Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Quan điểm của chủ nghĩa mác lênin về quốc phòng, kinh tế và mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng – cơ sở khoa học của kết hợp kinh tế với quốc phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.63 KB, 27 trang )

Mở đầu
Kết hợp kinh tế với quốc phòng là vấn đề có tính quy luật
chung, được hầu hết các quốc gia trên thế giới nghiên cứu và
áp dụng trong điều kiện khi đời sống nhân loại còn tồn tại chế
độ tư hữu, Nhà nước và sự đối kháng giai cấp. Hoạt động
mang tính chủ động này của con người nảy sinh từ chính sự
tồn tại mối quan hệ khách quan giữa kinh tế với các lĩnh vực
chính trị, chiến tranh, quốc phòng và quân đội, cũng như từ
yêu cầu thực tiễn phải giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng
và bảo vệ đất nước ở mỗi quốc gia. Dưới chủ nghĩa xã hội đây
là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong quá trình thực
hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Việc vận dụng cụ thể ở mỗi
quốc gia, tuỳ thuộc vào những điều kiện chính trị, kinh tế, xã
hội trong nước và tình hình quốc tế trong mỗi thời kỳ lịch sử
nhất định mà ở đó người ta có những biện pháp, hình thức và
cách làm cụ thể thích hợp.
Đối với nước ta, sau thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, cả nước thống nhất và đi lên chủ nghĩa
xã hội. Đảng ta chủ trương thực hiện kết hợp kinh tế với quốc
phòng trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chủ
trương đó được xác định là một nội dung trong đường lối xây
dựng và phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội và đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của
Đảng (tháng 12 năm 1976) thông qua, được tổ chức chỉ đạo
nhất quán trong tất cả các ngành, các cấp trong cả nước.
Những năm sau đó việc thực hiện chủ trương kết hợp kinh tế
với quốc phòng đã thu được những thành tựu quan trọng, tạo


2


nên sự chuyển biến vững chắc từ cả hai phía kinh tế và quốc
phịng và niềm tin vào tính đúng đắn của chủ trương đó. Trên
cơ sở tổng kết rút ra những bài học từ những kết quả đạt
được, các Đại hội V, VI, VII, VIII, IX và X của Đảng, đã tái
khẳng định thực hiện chủ trương kết hợp kinh tế với quốc
phịng trong cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa trong điều kiện lịch sử mới.
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về quốc
phòng, kinh tế và mối quan hệ giữa kinh tế với quốc
phòng – cơ sở khoa học của kết hợp kinh tế với quốc
phòng
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quốc phòng
và kinh tế là những hoạt động của con người trên những lĩnh
vực khác nhau của đời sống xã hội, mỗi lĩnh vực vận động và
phát triển tuân theo những quy luật riêng, nhưng lại có quan
hệ chặt chẽ với nhau. Chúng vừa có mặt thống nhất, vừa có
mặt khơng đồng nhất và mâu thuẫn với nhau, quy định, chế
ước, phụ thuộc và tác động lẫn nhau.
Quốc phịng, nói một cách tổng qt, là tổng thể các
hoạt động thuộc công cuộc giữ nước của mỗi quốc gia, phản
ánh đặc trưng nhất sức mạnh quân sự của mỗi nước gắn với
những điều kiện xã hội - lịch sử nhất định. Đặc trưng của quốc
phòng là hoạt động quân sự mà quân đội là lực lượng nòng
cốt. Trước đây khi nói đến sức mạnh một quốc gia người ta
nghĩ ngay đến khả năng quốc phòng tức là sức mạnh quân sự
của quốc gia đó. Hiện nay, quan niệm đã được thay đổi, quốc
phòng của một quốc gia được gắn liền với an ninh, do đó xây
dựng sức mạnh quốc phịng khơng chỉ nhằm giành thắng lợi



3
trong chiến tranh mà quan trọng hơn là ngăn ngừa khả năng
có thể nổ ra chiến tranh.
Ngày nay, quốc phịng được hiểu là: “Công cuộc giữ nước
của mỗi quốc gia, gồm tổng thể hoạt động đối nội và đối
ngoại về qn sự, chính trị, kinh tế, văn hố, khoa học…của
Nhà nước và nhân dân để phòng thủ đất nước, tạo nên sức
mạnh tồn diện, cân đối, trong đó sức mạnh qn sự là đặc
trưng, nhằm giữ vững hồ bình, đẩy lùi, ngăn chặn các hoạt
động gây chiến của kẻ thù và sẵn sàng đánh thắng chiến
tranh xâm lược dưới mọi hình thức, quy mơ. Quốc phịng trở
thành hoạt động của cả nước, trong đó lực lượng vũ trang là
nịng cốt. Quốc phòng phải kết hợp chặt chẽ với an ninh để
bảo vệ đất nước, bảo vệ chế độ. Quốc phòng, an ninh phải kết
hợp chặt chẽ với kinh tế để bảo vệ xã hội, truyền thống dân
tộc và hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước(1).
Kinh tế, nói một cách tổng qt nhất thì đó là tồn bộ
các hoạt động của con người trong sản xuất và tái sản xuất ra
của cải xã hội (cả vật chất và tinh thần) nhằm thoả mãn nhu
cầu vật chất và văn hoá của con người. Đây là hoạt động cơ
bản nhất, hoạt động đầu tiên nhưng cũng là hoạt động thường
xuyên và liên tục của con người, gắn với sự tồn tại của con
người với tư cách là con người và với tư cách là loài người.
Sở dĩ phải kết hợp kinh tế với quốc phịng là vì, trước hết
hai mặt đó có quan hệ hữu cơ với nhau, làm tiền đề cho nhau.
Trong mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng, kinh tế là
nhân tố giữ vai trò quyết định, chi phối quốc phịng cả ở mặt
vật chất- kỹ thuật và chính trị - xã hội. Tiềm lực, sức mạnh
của nền quốc phòng mạnh hay yếu phụ thuộc vào tiềm lực



4
và sức mạnh của nền kinh tế. Một đất nước có nền kinh tế
phát triển, tiềm lực kinh tế mạnh sẽ là tiền đề, cơ sở để xây
dựng một nền quốc phịng có tiềm lực mạnh. Và một nền
quốc phịng mạnh sẽ tạo điều kiện, mơi trường chính trị để
phát triển kinh tế và bảo vệ được nền kinh tế đó.
Ngược lại, với một nền kinh tế kém phát triển, nghèo
nàn, lạc hậu năng suất lao động thấp, tổng mức GDP nhỏ, khả
năng tích luỹ từ nội bộ kém, thì khó có thể nói có cơ sở để xây
dựng một nền quốc phịng có tiềm lực lớn. Quốc phịng chịu
sự chi phối của kinh tế nhưng lại có tác động trở lại đối với
kinh tế, cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Sự tác động
tích cực được biểu hiện ở việc quốc phịng bảo đảm mơi
trường chính trị- xã hội ổn định để kinh tế phát triển; quốc
phòng là thị trường của kinh tế, tiêu thụ các sản phẩm của
kinh tế đáp ứng các nhu cầu hoạt động thuộc lĩnh vực quốc
phịng. C. Mác đã nói đến điều này khi ơng nghiên cứu vai trị
của qn đội trong đời sống xã hội. Trong bức thư gửi
Ph.Ăngghen ở Dai-nơ ngày 25 tháng 9 năm 1857, C.Mác viết:
“Lịch sử quân đội đã xác nhận một cách rõ ràng hơn hết sức
đúng đắn quan điểm của chúng ta về mối quan hệ giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ xã hội. Nói chung quân đội là quan
trọng đối với sự phát triển của kinh tế”(2).
Quốc phịng khơng chỉ tác động tích cực đến kinh tế mà
còn tác động tiêu cực đối với sự vận động kinh tế. Sự tác động
tiêu cực đó được biểu hiện ở những vấn đề sau đây:
Thứ nhất, Quốc phòng là lĩnh vực phi kinh tế, tiêu tốn
các của cải do nền kinh tế sản xuất ra. Mọi chi phí cho quốc
phịng đều do nền kinh tế quốc dân đáp ứng. Thế nhưng



5
những sản phẩm của kinh tế đã chi cho các hoạt động quốc
phòng là cái “bị trừ đi” của kinh tế, các khoản chi phí đó
khơng quay trở lại q trình tái sản xuất xã hội. Nói cách
khác, các chi phí cho quốc phịng xét về mặt kinh tế là các
hoạt động không làm tăng GDP của đất nước, ngược lại còn
trực tiếp tiêu dùng vào tổng GDP của xã hội, làm giảm khả
năng sử dụng GDP để chi phí cho các nhu cầu xã hội khác như
văn hoá, y tế, giáo dục, việc làm….
Thứ hai, Lực lượng lao động của xã hội cung cấp cho
quốc phòng, bao giờ cũng là lực lượng trẻ, khoẻ, có tri thức.
Khi trực tiếp tham gia các lực lượng vũ trang và các hoạt động
quốc phịng, khơng những lực lượng lao động này khơng làm
ra của cải xã hội, chỉ tiêu tốn những của cải đó, mà sau q
trình tham gia đó, xã hội còn phải giành một phần của cải để
giải quuyết các vấn đề xã hội của quân đội, đặc biệt là những
chính sách sau chiến tranh. Đây là một lượng của cải vật chất
không nhỏ.
Thứ ba, Cơ sở vật chất kỹ thuật mà đất nước dành cho
quốc phòng hầu hết là những loại hiện đại, có giá trị kinh tế
lớn. Một chiếc xe tăng giá hàng triệu, một máy bay chiến đấu
hiện đại giá trị hàng trăm triệu USD, các loại tàu chiến đấu,
hệ thống tên lửa hành trình và các thiết bị chiến trường phục
vụ cho sự hoạt động của nó cịn đắt gấp hàng chục lần so với
các loại xe tăng, máy bay…Tất cả các loại vũ khí, khí tài qn
sự đó khơng chỉ đắt mà q trình sử dụng, bảo quản nó cũng
rất tốn kém. Điều đáng nói là, trong điều kiện cuộc cách
mạng khoa học công nghệ phát triển hết sức nhanh chóng

như hiện nay, thời gian cho sự xuất hiện một thế hệ vũ khí


6
mới khơng cịn dài như trước đây, có loại chỉ 10 năm đã lạc
hậu, cần thay thế mới. Tình hình đó càng làm cho việc đáp
ứng các nhu cầu tiêu dùng quân sự ngày càng lớn.
Mặc dù quốc phòng là lĩnh vực tiêu tốn một khối lượng
lớn vật chất kỹ thuật do nền kinh tế tạo ra, song đó là lĩnh
vực, là hoạt động cần thiết trong đời sống xã hội của mỗi
quốc gia. Khi xã hội còn tồn tại chế độ tư hữu, giai cấp và Nhà
nước thì nguồn gốc làm nảy sinh chiến tranh vẫn chưa bị xoá
bỏ, vì vậy nhu cầu củng cố sức mạnh quốc phịng ở mỗi nước
là địi hỏi khách quan. Nhờ có hoạt động quốc phịng mà mơi
trường hồ bình, ổn định cho xây dựng và phát triển kinh tế
được đảm bảo, nền kinh tế và thành quả kinh tế được bảo vệ.
Do đó, có thể khẳng định sự tồn tại của quốc phịng (mặc dù
là hoạt động tốn kém) nhưng đó là một địi hỏi khách quan
nhất thiết phải có trong điều kiện còn đối kháng giai cấp và
Nhà nước. Đối với các nước xã hội chủ nghĩa hoặc định hướng
phát triển theo chủ nghĩa xã hội, vấn đề xây dựng nền quốc
phịng vững mạnh để ngăn ngừa, đối phó với chiến tranh xâm
lược lại càng bức thiết hơn bao giờ hết. Điều đó bắt nguồn từ
quy luật vũ trang bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa khi trong
đời sống nhân loại xuất hiện Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Vấn đề
này đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin nói
đến từ lâu. Thực tiễn lịch sử cho thấy, sau khi Nhà nước xã hội
chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới xuất hiện, lập tức 14 nước đế
quốc đã hiệp sức lại tiến công nhằm tiêu diệt nước Cộng hồ
xã hội chủ nghĩa Xơ Viết Nga non trẻ. V.I.Lênin đã kêu gọi

phải vũ trang để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa: "Kể từ
ngày 25 tháng 10 năm 1917, chúng ta là những người chủ


7
trương bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta tán thành bảo vệ Tổ quốc,
nhưng cuộc chiến tranh giữ nước mà chúng ta đang đi tới, là
một cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa" (3),
"bảo vệ chủ nghĩa xã hội với tính cách là Tổ quốc, bảo vệ
nước Cộng hồ Xơ-viết, với tính cách là một đơn vị trong đạo
quân thế giới của chủ nghĩa xã hội" (4). Như vậy, vũ trang bảo
vệ Tổ quốc, tăng cường sức mạnh quốc phòng để bảo vệ vững
chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là địi hỏi bức thiết, nếu khơng
tiến hành điều đó thì mọi thành quả của cách mạng sẽ tiêu
tan. Các Đảng Cộng sản và công nhân cầm quyền sẽ phải
chịu trách nhiệm trước giai cấp, dân tộc và lịch sử. Do đó,
trong mối quan hệ tương tác giữa kinh tế với quốc phịng thì
quốc phịng khơng chỉ là sự tiêu tốn của cải vật chất mà còn
tạo ra những điều kiện cần thiết cho công cuộc phát triển
kinh tế.
Để khắc phục những mâu thuẫn giữa kinh tế và quốc
phịng, để khai thác mặt tích cực của quốc phịng, giảm thiểu
những chi phí kinh tế khi sự tồn tại của quốc phòng là tất yếu
khách quan, để vừa phát triển được kinh tế, vừa củng cố được
sức mạnh quốc phịng của đất nước. Lời giải cho bài tốn đó
khơng gì khác hơn là cần phải tạo ra sự kết hợp trong các
hoạt động giữa hai lĩnh vực kinh tế và quốc phòng với nhau
theo một phương thức và bước đi phù hợp với điều kiện của
đất nước. Theo đó Nhà nước chủ động gắn bó hai q trình
kinh tế và quốc phòng lại với nhau thành một thể thống nhất,

thúc đẩy nhau cùng phát triển đảm bảo cả hai lĩnh vực cùng
đạt được chất lượng và hiệu quả cao.


8
Kết hợp kinh tế với quốc phòng là hoạt động chủ động và
tích cực của Nhà nước trên cơ sở nhận thức những quy luật
kinh tế và quy luật đấu tranh vũ trang, nhằm gắn bó hai lĩnh
vực xây dựng kinh tế và củng cố quốc phịng trong một q
trình thống nhất, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển, đảm bảo
cho mọi hoạt động của xã hội đều dẫn đến sự mạnh lên cả
kinh tế và quốc phòng, làm cho mỗi bước phát triển kinh tế
đều có tác động đến sự tăng lên của tiềm lực quốc phòng, và
mỗi bước củng cố quốc phòng đều tạo thuận lợi cho phát triển
và bảo vệ kinh tế trước sự tàn phá của các hoạt động phá
hoại do kẻ thù gây ra cả trong thời bình và khi đất nước có
chiến tranh. Sự kết hợp đó được thể hiện trong một chiến lược
chung thống nhất, được cụ thể hoá trong mỗi lĩnh vực của đời
sống xã hội ở cả tầm vĩ mô và vi mơ. Mục đích là nhằm đạt
được đồng thời cả lợi ích kinh tế và lợi ích quốc phịng trong
cùng một q trình, Theo đó, mỗi hoạt động trong các lĩnh
vực kinh tế, xã hội, quốc phòng đều phải chú ý đến cả lợi ích
kinh tế và quốc phịng, khơng vì lợi ích này mà làm tổn hại
đến lợi ích kia, mà phải kết hợp cả hai để cả kinh tế và quốc
phịng đều mạnh lên. Vì vậy, nói kết hợp kinh tế với quốc
phòng tuy là hoạt động chủ động, tích cực của Nhà nước,
song hoạt động đó phải được tiến hành trên cơ sở nhận thức
và vận dụng đúng đắn những quy luật khách quan chứ hồn
tồn khơng thể và khơng phải là hoạt động mang tính chất
chủ quan duy ý chí, bất chấp quy luật. Nếu ở đâu đó có sự

nhân danh kết hợp kinh tế với quốc phịng, song vì những lợi
ích cá nhân cục bộ, hoặc một chiều mà để cho tính chất chủ


9
quan duy ý chí trong các hoạt động kết hợp đó diễn ra thì hậu
quả sẽ khó lường hết, thậm chí là khơng thể kiểm sốt được.
Trước thời kỳ đổi mới, trong tư duy cũ người ta cho rằng
kết hợp kinh tế với quốc phịng là vấn đề mang tính quy luật
riêng của cách mạng xã hội chủ nghĩa, là hoạt động mang
tính đặc thù của các nước xã hội chủ nghĩa. Thực ra vấn đề
không phải như vậy, ngày nay, dưới ánh sáng của tư duy
chính trị, tư duy kinh tế và tư duy quân sự mới người ta nhận
ra rằng, kết hợp kinh tế với quốc phòng là vấn đề mang tính
quy luật chung cho mọi quốc gia có chế độ chính trị – xã hội
khác nhau.
2. Vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng ở Việt
Nam và việc thực hiện chủ trương đó trong sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc giai đoạn cách mạng mới.
Trung thành với tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, xuất
phát từ tình hình thực tiễn của cơng cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam
coi vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng là sợi chỉ đỏ xuyên
suốt, là vấn đề có tính ngun tắc trong chỉ đạo mọi hoạt
động kinh tế, quốc phòng của đất nước.
Ngay từ sau ngày miền Bắc được giải phóng, đất nước ta
tiến hành đồng thời 2 nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc, tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng
miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã có chủ trương kết hợp kinh tế với quốc phòng. Tháng

11 năm 1958, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II) tại
kỳ họp thứ 14 đã khẳng định: "Phải kết hợp củng cố quốc


10
phòng với xây dựng hậu phương vững chắc” (5). Hai năm sau,
tháng 9 năm 1960 tại Đại hội đại biểu toàn quân lần thứ III,
Đảng ta tiếp tục khẳng định: "Phải giải quyết đúng đắn mối
quan hệ giữa xây dựng kinh tế và củng cố quốc phòng" (6). Thời
kỳ này Đảng và Nhà nước đã chuyển 8 vạn quân sang làm
nhiệm vụ phát triển kinh tế đất nước. Hoạt động kết hợp kinh
tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế giai đoạn này đã
góp phần tích cực vào cơng cuộc xây dựng miền Bắc xã hội
chủ nghĩa, trở thành hậu phương chiến lược vững mạnh của
cả nước, góp phần tích cực vào sự nghiệp bảo vệ miền Bắc,
giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc.
Sau đại thắng mùa Xuân 1975, tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IV của Đảng (12/1976) một lần nữa, Đảng ta lại
khẳng định quan điểm kết hợp kinh tế với quốc phòng, coi vấn
đề kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế là
một bộ phận cấu thành đường lối xây dựng kinh tế của Đảng
. Trong thời kỳ này, một lần nữa Đảng, Nhà nước ta lại giao

(7)

cho quân đội sử dụng một bộ phận lực lượng thực hiện chủ
trương kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế
thông qua việc giao nhiệm vụ cho quân đội tham gia xây
dựng kinh tế với một lực lượng không nhỏ – thời điểm cao
nhất 40 vạn, với gần 3 vạn cán bộ


. Với lực lượng lớn, lại

(8)

được tổ chức chặt chẽ, quân đội đã tham gia tích cực và có
hiệu quả trên mặt trận xây dựng kinh tế, xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Kết hợp kinh tế với quốc phịng thơng qua việc sử
dụng lực lượng qn đội làm kinh tế, một mặt tạo ra năng lực
sản xuất mới đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế quốc


11
dân, mặt khác duy trì lực lượng cần thiết sẵn sàng đối phó với
những biến động xảy ra.
Thực tiễn những thành tựu về quân đội ta tham gia xây
dựng kinh tế trong thời kỳ từ sau Đại hội IV đến trước Đại hội
VI của Đảng và việc chúng ta đối phó thắng lợi với hai cuộc
chiến tranh ở hai đầu biên giới Tổ quốc đã chỉ rõ tính đúng
đắn của quan điểm chủ trương cùng những biện pháp chỉ đạo
thực tiễn về thực hiện kết hợp kinh tế với quốc phòng của
Đảng và Nhà nước ta.
Bước vào thời kỳ đất nước tiến hành công cuộc đổi mới,
Đại hội lần thứ VI một lần nữa Đảng lại đã chỉ ra sự kiên định
chủ trương thực hiện sự kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng
nhưng được phát triển thêm trên cơ sở đổi mới tư duy về
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc được
hình thành từ Đại hội VI, phát triển trong các Đại hội VII, VIII
và IX và đến nay Đại hội X của Đảng tiếp tục khẳng định đã
đặt cơ sở khoa học cho nhận thức về bảo vệ Tổ quốc trong

giai đoạn mới. Theo đó, vấn đề bảo vệ Tổ quốc bao chứa
trong lịng nó sự bảo vệ độc lập dân tộc gắn với bảo vệ chủ
quyền quốc gia, bảo vệ Tổ quốc gắn liền với bảo vệ chế độ,
bảo vệ Đảng, bảo vệ sự nghiệp xây dựng cơng nghiệp hố đất
nước. Rõ ràng vấn đề ổn định kinh tế - xã hội đã trở thành
một trong những mục tiêu của bảo vệ an ninh quốc gia. Tư
duy mới này đã làm xuất hiện phạm trù kép quốc phòng - an
ninh. Chính vì vậy Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VIII của
Đảng đã coi kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh trở
thành một trong sáu quan điểm lớn của Đảng và đến Đại hội


12
IX vấn đề kinh tế được mở rộng thành kinh tế - xã hội, kết hợp
kinh tế - xã hội với quốc phòng - an ninh.
Một mặt tư duy về bảo vệ Tổ quốc từ chủ yếu là tư duy
về quân sự, về chiến tranh, về xây dựng quốc phòng, xây
dựng lực lượng vũ trang đề phòng chiến tranh đã chuyển sang
tư duy một cách toàn diện hơn về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
thời bình, chủ động ứng phó trong mọi tình huống chiến tranh,
sẵn sàng tiến hành thắng lợi chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ
quốc. Mặt khác, tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc đã cho phép
chúng ta ngày càng thấy rõ hơn vai trò của an ninh và đối
ngoại, sự kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng - an ninh và đối
ngoại, giữa quốc phòng - an ninh - đối ngoại với xây dựng kinh
tế là khơng thể tách rời, cho phép ta có những giải pháp cụ
thể trong thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và
củng cố quốc phòng - an ninh của đất nước.
Thực tiễn phong trào cách mạng thế giới cả những bài
học thành công và không thành công của các nước XHCN

trong bảo vệ Tổ quốc từ mấy thập kỷ qua cho thấy, để bảo vệ
Tổ quốc XHCN khơng chỉ lo đối phó với vũ trang xâm lược của
kẻ thù, quan trọng hơn là phải chăm lo xây dựng và giữ nước
từ bên trong, biết đối phó có hiệu quả với các thủ đoạn phi vũ
trang của kẻ thù. Sức mạnh để bảo vệ Tổ quốc phải là tổng
hợp của cả quốc gia và của cả khối đại đồn kết dân tộc chứ
khơng thuần t chỉ là sức mạnh quân sự, sức mạnh của lực
lượng vũ trang.
Vào những năm cuối của thế kỷ XX, sau sự sụp đổ của
Đông Âu và Liên Xô, hệ thống XHCN tan rã, phong trào XHCN
thế giới lâm vào thoái trào, chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế


13
quốc Mỹ do nắm những ưu thế về vốn, khoa học - cơng nghệ,
nguồn nhân lực trình độ cao, nên có điều kiện để phát triển
kinh tế. Mặt khác, chúng lợi dụng thành quả của khoa học công nghệ hiện đại, của kinh tế tri thức để tiếp tục củng cố vị
trí siêu cường, biến nó thành cơng cụ để áp đặt những giá trị
Mỹ đối với các nước khác. Sử dụng con bài kinh tế (hợp tác,
trao đổi thương mại, vốn, công nghệ...) để tiếp tục đẩy mạnh
chiến lược "diễn biến hồ bình", kết hợp với bạo loạn lật đổ và
can thiệp vũ trang khi cần thiết nhằm tấn cơng các lực lượng
cách mạng trên thế giới, xố bỏ các nước XHCN cịn lại, trong
đó có Việt Nam. Cách đây không lâu, ngày 20 tháng 9 năm
2002, Tổng thống Mỹ Gic-giơ Bussơ đã cơng bố chiến lược
an ninh quốc gia mới của Mỹ, trong đó khẳng định Mỹ là siêu
cường khơng có đối thủ và tun bố chấm dứt học thuyết
quân sự cũ "vượt trên ngăn chặn" để theo đuổi chiến lược
quân sự mới "đánh đòn phủ đầu", kết hợp sức mạnh kinh tế,
tài chính và quân sự để áp đặt các giá trị tự do, dân chủ và

nhân quyền theo "chuẩn mực" của Mỹ. Mỹ và phương Tây
luôn tìm mọi cách can thiệp, chi phối các nước, các khu vực
có vị trí chiến lược về kinh tế, chính trị, quân sự, làm cho thế
giới và nhiều khu vực luôn tiềm ẩn nguy cơ xung đột, chiến
tranh, mất ổn định, nhằm "đục nước béo cị" có lợi cho chúng.
Vấn đề Trung Đông, Đông Nam á và Nam á luôn là trung tâm
của các mưu đồ đen tối đó. Đặc biệt, chúng vẫn xem Việt
Nam là một trong những trọng điểm cần chống phá quyết liệt,
tiến tới lật đổ chế độ XHCN ở Việt Nam. Sự kiện Tây Nguyên
tháng 2/2001 và tháng 3/2004 gây mất ổn định tại địa bàn
đều có bàn tay của Mỹ.


14
Tình hình phức tạp trên đây, cho phép chúng ta rút ra
những nhận thức hết sức sâu sắc rằng trong điều kiện quốc tế
và khu vực đầy biến động hiện nay, an ninh sinh tồn và an
ninh phát triển của Tổ quốc XHCN đã đặt ra yêu cầu bảo vệ
Tổ quốc trong tình hình mới khơng chỉ bảo vệ độc lập dân tộc,
thống nhất đất nước và chủ quyền quốc gia mà quan trọng
ngày nay là bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền,
bảo vệ nhân dân và bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ thành
quả cách mạng chống kẻ thù xâm lược bên ngoài và bọn phản
động bên trong cấu kết với nhau, chống tự diễn biến đi chệch
sang chủ nghĩa tư bản từ nội bộ ta. "Bảo vệ Tổ quốc XHCN là
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và
nền văn hoá; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ
XHCN; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích của quốc gia dân
tộc. Bảo vệ ổn định chính trị và mơi trường hồ bình phát

triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa", "Tăng
cường quốc phịng, giữ vững an ninh quốc gia và tồn vẹn
lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà
nước và của toàn dân" "Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc
phòng và an ninh, quốc phòng và an ninh với kinh tế trong
các chiến lược, qui hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội". Những tư tưởng này đã được xác định trong văn kiện Đại
hội lầ thứ IX và Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương lần thứ Tám (khoá IX) của Đảng

. Đó cũng chính là

(9)

mục tiêu của chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách
mạng mới.


15
Như thế, tình hình quốc tế, khu vực và trong nước trong
thời kỳ mới, tư duy mới về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc XHCN mà
vấn đề nổi lên cấp bách hàng đầu hiện nay chúng ta cần tập
trung sức giải quyết là chống "diễn biến hồ bình" kết hợp
chặt chẽ với bảo vệ vùng biển, vùng trời, vùng biên giới của
Tổ quốc, đồng thời sẵn sàng ứng phó với các tình huống khác,
như tinh thần và nghị quyết Đại hội VIII và IX của Đảng, đã
làm cho nội dung bảo vệ Tổ quốc có sự phát triển mới. Tình
hình đó đặt ra một hệ quả tất yếu là phải kết hợp chặt chẽ
giữa hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là xây
dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN; phải kết hợp chặt chẽ

giữa kinh tế với quốc phòng. Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, củng
cố quốc phòng bao gồm cả xây dựng tiềm lực, xây dựng lực
lượng và xây dựng thế trận phải gắn bó chặt chẽ 3 nội dung
xây dựng đó với nhau. Vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng,
quốc phòng với kinh tế hiện nay đã có sự phát triển mới; kết
hợp giữa quốc phòng - an ninh với phát triển kinh tế - xã hội.
Đây là vấn đề quan trọng, là sự phát triển về quan điểm của
Đảng ta về kết hợp kinh tế với quốc phòng trong điều kiện lịch
sử mới đồng thời cũng là giải pháp chiến lược quan trọng để
thực hiện sự kết hợp đó một cách có hiệu quả, đi vào chiều
sâu và đạt ý nghĩa toàn diện hơn.
Để thực hiện mục tiêu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới, một trong những quan điểm chỉ đạo của Đảng ta trong
sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc là phải kết hợp giữa hai nhiệm vụ
chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ chủ nghĩa xã
hội. Thực hiện quan điểm chỉ đạo trên nhất thiết phải thực
hiện có hiệu quả chủ trương kết hợp kinh tế với quốc phòng,


16
coi đó như một trong những giải pháp để bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa trong điều kiện lịch sử mới
Quán triệt tinh thần Nghị quyết Hội nghị ban Chấp hành
Trung ương lần thứ Tám (khoá IX) về “Chiến lược bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới”, vấn đề thực hiện chủ trương kết
hợp kinh tế với quốc phòng – với tính cách là một phương
thức, một giải pháp chiến lược. Để biến những tư tưởng về
bảo vệ Tổ quốc trong Nghị quyết của Đảng thành hiện thực
của cuộc sống, phù hợp với đặc điểm tình hình của giai đoạn
cách mạng mới, việc kết hợp kinh tế với quốc phòng cần thực

hiện theo hàng loạt những nội dung cơ bản thể hiện trên lĩnh
vực kinh tế nói chung bao gồm các nội dung như:
1. Kết hợp kinh tế với quốc phịng trong sự nghiệp cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
2. Kết hợp kinh tế với quốc phòng trong quá trình phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Kết hợp kinh tế với quốc phòng trong đổi mới hoạt
động quản lý của Nhà nước.
4. Kết hợp kinh tế với quốc phòng trong xây dựng và
hiện đại hoá kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội.
5. Kết hợp kinh tế với quốc phòng trong hoạt động kinh
tế đối ngoại.v.v..
Tuy nhiên tiếp cận vấn đề dưới góc độ các hoạt động
thuộc nội hàm bảo vệ Tổ quốc, nội dung kết hợp kinh tế với
quốc phòng cần và phải được tiến hành trên các vấn đề lớn
sau đây:


17
Thứ nhất, Kết hợp kinh tế với quốc phòng trong công
tác hoạch định các chiến lược phát triển kinh tế và chiến lược
quốc phòng mà trước hết phải bắt đầu ngay từ khâu quy
hoạch.
Trong thời đại ngày nay, mọi quốc gia trong quá trình
phát triển của mình đều phải tiến hành hoạch định các chiến
lược phát triển dài hơi đối với những lĩnh vực của đời sống xã
hội nhằm tạo thế chủ động trước những diễn biến phức tạp
của tình hình quốc tế. Đặc biệt, trước xu hướng tồn cầu hoá
và phát triển kinh tế tri thức diễn ra hết sức nhanh chóng như
hiện nay, việc hoạch định các chiến lược về phát triển kinh tế

xây dựng nền quốc phòng ln được ưu tiên trong q trình
quản lý xã hội. Trong q trình hoạch định các chiến lược đó,
người ta phải tính tốn đến tất cả các yếu tố, trong đó quốc
phịng, an ninh là hướng được ưu tiên. Như thế, việc kết hợp
kinh tế với quốc phòng được thực hiện ngay trong hoạch định
các chiến lược kinh tế và chiến lược quốc phịng. Để thực hiện
điều đó phải bắt đầu từ khâu quy hoạch. Khi tiến hành quy
hoạch phát triển các ngành, vùng kinh tế phải tính tốn đến
các yếu tố quốc phòng, an ninh. Đối với nước ta những năm
qua, khi quy hoạch chúng ta đã chú ý đến các yêu cầu nội
dung kết hợp kinh tế với quốc phòng. Điều này thể hiện rõ
nhất khi quy hoạch hệ thống giao thông, quy hoạch hệ thống
thuỷ lợi, cảng biển…Luật tổ chức Hội đồng nhân dân, và Uỷ
ban nhân dân đã quy định rất cụ thể quyền hạn, nhiệm vụ
của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch Hội đồng
nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp trong lĩnh vực
quốc phòng an ninh, tạo cơ sở pháp lý cho các địa phương


18
thực hiện quy hoạch phát triển kinh tế xã hội gắn với quốc
phòng, an ninh. Pháp lệnh về quy hoạch cũng đã xác định
những điều như vậy. Tuy nhiên theo đánh giá của các cơ quan
chức năng của Quốc hội và của Chính phủ thì đây vẫn là khâu
yếu, cần có giải pháp thích hợp để khắc phục đáp ứng yêu
cầu tiếp tục thực hiện kết hợp kinh tế với quốc phòng trong
thời gian sắp tới.
Thứ hai, Kết hợp kinh tế với quốc phòng trong chuẩn bị
đất nước sẵn sàng đối phó với chiến tranh xâm lược, trong đó
trọng điểm là thực hiện tốt việc chuẩn bị và động viên kinh tế

đặc biệt là chuẩn bị và động viên công nghiệp.
Để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
nhất định chúng ta phải tiến hành chuẩn bị đất nước về mọi
mặt nhằm đối phó thắng lợi với chiến tranh xâm lược. Chuẩn
bị đất nước bao gồm nhiều nội dung: chuẩn bị động viên kinh
tế (gồm cả công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải….),
chuẩn bị động viên chính trị tinh thần, chuẩn bị động viên
quân đội, chuẩn bị phịng thủ dân sự…Nếu khơng có kế hoạch
chuẩn bị trước, khi tình thế địi hỏi khơng thể động viên được
toàn bộ sức mạnh của đất nước để đánh giặc. Trong chuẩn bị
động viên kinh tế, vấn đề chuẩn bị động viên cơng nghiệp có
tầm quan trọng đặc biệt, giữ vị trí then chốt. Chuẩn bị động
viên cơng nghiệp tốt tức là đã thực hiện kết hợp kinh tế với
quốc phòng ở một trong những khâu quan trọng nhất của
chuẩn bị đối phó với chiến tranh (khả năng sản xuất vũ khí
đáp ứng yêu cầu của chiến tranh đã được chủ động chuẩn bị dự trữ lạnh trong nền kinh tế). Nhiều quốc gia trên thế giới đã
xây dựng luật động viên cơng nghiệp để có thể huy động mọi


19
nguồn lực của các thành phần kinh tế tham gia sản xuất vũ
khí, trang bị cho quân đội và phục vụ nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc nếu xảy ra chiến tranh. ở nước ta, năm 2002, Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh động viên công
nghiệp, các cơ quan chức năng của quân đội và Nhà nước đã
phối hợp lắp đặt được một số dây chuyền động viên công
nghiệp. Song vấn đề quan trọng là ở một số doanh nghiệp
chưa nhận thức đầy đủ và thật sự đúng đắn về động viên
công nghiệp. Để


dáp ứng yêu cầu vũ khí, trang bị cho sự

nghiệp bảo vệ Tổ quốc cần có cơ chế thích hợp để các doanh
nghiệp có các cơng nghệ lưỡng dụng, nghĩa là trong thời bình
thì sản xuất hàng dân sinh, khi chiến tranh nổ ra thì sản xuất
vũ khí, đây là việc làm cấp thiết không thể chậm trễ.
Thứ ba, Kết hợp kinh tế với quốc phịng trong các hoạt
động qn sự trong đó nổi lên là tổ chức có hiệu quả việc
quân đội làm kinh tế.
Trong thực hiện chủ trương kết hợp kinh tế với quốc
phịng, xét từ phía qn đội thì việc kết hợp đó được thực hiện
ngay trong các hoạt động quân sự thông qua việc sử dụng tiết
kiệm các nguồn lực Nhà nước giao cho Quốc phòng. Tuy
nhiên, việc kết hợp có hiệu quả nhất vẫn là tổ chức một bộ
phận quân đội làm kinh tế. Các đơn vị quân đội làm kinh tế là
nơi dự trữ tiềm lực quốc phòng đồng thời có thể sử dụng lực
lượng này đáp ứng những nhiệm vụ đột xuất, quan trọng của
nền kinh tế. Thực tế trong thời gian qua lưc lượng quân đội
làm kinh tế, nhiều thương hiệu nổi tiếng của quân đội gắn với
tên tuổi các Công ty Trường Sơn, Thành An, Lũng Lô, Công ty
Hông Hà, Công ty Bay dịch vụ, Cơng ty May 20…đã có vị trí


20
nhất định trên thị trường. Một số sản phẩm kinh tế do quân
đội sản xuất đã cạnh tranh được với các sản phẩm cùng loại
trên thị trường trong nước và quốc tế như: vật liệu nổ cơng
nghiệp, cơ khí, hố chất, may mặc, quạt điện, vật liệu xây
dựng…. Để tiếp tục thực hiện chủ trương kết hợp kinh tế với
quốc phịng có chất lượng và hiệu quả mới, ở hướng nội dung

này cần tìm những giải pháp mới như liên doanh, liên kết, sáp
nhập… giữa các đơn vị làm kinh tế của quân đội với nhau, đổi
mới thiết bị công nghệ, đổi mới cơ chế chính sách v.v. nhằm
tạo ra bước đột phá trong thời gian tới.
3. Binh đoàn 12 - Tổng Công ty xây dựng Trường
Sơn thực hiện chủ trương của Đảng và Chính phủ về
kết hợp kinh tế với quốc phòng
Sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc,
cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ chính trị của cả
nước nói chung và qn đội nói riêng chuyển sang một thời kỳ
mới, thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thực hiện Nghị quyết Đại
hội Đảng khoá IV tháng 12/1976, Thủ tướng Chính phủ đã
quyết định thành lập Binh đồn 12, trên cơ sở các Sư đồn
cơng binh bộ đội Trường Sơn để làm nhiệm vụ kinh tế kết hợp
với quốc phòng (tháng 10/1977). Từ nhiệm vụ mở đường, bảo
đảm giao thông chiến lược Đường Trường Sơn, Đường Hồ Chí
Minh trong chiến tranh nay chuyển sang xây dựng cơ bản cầu
đường, thuỷ lợi, thuỷ điện trên các địa bàn chiến lược vùng
sâu, vùng xa và các cơng trình trọng điểm của Nhà nước như:
Đường tàu thống nhất Bắc - Nam; Đường N279 Biên giới phía
Bắc; Đường Quốc lộ số 7, số 8, số 9 trên đất nước bạn Lào;



×