Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA CỦA CHỦ NGHĨA MÁCLÊNIN VỀ NGUỒN GỐC CỦA TÔN GIÁO? LIÊN HỆ VỚI TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.38 KB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI VIỆT NAM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
------------------------

TIỂU LUẬN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ 1
TÊN TIỂU LUẬN :
PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA CỦA
CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ NGUỒN GỐC CỦA
TÔN GIÁO?LIÊN HỆ VỚI TÔN GIÁO Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN : LÊ MINH HOAN
Lớp : ĐTĐ63LT2

Mã SV:820492

Khoa : Điện- Điện Tử
Chuyên Ngành : Điện Tự Động Cơng Nghiệp
Khóa năm : 2023-2024
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN : TS VŨ PHÚ DƯỠNG

Hải Phòng - 2023


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU.......................................................
I. Quan niệm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo..01
II. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về việc giải quyết vấn đề tôn
giáo trong chủ nghĩa xã hội trên lập trường duy vật lịch sử................07
III. Sự vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo vào
việc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta hiện nay............................................................................13


KẾT LUẬN.............................................................................................18
CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................19


LỜI NÓI ĐẦU

Trong đời sống tinh thần của con người, tơn giáo ln đóng một vai trị nhất
định. Tơn giáo là sự tự do tín ngưỡng của mỗi cơng dân. Vấn đề tôn giáo từ lâu
đã là một trong những vấn đề nhạy cảm đối với Việt Nam cũng như các nước
trên toàn thế giới. Trong lịch sử Việt Nam, vấn đề tôn giáo đã từng bị lợi dụng
cho mục đích chính trị, chống phá cách mạng Việt Nam và ngày nay vẫn cịn
một số thành phần tìm cách lợi dụng tôn giáo để chống lại Nhà Nước Xã Hội
Chủ Nghĩa nước ta. Chính vì thế mà mỗi người dân chúng ta cần phải có những
sự hiểu biết thấu đáo và chính xác về tơn giáo để khơng bị kẻ gian lợi dụng sự
tín ngưỡng tơn giáo vào những mục đích xấu.
Xuất phát từ lý do trên và để phục vụ cho việc học tập bộ mơn Lý Luận Chính Trị 1,
em quyết định chọn đề tài “ Phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nguồn
gốc tôn giáo? Liên hệ với tình hình tơn giáo ở Việt Nam hiện nay ”. Là đề tài nghiên
cứu để trước hết em cũng như mọi người sẽ nhìn nhận được những quan điểm tôn
giáo trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.



NỘI DUNG PHÂN TÍCH :

I. Quan niệm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh một cách hoang đường,
hư ảo hiện thực khách quan. Qua sự phản ánh của tôn giáo, những sức mạnh tự phát
trong tự nhiên và xã hội đều trở thành thần bí.
- Tơn giáo là sản phẩm của con người gắn với những điều kiện tự nhiên và lịch sử xã

hội nhất định. Về bản chất, nó phản ánh sự bất lực, sự bế tắc của con người trước tự
nhiên và xã hội. Dĩ nhiên, trong tôn giáo cũng chứa đựng những yếu tố có giá trị về
văn hóa, đạo đức...
- Tôn giáo ra đời từ rất sớm với những nguồn gốc về KTXH, nguồn gốc nhận thức,
nguồn gốc tâm lý và luôn biến đổi không ngừng cùng sự biến động của những điều
kiện KTXH, văn hóa, chính trị...
*Nguồn gốc :
Nguồn gốc tự nhiên, kinh tế - xã hội: Sự bất lực của con người trước các thế
lực tự nhiên, thế lực xã hội.
Nguồn gốc nhận thức: do khả năng nhận thức của con người về tự nhiên, xã
hội và bản thân con người là có giới hạn nên đã thần thánh hoá những điều chưa
nhận thức được.
Nguồn gốc tâm lý: đó là ảnh hưởng của yếu tố tâm lý (cả tích cực và tiêu cực)
đến sự ra đời của tôn giáo. Đặc biệt là sự bất lực trong đời sống, trong nhận
thức, tạo ra sự sợ hãi, bi quan. Đó là những tình cảm làm nảy sinh và duy trì
niềm tin tơn giáo.

1


Nếu chủ nghĩa duy vật lịch sử được coi là một trong ba phát minh quan trọng nhất của
chủ nghĩa Mác, thì những quan điểm về tơn giáo là một trong những biểu hiện rõ nét
nhất lập trường duy vật về lịch sử của học thuyết này. Nó thể hiện thông qua các quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về cả bản chất, nguồn gốc lẫn chức năng của tôn
giáo. Trong khi các nhà duy tâm, thần học cho rằng tơn giáo có nguồn gốc siêu nhiên,
thế giới tự nhiên, xã hội loài người cũng như toàn bộ hoạt động của mỗi cá nhân con
người đều chịu sự chi phối, điều khiển của các lực lượng siêu nhiên, thần thánh thì
các nhà duy vật, vơ thần đã có quan điểm hoàn toàn đối lập. L.Phoiơbắc - nhà triết
học duy vật người Đức, trong Bản chất đạo Cơ đốc, đã khẳng định rằng, không phải
thần thánh sáng tạo ra con người mà con người sáng tạo ra thần thánh theo hình mẫu

của mình; rằng: “Thượng đế siêu hình khơng phải là cái gì khác mà là sự tập hợp, là
tồn bộ những đặc tính chung nhất rút ra từ giới tự nhiên, song con người, nhờ vào
sức tưởng tượng… lại đem giới tự nhiên biến thành một chủ thể hay một thực thể độc
lập”([1]). Tuy nhiên, Phoiơbắc chưa chỉ ra được bản chất thực sự của tơn giáo và ở
khía cạnh này, ơng vẫn chưa thốt khỏi quan điểm duy tâm khi chỉ phê phán thứ tôn
giáo hiện thời chứ khơng phê phán tơn giáo nói chung, càng chưa hề đề cập đến sự
phê phán những điều kiện hiện thực đã làm nảy sinh tơn giáo. Thậm chí, ơng cịn cho
rằng người ta vẫn rất cần một thứ tôn giáo khác thay thế, đó là “tơn giáo tình u” để
xố bỏ đi những áp bức, bất công trong xã hội.
Kế thừa và vượt lên trên quan điểm của Phoiơbắc và các nhà duy vật trước đó, các
nhà sáng lập chủ nghĩa Mác -  Lênin đã đứng vững trên lập trường duy vật lịch sử để
lý giải vấn đề bản chất của tơn giáo. Theo đó, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã
hội, do tồn tại xã hội quyết định. Mặc dù có tính độc lập tương đối nhưng mọi hiện
tượng trong đời sống tinh thần, xét đến cùng, đều có nguồn gốc từ đời sống vật chất.
Tôn giáo là một hiện tượng tinh thần của xã hội và vì vậy, nó là một trong những hình
2


thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
Nhưng khác với những hình thái ý thức xã hội khác, sự phản ánh của tôn giáo đối với
hiện thực là sự phản ánh đặc thù, đó là sự phản ánh “lộn ngược”, “hoang đường” thế
giới khách quan. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, “tơn giáo là những sự rút hết tồn bộ
nội dung của con người và giới tự nhiên, là việc chuyển nội dung đó sang cho bóng
ma. Thượng đế ở bên kia thế giới, Thượng đế này, sau đó, do lịng nhân từ, lại trả về
cho con người và giới tự nhiên một chút ân huệ của mình”(2).
Với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác, tôn giáo là sự phản ánh một cách biến
dạng, sai lệch, hư ảo về giới tự nhiên và con người, về các quan hệ xã hội. Hay nói
cách khác, tơn giáo là sự nhân cách hoá giới tự nhiên, là sự “đánh mất bản chất
người”. Chính con người đã khốc cho thần thánh những sức mạnh siêu nhiên khác
với bản chất của mình để rồi từ đó con người có chỗ dựa, được chở che, an ủi - dù đó

chỉ là chỗ dựa “hư ảo”. Chỉ ra bản chất sâu xa của hiện tượng đó, Ph.Ăngghen đã viết:
“Con người vẫn chưa hiểu rằng họ đã nghiêng mình trước bản chất của chính mình và
đã thần thánh hố nó như một bản chất xa lạ nào đó”(3). Lột tả bản chất của tơn giáo,
ơng cho rằng, “tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào đầu óc của con
người – của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là
sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế mang hình thức những lực lượng
siêu trần thế” (4).
Vấn đề đặt ra ở đây là, nguyên nhân nào dẫn đến sự phản ánh “hoang đường”, “hư
ảo” của tơn giáo? Tại sao con người lại có nhu cầu tôn giáo và đặt niềm tin lớn lao
vào tôn giáo như vậy? Đứng vững trên lập trường duy vật lịch sử, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã luận giải rằng sự xuất hiện và tồn tại của tôn giáo xuất phát từ hiện
thực khách quan và nguồn gốc quan trọng nhất của tơn giáo chính là điều kiện kinh tế
– xã hội. Trong lịch sử tiến hố của mình, trước hết con người có nhu cầu cải tạo tự
3


nhiên để tạo ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của mình. Nhưng do
trình độ và khả năng cải tạo tự nhiên còn thấp kém, con người luôn cảm thấy yếu
đuối, bất lực trước các hiện tượng tự nhiên và đã gắn cho tự nhiên những sức mạnh
siêu nhiên. Đó chính là cơ sở cho sự nảy sinh các hiện tượng thờ cúng. Đặc biệt, khi
xã hội có sự phân chia và áp bức giai cấp thì các mối quan hệ xã hội càng phức tạp,
một bộ phận người dân rơi vào tình thế cùng quẫn, bất lực trước các thế lực thống trị.
Thêm vào đó, những yếu tố tự phát, ngẫu nhiên, rủi ro bất ngờ nằm ngoài ý muốn của
con người gây ra cho họ sự sợ hãi, lo lắng, mất cảm giác an tồn. Đó cũng là ngun
nhân khiến người ta tìm đến và dựa vào sự che chở của tôn giáo.
Cắt nghĩa về nguồn gốc kinh tế – xã hội của tôn giáo, Ph.Ăngghen viết: “Trong những
thời kỳ đầu của lịch sử chính những lực lượng thiên nhiên là những cái trước tiên
được phản ánh như thế, và trong quá trình phát triển hơn nữa thì ở những dân tộc khác
nhau, những lực lượng thiên nhiên ấy đã được nhân cách hóa một cách hết sức nhiều
vẻ và hết sức hỗn tạp... Nhưng chẳng bao lâu, bên cạnh những lực lượng thiên nhiên

lại cịn có cả những lực lượng xã hội tác động - những lực lượng này đối lập với con
người, một cách cũng xa lạ lúc đầu cũng không thể hiểu được đối với họ, và cũng
thống trị họ với cái vẻ tất yếu bề ngoài giống như bản thân những lực lượng tự nhiên
vậy”(5). Bàn về vấn đề này, V.I.Lênin cũng khẳng định: “Sự bất lực của giai cấp bị
bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào cuộc đời
tốt đẹp ở thế giới bên kia, cũng giống y như sự bất lực của người dã man trong cuộc
đấu tranh chống thiên nhiên đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma quỷ và những phép
màu”(6).
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tơn giáo có nguồn gốc từ trong
hiện thực và phản ánh chính hiện thực đó – một hiện thực cần có tơn giáo và có điều
kiện để tôn giáo xuất hiện và tồn tại. Trong Phê phán triết học pháp quyền của
4


Hêghen, C.Mác đã viết: “Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo
nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là
tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới khơng có trái tim, cũng
như nó là tinh thần của những trật tự khơng có tinh thần. Tơn giáo là thuốc phiện của
nhân dân”(7). Luận điểm trên của C.Mác đã thể hiện rõ nguồn gốc, bản chất, chức
năng của tôn giáo trên lập trường duy vật lịch sử. Với C.Mác, tôn giáo như là “vầng
hào quang” ảo tưởng, là những vòng hoa giả đầy màu sắc và đẹp một cách hoàn mỹ,
là ước mơ, là niềm hy vọng và điểm tựa tinh thần vô cùng to lớn cho những số phận
bé nhỏ, bất lực trước cuộc sống hiện thực. Vì, trong cuộc sống hiện thực, khi con
người bất lực trước tự nhiên, bất lực trước các hiện tượng áp bức, bất công của xã hội
thì họ chỉ cịn biết “thở dài” và âm thầm, nhẫn nhục chịu đựng. Cũng trong cuộc sống
hiện thực ấy, họ khơng thể tìm thấy “một trái tim” để yêu thương, che chở nên phải
tìm đến một “trái tim” trong tưởng tượng nơi tơn giáo. Trái tim đó sẽ sẵn sàng bao
dung, tha thứ, chở che và tiếp thêm sức mạnh cho họ để họ có thể vượt qua mọi khó
khăn trong cuộc sống.
Với luận điểm “tơn giáo là thuốc phiện của nhân dân”, C.Mác không chỉ muốn khẳng

định tính chất “ru ngủ” hay độc hại của tơn giáo, mà còn nhấn mạnh đến sự tồn tại tất
yếu của tôn giáo với tư cách một thứ thuốc giảm đau được dùng để xoa dịu những nỗi
đau trần thế. Thực vậy, người ta dùng thuốc giảm đau khi người ta bị đau đớn và
chừng nào cịn đau đớn, thì chừng đó cịn có nhu cầu dùng nó. Đó chính là lý do để lý
giải tại sao người ta hướng tới, hy vọng và coi tôn giáo như chiếc “phao cứu sinh” cho
cuộc sống của mình, cho dù đó chỉ là những hạnh phúc ảo tưởng, chỉ là “sự đền bù hư
ảo”.
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, tôn giáo mặc dù là sự phản ánh hoang
đường, hư ảo hiện thực, là một hiện tượng tiêu cực trong xã hội nhưng nó khơng phải
5


khơng có những yếu tố tích cực. Tơn giáo chỉ là những “bông hoa giả” tô điểm cho
một cuộc sống hiện thực đầy xiềng xích. Nhưng nếu khơng có những “bơng hoa giả”
ấy thì cuộc sống của con người chỉ cịn lại “xiềng xích” mà thơi. Và nếu khơng có thứ
“thuốc giảm đau” ấy thì con người sẽ phải vật vã đau đớn trong cuộc sống hiện thực
với đầy rẫy những áp bức, bất công và bạo lực.
Điều vĩ đại của C.Mác, quan điểm duy vật lịch sử và tính cách mạng trong học thuyết
Mác về tơn giáo chính là ở chỗ đó. Trong khi các nhà duy vật vơ thần chỉ biết phê
phán bản thân tơn giáo thì C.Mác lại khơng phê phán tơn giáo mà phê phán chính cái
hiện thực đã làm nảy sinh tôn giáo, tức là phê phán sự áp bức, bất công, bạo lực…
trong xã hội đã đẩy con người phải tìm đến với tơn giáo và ru ngủ mình trong tơn
giáo. C.Mác đã nhận thấy rất rõ quan hệ nhân – quả trong vấn đề này. Vì tơn giáo là
một hiện tượng tinh thần có nguyên nhân từ trong đời sống hiện thực nên muốn xố
bỏ tơn giáo, khơng có cách nào khác là phải xố bỏ cái hiện thực đã làm nó nảy sinh.
Theo C.Mác, vấn đề không phải là “vứt những bông hoa giả” đi mà là xoá bỏ bản thân
cái “xiềng xích” được trang điểm bởi những bơng hoa giả đó để con người có thể “giơ
tay hái những bơng hoa thật” cho mình, tức là tìm kiếm được hạnh phúc thật sự ngay
trong thế giới hiện thực. Từ đó, C.Mác đã khẳng định rằng, muốn xố bỏ tơn giáo và
giải phóng con người khỏi sự nơ dịch của tơn giáo thì trước hết phải đấu tranh giải

phóng con người khỏi những thế lực của trần thế, xoá bỏ chế độ áp bức bất cơng,
nâng cao trình độ nhận thức cho người dân và xây dựng một xã hội mới không cịn
tình trạng người bóc lột người, đó là xã hội cộng sản chủ nghĩa.

6


II .Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về việc giải quyết vấn đề tôn
giáo trong chủ nghĩa xã hội trên lập trường duy vật lịch sử
Khi bàn về vai trị của tơn giáo trong đời sống xã hội, Mác - Ăngghen cho rằng, sự ra
đời của tôn giáo một mặt là sự phản ánh hiện thực khách quan, mặt khác nó cịn là sự
phản kháng xã hội hiện thực với quá nhiều bất công, đau khổ. Mác - Ăngghen, khi
bàn đến vai trị của tơn giáo, cũng đã lưu ý đến khía cạnh tơn giáo là nhu cầu của một
bộ phận nhân dân, nhu cầu của sự phát triển xã hội trong những thời kỳ lịch sử nhất
định.
Ăngghen, khi nghiên cứu đạo Cơ Đốc sơ kỳ cũng đã thừa nhận nó như là sự phản ánh
khát vọng của những người nơ lệ và trong bản thân nó có những điểm tương đồng với
lý tưởng của chủ nghĩa xã hội. Ông viết: “Trong lịch sử đạo Cơ Đốc sơ kỳ có những
điểm giống đáng lưu ý với phong trào công nhân hiện đại, đạo Cơ Đốc nảy sinh như
là một phong trào của những người bị áp bức; lúc đầu nó là tơn giáo của những người
nơ lệ và nô lệ đã được tha, của người nghèo và người vô quyền, của các dân tộc bị La
Mã chinh phục hoặc đuổi đi tản mát. Cả đạo Cơ Đốc lẫn chủ nghĩa xã hội công nhân
đều tuyên truyền sự giải phóng con người trong tương lai khỏi cảnh nơ lệ và nghèo
khổ”.
Trên lập trường duy vật vô thần triệt để, chủ nghĩa Mác - Lênin dù có thừa nhận
những giá trị tích cực nhất định của tơn giáo, song vẫn phê phán nó, vì xét cho cùng,
tơn giáo vẫn hướng con người vào một thế giới ảo tưởng, an ủi họ quên nỗi đau khổ ở
cuộc sống hiện thực và hứa hẹn sự đền bù cho họ ở một thế giới siêu nhiên. Trong khi
đó, để khắc phục những khổ đau ở cuộc sống trần thế, con người cần phải có phương
tiện hiện thực, có nghị lực, dũng cảm sáng tạo vượt qua trong xã hội hiện thực.

Ăngghen đã chỉ ra điểm khác nhau căn bản giữa đạo Cơ Đốc và chủ nghĩa xã hội, đó

7


là: “Đạo Cơ Đốc tìm sự giải thốt ấy trong cuộc sống trên trời, ở thế giới bên kia sau
khi chết, cịn chủ nghĩa xã hội thì tìm nó ở thế giới bên này, ở việc tổ chức lại xã hội”.
Theo Mác - Ăngghen, sự phản kháng của tôn giáo về cơ bản vẫn mang tính tiêu cực,
thụ động, nó khuyên con người chấp nhận hiện thực để mỗi người tự hồn thiện mình,
tách khỏi mọi mối quan hệ của xã hội hiện thực.
Tiếp tục quan điểm của Mác - Ăngghen, V. I. Lênin bổ sung, phát triển, hoàn thiện
thêm và chỉ ra vai trị của tơn giáo trong đời sống xã hội, về cơ bản, là tác động tiêu
cực. Tôn giáo dạy cho con người chịu đựng những đau khổ để chờ đợi những điều tốt
đẹp ảo tưởng, không có thực: “Những điều thiêng liêng của đạo chính thống quý báu
là ở chỗ nó dạy người ta chịu đựng đau khổ “không một tiếng kêu ca”! Thực tế, điều
thiêng liêng đó có lợi cho giai cấp thống trị biết chừng nào!…tôn giáo dạy người ta
chịu đựng “không một tiếng kêu ca”cái địa ngục trần gian để chờ đợi một thiên đường
nào đấy”.
Lênin cho rằng, một mặt tôn giáo đem lại cho con người sự an ủi mơ hồ, răn dạy họ
nhẫn nhục trong cuộc sống thực để hy vọng được đền bù ở cõi sống khác, mặt khác
tôn giáo là sự biện hộ cho các thế lực bóc lột và khuyên những người bị bóc lột hãy
cam chịu cuộc sống hiện tại. Người viết: “Đối với những ai suốt đời vẫn lao động và
sống trong cảnh thiếu thốn, tôn giáo dạy họ phải sống theo tinh thần cam chịu và nhẫn
nhục trong cuộc sống dưới trần gian, bằng cách làm cho họ hy vọng sẽ được đền đáp
khi lên thiên đường. Còn đối với những kẻ sống bằng lao động của người khác, tôn
giáo dạy họ hãy làm điều thiện ở thế gian, biện hộ một cách rẻ tiền cho tồn bộ cuộc
đời bóc lột của chúng, và bán rẻ cho chúng những tấm thẻ để lên thiên đường của
những người hạnh phúc”.

8



Lênin đã chỉ ra rằng, khi tôn giáo bị giai cấp tư sản lợi dụng làm cơng cụ chính trị thì
nó trở thành “thứ rượu tinh thần, làm cho những người nô lệ của tư bản mất phẩm
cách con người và quên mất hết những điều họ đòi hỏi để được sống một cuộc đời đôi
chút xứng đáng với con người”.
Tôn giáo được Lênin xem xét gắn liền với thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp
vô sản, trong điều kiện lịch sử cụ thể của nước Nga và châu Âu cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX. Chính vì vậy, Lênin nói đến vai trị tiêu cực của tơn giáo và giáo hội cũng
trong một tình huống rất cụ thể: tôn giáo và giáo hội tôn giáo bị giai cấp tư sản lợi
dụng làm công cụ để bảo vệ chế độ bóc lột, đầu độc quần chúng bị áp bức. Lúc này,
mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản đã trở nên gay gắt và trong xã hội
đó, “Tơn giáo là một trong những hình thức áp bức về tinh thần, ln ln và bất cứ ở
đâu cũng đè nặng lên quần chúng nhân dân khốn khổ vì phải lao động suốt đời cho
người khác hưởng, vì phải chịu cảnh bần cùng cơ độc”.
Do điều kiện và yêu cầu của cách mạng đương thời, các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin chưa có điều kiện đi sâu nghiên cứu các khía cạnh khác như văn hóa, tâm
lý, tình cảm, đạo đức... của tơn giáo. Do đó, các ơng rất ít đề cập đến vai trị tích cực
của tơn giáo trong đời sống xã hội. Đây là một trong những vấn đề đòi hỏi các đảng
cộng sản và giai cấp công nhân cần phải tiếp tục vận dụng phương pháp luận khoa
học của chủ nghĩa Mác-Lênin đi sâu tìm hiểu tơn giáo từ nhiều góc độ khác nhau để
có cách nhìn khách quan, khoa học về hiện tượng xã hội này.

Trên lập trường duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác - Lênin đã kịch liệt phản đối những
hành vi cực đoan, tấn công trực diện vào tôn giáo một cách thô bạo. Bản thân tơn giáo
khơng có tội và vì vậy, khơng nên phê phán tôn giáo mà cần phê phán cái hiện thực đã
9


làm nảy sinh tôn giáo. Việc phê phán tôn giáo không thể được tiến hành trực diện mà

cần “làm cho con người thoát khỏi ảo tưởng, để con người tư duy, hành động, xây
dựng tính hiện thực của mình với tư cách một con người vừa thoát khỏi ảo tưởng và
đạt đến tuổi có lý trí; để con người vận động xung quanh bản thân mình, nghĩa là vận
động xung quanh cái mặt trời thật sự của mình. Tơn giáo chỉ là cái mặt trời ảo tưởng,
nó vận động xung quanh con người chừng nào con người còn chưa bắt đầu vận động
xung quanh bản thân mình”(8). Như vậy, theo quan điểm của C.Mác, tôn giáo chỉ thật
sự mất đi khi con người ta tự nhận thức được về bản thân mình, từ bỏ những ảo tưởng
thần thánh để quay trở về với cuộc sống hiện thực.
Phê phán các nhà duy vật vơ thần trước đó, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, thật
sai lầm nếu cho rằng sẽ đánh tan được những thiên kiến tôn giáo chỉ bằng tuyên
truyền, giáo dục hay mệnh lệnh hành chính. Tơn giáo là một hình thái ý thức xã hội
nên về nguyên tắc, nó chỉ thay đổi khi bản thân tồn tại xã hội được thay đổi, nó chỉ
được giải quyết khi bản thân hiện thực nảy sinh tôn giáo được cải tạo. Cũng trong
“Phê phán triết học pháp quyền của Hêghen”, C.Mác đã nêu rõ ngun tắc này: “Xố
bỏ tơn giáo, coi là hạnh phúc ảo tưởng của nhân dân, là yêu cầu thực hiện hạnh phúc
thực sự của nhân dân. Đòi hỏi nhân dân từ bỏ những ảo tưởng về tình cảnh của mình
nghĩa là địi hỏi nhân dân từ bỏ một tình cảnh đang cần có ảo tưởng. Do đó, việc phê
phán tơn giáo là hình thức manh nha của sự phê phán cái biển khổ ấy, cái biển khổ mà
tơn giáo là vịng hào quang thần thánh”(9). Do đó, theo ông, “nhiệm vụ của lịch sử,
sau khi thế giới bên kia của chân lý đã mất đi, là xác lập chân lý của thế giới bên
này… Như vậy, phê phán thượng giới biến thành phê phán cõi trần, phê phán tôn giáo
biến thành phê phán pháp quyền, phê phán thần học biến thành phê phán chính
trị”(10).

10


Vì vậy, muốn khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo, trước hết cần phải
tạo lập được một thế giới hiện thực khơng có áp bức, bất cơng, nghèo đói, thất học…,
một thế giới hiện thực khơng cịn cần đến “sự đền bù hư ảo” của tôn giáo mà người ta

có thể tìm thấy những hạnh phúc thật sự ngay trong cuộc sống, một xã hội cộng sản
chủ nghĩa văn minh. Đó là một q trình cách mạng lâu dài, gian khổ gắn liền với cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Xuất phát từ nhận thức tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân và đó
là nhu cầu hồn tồn chính đáng, Nhà nước xã hội chủ nghĩa cần phải tôn trọng và
bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo, không được chống tôn giáo mà chỉ chống
những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để chống phá cách mạng, đi ngược lại lợi
ích quốc gia, dân tộc. Tuyệt đối khơng được nóng vội, chủ quan trong việc giải quyết
vấn đề tôn giáo. Về vấn đề này, V.I.Lênin đã nhấn mạnh: “Những lời tuyên chiến ầm ĩ
với chủ nghĩa duy tâm, những mệnh lệnh ngăn cấm tín ngưỡng, tơn giáo là những
hành vi dại dột, vơ chính phủ, làm cho kẻ thù lợi dụng để kích động tình cảm tơn giáo
của tín đồ, làm cho họ ngày càng gắn bó với tơn giáo, xa lánh thậm chí đi đến chống
lại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đương nhiên, như vậy khơng có nghĩa là coi
nhẹ việc giáo dục chủ nghĩa vô thần khoa học, thế giới quan duy vật cho tồn dân,
trong đó có những tín đồ tơn giáo, việc làm đó góp phần nâng cao trình độ kiến thức
cho tồn dân”(11).
Tơn giáo khơng chỉ là một hình thái ý thức xã hội, mà cịn là một thiết chế xã hội, nó
biến đổi cùng với sự biến đổi của lịch sử. ở từng thời kỳ lịch sử, vai trị của tơn giáo
đối với đời sống xã hội không giống nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo
sĩ, giáo dân về các lĩnh vực của đời sống xã hội ln có sự khác biệt. Do đó, cần căn
cứ vào từng trường hợp cụ thể, trong những điều kiện cụ thể mà Nhà nước xã hội chủ
nghĩa xác định thái độ, cách ứng xử phù hợp.
11


Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống xã hội phải gắn
liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới là yêu cầu khách quan của sự
nghiệp
xây dựng CNXH.
Khi tín ngưỡng, tơn giáo cịn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân

dân thì chính sách nhất quán của nhà nước XHCN là tôn trọng và bảo đảm quyền tự
do tín
ngưỡng và quyền tự do khơng tín ngưỡng của cơng dân. Cơng dân có tơn giáo hay
khơng có
tơn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau.
Thực hiện đồn kết giữa những người theo tôn giáo với những người không theo một
tôn giáo nào, giữa những người theo các tôn giáo khác nhau để xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ vì lý do tín ngưỡng tơn giáo.
Phân biệt rõ hai mặt - chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết vấn đề tơn giáo. Mặt
tư tưởng thể hiện sự tín ngưỡng trong tơn giáo. Trong q trình xây dựng CNXH khắc
phục mặt này là việc làm thường xuyên, lâu dài. Mặt chính trị là sự lợi dụng tôn giáo
của những phần tử phản động nhằm chống lại sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây
dựng CNXH. Đấu tranh loại bỏ mặt chính trị phản động trong lĩnh vực tôn giáo là
nhiệm vụ thường xuyên, vừa phải khẩn trương, kiên quyết, vừa phải thận trọng và
phải có sách lược phù hợp với thực tế.
Phải có quan điểm lịch sử - cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo. Trong mỗi thời kỳ
lịch sử khác nhau, vai trò và sự tác động của từng tôn giáo đối với đời sống xã hội
cũng khác nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh

12


vực, các vấn đề của xã hội có sự khác biệt. Do đó, cần phải có quan điểm lịch sử - cụ
thể khi xem xét, đánh giá và giải quyết những vấn đề liên quan đến tôn giáo.

III.Sự vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo vào
việc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta hiện nay
Trong tiến trình xây dựng CNXH, tơn giáo cịn tồn tại do những nguyên nhân cơ bản

sau:
- Nguyên nhân nhận thức: Trong quá trình xây dựng CNXH và trong chế độ XHCN,
mặc dù nhân loại đã đạt được nhiều thành tựu to lớn với những tiến bộ vượt bậc về
khoa học cơng nghệ song thế giới cịn nhiều vấn đề mà khoa học chưa thể làm rõ,
những sức mạnh tự phát của tự nhiên và xã hội còn tác động, chi phối đời sống con
người. Vì thế, tâm lý sợ hãi, trông chờ và tin tưởng vào những thế lực siêu nhiên chưa
bị gạt bỏ khỏi ý thức của một bộ phận nhân dân.
- Nguyên nhân tâm lý: Tín ngưỡng, tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử loài người,
ăn sâu vào tiềm thức, ảnh hưởng sâu đậm đến nếp nghĩ, lối sống của một bộ phận
nhân dân qua nhiều thế hệ và trở thành một kiểu sinh hoạt văn hoá tinh thần trong
cuộc sống của họ. Vì vậy, trong CNXH, tồn tại xã hội đã có nhiều biến đổi lớn lao
nhưng tín ngưỡng, tơn giáo khơng mất đi ngay.
- Nguyên nhân chính trị - xã hội:
Trong tơn giáo có chứa đựng những giá trị đạo đức văn hố phù hợp với đường lối,
chính sách của nhà nước XHCN, đáp ứng những nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân nên có thể tự biến đổi để thích nghi theo xu hướng “đồng hành với dân tộc”,
“sống phúc âm giữa lòng dân tộc”.
Trong cuộc đấu tranh giai cấp phức tạp diễn ra dưới nhiều hình thức, các thế lực chính

13


trị vẫn lợi dụng tôn giáo để phục vụ cho mưu đồ chính trị của mình. Mặt khác, nhiều
mối đe dọa: chiến tranh, bệnh tật, đói nghèo... là điều kiện thuận lợi cho tôn giáo tồn
tại.
- Nguyên nhân kinh tế: Trong CNXH, nhất là ở thời kỳ quá độ vẫn tồn tại nhiều thành
phần kinh tế, nhiều giai tầng xã hội với lợi ích khác nhau, sự bất bình đẳng về kinh tế,
chính trị, văn hố, xã hội... vẫn là một thực tế; con người vẫn chịu sự tác động mạnh
mẽ của những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi... Khi gặp phải khó khăn, bất hạnh, bế tắc
trong cuộc sống, người ta dễ tìm đến với tơn giáo bởi tơn giáo có chức năng “đền bù

hư ảo”.
- Nguyên nhân về văn hố: Tơn giáo có tính nhân đạo, nhân văn, hướng thiện; sinh
hoạt tín ngưỡng tơn giáo có khả năng đáp ứng ở một mức độ nào đó nhu cầu văn hố
tinh thần của một bộ phận nhân dân, có ý nghĩa nhất định về giáo dục đạo đức, phong
cách, lối sống... Vì vậy, trong quá trình xây dựng CNXH, việc bảo tồn, phát huy
những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp trong tôn giáo vẫn là điều cần thiết.
Do nhận thức khơng đầy đủ, đã có một thời kỳ chúng ta mắc phải những sai lầm
nghiêm trọng trong việc đấu tranh chống tôn giáo. Chúng ta đã quá nơn nóng, cực
đoan trong ứng xử với các tơn giáo cũng như với các cơ sở thờ tự của tôn giáo. Nhiều
nhà thờ, chùa chiền, miếu mạo đã bị đập phá, các sinh hoạt tơn giáo bị ngăn cấm,
người có đạo bị kỳ thị. Quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo khơng được đảm bảo. Chính
sự nóng vội đó đã dẫn đến hậu quả xấu về mặt chính trị, tư tưởng, là cơ sở để các thế
lực phản động lợi dụng chống phá cách mạng nước ta. ở điểm này, rõ ràng chúng ta
đã không vận dụng tốt những quan điểm về tôn giáo của chủ nghĩa Mác - Lênin. Để
giải quyết tốt vấn đề tôn giáo, theo chúng tôi, trước hết cần phải nhận thức rõ một số
vấn đề sau đây:(11)

14


- Thứ nhất, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, những điều
kiện tồn tại của tơn giáo vẫn cịn; vì vậy, sự tồn tại của nó vẫn là một tất yếu khách
quan. Những điều kiện đó là: trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học
- kỹ thuật còn thấp nên khả năng cải tạo thế giới chưa cao; trình độ nhận thức cịn hạn
chế nên chưa cho phép giải thích đầy đủ, khoa học những hiện tượng tự nhiên, xã hội;
trình độ phát triển kinh tế cịn thấp nên đời sống của người dân cịn gặp nhiều khó
khăn; thời kỳ quá độ với những quan hệ sản xuất cũ và mới đan xen nhau nên chưa
thể xoá bỏ những hiện tượng bóc lột, bất bình đẳng trong xã hội… Thêm vào đó,
chiến tranh, đặc biệt là thiên tai, vẫn xảy ra khiến cho con người cảm thấy không yên
tâm và vì vậy, một bộ phận người dân vẫn sẽ có nhu cầu tín ngưỡng tơn giáo như một

tất yếu. Vấn đề là ở chỗ, chúng ta cần có thái độ như thế nào đối với tôn giáo.
- Thứ hai, cần phải nhận thức rõ rằng, đối tượng đấu tranh trong việc giải quyết vấn
đề tôn giáo không phải là mọi tôn giáo và những sinh hoạt tôn giáo hay tất cả những
tín đồ tơn giáo nói chung, mà chỉ là những bộ phận người lợi dụng tôn giáo để hành
nghề mê tín dị đoan hoặc chống phá cách mạng, gây rối trật tự trị an, đi ngược lại với
lợi ích của quốc gia dân tộc.
- Thứ ba, để khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo, khơng thể dùng mệnh
lệnh hành chính hay tun truyền giáo dục đơn thuần mà phải chú trọng đến việc cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Xoá bỏ dần phương thức sản xuất tiểu nông lạc
hậu, cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân, kết hợp với tuyên
truyền, giáo dục, nâng cao trình độ nhận thức, trình độ văn hố để người dân tự nhận
thức được vai trị thực sự của tơn giáo trong đời sống hiện thực của họ và chính họ,
chứ không phải ai khác, tự quyết định theo hay không theo một tơn giáo nào đó.

15


Những năm gần đây, vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào
thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã có những thay đổi quan trọng trong nhận
thức về tôn giáo và giải quyết vấn đề tơn giáo, đưa ra nhiều chủ trương, chính sách
đúng đắn, phù hợp.
Quan điểm của Đảng ta về giải quyết vấn đề tôn giáo được thể hiện trong nhiều văn
kiện của các kỳ Đại hội và được cụ thể hoá bằng các nghị quyết, chỉ thị của Trung
ương, như Nghị quyết số 24/NQ-TW (ngày 16/10/1990) của Bộ Chính trị Về tăng
cường cơng tác tơn giáo trong tình hình mới… Chỉ thị số 37 CT-TW (ngày 2/7/1998)
của Bộ Chính trị Về cơng tác tơn giáo trong tình hình mới… Ngồi ra, cịn có nhiều
chỉ thị, nghị quyết khác của Đảng về các mặt cơng tác đối với tơn giáo nói chung và
từng tơn giáo nói riêng trong từng thời kỳ. Đặc biệt, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 25/NQ-TW (ngày 12/3/2003)
Về công tác tôn giáo. Những quan điểm của Đảng ta về cơng tác tơn giáo được cụ thể

hố trong Pháp lệnh về tín ngưỡng tơn giáo số 21/2004/PL-UBTVQH11 ra ngày
18/6/2004. Tất cả các chỉ thị, nghị quyết, pháp lệnh nêu trên đều thể hiện nhất quán
một số quan điểm và chính sách sau đây:
- Một là, tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và
sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thực
hiện nhất quán quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền
sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tơn giáo hoạt động bình
thường trong khn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.
- Hai là, thực hiện nhất quán chính sách đại đồn kết dân tộc, khơng phân biệt đối xử
vì lý do tín ngưỡng, tơn giáo. Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương  khố VI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta khảng định “Tín

16



×