân tán của các nguyên tử cấu tạo nên thể xác
và linh hồn.
Trong lý luận nhận thức của Democritus, ông cho rằng đối tượng của nhận thức là
thế giới vật chất ở bên ngoài con người, sự nhận thức là sự phản ánh của con người về thế
giới ấy. Ông chia nhận thức thành hai loại, đó là nhận thức trong sáng hay còn gọi là tư
6
duy lý luận và nhận thức mờ tối hay tư duy cảm tính. Theo ông, tư duy cảm tính là tư duy
còn nhiều hạn chế do chưa biết rõ về bản chất của đối tượng. Tư duy trí tuệ là giai đoạn
cao của quá trình nhận thức, những hiểu biết có được không do sự tác động trực tiếp mà
có được thông qua hoạt động tư duy (suy luận, phán đoán, phân tích… các sự kiện, dữ
liệu mà giai đoạn tư duy cảm tính đem lại để từ đó vạch ra được bản chất của sự vật, đối
tượng khách quan).
Trong quan điểm về chính trị - xã hội, Democritus bảo vệ chế độ chiếm hữu nô lệ
nhưng đứng trên lập trường của tầng lớp chủ nô dân chủ có tiến bộ, kịch liệt chống lại
phái chủ nô quý tộc. Ông ca ngợi tình thân ái, tính ôn hòa, lợi ích và quyền lợi chung của
công dân tự do, kêu gọi các chủ nô phải đối xử với các nô lệ như các bộ phận trên cơ thể
con người, ủng hộ nền dân chủ nhưng không hạ thấp vai trò của lý trí. Theo ông, sự hài
lòng hay không hài lòng là động lực của hành vi con người, sự hoàn thiện đạo đức của

mỗi người phải được chỉ đạo bởi lý trí. Vì vậy, nói cho cùng vấn đề trau dồi đạo đức là
vấn đề làm sao cho con người đạt được những tri thức cần thiết.
7
Chương 3. Triết học Plato
Plato (427 – 347 TCN) là một trong những nhà triết học xuất sắc nhất trong nền
triết học Hy Lạp cổ đại, là một trong những đại biểu của triết học duy tâm trong lịch sử
triết học, một trong những bộ óc bách khoa của Hy Lạp cổ đại.
Plato sinh ra trong một gia đình quý tộc thượng lưu, cha ông làm chủ nô ở một
vùng thuộc đất của đảo này, có tên là Ariston (thuộc họ quốc vương Codrus ) ở Athens.
Mẹ ông là Perictione, sinh trưởng trong một gia đình quý tộc thuộc dòng họ nhà lập pháp
Solon. Sống trong một môi trường như vậy nên chúng ta không quá ngạc nhiên trước
những bộc lộ thiên tài của ông từ khi còn nhỏ tuổi, cũng như việc ông sớm bước vào đời
sống văn hóa chính trị. Xây dựng các quan niệm về ý chí, về thế giới và về cuộc đời là
hoạt động chính của ông.
Plato có tên thật là Aristocle, vì có dáng vóc cao lớn, vạm vỡ, đặc biệt có đôi vai
to, rộng nên ông được gọi là Plato (theo ngôn ngữ Hy lạp Plato có nghĩa là vai rộng).
Sinh ra và lớn lên giữa thời loạn lạc, ông được chứng kiến cuộc chiến tranh
Peloponnesus, và như đã biết, trong cuộc chiến này sự thất bại của dân chủ chủ nô
Athens đã tạo điều kiện để phái chủ nô quý tộc đứng lên giành chính quyền và ra sức
truyền bá tư tưởng phản động và triết học duy tâm. Ngay ở thời gian này cuộc đấu tranh
giữa hai phái triết học duy vật và duy tâm đã diễn ra gay gắt mà sau này hình thành nên
cuộc đấu tranh giữa hai đường lối triết học Democritus và đường lối triết học Plato.
Bước ngoặt cuộc đời thực sự của Plato là sự quen biết và được làm học trò của
Socrates, khi đó ông mới 20 tuổi. Bản thân Plato đã đánh giá sự kiện này “Là ân huệ của
vận mệnh để ông sinh ra lúc Socrates sinh thời”. Có thể thấy Plato đã chịu ảnh hưởng lớn
từ người thầy của mình. Học thuyết triết học của Plato dựa trên tiền đề lý luận về cái phổ
biến của Socrates, lý luận về tồn tại duy nhất bất biến của trường phái Elê và lý luận con
số của trường phái Pitago.
Quan niệm của Plato về thế giới là học thuyết về “ý niệm” là nguồn gốc của thế
giới, sinh ra mọi vật, kể cả con người và ý thức của con người. Ý niệm tồn tại thuần túy

trừu tượng bên ngoài các sự vật, kể cả con người và ý thức con người.
8
Ông chia thế giới làm hai loại, thế giới ý niệm và thế giới của các sự vật cảm tính.
Thế giới ý niệm là thế giới tồn tại chân thực, bất biến, vĩnh viễn, tuyệt đối, là cơ sở tồn tại
của thế giới các sự vật cảm tính. Thế giới của các sự vật cảm tính là thế giới tồn tại không
chân thực, thường xuyên biến đổi, phụ thuộc và thế giới ý niệm, do các ý niệm sản sinh
ra.
Theo Plato, thế giới ý niệm là nguyên mẫu, nó có trước và thế giới vật chất là cái
được sinh ra, nó là thế giới cảm tính. Thế giới vật chất chẳng qua là cái bóng, là sự mô
phỏng, bắt chước thế giới ý niệm, thế giới ý niệm quyết định thế giới vật chất, không có
thế giới ý niệm thì không có thế giới vật chất. Học thuyết ý niệm của Plato được ông thể
hiện qua một ví dụ huyền thoại của mình, ví dụ này còn được gọi là Dụ ngôn hang động:
Thế giới con người giống như một hang đá; trong đó có một đám tù nhân bị xiềng
quay mặt vào vách tường. Họ chỉ có thế thấy được bóng của những sinh hoạt đích thực,
được chiếu qua miệng hang và in bóng trên vách đáy hang. Khi đó, các tù nhân tưởng
các bóng đó là đối tượng thực sự. Rồi có một tù nhân được thả ra và thấy tận mắt chính
các sự vật ở ngoài và nguồn ánh sáng thật, anh ta khám phá ra một thế giới khác hẳn.
Anh trở vào hang, thuật lại cho các bạn về điều mình đã tận mắt thấy. Những người này
không tin và chế nhạo hắn, bởi vì những tù nhân còn lại này với chính những đôi mắt của
họ cũng “thấy” và tin những điều họ thấy là sự thấy là thực tại, chân lý.
Đó là thân phận của con người tại thế. ở trần gian này, con người bị “mờ mắt” vì
những ảo ảnh sai lạc do giác quan mang lại; bởi giác quan lại chỉ thấy được những điều
không vững chắc, hay thay đổi, phù phiếm. các ý niệm mới thật sự là thực tại, trong một
thế giới vĩnh cửu, trường tồn, các sự vật trần gian chỉ là những biển hiện bất toàn của
thế giới ý niệm.
Các ý niệm, theo cách hiểu của Plato là các khái niệm, tri thức đã được khách
quan hóa, chúng tồn tại mãi mãi từ xưa đến nay. Ý niệm không phải là những ý niệm
trong đầu ta, vì ý niệm trong đầu của ta không phải là nguyên nhân của các sự vật. Nó
cũng không phải là ý niệm của thiên Chúa như trong Kito giáo. Đây là những ý niệm
khách quan, tự nội, không lệ thuộc một chủ tri nào. Ý niệm là cái gì đơn nhất, tuy có

nhiều người, nhưng chỉ có một ý niệm về người, chỉ có một ý niệm cho mỗi loại vật. Đối
với ông, thế giới ý niệm là vĩnh viễn, bất biến, không phân chia được và chỉ được nhận
thức duy nhất bằng lý tính. Ông nhìn thấy cây cối xung quanh, cây Sồi, cây Nguyệt
Quế… từ các cây ấy ông ý niệm về cây. Các cây ấy không tồn tại vĩnh hằng, mưa bão có
thể quật đổ chúng, con người có thể đốn chúng, ngay cả cây cối rắn chắc theo thời gian
cũng sẽ chết khô rồi mục nát, nhưng ý niệm về cây sẽ tồn tại, không bao giờ hư hại. Đặc
biệt sau cái chết của thầy ông là Socrates, mặc dù người thầy đã chết nhưng đối với ông
9
chết như là còn sống, sống trong tâm tưởng người học trò, ý niệm về thầy mãi mãi trường
tồn. Thời gian không chi phối được ý niệm. Thời gian có thể cuốn đi những gì ta nhìn
thấy xung quanh, nhưng ý niệm thì vẫn còn, ý niệm ở ngoài không gian và thời gian.
Về quan điểm nhận thức luận, ta thấy được lý luận nhận thức và học thuyết về linh
hồn của Plato được xây dựng trên cơ sở bản thể luận duy tâm khách quan mà cốt lõi của
chúng là học thuyết về ý niệm và học thuyết về linh hồn bất tử. Ông cho rằng, nhận thức
cảm tính không phải là nguồn gốc của tri thức chân thực, mà tri thức chân thực hay nhận
thức ý niệm, chỉ có thể đạt được bằng nhận thức lý tính và thể hiện trong khái niệm. Theo
ông, mọi tri thức phải có tính khái quát cao. Sự nhận thức của con người không phải là sự
phản ánh thế giới vật chất mà là sự hồi tưởng của linh hồn bất tử, hồi tưởng lại những gì
mà linh hồn bất tử đã quên đi khi nằm trong thế giới ý niệm. Linh hồn bất tử vốn thuộc
về thế giới ý niệm, khi đó nó biết hết tất cả những gì thuộc về thế giới ý niệm nhưng vì
thế giới ý niệm luôn vận động nên linh hồn bất tử vận động xuống mặt đất, nhập vào con
người, biến con người từ một thực thể bất động vô tri, vô giác thành một cơ thể năng
động và có tri giác. Nhưng cũng từ đó linh hồn bất tử quên hết những gì biết được ở thế
giới ý niệm, khi nó hồi tưởng những gì đã biết thì tạo ra sự nhận thức.
Quan niệm này của Plato có một số yếu tố hợp lý khi ông đề cao vai trò của tư
duy, sự tác động trở lại của tư duy đối với vật chất nhưng do ông đề cao quá theo hướng
tuyệt đối hóa nên trở thành duy tâm; đồng thời khi thừa nhận linh hồn bất tử biết hết mọi
điều trong thế giới ý niệm là ông đã khẳng định con người có khả năng nhận thức hoàn
toàn về thế giới.
Về quan điểm chính tri – xã hội, Plato đã xây dựng học thuyết “Nhà nước lý

tưởng” trên cơ sở học thuyết về linh hồn và học thuyết ý niệm, học thuyết đạo đức, đặc
biệt là từ sự phê phán hạn chế của những hình thái nhà nước đã tồn tại trong lịch sử. Theo
ông, đã có ba hình thái nhà nước tồn tại trước đó và tất cả đều xấu xa, tồi tệ. Trong đó
hình thái nhà nước quân chủ được xây dựng và duy trì trên cơ sở làm giàu đến vô độ và
cách thức hoạt động chủ yếu của nó là ăn cưới và đàn áp; hình thái nhà nước dân chủ là
hình thái xấu xa, tồi tệ nhất vì quyền lực của nhà nước thuộc về số đông. Theo ông, thể
chế nhà nước lý tưởng nhất là nhà nước cộng hòa vì nó được xây dựng với ba đẳng cấp
(tương ứng với ba phần của linh hồn, ba phẩm chất đạo đức), đó là đẳng cấp cai trị (có
linh hồn trí tuệ, phẩm chất thông thái và chủ yếu là các triết gia), đẳng cấp vệ quận (bảo
vệ bộ máy cai trị và an ninh xã hội, có phẩm chất dũng cảm, trung thành), đẳng cấp nông
dân và thợ thủ công (có nhiệm vụ tạo ra vật chất nuôi sống xã hội, có phẩm chất cần cù,
chịu khuất phục và chế ngự dục vọng). Ông cho rằng giai cấp nô lệ không thuộc một
đẳng cấp nào hết vì họ không phải là con người, họ chỉ là một động vật biết nói tiếng
10
người, là một công cụ biết nói, họ không có một quyền nào khác ngoài quyền được làm
nô lệ cho người khác.
Chương 4. Cuộc đấu tranh giữa trường phái triết học Democritus và Plato
4.1 Về thế giới quan
- Democritus:
Theo Democritus, mọi vật trên thế giới đều do vật chất tạo ra và vật chất có bản
nguyên duy nhất là nguyên tử. Ông cho rằng nguyên tử là cơ sở cấu tạo nên vạn vật,
nguyên tử là hạt vật chất cực nhỏ, không nhìn thấy được, không phân chia được, không
mùi vị, âm thanh, mau sắc, không khác nhau về chất mà chỉ khác về hình thức, trật tự và
tư thế. Ông còn cho rằng sự vật khác nhau là do nguyên tử được cấu tạo theo những hình
thức khác nhau, sắp xếp theo trật tự khác nhau.
Trên quan điểm của ông, nguyên tử có hai loại: một loại thô ráp, xù xì, hình khối
thì tạo ra thân xác, vật chất; loại nhẹ, tế nhuyễn, tròn, lâng lâng tạo ra linh hồn. Mọi sự
biến đổi của vật chất thực chất là sự thay đổi trình tự sắp xếp của nguyên tử tạo nên
chúng, còn bản than nguyên tử (atom – hạt vật chất nhỏ nhất) thì không thay đổi.
Democritus cũng là người đầu tiên đưa ra khái niệm về không gian. Không gian là

những khoảng trống giữa các vật thể, nhờ đó mà các vật thể có thể tụ lại hoặc giãn ra.
Trong không gian vô tận của vũ trụ, những nguyên tử tự vận động, di chuyển về mọi
phía, xô đẩy lẫn nhau tạo thành những cơn lốc xoáy, điều này khiến các nguyên tử nặng,
to bị đẩy quy tụ vào tâm, các nguyên tử nhỏ hơn bị bắn ra vòng ngoài biên, nhờ đó mà
Trái Đất được hình thành tại trung tâm và xung quanh là các hành tinh, ngôi sao, bầu
trời… được tạo thành. Do cách vận động đó nên các nguyên tử cùng kích thước, cùng
11
hình thức kết hợp với nhau tạo thành lửa, đất, nước, không khí. Democritus đã khẳng
định: Vũ trụ là vô tận và vĩnh viễn, có vô số thế giới vĩnh viễn phát sinh, phát triển và
tiêu diệt.
Ông cho rằng, vật chất luôn vận động và vận động của vật chất là vận động của
nguyên tử. Quan điểm về vận động gắn liền với vật chất là một phỏng đoán có giá trị đặc
biệt. Theo ông vận động của nguyên tử là vĩnh viễn và nguyên nhân vận động là động lực
tự thân vốn có của nó, tự nó còn khoảng trống (chân không) là điều kiện vận động của
nó. Tuy nhiên ông chưa lý giải được nguồn gốc của vận động.
Bên cạnh đó, Democritus còn cho rằng vật chất vận động tuân theo quyết định
luận. Đó là sự ràng buộc của luật nhân quả, thừa nhận tính tất yếu và tính khách quan của
các hiện tượng tự nhiến. Quan điểm này của ông chống lại quan điểm mục đích luận.
Quan điểm mục đích luận là quan điểm duy tâm cho rằng cái thống trị trong tự nhiên
không phải là tính nhân quả mà tính có mục đích. Quyết định luận là quan điểm có giá trị
của Democritus đóng góp cho nền triết học Hy Lạp cổ đại. Lenin đã từng đánh giá: Việc
đưa ra quyết định luận, tính nhân quả, tính khách quan là thành tựu lớn nhất của triết học
thời cổ đại.
- Plato:
Với Plato, ông coi ý niệm là bản nguyên duy nhất hình thành nên toàn bộ thế giới.
Ông chia thế giới thành hai loại: thế giới của những ý niệm và thế giới các sự vật cảm
tính.
Thế giới của những ý niệm (khái niệm) là thế giới của những cái phi cảm tính,
phi vật thể, là thế giới bất biến của những thực thể tinh thần tồn tại khách quan bên ngoài
con người. Thế giới ý niệm tồn tại chân thực, bất biến, vĩnh viễn, tuyệt đối, là cơ sở tồn

tại và quy định trật tự chung của thế giới các sự vật cảm tính.
Thế giới các sự vật cảm tính là thế giới của các vật thể nhận biết được bằng các
giác quan, là thế giới tồn tại không chân thực, thường xuyên biến đổi, phụ thuộc vào thế
giới các ý niệm, là cái bóng của ý niệm, do ý niệm sản sinh ra, là sự mô phỏng và là bản
sao của thế giới ý niệm.
Plato cho rằng sự vật cảm tính xuất hiện và tồn tại là do ý niệm in hình vào vật
chất. Vật chất chỉ là hình bóng phản chiếu của ý niệm. Vật chất tồn tại được cũng do các
ý niệm. Chỉ có ý niệm mới tồn tại chân thực, mới là cái chung tuyệt đối, tồn tại vĩnh viến,
mới là đối tượng của nhận thức chân lý. Bất kỳ sự vật nào cũng chỉ là sự thể hiện đặc thù
12
các ý niệm tương ứng dưới dạng vật chất. Các ý niệm theo cách hiểu của Plato là các khái
niệm, tri thức đã được khách quan hóa, chúng không sinh ra hay mất đi từ cái gì đó mà
tồn tại vĩnh viễn, bất biến, không phân chia được, tách biệt khỏi thế giới các sự vật cảm
tính và chỉ được nhận thức duy nhất bằng lý tính. Nhưng chúng tồn tại không mang tính
thuần nhất mà là tổng thể các ý niệm khác nhau, trong đó chủ yếu mang tính đạo đức. Nó
đối lập với thế giới cảm tính không chỉ như sự đối lập giữa bản chính vaới bản sao, mà
còn thể hiện như sự đối lập giữa phúc lợi và cái ác. Trong tất cả các ý niệm thì ý niệm
phúc lợi là cao nhất, nó là ý niệm của các ý niệm, là ngọn nguồn của chân lý, của cái đẹp
và sự hài hòa trong vũ trụ.
Với học thuyết ý niệm, Plato đã đứng trên lập trường duy tâm khách quan chống
lại lập trường duy vật của Democritus. Việc đứng trên lập trường duy tâm để giải thích
thế giới, tất yếu sẽ phát sinh những mâu thuẫn trong logic và dẫn đến mê tín, thần linh.
Song với việc nêu cao vai trò của khái niệm trong nhận thức, với việc khẳng định mọi sự
vật đều liên quan đến các ý niệm, bất kỳ sự vật nào cũng đều xuất hiện trong mối lien hệ
với các ý niệm, Plato đã đóng một vai trò to lớn trong việc nghiên cứu bản chất của khái
niệm cũng như trong việc phát triển tư duy lý luận nhân loại nói chung, thực hiện một
bước tiến trong việc chuyển triết học từ tư duy thuần túy tới tư duy khái niệm.
4.2 Về lý luận nhận thức
- Democritus:
Khác với những nhà triết học trước đây và với Plato, Democritus cho rằng đối

tượng của nhận thức luận là thế giới vật chất chứ không phải là thần linh, ông phủ nhận
vai trò nhận thức cảm tính và tuyệt đối hóa vai trò nhận thức lý tính. Ông chia nhận thức
con người làm hai dạng: cảm tính và lý tính.
Nhận thức cảm tính hay còn gọi là nhận thức “mờ tối” là nhận thức do các giác
quan đem lại. Nó có vai trò nhất định trong nhận thức thế giới, cho phép ta cảm nhận
được tính sinh động và phong phú của sự vật. Tuy nhiên nó chỉ dừng lại ở những cái
riêng lẻ, bề ngoài mà ai cũng có thể nhận thức được, nó chưa đạt tới chân lý nên nó là
nhận thức “mờ tối”, là nhận thức theo “dư luận chung”.
Nhận thức lý tính hay còn gọi là nhận thức “trong sáng” là nhận thức thông qua
những phán đoán logic, đó là dạng nhận thức được bản chất của sự vật. Ông cho rằng,
nhận thức “mờ tối” chỉ nhận thức được mùi vị, màu sắc, âm thanh… còn nhận thức
“trong sáng” mới nhận thức được nguyên tử và chân không. Ở đây Democritus đã phân
biệt hai trình độ nhận thức nhưng chưa làm sáng tỏ mối quan hệ biện chứng giữa chúng.
13
Hai dạng nhận thức trên có lien hệ chặt chẽ với nhau và đều có vai trò quan trọng,
nhưng nhận thức “lý tính” đáng tin cậy hơn, nó mới cho chúng ta biết được những tri
thức đích thực của sự vật. Vì thế, con người cần vươn lên đi sâu hơn để nhận thức được
bản chất sự vật. Ngoài ra, Democritus còn có công trong việc đặt nền móng cho logic
học, Ông là người sáng lập ra logic học quy nạp và nêu ra quy tắc logic, các phương pháp
quy nạp, so sánh, giả thuyết, trong đó phương pháp quy nạp chiếm vị trí nổi bật. Ông coi
logic học là công cụ để nhận thức các hiện tượng tự nhiên.
- Plato:
Plato nghiên cứu nhận thức con người với sự vật phụ thuộc ý niệm tuyệt đối. Ông
đề cao tư duy, lý tính là thứ có trước, quyết định đối với hoạt động trí tuệ, tư duy con
người dưới sự mách bảo của thần linh. Lý luận nhận thức của ông dựa trên hai học
thuyết: học thuyết ý niệm và học thuyết linh hồn bất tử.
Học thuyết ý niệm: theo Platon tồn tại ở bốn dạng, tương ứng với mỗi dạng của ý
niệm có một dạng tri thức. Thứ nhất đó là dạng ý niệm tối cao, ý niệm tối cao là ý niệm
được nhận thức bởi tri giác trí tuệ. Thứ hai là các đối tượng của tri thức toán học như
điểm, đường thằng… được hiểu như một dạng trung gian gắn liền với các ý niệm và các

sự vật cảm tính, những đối tượng này được nhận thức bởi trí tuệ nhưng không phải bằng
trực giác mà bằng suy diễn. Thứ ba là dạng nhận thức các sự vật cảm tính, các sự vật cảm
tính, các kiến giải mang tính cá biệt, thay đổi thường xuyên, do vậy không phải tri thức
thực sự. Dạng tri thức cuối cùng ở cấp độ thấp nhất là những hình ảnh của sự vật cảm
tính, tức là những sự vật do con người làm ra từ những vật tự nhiên cũng như ý tưởng của
ta về chúng. Dạng tồn tại này được nhận thức bởi các tưởng tuợng nên không thể coi là
tri thức.
Plato chỉ thức thừa nhận tri thức chân lý đạt được bằng nhận thức lý tính, thể hiện
trong khái niệm. Theo ông mọi tri thức phải có tính khái quát cao, tức là phải đạt được
bằng nhận thức lý tính. Ông cho rằng khoa học là một hệ thống tri thức về các ý niệm,
đối tượn toán học, còn sản phẩm của kinh nghiệm, nhận thức cảm tính đều chỉ là những
kiến giải tưởng tượng về các vật chất đơn thuần, chỉ thích ứng với những ý thức thông
thường. Các tri thức đem đến cho chúng ta những chân lý tuyệt đối mới là cơ sở của khoa
học.
Học thuyết linh hồn bất tử: để cho khái niệm ý niệm của mình được mọi người
hiểu, Plato đã đưa ra khái niệm linh hồn. Ý niệm là đối tượng của nhận thức lý tính và
con người nhận thức lý tính bằng sự hồi tưởng của linh hồn bất tử. Tức là toàn bộ quá
14
trình nhận thức của con người chính là quá trình hồi tưởng lại các tri thức, những điều mà
linh hồn đều đã biết trước đây nhưng rồi lãng quên.
Từ học thuyết linh hồn bất tử, Plato đã phát triển phương pháp biện chứng thành
phương pháp có hiệu quả để thức tỉnh linh hồn hồi tưởng lại các ý niệm và đẩy nó đến
cực đoan. Ông cho rằng phép biện chứng là tối cao trong mọi khoa học, là công cụ nhận
thức về thế giới ý niệm, tách rời các sự vật cảm tính. Đây là biện chứng duy tâm, biện
chứng của các khái niệm, tách rời hiện thực, từ bỏ cảm giác, chỉ nhận thức bằng tư duy
thuần túy, vì vậy nó không thể là công cụ nhận thức thế giới.
Về logic học, Plato nêu lên các hình thức của tư duy bao gồm khái niệm, phán
đoán, suy lý, song đều giải thích theo quan điểm duy tâm. Ông vận dụng suy lý theo hai
con đường, con đường ý niệm và con đường đi từ giống đến loài. Khác với logic khách
quan của Democritus, logic học của Plato là thần bí nhằm chứng minh cho bản nguyên

thế giới là ý niệm.
4.3 Quan niệm về chính trị - xã hội
- Democritus
Đứng trên lập trường dân chủ chủ nô, Democritus quyết liệt đấu tranh chống lại
bọn chủ nô quý tộc để bảo vệ chế độ chủ nô dân chủ mà quyền lợi gắn liền với sự phát
triển của thương mại và công nghiệp, ca ngợi quyền lợi gắn liền với sự phát triển của
thương mại và công nghiệp, ca ngợi quyền lợi chung của công dân tự do. Tuy nhiên với
xuất thân từ tầng lớp chủ nô, ông chỉ đề cập đến dân chủ của chủ nô, của công dân tự do,
còn bản thân nô lệ thì ông khuyên họ nên tuân theo người chủ của mình.
Ông còn cho rằng nền tảng của chế độ dân chủ chủ nô là nhà nước cộng hòa dân
chủ. Nhà nước có vai trò duy trì trật tự và điều hành hoạt động xã hội; trừng phạt nghiêm
khắc những kẻ vi phạm pháp luật hay các chuẩn mực đạo đức.
- Plato
Đối với Plato, xã hội không thể nào có sự bình đằng hoàn toàn giữa mọi người,
cần phải duy trì các hạng người khác nhau. Nhà nước xuất hiện để đáp ứng nhu cầu đó,
công lý là mọi người làm hết trách nhiệm của mình, biết sống đúng với tầng lớp của
mình. Theo ông, nhà nước cộng hòa là “nhà nước lý tường”, xã hội của nhà nước lý
tưởng được chia thành ba đẳng cấp dựa theo đặc trưng đạo đức của từng đẳng cấp: Đẳng
cấp thứ nhất là các nhà triết học, nhà thông thái đảm nhận vị trí lãnh đạo nhà nước; đẳng
cấp thứ hai là các vệ quân làm nhiệm vụ bảo vệ “nhà nước lý tưởng”; đẳng cấp thứ ba là
15
nông dân và thợ thủ công, có nhiệm vụ chủ yếu làm ra của cải vật chất, bảo đảm cuộc
sống cho nhà nước. Nô lệ, theo ông, không có linh hồn, không có đạo đức, nô lệ chỉ là
động vật biết nói tiếng người vì vậy nô lệ không có đẳng cấp nào trong “nhà nước lý
tưởng”.
Quan niệm của Plato về chính trị - xã hội chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Một mặt
ông đòi xóa bỏ tư nhân, bởi sở hữu tư nhân là nguồn gốc sinh ra điều ác, một mặt ông lại
cho rằng cần phải duy trì sự khác nhau giữa các đẳng cấp và bất bình đẳng. Hơn nữa, một
mặt ông đề cao hình thức cộng hòa, mặt khác ông ra sức bảo vệ địa vị của tầng lớp chủ
nô quý tộc, chống lại nhà nước dân chủ Athens, coi nó là hình thức nhà nước xấu xa nhất,

vì nó chống lại quyền thống trị của chủ nô quý tộc.
4.4 Vấn đề về khoa học và tôn giáo
- Democritus
Ông đề cao vai trò khoa học, tôn giáo trong việc tìm kiếm chân lý, hình thành tri
thức khoa học và tư tưởng cho định hướng phát triển khoa học. Thuyết nguyên tử của ông
phải mất 2000 năm để loài người thực sự thấu hiểu và vận dụng.
Democritus cực kỳ phê phán quan niệm cho rằng sự sống do thần thánh sinh ra.
Theo ông, sự sống là kết quả của quá trình biến đổi của bản thân tự nhiên; linh hồn, được
cấu tạo bởi các nguyên tử hình cầu, không phải là hiện tượng tinh thần, ý thức mà là hiện
tượng vật chất. Ông bác bỏ quan niệm tôn giáo về linh hồn bất tử và cho rằng linh hồn
chết cùng với cái chết của thể xác.
Triết học Democritus còn đóng vai trò quan trọng trong chủ nghĩa vô thần. Ông
cho rằng sở dĩ người ta có quan niệm về thần linh là vì con người bất lực trước tự nhiên,
bị ám ảnh bởi các hiện tượng khủng khiếp của thiên nhiên.
- Plato
Quan điểm triết học của Plato là quan điểm duy tâm khách quan, ông cho rằng thể
xác con người được cấu thành từ lửa, nước, không khí và đất nên không bất diệt. Linh
hồn con người mới là bất tử. Linh hồn được tạo ra bởi thượng đế, nó cự ngụ trong thể xác
người sống, khi con người chết đi thì linh hồn vẫn tồn tại.
Đối với quan niệm vô thần của Democritus, Platon đã chống lại một cách quyết
liệt. Ông cho rằng những người quan niệm không có thần là những người sa vào tư tưởng
vô đạo. Ông phản đối tư tưởng Democritus đến nỗi nói rằng chỉ muốn đốt hất tất cả
những cuốn sách của Democritus. Tuy bị Plato bác bỏ và phê phán nhưng quan niệm vô
16
thần của Democritus vẫn có tác dụng rất lớn trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa
duy tâm, có ý nghĩa tiến bộ và vai trò lịch sử to lớn. Xét một cách toàn diện, tư tưởng
Plato đối lập với khoa học nhưng là cơ sở hình thành nên tư tưởng tôn giáo.
17
Kết luận
Democritus là đại biểu cho giai cấp chủ nô dân chủ, là một nhà triết học duy vật

lớn nhất, triệt để nhất, vô thần nhất thời đại. Plato là đại biểu lớn nhất cho giai cấp chủ nô
quý tộc. Ông là đại diện điển hình nhất cho chủ nghĩa duy tâm thời cổ đại và là người đặt
nên tảng cho triết học duy tâm khách quan. Tuy triết học của Democritusvà Plato có
những quan điểm khác nhau, nhưng cả hai ông đều là đại biểu tiêu biểu cho nền triết học
cổ đại Hy Lạp.
Với những thành tựu to lớn của Democritus, ông đã đưa chủ nghĩa duy vật Hy Lạp
cổ đại lên một tầm cao mới. Mặc dù triết học của ông còn mang tính thô sơ, chất phát
nhưng quan điểm triết học của ông là nền tảng xây dựng nên thế giới quan duy vật, góp
phần thúc đẩy hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn trong lịch sử phát triển loài
người. Toàn cuộc đời và triết học của ông là cuộc đấu tranh bền bỉ, kiên quyết cho chủ
nghĩa duy vật.
Đối lập với nhà triết học duy vật Democritus là nhà triết học duy tâm khách quan
cổ đại Plato. Ông là người đầu tiên nêu một cách có hệ thống những quan điểm triết học.
Hệ thống triết học của ông dựa trên cơ sở học thuyết ý niệm và thuyết linh hồn bất tử để
giải thích thế giới. Mặc dầu còn nhiều hạn chế nhưng ông đã có công lớn trong việc
nghiên cứu các vấn đề về ý thức xã hội, bước đầu đặt nền tảng cho việc xây dựng các
khái niệm, phạm trù và tư duy lý luận.
Nhìn chung, sự đấu tranh gữa hai trường phái triết học của Democritus và Plato là
cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng duy vật và duy tâm trong quá trình giải quyết các
vấn đề cơ bản của triết học. Đấu tranh để xác định lập trường, nhận định thế giới quan,
đấu tranh để trả lời các câu hỏi: Giữa ý thức và vật chất cái nào có trước, cái nào quyết
18
định cái nào? Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Đây cũng
chính là cơ sở xây dựng nên phép biện chứng trong lịch sử phát triển của triết học loài
người.
Tài liệu tham khảo
1. TS Đào Duy Thanh: Giáo trình triết học (Chương trình sau Đại học) - Tập 1. Nhà
xuất bản Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh.
2. T.S Nguyễn Ngọc Thu – TS. Bùi Văn Mưa: Giáo trình đại cương Lịch sử triết học.
Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Nhà xuất bản Đại học kinh
tế quốc dân, Hà Nội.
4. www.doko.vn; 23doc.vn; thuvien24.com.
19

×