Tải bản đầy đủ (.docx) (101 trang)

Hoan thien he thong kiem soat noi bo voi viec 69324

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.25 KB, 101 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của Đề tài nghiên cứu
Hệ thống ngân hàng vừa là bà đỡ, vừa là xương sống của nền kinh tế thị

trường. Do đó đảm bảo sự cân bằng, ổn định và lành mạnh trong hoạt động của toàn
bộ hệ thống ngân hàng là một trong những điều kiện cốt yếu, tạo sơ cở cho nền kinh
tế có sự phát triển ổn định và bền vững.
Hệ thống kiểm sốt nội bộ là một bộ phận khơng thể thiếu đối với bất cứ một
ngân hàng nào; Kiểm sốt rủi ro tín dụng là một trong những biện pháp quan trọng
để đảm bảo an tồn tín dụng. Hồn thiện hệ thống kiểm sốt nội bộ sẽ góp phần
giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh ngân hàng nói chung và nâng cao kiểm sốt rủi
ro tín dụng nói riêng, từ đó nâng cao chất lượng tín dụng đối với Ngân hàng đầu tư
và phát triển Quang trung. Đảm bảo an tồn tín dụng là mục tiêu hàng đầu trong
chính sách tín dụng của Chi nhánh, song các quy định về kiểm sốt rủi ro tín dụng
của Chi nhánh chưa cụ thể và chặt chẽ cũng như chưa thể hiện được đặc thù của Chi
nhánh là hướng tới các khách hàng mục tiêu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đây là
những đối tượng có rủi ro tín dụng riêng, cần có những quy định về kiểm sốt rủi ro
tín dụng phù hợp.
Nhận thức được ý nghĩa của vấn đề trên, qua thời gian làm việc và tìm hiểu
thực tế tại chi nhánh NHĐT&PT Quang Trung, tôi chọn Đề tài: “Hồn thiện hệ
thống kiểm sốt nội bộ với việc tăng cường kiểm sốt rủi ro tín dụng đối với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh NHĐT&PT Quang Trung” làm đề tài
luận văn thạc sỹ của mình.
2.

Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của Đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận và



thực tiễn hệ thống kiểm soát nội bộ trong mối quan hệ với kiểm sốt rủi ro tín dụng
khi cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh NHĐT&PT Quang Trung,


2

từ đó đưa ra một số giải pháp hồn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ nhằm tăng
cường kiểm soát rủi ro tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh.
3.

Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là hệ thống kiểm sốt nội bộ trong quan hệ với việc tăng

cường cơng tác kiểm sốt rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi
nhánh NHĐT&PT Quang Trung.
Phạm vi nghiên cứu chỉ giới hạn ở một loại rủi ro cụ thể là rủi ro tín dụng (rủi
ro đối với hoạt động cho vay) khi cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi
nhánh NHĐT&PT Quang Trung.
4.

Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng kết hợp với các phương

pháp phân tích tổng hợp và phân tích thống kê; khảo sát thực tế, điều tra, phỏng vấn
để làm rõ bản chất của kiểm soát nội bộ và quan hệ của nó với việc tăng cường
kiểm sốt rủi ro tín dụng.
5.

Đóng góp của luận văn

Về ý nghĩa khoa học, luận văn làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về hệ

thống kiểm soát nội bộ trong quan hệ với kiểm sốt rủi ro tín dụng tại ngân hàng
thương mại. Về ý nghĩa thực tế, luận văn đưa ra những giải pháp hoàn thiện hệ
thống kiểm soát nội bộ nhằm tăng cường kiểm soát rủi ro tín dụng tại chi nhánh
NHĐT&PT Quang Trung, từ đó giúp các nhà quản lý nhìn nhận đúng về hệ thống
kiểm soát nội bộ và vận dụng vào quản lý rủi ro tín dụng.
6.

Kết cấu luận văn
Tên luận văn: “Hồn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ với việc kiểm soát rủi

ro tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Đầu
tư và Phát triển Quang Trung”.


3

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Lý luận chung về hệ thống kiểm soát nội bộ với việc tăng cường
kiểm soát rủi ro tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng thương
mại.
Chương 2: Thực trạng hệ thống kiểm sốt nội bộ với việc tăng kiểm sốt rủi
ro tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Quang Trung.
Chương 3: Giải pháp hồn thiện hệ thống kiểm sốt nội bộ với việc tăng cường
kiểm sốt rủi ro tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Quang Trung.
Do còn nhiều hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nghiên cứu của Tác giả,
hạn chế về thời gian và tài liệu nghiên cứu nên luận văn không tránh khỏi những

thiếu sót. Do đó, Tác giả rất mong muốn nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cơ
giáo trong Trường đại học Kinh tế quốc dân, của các anh (chị) trong chi nhánh
NHĐT&PT Quang Trung cùng bạn bè quan tâm để tiếp tục nghiên cứu và hoàn
thiện hơn những kết quả đạt được của luận văn này.
Tác giả xin gửi lời cảm ơn đến Thầy giáo hướng dẫn: TS.Chu Thành, người đã
tận tình hướng dẫn và kịp thời chỉnh sửa các khiếm khuyết trong quá trình nghiên
cứu, lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trường đại học kinh tế quốc dân và các anh chị
tại chi nhánh NHĐT&PT Quang Trung đã nhiệt tình đóng góp các ý kiến và hỗ trợ
Tác giả hoàn thành luận văn này.


4

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ VỚI
VIỆC TĂNG CƯỜNG KIỂM SỐT RỦI RO TÍN DỤNG ĐỐI VỚI CÁC
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1.

Hệ thống kiểm soát nội bộ với việc tăng cường kiểm sốt rủi ro tín dụng
đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại các NHTM

1.1.1. Bản chất, mục tiêu của hệ thống kiểm soát nội bộ trong các NHTM
Q trình kiểm tra kiểm sốt là cần thiết trong tất cả các lĩnh vực hoạt động
của con người bên trong tổ chức cũng như toàn bộ xã hội. Kiểm tra, kiểm sốt
khơng phải là một pha hay một giai đoạn của q trình quản lý mà nó được thực
hiện ở tất cả các giai đoạn của quá trình quản lý. Kiểm tra được thực hiện ở tất cả
các kết quả của quá trình quản lý và là một chức năng cơ bản của quá trình quản lý,
kiểm sốt mang tính độc lập hơn kiểm tra, vừa làm vừa tự kiểm tra. Nó tiến hành
song song với các hoạt động của quá trình quản lý. Chức năng kiểm sốt ln chiếm
một vị trí quan trọng trong q trình quản lý và được thực hiện bởi hệ thống kiểm

soát nội bộ của đơn vị. Theo chuẩn mực kế toán Việt nam số 400- Đánh giá rủi ro
và kiểm soát nội bộ, hệ thống kiểm soát nội bộ: “là các quy định và các thủ tục kiểm
soát do đơn vị được kiểm toán xây dựng và áp dụng nhằm bảo đảm cho các đơn vị
tuân thủ pháp luật và các qui định để kiểm tra-kiểm soát, ngăn ngừa và phát hiện
gian lận, sai sót để lập báo cáo tài chính trung thực và hợp lý, nhằm bảo vệ, quản lý
và sử dụng có hiệu quả tài sản của đơn vị. Hệ thống kiểm sốt nội bộ bao gồm mơi
trường kiểm soát, hệ thống kế toán và các thủ tục kiểm sốt” [2].
Theo liên đồn kế tốn Quốc tế, hệ thống kiểm sốt nội bộ là một hệ thống
chính sách và thủ tục nhằm bốn mục tiêu sau: bảo vệ tài sản của đơn vị, đảm bảo độ
tin cậy của các thông tin, bảo đảm việc thực hiện các chế độ pháp lý, và đảm bảo
hiệu quả hoạt động. Theo đó, kiểm soát nội bộ là một chức năng thường xuyên của
các đơn vị, tổ chức và trên cơ sở xác định rủi ro có thể xảy ra trong từng khâu cơng
việc để tìm ra biện pháp ngăn chặn nhằm thực hiện có hiệu quả tất cả các mục tiêu
đặt ra của đơn vị:


5

Bảo vệ tài sản của đơn vị: Đối với doanh nghiệp nói chung, tài sản của đơn
vị bao gồm cả tài sản hữu hình và tài sản vơ hình, chúng có thể bị đánh cắp, bị lợi
dụng vào những mục đích khác nhau hoặc bị hư hại nếu khơng được bảo vệ bởi các
hệ thống kiểm sốt thích hợp. Điều tương tự cũng có thể xảy ra đối với các tài sản
phi vật chất khác như hệ thống sổ sách kế toán, các tài liệu quan trọng…. Đối với
các NHTM nói riêng, ngồi tài sản của ngân hàng cịn có tài sản của khách hàng là
các khoản tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh tốn, các giấy tờ có giá, các tài sản bảo
đảm, tài sản cầm cố thế chấp của khách hàng tại ngân hàng. Mặt khác, tài sản của
ngân hàng khơng chỉ ở trong ngân hàng mà cịn nằm bên ngồi ngân hàng, đó là các
khoản tiền cho khách hàng vay, các khoản tiền đầu tư của ngân hàng vào các dự án
lớn của chính phủ hoặc các dự án liên doanh liên kết nào đó mà ngân hàng ký kết
được. Do đó, ngồi bảo vệ tài sản hữu hình hiện có tại ngân hàng, các NHTM cịn

phải bảo vệ tài sản của khách hàng bằng một hệ thống công nghệ tin học hiện đại
đảm bảo sự bảo mật của hệ thống thông tin ngân hàng, bảo vệ tài sản ngồi ngân
hàng bằng cách kiểm sốt chặt chẽ các loại rủi ro có thể xảy ra, đặc biệt là rủi ro tín
dụng, ngồi ra ngân hàng cần bảo vệ thương hiệu của mình bởi một ngân hàng tin
cậy cho khách hàng mới có thể thành cơng trong nền kinh tế thị trường, nếu khơng
đủ độ tin cậy thì sẽ dẫn đến tình trạng rút tiền hàng loạt của khách hàng và phá sản
ngân hàng.
Đảm bảo độ tin cậy của các thông tin: Thông tin kinh tế do bộ máy kế toán
xử lý và tổng hợp là căn cứ quan trọng cho việc hình thành các quyết định của các
nhà quản lý. Như vậy, các thông tin cung cấp phải đảm bảo tính kịp thời về thời
gian, tính chính xác và tin cậy về thực trạng hoạt động và phản ánh đầy đủ và khách
quan các nội dung chủ yếu của mọi hoạt động kinh tế tài chính. Đối với ngân hàng
thì ngồi thơng tin được cung cấp của bộ máy kế tốn cịn có thơng tin về khách
hàng như tình hình kinh doanh, tình hình tài chính, tình hình về dự án đầu tư của
khách hàng... do bộ phận quan hệ khách hàng cung cấp, các thông tin này cần chính
xác và tin cậy và được thẩm định xác minh trước khi ban lãnh đạo đưa ra quyết định
đầu tư hay cho vay.


6

Đảm bảo thực hiện các chế độ pháp lý: Hệ thống kiểm soát nội bộ được thiết
kế trong ngân hàng phải đảm bảo các quyết định và chế độ pháp lý liên quan đến
hoạt động kinh doanh ngân hàng phải được tuân thủ đúng mức. Cụ thể hệ thống
kiểm soát nội bộ của một ngân hàng thương mại cần:
- Duy trì và tn thủ các chính sách có liên quan đến hoạt động của ngân hàng
bao gồm các quy chế, quy định về tín dụng, về nguồn vốn, ngoại hối ... của Nhà
nước, của NHNN và của riêng mỗi NHTM. Ví dụ: nghị định 178/1999/NĐ-CP về
bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng; quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN về
việc ban hành quy chế cho vay của các Tổ chức tín dụng đối với khách hàng, quyết

định 493/2005/QĐ-NHNN quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phịng
để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng....
- Ngăn chặn và phát hiện kịp thời cũng như xử lý các sai phạm và gian lận
trong mọi hoạt động của ngân hàng. Hoạt động kinh doanh của NHTM là kinh
doanh tiền tệ, do đó mọi hoạt động của từng nhân viên ngân hàng , từng bộ phận
kinh doanh cần tuân thủ triệt để quy trình nghiệp vụ nhằm đảm bảo an tồn cho tài
sản của ngân hàng và của khách hàng. Hệ thống kiểm soát nội bộ cần phát hiện các
sai phạm trong quá trình tác nghiệp, xử lý nghiệp vụ, thực hiện các quy trình nghiệp
vụ của các nhân viên ngân hàng như nghiệp vụ kho quỹ, tiền gửi có kỳ hạn, chuyển
tiền, thanh toán quốc tế, tiền vay, thẩm định, nguồn vốn... và đề xuất các biện pháp
xử lý kịp thời các sai phạm đó.
- Đảm bảo việc ghi chép kế tốn đầy đủ, chính xác cũng như việc lập báo cáo
tài chính trung thực và khách quan. Việc ghi chép kế tốn trong NHTM do nhiều
phịng thực hiện trên chương trình phần mềm kế tốn ngân hàng: các phịng giao
dịch thực hiện ghi chép việc gửi tiền, rút tiền kỳ hạn, tiền gửi thanh toán, thanh toán
lãi tiền gửi, mua bán ngoại tệ với khách hàng, phát vay cho khách hàng, thu nợ gốc
và lãi, phòng nguồn vốn ghi chép việc mua bán ngoại tệ kinh doanh, phịng tài
chính kế tốn ghi chép tình hình hoạt động kinh doanh chung của ngân hàng về số
dự thu, dự chi, thực thu, thực chi lãi, chi cho hoạt động quản lý của ngân hàng.... từ
đó lập báo cáo tài chính. Do đó, số liệu trên sổ kế toán ngân hàng cần phải được


7

kiểm sốt cẩn thận đảm bảo trung thực và chính xác vì nếu sai sót sẽ ảnh hưởng đến
tài sản của khách hàng và từ đó làm giảm uy tín của ngân hàng.
Đảm bảo hiệu quả của hoạt động và năng lực quản lý: Các q trình kiểm
sốt trong một đơn vị được thiết kế nhằm ngăn ngừa sự lặp lại không cần thiết các
tác nghiệp, gây ra sự lãng phí trong hoạt động và sử dụng kém hiệu quả các nguồn
lực trong doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các nhà quản lý thường đánh giá kết quả hoạt

động của đơn vị được thực hiện với cơ chế giám sát của hệ thống kiểm soát nội bộ
nhằm nâng cao khả năng quản lý, điều hành của bộ máy quản lý doanh nghiệp.
Tuy nằm trong một thể thống nhất song bốn mục tiêu nêu trên đơi khi cũng có
mâu thuẫn với nhau như giữa tính hiệu quả của hoạt động với mục đích bảo vệ tài
sản, sổ sách hoặc cung cấp thơng tin đầy đủ và tin cậy. Nhiệm vụ của nhà quản lý là
thiết kế một hệ thống kiểm soát nội bộ hữu hiệu kết hợp hài hòa bốn mục tiêu trên.
Tuy nhiên, mỗi hệ thống kiểm soát nội bộ dù được thiết kế hồn hảo đến đâu cũng
khơng thể ngăn ngừa hay phát hiện mọi sai phạm có thể xảy ra, đó là hạn chế cố
hữu của hệ thống kiểm soát nội bộ. Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 400
“Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ”, những hạn chế đó được xác định như sau:
- Ban Giám đốc thường yêu cầu chi phí cho hệ thống kiểm sốt nội bộ khơng
vượt q những lợi ích mà hệ thống đó mang lại
- Phần lớn cơng tác kiểm tra nội bộ thường tác động đến những nghiệp vụ lặp
đi lặp lại mà không tác động đến những nghiệp vụ bất thường
- Sai sót bởi con người thiếu chú ý, đãng trí, sai sót về xét đốn hoặc do không
hiểu rõ về yêu cầu công việc
- Khả năng vượt tầm kiểm soát của hệ thống kiểm soát nội bộ do có sự thơng
đồng của một người trong ban giám đốc hay một nhân viên với những người khác ở
trong hay ngoài đơn vị.
- Khả năng của những người chịu trách nhiệm thực hiện kiểm soát nội bộ lạm
dụng đặc quyền của mình
- Do có sự biến động tình hình, các thủ tục kiểm soát bị lạc hậu hoặc bị vi
phạm.


8

1.1.2. Các yếu tố cơ bản của hệ thống kiểm soát nội bộ với việc tăng cường kiểm
soát rủi ro tín dụng khi cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại các NHTM.
1.1.2.1. Các hoạt động của NHTM với các loại rủi ro kinh doanh.

NHTM đã hình thành, tồn tại và phát triển gắn với sự phát triển của nền kinh
tế hàng hố. Sự phát triển của NHTM có tác động rất lớn đến quá trình phát triển
của nền kinh tế hàng hoá và ngược lại, kinh tế hàng hố phát triển thì NHTM cũng
ngày càng hồn thiện hơn và trở thành định chế tài chính khơng thể thiếu được.
NHTM kinh doanh dịch vụ tiền tệ, không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất như
các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực sản xuất kinh doanh nhưng tạo điều kiện thuận lợi
cho q trình sản xuất, lưu thơng và phân phối sản phẩm xã hội bằng cách cung ứng
vốn tín dụng, vốn đầu tư cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế mở rộng kinh
doanh, góp phần tăng nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Vai trò của ngân hàng thương
mại được thể hiện ở các chức năng của nó như tạo tiền, tổ chức thanh tốn, huy
động tiết kiệm, mở rộng tín dụng, tài trợ ngoại thương, dịch vụ ngân hàng. Hoạt
động của NHTM xoay quanh việc kinh doanh tiền tệ. Thông thường NHTM thực
hiện ba hoạt động cơ bản sau: hoạt động huy động vốn, hoạt động sử dụng vốn và
các hoạt động trung gian.
Hoạt động huy động vốn là hoạt động hình thành nguồn vốn kinh doanh của
ngân hàng và chúng được gọi là nghiệp vụ nợ vì các nguồn vốn này nằm bên tài sản
Nợ của bảng tổng kết tài sản của ngân hàng.
Nguồn vốn của NHTM gồm hai phần: vốn tự có và vốn nợ. Trong vốn nợ,
tiền gửi là nguồn vốn vay mượn chủ yếu, chiếm trên dưới 75% toàn bộ tài sản Nợ
của NHTM, để có thể huy động được tiền gửi, ngân hàng đã thực hiện nhiều hình
thức huy động khác nhau như tiền gửi thanh tốn; tiền gửi có kỳ hạn của các doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội; tiền gửi tiết kiệm của dân cư và tiền gửi của các
ngân hàng khác. Các nguồn vốn nợ khác gồm có vốn vay trên thị trường liên ngân
hàng, vốn phát hành chứng chỉ tiền gửi, vốn vay tái chiết khấu của ngân hàng trung
ương. Nguồn vốn tự có của ngân hàng là tài sản thực tế của ngân hàng, số vốn này


9

bằng tổng tài sản có trừ đo tổng tài sản Nợ. Vốn tự có của ngân hàng là vốn riêng do

các chủ sở hữu đóng góp và vốn được tạo ra trong quá trình kinh doanh (lợi nhuận)
được giữ lại để bổ sung cho vốn tự có của ngân hàng. Vốn tự có của ngân hàng gồm
hai bộ phận: vốn cơ bản và vốn bổ sung. Vốn cơ bản gồm có vốn cổ phần thường,
vốn cổ phần ưu đãi vĩnh viễn, các quỹ dự trữ, lợi nhuận không chia và các khoản
khác. Vốn bổ sung gồm có vốn cổ phần ưu đãi có thời hạn, trái phiếu được chuyển
đổi và các khoản vay dài hạn được nhà nước cấp. Vốn là điều kiện pháp lý cơ bản,
đồng thời là yếu tố tài chính quan trọng nhất trong việc đảm bảo các khoản nợ đối
với khách hàng. Chính vì vậy, qui mô vốn là yếu tố quyết định quy mô huy động
vốn và quy mơ tài sản có.
Hoạt động sử dụng vốn là hoạt động sử dụng các nguồn vốn đã hình thành
của ngân hàng, là phương tiện đem lại lợi nhuận cho ngân hàng chúng được gọi là
nghiệp vụ có vì các nguồn vốn này nằm bên tài sản Có của bảng tổng kết tài sản của
ngân hàng. Các nghiêp vụ này bao gồm: Nghiệp vụ dự trữ tiền mặt, nghiệp vụ cho
vay, nghiệp vụ đầu tư. Nghiệp vụ dự trữ tiền mặt là nghiệp vụ nhằm đảm bảo khả
năng thanh toán của ngân hàng để đáp ứng nhu cầu rút tiền và thanh toán thường
xuyên của khách hàng, nhu cầu dự trữ tiền mặt phụ thuộc vào môi trường, thời vụ
và nhu cầu thanh khoản. Nghiệp vụ này bao gồm: Tiền mặt tại kho của ngân hàng,
tiền mặt ký gửi tại ngân hàng trung ương và tiền gửi tại các NHTM và các TCTD
khác. Nghiệp vụ cho vay là hoạt động kinh doanh chủ chốt của NHTM để tạo ra lợi
nhuận. Chỉ có lãi suất thu được từ cho vay mới đủ bù đắp nổi các chi phí về tiền
gửi, chi phí kinh doanh và các khoản thuế nộp, nhất là những thiệt hại do người vay
vốn không trả được nợ.
Các hoạt động trung gian là các nghiệp vụ mà ngân hàng thực hiện theo sự
uỷ nhiệm của khách hàng để hưởng tiền hoa hồng. Các nghiệp vụ này gồm: thanh
toán qua ngân hàng, dịch vụ đại lý và uỷ thác, kinh doanh ngoại tệ, chuyển tiền
nước ngoài.... Xu hướng phát triển của các ngân hàng hiện đại thì thu nhập từ các
hoạt động dịch vụ ngày càng lớn. Đặc biệt do sự phát triển của công nghệ thông tin,


1

0

dịch vụ thương mại điện tử thì dịch vụ ngân hàng điện tử đang được các tổ chức tài
chính trung gian đặc biệt quan tâm.
- Cùng với các hoạt động là các loại rủi ro không tránh khỏi, song rủi ro không
phải lúc nào cũng sẽ xảy ra, nên cần có những hoạt động nghiên cứu xác định rủi ro
để hạn chế rủi ro xảy ra. Rủi ro nói chung thường được định nghĩa là do tác động
ngược lại của lợi nhuận gây ra do sự bất ổn định của các yếu tố không xác định. Để
định lượng các rủi ro cần tính đến sự bất ổn định của các yếu tố và những tác động
ngược lại về lợi nhuận đang tiềm ẩn. Hoạt động kinh doanh ngân hàng là một lĩnh
vực có nhiều rủi ro, có thể được chia thành: rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro
ngoại hối, rủi ro hoạt động ngoại bảng, rủi ro cơng nghệ và hoạt động, rủi ro tín
dụng, trong đó rủi ro tín dụng là loại rủi ro có xác suất xảy ra nhiều nhất và cũng
gây tổn thất lớn cho ngân hàng, do đó bất kỳ ngân hàng nào cũng cần kiểm soát và
tăng cường kiểm soát rủi ro trong hoạt động tín dụng. Rủi ro tín dụng được hiểu là
khả năng xảy ra những thiệt hại do khách hàng khơng thực hiện được nghĩa vụ hồn
trả nợ gốc và lãi đầy đủ hoặc đúng hạn hay cả hai theo quy định trong hợp đồng tín
dụng. Rủi ro tín dụng chịu nhiều tác động của các yếu tố. Những yếu tố tác động
đến rủi ro ngân hàng có thể nói là rất lớn bao gồm yếu tố vi mơ và vĩ mô. Do đặc
điểm kinh doanh ngân hàng là một tổ chức tài chính kinh doanh tiền tệ và có nhiều
quan hệ với các chủ thể trong nền kinh tế nên những biến động của nền kinh tế quốc
gia hay của từng doanh nghiệp cũng sẽ ảnh hưởng đến ngân hàng. Rủi ro tín dụng
xuất phát từ nhiều yếu tố và có thể được chia làm 2 nhóm chính:



Nhóm thuộc về cơ chế, chính sách và bản thân ngân hàng: Thiếu chính

sách cho vay, thiếu các tiêu chuẩn rõ ràng, việc cấp tín dụng quá tập trung, thiếu sự
kiểm sốt chặt chẽ, khoa học. Cụ thể:

Chính sách tín dụng của ngân hàng: Bất cứ ngân hàng nào cũng có một chính
sách tín dụng, chính sách tín dụng đó sẽ ảnh hưởng lớn đến độ rủi ro của ngân hàng.
Chính sách tín dụng qui định mức lợi nhuận cao hay thấp, yêu cầu một danh mục
tiền vay an toàn hay có độ rủi ro cao, đối tượng khách hàng mục tiêu, yêu cầu về
điều kiện cho vay, chính sách về xử lý nợ quá hạn… Những yếu tố đó sẽ ảnh hưởng


1
1

đến rủi ro cho ngân hàng, nếu ngân hàng đề cao mục tiêu lợi nhuận cao, ngân hàng
sẽ phải mạo hiểm trong cho vay đầu tư vào các dự án lớn chứa nhiều rủi ro do đó
rủi ro tín dụng sẽ cao. Hoặc nếu điều kiện cho vay dễ dàng thì khả năng rủi ro cao
cũng sẽ rất lớn.
Thực hiện khơng tốt việc thẩm định tín dụng: Đây là một khâu rất quan trọng
trong cho vay, khâu thẩm định tín dụng sẽ giúp ngân hàng xác định mức rủi ro của
khách hàng, làm tốt khâu này sẽ giúp cho ngân hàng ra được quyết định đúng cho
vay hay không cho vay. Nếu ngân hàng buông lỏng trong khâu cho vay hay thu thập
thơng tin tín dụng khơng đầy đủ, chính xác sẽ dẫn đến đánh giá sai khách hàng dẫn
đến không thu hồi được nợ hoặc không thu đủ cả vốn lẫn lãi.
Thực hiện không đầy đủ việc bảo đảm tài sản: Tài sản đảm bảo không chỉ
được coi là một nguồn thu nợ dự phòng cho ngân hàng trong trường hợp khách
hàng khơng có khả năng trả nợ mà nó có vai trị hạn chế rủi ro tín dụng. Khi ngân
hàng yêu cầu khách hàng phải có tài sản bảo đảm, lúc đó sẽ nâng cao trách nhiệm
trả nợ của khách hàng. Nếu khách hàng không trả được nợ, ngân hàng có quyền lấy
tài sản đảm bảo ra thanh lý để thu hồi do đó hạn chế rủi ro đạo đức từ phía khách
hàng. Ngồi ra ngân hàng cịn tiến hành thẩm định giá trị tài sản đảm bảo để xác
định môt tỷ lệ cho vay tương ứng với giá trị tài sản đảm bảo, giá trị của tài sản đảm
bảo có thể biến động trong suốt q trình cho vay, có thể giảm và ngân hàng khơng
thể thu hồi đủ nợ từ việc thanh lý tài sản đảm bảo khi khách hàng không trả được

nợ. Việc tiến hành soạn thảo hợp đồng bảo đảm tài sản phải được tiến hành một
cách đầy đủ, cẩn thận đảm bảo lợi ích cho cả ngân hàng và khách hàng và phải được
cơng chứng.
Thiết kế sản phẩm tín dụng khơng phù hợp: Đôi khi việc khách hàng không
trả được nợ một cách đầy đủ và đúng hạn cũng khơng hồn tồn là lỗi của khách
hàng, mà nguyên nhân xuất phát một là do lỗi của ngân hàng trong quá trình thiết
lập một khoản cho vay. Việc thiết lập một khoản cho vay, nhân viên ngân hàng cần
phải nắm rõ được đặc điểm kinh doanh của khách hàng, tình hình tài chính, luồng
ln chuyển tiền của khách hàng để từ đó nhân viên ngân hàng xác định mức lãi


1
2

suất và lịch trình trả nợ cho khách hàng phù hợp với đặc điểm kinh doanh của khách
hàng. Nếu ngân hàng xác định mức lãi suất vượt quá mức rủi ro của khách hàng sẽ
dẫn đến khách hàng không trả được nợ, hoặc ngân hàng xác định một lịch trình trả
nợ khơng phù hợp với dịng ln chuyển doanh thu của khách hàng thì khách hàng
cũng rất khó khăn để trả nợ cho ngân hàng. Do đó nhân viên ngân hàng phải am
hiểu về lĩnh vực kinh doanh của khách hàng để thiết lập một khoản vay cho phù
hợp.
Mức độ tập trung tín dụng cao: Đa dạng hóa lĩnh vực đầu tư sẽ giúp ngân
hàng tránh được rủi ro khi một lĩnh vực hay một khách hàng bị sụp đổ và có những
khoản thu nhập ổn định ngay cả khi có một ngành nghề nào đó gặp suy thối. Việc
tập trung quá mức vào một khách hàng, một thị trường hay một lĩnh vực… sẽ đặt
ngân hàng một rủi ro rất lớn, do đó hầu hết các ngân hàng hiện nay đều đa dạng hóa
trong kinh doanh.

 Nhóm thuộc về con người trong đó có cán bộ NHTM và người đi vay.
Cán bộ tín dụng vi phạm đạo đức hoặc trình độ kém: Từ phía các cán bộ trực

tiếp cho vay: Cán bộ ngân hàng không chấp hành đúng quy trình cho vay, vi phạm
đạo đức kinh doanh như khơng có dự án khả thi, cho vay khống, thiếu tài sản thế
chấp… Bên cạnh đó do hạn chế từ phía cán bộ tín dụng, yếu kém trong phân tích tín
dụng nhất là phân tích trước khi cho vay. Việc thu thập thông tin không đầy đủ,
kém chất lượng dẫn đến nhận định sai lầm về khách hàng (như về tính khả thi của
dự án, khả năng quản lý của người vay, đạo đức của người vay, khả năng sinh lời
của dự án để có nguồn trả nợ cho ngân hàng…) vè kết quả là rủi ro trong hoạt động
cho vay xảy ra hay một hợp đồng tín dụng kém chất lượng.
Rủi ro tín dụng của các NHTM khơng phải chỉ do cán bộ quản lý, cán bộ
nhân viên tín dụng của ngân hàng mà còn do một số đối tượng là những người vay
vốn. Có thể thấy rõ rủi ro tín dụng xuất phát từ phía người vay vốn chia làm hai loại
đối tượng: (1) không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết; (2) khơng có khả năng thực
hiện nghĩa vụ theo cam kết. Cũng khơng ít khách hàng để đạt được mục tiêu vay
vốn của mình đã giả tạo hồ sơ, hợp đồng mua bán vòng vo nhằm vay vốn ngân


1
3

hàng. Điều đó địi hỏi NHTM nói chung, cán bộ tín dụng, thẩm định nói riêng phải
làm tốt, chính xác việc phân loại đối tượng vay vốn, từ đó có các biện pháp kiểm
tra, đôn đốc, giúp đỡ, hướng dẫn, phòng ngừa rủi ro tương ứng, hữu hiệu.
Các yếu tố thuộc hai nhóm trên vừa có tính độc lập tương đối, vừa quan hệ
chặt chẽ và chi phối lẫn nhau, có thể làm cho hoạt động của NHTM giảm thiểu
được rủi ro, nâng cao chất lượng, hiệu quả tín dụng ngân hàng. Nhưng chúng cũng
có thể gây ra những tổn thất, thậm chí rất lớn, dẫn tới phá sản của một hoặc một số
NHTM. Chẳng hạn sự yếu kém, thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán trong cơ chế, chính
sách cho vay, dẫn tới tình trạng cán bộ quản lý của NHTM, hoặc người đi vay lợi
dụng, đặc biệt nguy hại khi cán bộ nắm quyền lãnh đạo, chi phối hoạt động của
NHTM bị sa sút phẩm chất đạo đức nghề nghiệp.

1.1.2.2. Đặc điểm hệ thống kiểm soát nội bộ với việc tăng cường kiểm sốt rủi ro tín
dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại các NHTM.
Một ngân hàng hoạt động có quan hệ với nhiều chủ thể trong nền kinh tế: các
cá nhân, các loại hình doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tín dụng
khác... song các chủ thể có quan hệ tín dụng nhiều nhất tập trung vào các cá nhân và
các loại hình doanh nghiệp, trong đó loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ đang ngày
càng trở nên là đối tượng khách hàng quan trọng của nhiều ngân hàng do vị thế của
doanh nghiệp vừa và nhỏ trong sự nghiệp phát triển đất nước, hội nhập kinh tế quốc
tế và vai trò xã hội của doanh nghiệp vừa và nhỏ đang ngày một nâng cao rõ rệt.
Khối doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thời gian qua đã có bước phát triển đáng ghi
nhớ. Mức tăng trưởng GDP của khối này luôn duy trì ở mức trên 20%/năm, cao hơn
mức tăng trưởng GDP của toàn bộ nền kinh tế, tổng số doanh nghiệp vừa và nhỏ
chiếm hơn 90% trong tổng số hơn 9 vạn doanh nghiệp của cả nước, mỗi năm đóng
góp 30% GDP toàn quốc. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã đóng góp vào sự tăng
trưởng liên tục của nền kinh tế, phát triển công nghiệp bổ trợ đối với các ngành
công nghiệp mũi nhọn như chế tạo máy, điện tử... góp phần cải thiện cán cân thanh


1
4

tốn nhờ việc tăng xuất khẩu hàng hóa, thành phẩm, thay thế hàng hóa nhập khẩu
bằng các hàng hóa sản xuất trong nước.
Theo nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 của Chính phủ về trợ
giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ đã đưa ra tiêu chí phân loại doanh nghiệp
vừa và nhỏ, theo đó doanh nghiệp vừa và nhỏ là những cơ sở sản xuất, kinh doanh
độc lập, đã đăng ký theo pháp luật hiện hành, có số vốn đăng ký không quá 10 tỷ
đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm khơng q 300 người. Dựa trên cơ sở
này, tùy thuộc vào các địa phương khác nhau và từng ngành nghề khác nhau, người
ta có thể phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ theo một trong hai tiêu chí hoặc theo cả

hai tiêu chí trên. Doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc mọi thành phần kinh tế, hoạt động
ở tất cả các lĩnh vực và thuộc nhiều hình thức sở hữu khác nhau: Sở hữu Nhà nước,
sử hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp, sở hữu nước ngoài. Do đặc điểm là hoạt động với
qui mô vừa và nhỏ, lĩnh vực hoạt động tương đối đa dạng, phong phú nên các doanh
nghiệp vừa và nhỏ thường năng động, linh hoạt trước sự thay đổi của thị trường, có
thể dễ dàng chuyển hướng kinh doanh, mặt hàng kinh doanh, vốn đầu tư ban đầu
khơng địi hỏi nhiều, vì vậy các doanh nghiệp có thể dễ dàng tạo lập những bước đi
khởi đầu hơn so với các doanh nghiệp hoạt động có qui mơ lớn, tổ chức sản xuất
của doanh nghiệp vừa và nhỏ thường gọn nhẹ, tiết kiệm chi phí, tạo điều kiện nâng
cao hiệu quả kinh doanh. Đó chính là những ưu điểm để doanh nghiệp vừa và nhỏ là
đối tượng khách hàng quan trọng của ngân hàng. Tuy nhiên, không phải doanh
nghiệp vừa và nhỏ nào cũng đủ điều kiện để cho vay do những hạn chế sau đây:
- Hầu hết các cơ sở sản xuất manh mún, phân tán, trình độ cơng nghệ, thiết bị
q lạc hậu, lao động thủ cơng nên sản phẩm khó cạnh tranh với các doanh nghiệp
lớn.Trình độ cán bộ quản lý và lao động của các DN vừa và nhỏ còn nhiều hạn chế,
khả năng quản trị điều hành thấp, nhiều lãnh đạo trong doanh nghiệp không được
đào tạo bài bản, chỉ điều hành quản lý theo kinh nghiệm. Hoạt động kinh doanh chủ
yếu theo thương vụ, chạy theo phong trào mà khơng có chiến lược phát triển nên dễ
đổ bể.


1
5

- Bản thân đội ngũ DN vừa và nhỏ có số vốn chủ sở hữu rất thấp, ít có tài sản
thế chấp cầm cố, khơng có người bảo lãnh, cũng khơng lập được phương án kinh
doanh có đủ sức thuyết phục. Báo cáo tài chính hầu hết khơng đủ độ tin cậy. Tỷ lệ
nợ vay ngân hàng quá hạn cao hơn so với các tổng công ty và hộ nông dân... Nhiều
doanh nghiệp không thực hiện đúng chế độ thống kê kế tốn; số liệu phản ánh
khơng chính xác tình hình sản xuất kinh doanh và tài chính của mình. Bên cạnh đó,

hệ thống báo cáo ghi chép và theo dõi hoạt động kinh doanh của DN khơng có hoặc
thiếu. Các doanh nghiệp thường bán hàng khơng có hợp đồng kinh tế, khơng tn
thủ chế độ phát hành hố đơn bán hàng. Do đó ngân hàng khơng có cơ sở để đánh
giá và quyết định việc cho vay. Nhiều doanh nghiệp ln ngần ngại minh bạch tình
hình kinh doanh của mình cho ngân hàng, khơng quen với thủ tục và cách thức tiếp
cận các nguồn vốn của ngân hàng.
Chính vì các đặc điểm của nó mà các khoản tín dụng khi cho vay các doanh
nghiệp vừa và nhỏ sẽ tiềm ẩn các loại rủi ro sau:
- Đánh giá khơng chính xác về mức độ rủi ro của khách hàng, ví dụ đánh giá
quá cao về năng lực tài chính của khách hàng so với thực tế, đánh giá khách hàng
chỉ qua các thông tin “tĩnh” khách hàng cung cấp mà bỏ qua các thông tin “động”
và các thông tin nhạy cảm từ các kênh thông tin khác do các báo cáo tài chính của
khách hàng khơng đủ tin cậy, khơng được kiểm tốn.
- Hồ sơ tín dụng khơng đầy đủ, thiếu sự tuân thủ hoặc tuân thủ không đầy đủ
các quy định hiện hành về phê duyệt tín dụng.
- Những thay đổi từ chính sách của Nhà nước đặc biệt là tác động của các
chính sách thuế, xuất nhập khẩu; thay đổi tỷ giá, lãi suất; thay đổi công nghệ kỹ
thuật sản xuất, thị hiếu tiêu dùng; mất nhà cung ứng hoặc khách hàng lớn; thêm đối
thủ cạnh tranh tác động bất lợi đến chiến lược và kế hoạch sản xuất kinh doanh của
khách hàng.
- Khách hàng gặp khó khăn trong việc phát triển sản phẩm dịch vụ mới.
- Khách hàng khơng có khả năng hồn trả hoặc khơng muốn trả nợ do việc
tiêu thụ hàng và thu hồi công nợ không như dự kiến.


1
6

- Tài sản đảm bảo không đủ tiêu chuẩn, giá trị tài sản bị giảm sút so với định
giá khi cho vay. Tài sản có thể đã cho người khác th, bán hay trao đổi hoặc biến

mất, khơng cịn tồn tại.
- Phương án kinh doanh để vay vốn không khả thi, khách hàng tìm nguồn trả
nợ từ các nguồn khác mà khơng phải từ hoạt động kinh doanh chính hoặc từ hoạt
động được đề xuất từ phương án vay vốn.
Do đó, đối với đối tượng khách hàng này, các ngân hàng cần xây dựng hệ
thống kiểm soát nội bộ sao cho đáp ứng yêu cầu quản lý cũng như đảm bảo hiệu quả
trong hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng
với bốn yếu tố chính:
Một là, mơi trường kiểm sốt: Mơi trường kiểm sốt tạo ra phong thái của
tồn doanh nghiệp và có ảnh hưởng tới ý thức về kiểm soát của các nhân viên. Nó là
nền móng cho các yếu tố cịn lại của hệ thống kiểm sốt nội bộ. Mơi trường kiểm
soát bao gồm phương châm và phong cách kinh doanh của Ban lãnh đạo, sự tham
gia của những người chịu trách nhiệm quản trị DN, hiệu quả của cơ cấu tổ chức,
tính hợp lý của các kế hoạch và mức độ tin cậy của các ước tính của Ban lãnh đạo.
Mơi trường kiểm sốt của một NHTM là tồn bộ các nhân tố tác động đến việc thiết
kế, hoạt động và sự hữu hiệu của chính sách thủ tục kiểm soát của ngân hàng gồm:
Thứ nhất, Đặc thù về quản lý: Các đặc thù về quản lý đề cập tới các quan
điểm khác nhau trong điều hành hoạt động kinh doanh của Ban lãnh đạo ngân hàng,
các quan điểm đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chính sách chế độ, các quy định và
cách thức tổ chức kiểm tra kiểm sốt trong ngân hàng. Bởi vì chính các nhà lãnh
đạo và đặc biệt là các nhà lãnh đạo cao cấp nhất sẽ phê chuẩn các quyết định, chính
sách và thủ tục kiểm soát các hoạt động sẽ áp dụng tại ngân hàng. Ví dụ, trong hoạt
động tín dụng, nếu quan điểm của Ban lãnh đạo là an tồn tín dụng thì các chính
sách cho vay, thủ tục cho vay phải đảm bảo an toàn và thu hồi được vốn, việc tăng
dư nợ tín dụng khơng phải là mục tiêu hàng đầu; ngược lại nếu quan điểm của lãnh
đạo ngân hàng là chấp nhận rủi ro thì các điều kiện và chính sách cho vay sẽ “lỏng
lẻo” hơn, dư nợ tín dụng sẽ đạt kết quả cao nhưng tỷ lệ nợ xấu sẽ có khả năng cao.


1

7

Thứ hai, cơ cấu tổ chức: Cơ cấu tổ chức được xây dựng hợp lý trong doanh
nghiệp nói chung và trong ngân hàng nói riêng sẽ góp phần tạo ra mơi trường kiểm
sốt tốt. Cơ cấu tổ chức hợp lý đảm bảo một hệ thống xuyên suốt từ trên xuống dưới
trong việc ban hành các quyết định, triển khai các quyết định cũng như việc kiểm
tra, giám sát việc thực hiện các quyết định đó trong tồn bộ ngân hàng. Ngồi ra, nó
cịn góp phần ngăn ngừa có hiệu quả các hành vi gian lận và sai sót trong hoạt động
tài chính kế tốn của ngân hàng. Một cơ cấu tổ chức hợp lý phải thiết lập sự điều
hành và kiểm sốt trên tồn bộ hoạt động và các lĩnh vực của ngân hàng sao cho
không bị chồng chéo hoặc bỏ trống: thực hiện sự phân chia tách bạch giữa các chức
năng, bảo đảm sự độc lập tương đối giữa các bộ phận, tạo khả năng kiểm tra kiểm
soát lẫn nhau trong các bước thực hiện công việc. Đối với hoạt động tín dụng, một
bộ máy tín dụng tốt phải đảm bảo được sự phân tách nhiệm vụ giữa người đề xuất
tín dụng, người thẩm định, phê duyệt tín dụng và người quản trị tín dụng; đảm bảo
sự độc lập tương đối và tránh chồng chéo công việc giữa ba bộ phận nói trên. Để
thiết lập một cơ cấu tổ chức tín dụng thích hợp và có hiệu quả, các nhà quản lý phải
tuân thủ các nguyên tắc sau:
- Thiết lập được sự điều hành và sự kiểm soát trên tồn bộ hoạt động tín dụng
bao gồm các hoạt động trước, trong và sau khi cho vay, khơng bỏ sót lĩnh vực nào,
đồng thời khơng có sự chồng chéo giữa các bộ phận.
- Phải có sự phân chia rành mạch ba chức năng: xử lý nghiệp vụ tín dụng, ghi
chép sổ và bảo quản tài sản. Ví dụ, việc xử lý nghiệp vụ do phịng tín dụng và
phịng thẩm định thực hiện, việc hạch tốn vào chương trình phần mềm (ghi chép
sổ) do bộ phận quản trị tín dụng thực hiện, còn bộ phận bảo quản tài sản (tài sản ở
đây là tài sản cầm cố thế chấp của khách hàng) do bộ phận kho quỹ thực hiện.
- Đảm bảo sự độc lập tương đối giữa các bộ phận nhằm đạt được hiệu quả cao
nhất trong hoạt động của các bộ phận chức năng. Ví dụ, việc xử lý nghiệp vụ được
giao cho phịng tín dụng và phịng thẩm định thực hiện song cần phải quy định rõ
trách nhiệm của từng phòng để đảm bảo sự độc lập của các phịng và tránh chồng

chéo cơng việc.


1
8

Thứ ba, Chính sách nhân sự: Sự phát triển của các ngân hàng nhất là trong
môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các ngân hàng luôn gắn liền với đội
ngũ nhân viên và họ luôn là nhân tố quan trọng trong mơi trường kiểm sốt cũng
như chủ thể trực tiếp thực hiện mọi thủ tục kiểm soát trong hoạt động của ngân
hàng. Nếu nhân viên có năng lực và tin cậy, nhiều q trình kiểm sốt có thể được
đơn giản hoá mà vẫn đảm bảo được các mục tiêu đề ra của kiểm soát nội bộ. Ngược
lại, mặc dù ngân hàng có thiết kế và vận hành các chính sách và thủ tục kiểm sốt
chặt chẽ nhưng với đội ngũ nhân viên kém năng lực và thiếu trung thực về phẩm
chất thì hệ thống kiểm sốt nội bộ không thể phát huy hiệu quả. Với những lý do
nêu trên, các ngân hàng cần có những chính sách cụ thể và rõ ràng về tuyển dụng,
đào tạo, sắp xếp, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật nhân viên. Đặc biệt, hiện nay số
lượng các ngân hàng được thành lập ngày càng nhiều dẫn đến tình trạng thiếu hụt
nhân sự có năng lực ở các vị trí từ cấp trưởng phịng, do đó các ngân hàng cần tạo
mơi trường làm việc sao cho giữ được những người có năng lực và kinh nghiệm
nhất là giữ được nhân sự cao cấp. Đối với cơng tác tín dụng, việc đào tạo cán bộ tín
dụng chuyên nghiệp và làm việc hiệu quả mất nhiều thời gian Việc đào tạo, bố trí
cán bộ và đề bạt nhân sự phải phù hợp với năng lực chuyên mơn và phẩm chất đạo
đức, đồng thời phải mang tính kế tục và liên tiếp.
Thứ tư, Công tác kế hoạch: Hệ thống kế hoạch và dự toán đặc biệt là các kế
hoạch tài chính gồm những ước tính cân đối tình hình tài chính, kết quả hoạt động
và sự ln chuyển tiền trong tương lai là những nhân tố quan trọng trong mơi
trường kiểm sốt. Đối với ngân hàng, hệ thống kế hoạch được xây dựng từ dài hạn
đến ngắn hạn và được xây dựng cụ thể cho từng lĩnh vực hoạt động, ví dụ như kế
hoạch của hoạt động tín dụng được chi tiết ra thành kế hoạch dư nợ cuối năm, lãi

thu được, kế hoạch về giới hạn tín dụng tập trung cho vay ở ngành nào, địa bàn nào
là chủ yếu, kế hoạch giới hạn nợ quá hạn (ví dụ chỉ chiếm 5% tổng dư nợ). Việc đưa
ra kế hoạch tín dụng giúp các nhà quản lý ngân hàng theo dõi được tiến độ thực
hiện, mức nợ quá hạn hiện có và các nhân tố ảnh hưởng đến kế hoạch đã lập nhằm
phát hiện những vấn đề bất thường và xử lý điều chỉnh kế hoạch kịp thời.


1
9

Thứ năm, ủy ban kiểm soát: Ủy ban kiểm soát bao gồm những người trong bộ
máy lãnh đạo cao nhất của đơn vị như thành viên hội đồng quản trị nhưng không
kiêm nhiệm các chức vụ quản lý và các chuyên gia am hiểu về lĩnh vực kiểm soát.
Uỷ ban kiểm soát ngân hàng thường được thành lập tại hội sở chính, khơng thành
lập tại các chi nhánh và thường có những nhiệm vụ và quyền hạn sau:
- Giám sát sự chấp hành luật pháp của ngân hàng
- Kiểm tra và giám sát cơng việc của Ban kiểm tra-kiểm sốt nội bộ
- Giám sát tiến trình lập báo cáo tài chính
- Dung hịa những bất đồng nếu có giữa Ban giám đốc và các kiểm tốn viên
bên ngồi.
Mơi trường bên ngồi
Các yếu tố bên ngồi tuy khơng thuộc sự kiểm sốt của các nhà quản lý nhưng
nó có ảnh hưởng rất lớn đến thái độ, phong cách điều hành của các nhà quản lý
cũng như sự thiết kế và vận hành các quy chế và thủ tục kiểm soát nội bộ. Các yếu
tố này bao gồm: sự kiểm soát của các cơ quan chức năng nhà nước, ảnh hưởng của
các chủ nợ, môi trường pháp lý, đường lối phát triển của đất nước….Bước vào hội
nhập kinh tế quốc tế, các NHTM Việt Nam đang phải đối mặt với những tồn tại:
Năng lực quản trị điều hành kém, vốn tự có thấp, công nghệ thông tin lạc hậu, nợ
tồn đọng nợ xấu lớn, sức cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của hệ thống ngân hàng
Việt Nam còn yếu…. Nhất là khi Việt Nam phải thực hiện các cam kết, các ngân

hàng nước ngồi sẽ có nhiều hoạt động phong phú đa dạng tại Việt Nam và được
đối xử ngang bằng theo đúng nguyên tắc tối huệ quốc của WTO, lúc đó các ngân
hàng Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với những đối thủ vượt trội hơn về mọi mặt ngay
trên thị trường Việt Nam.
Hệ thống kế toán là hệ thống thông tin chủ yếu của đơn vị bao gồm hệ thống
chứng từ kế toán, hệ thống sổ kế toán và hệ thống bảng tổng hợp, cân đối kế tốn.
Trong đó, q trình lập và cân đối kế tốn đóng vai trị quan trọng trong cơng tác
kiểm sốt nội bộ của doanh nghiệp. Một hệ thống kế toán hữu hiệu phải đảm bảo
các mục tiêu kiểm soát chi tiết:


2
0

- Tính có thực
- Sự phê chuẩn: đảm bảo mọi nghiệp vụ xảy ra phải có sự phê chuẩn hợp lý
- Tính đầy đủ: đảm bảo việc phản ánh trọn vẹn các nghiệp vụ kinh tế phát sinh
- Sự đánh giá: đảm bảo khơng có sai phạm trong việc tính giá và phí
- Sự phân loại: đảm bảo các nghiệp vụ được ghi chép đúng theo sơ đồ tài
khoản và ghi nhận đúng đắn các loại sổ sách kê toán
- Tính đúng kỳ: đảm bảo các nghiệp vụ ghi sổ phát sinh được thực hiện kịp
thời theo qui định
- Quá trình chuyển sổ và tổng hợp chính xác: số liệu kế toán được ghi vào sổ
phải được tổng cộng và chuyển sổ đúng đắn, tổng hợp chính xác trên báo cáo tài
chính của doanh nghiệp.
Hệ thống kế tốn của NHTM là một bộ phận không thể thiếu trong hệ thống
kiểm sốt nội bộ. Sự kiểm sốt chỉ có thể thực hiện nếu các thơng tin trung thực,
đáng tin cậy, chính xác và kịp thời. Hệ thống kế toán của NHTM gồm:
Thứ nhất, hệ thống chứng từ ban đầu, đây là căn cứ pháp lý về nghiệp vụ
phát sinh, đảm bảo an toàn trong quản lý và giám sát tài sản của ngân hàng.

Thứ hai, hệ thống sổ kế tốn có tác dụng kiểm tra, đối chiếu để giám sát sự
chính xác, đầy đủ theo quá trình ghi chép vào các tài khoản liên quan
Thứ ba, hệ thống báo cáo tài chính theo tiêu thức thống kê, cung cấp thơng
tin tổng hợp một cách trung thực, đáng tin cậy, chính xác kịp thời, giúp cho việc
thực hiện kiểm soát một cách có hiệu quả.
Ngày nay, với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật công nghệ, hầu hết các
NHTM xử lý dữ liệu thông qua phần mềm tin học và được nối mạng với nhau, để
đảm bảo số liệu được trung thực và đáng tin cậy, ngân hàng cần thực hiện cơng
tác kiểm tốn hàng năm đồng thời phân định trách nhiệm rõ ràng của người thực
hiện và người kiểm soát trên phần mềm.
Các thủ tục kiểm soát do ban giám đốc ngân hàng thiết lập và thực hiện nhằm
đạt được mục tiêu quản lý cụ thể trong từng hoạt động kinh doanh ngân hàng. Các
thủ tục kiểm soát được thiết lập trong ngân hàng dựa trên ba nguyên tắc: nguyên tắc



×