Tải bản đầy đủ (.docx) (168 trang)

Vai trò của nhà nước trong chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (944.14 KB, 168 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập quốc tế ngày nay đã trở thành xu thế tất yếu khách quan của
tiến trình phát triển nhân loại, trong đó, hội nhập kinh tế quốc tế là nội dung
cốt lõi, căn bản, cơ sở nền tảng của toàn bộ tiến trình hội nhập.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, một mặt đem lại cho các quốc gia
những cơ hội tốt cho thúc đẩy kinh tế phát triển, nhưng mặt khác cũng khiến
các quốc gia phải đối mặt với muôn vàn rủi ro, thách thức. Tuy nhiên, mỗi
quốc gia khi tham gia tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế không phải đều cùng
nhận được những cơ hội hay phải gánh chịu những rủi ro, thách thức ngang
nhau. Thực tế cho thấy, hiệu quả tiến trình hội nhập phụ thuộc rất lớn vào
năng lực nhận thức và hành động của mỗi quốc gia. Quốc gia nào chủ động và
tích cực trong hội nhập, có những chính sách hội nhập đúng đắn, phương thức
hội nhập phù hợp… sẽ tận dụng, khai thác được nhiều hơn những cơ may, vận
hội, đồng thời dễ dàng vượt qua những trở ngại, thách thức, giảm thiểu những
tổn thất, gặt hái những thành tựu phát triển ngay cả trong những điều kiện khó
khăn nhất. Ngược lại, những quốc gia nào cịn do dự, lúng túng, khơng nhanh
nhạy nắm bắt thời cơ, linh hoạt ứng phó trước những biến động của tiến trình
hội nhập… sẽ phải hứng chịu nhiều tổn thất, thiệt hại, thậm chí có thể đẩy nền
kinh tế rơi vào khủng hoảng, suy thoái nặng nề.
Đối với các nước có nền kinh tế phát triển chưa cao như Việt Nam, hội
nhập kinh tế quốc tế là lựa chọn tốt nhất để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, rút
ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước, nâng cao vị thế kinh tế và năng lực
cạnh tranh quốc gia. Để đảm bảo hiệu quả tiến trình hội nhập, nhanh chóng
gặt hái những thành tựu phát triển kinh tế to lớn, việc chủ động và tích cực
trong hội nhập có ý nghĩa vơ cùng quan trọng. Chủ động và tích cực hội nhập
khơng chỉ giúp chúng ta nắm bắt, tận dụng tối đa những cơ hội, kết hợp tốt
các nguồn lực cho thúc đẩy kinh tế phát triển; ứng phó hiệu quả hơn trước
những tác động, ảnh hưởng bất lợi từ tiến trình hội nhập; né tránh, hạn chế
đến mức thấp nhất những tác động xấu từ tiến trình hội nhập, mà hơn thế cịn


có thể tìm kiếm được những


2
cơ hội trong thách thức, thậm chí có thể “xoay chuyển” những tình huống bất
lợi, biến những khó khăn, thách thức thành động lực phát triển.
Để chủ động và tích cực hội nhập đòi hỏi sự nỗ lực kết hợp, tham gia của
nhiều chủ thể, trong đó nhà nước là chủ thể quan trọng nhất, có vai trị to lớn,
trực tiếp điều hành, chỉ đạo, định hướng, dẫn dắt toàn bộ tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế ở nước ta.
Những năm qua, Nhà nước Việt Nam đã đề ra nhiều chính sách định
hướng đúng đắn, đồng thời chỉ đạo triển khai nhiều biện pháp thúc đẩy nền
kinh tế hội nhập ngày càng mạnh mẽ vào thể chế kinh tế khu vực và thế giới.
Nhờ đó chúng ta đã khai thác được nhiều giá trị từ tiến trình hội nhập cho
thúc đẩy kinh tế phát triển, đem lại cho nền kinh tế Việt Nam những bước
khởi sắc tốt đẹp với tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao trong nhiều năm, năng
lực cạnh tranh và vị thế kinh tế của đất nước trên trường quốc tế không ngừng
được cải thiện và nâng cao. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, hiệu quả tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta đến nay vẫn chưa thực sự như mong
đợi. Tốc độ tăng trưởng kinh tế còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng và
lợi thế của đất nước. Nhiều nguồn lực của nền kinh tế chưa được khai thác,
phát huy tốt. Nền kinh tế cũng chưa tranh thủ được tối đa sự hỗ trợ từ bên
ngoài cho việc giải quyết, ứng phó hiệu quả trước những khó khăn, thách thức
và biến động phức tạp của tiến trình hội nhập.
Một trong những nguyên nhân căn bản của thực trạng đó là do Nhà nước
chưa thực sự phát huy tốt vai trị của mình trong chủ động và tích cực chỉ đạo,
điều hành tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế; năng lực quản lý, điều tiết kinh
tế vĩ mô của Nhà nước vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém; hệ thống pháp luật,
bộ máy hành chính Nhà nước chưa đáp ứng tốt nhất những địi hỏi của tiến
trình hội nhập và yêu cầu phát triển đất nước, v.v…

Vì vậy, việc nâng cao vai trò của Nhà nước trong chủ động và tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế nhằm khai thác được nhiều hơn nữa những lợi ích to
lớn từ hội nhập cho thực hiện thắng lợi những mục tiêu phát triển đất nước
vẫn là nội dung cần chú trọng trong tiến trình hội nhập ở nước ta thời gian tới.


3
Hơn thế, trong bối cảnh hội nhập quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp
như hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước nhiều khó khăn, thách
thức nan giải (ảnh hưởng bất lợi từ cuộc khủng hoảng, suy thối kinh tế, mất
ổn định chính trị diễn ra ở nhiều quốc gia; đối phó với những âm mưu chống
phá từ các lực lượng thù địch và những toan tính xâm lược, chèn ép nước ta
trên nhiều lĩnh vực ngày càng mạnh mẽ của Trung Quốc;…), Nhà nước càng
cần phải phát huy hơn nữa vai trị của mình trong chủ động và tích cực hội
nhập; chỉ đạo khai thác, kết hợp tối đa nội lực và ngoại lực nhằm củng cố và
tăng cường sức mạnh, tiềm lực kinh tế đất nước, nâng cao khả năng ứng phó,
giải quyết hiệu quả trước những tác động, ảnh hưởng bất lợi từ tiến trình hội
nhập, đảm bảo độc lập tự chủ về kinh tế, giảm thiểu sự lệ thuộc nặng nề vào
các quốc gia lớn, đồng thời tranh thủ tối đa mọi sự hỗ trợ, ủng hộ của cộng
đồng quốc tế cho thực hiện mục tiêu vừa thúc đẩy phát triển kinh tế, vừa đảm
bảo giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia.
Thực tiễn đã và đang đặt ra yêu cầu cần thiết phải nghiên cứu vấn đề vai
trị của nhà nước trong q trình hội nhập kinh tế quốc tế để từ đó rút ra
những bài học cần thiết nâng cao vai trò của Nhà nước Việt Nam trong việc
chủ động và tích cực hội nhập vào thể chế kinh tế toàn cầu nhằm gặt hái
những thành tựu hội nhập kinh tế quốc tế cao nhất cho cơng cuộc phát triển
đất nước. Đó là lý do tác giả luận án chọn vấn đề “Vai trị của nhà nước trong
chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài
nghiên cứu của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ lý luận và thực tiễn về vai trò của Nhà nước Việt Nam
trong chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, luận án đề xuất quan
điểm và một số giải pháp chủ yếu phát huy vai trò của Nhà nước Việt Nam
trong chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ lý luận về vai trò của Nhà nước Việt Nam trong chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.


4
- Phân tích thực trạng vai trị của Nhà nước Việt Nam trong việc chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời phát hiện những vấn đề
đang đặt ra đối với việc phát huy vai trò đó của Nhà nước hiện nay.
- Đề xuất quan điểm và một số giải pháp chủ yếu phát huy vai trị của
nhà nước Việt Nam trong chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu về vai trò của Nhà nước Việt Nam với
tư cách là bộ phận quan trọng của kiến trúc thượng tầng trong chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án nghiên cứu, khảo sát vấn đề vai trò của Nhà nước Việt Nam
trong chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn đất nước mở
rộng hội nhập từ năm 2000 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở quan điểm lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đặc biệt là các quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về vấn đề hội nhập, vai trò của nhà nước trong bối cảnh

hội nhập nói chung, vai trị của Nhà nước Việt Nam trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế nói riêng, đồng thời kế thừa có chọn lọc kết quả các cơng trình
nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngồi nước đã cơng bố liên quan tới
đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử mác xít, đặc biệt là các
phương pháp lịch sử - lơgic, phân tích - tổng hợp, trừu tượng hố, khái qt
hố, đồng thời kết hợp một số phương pháp khác như điều tra, thống kê xã
hội học… để hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra.
5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án phân tích, làm rõ sự cần thiết phải chủ động và tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay.


5
- Phân tích dưới góc độ triết học vai trị của Nhà nước Việt Nam trong
việc chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
- Đánh giá thực trạng, đồng thời đề xuất quan điểm và một số giải pháp
cơ bản góp phần nâng cao vai trị của Nhà nước trong chủ động và tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Những vấn đề mà luận án đề cập, giải quyết góp phần thiết thực vào
việc luận giải và đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của
Nhà nước Việt Nam hiện nay trong chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế.
- Luận án sau khi hoàn thiện có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục
vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy về các vấn đề liên quan đến chủ động,
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, cũng như vai trò của Nhà nước trong chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay.

7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
được kết cấu thành 4 chương, 10 tiết.


6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Hội nhập quốc tế nói chung, hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng ngày nay
đã là xu thế tất yếu của nhân loại và trở thành vấn đề quen thuộc không chỉ
trong giới các học giả, các nhà khoa học mà cả trong đời sống xã hội. Do đó,
cũng dễ hiểu vì sao có khá nhiều các cơng trình, bài viết quan tâm tìm hiểu,
nghiên cứu xoay quanh chủ đề này.
Trước hết, có thể thấy, nhiều học giả đã tập trung nghiên cứu, đưa ra các
quan niệm khác nhau về khái niệm hội nhập.
Trong cuốn Từ điển bách khoa Việt Nam của Hội đồng Quốc gia chỉ đạo
biên soạn từ điển bách khoa, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, năm 2002, khái
niệm hội nhập được giải thích một cách ngắn gọn là sự liên kết các nền kinh
tế với nhau. Các nền kinh tế khác nhau thực hiện sự hội nhập thông qua hoạt
động mậu dịch và hợp tác chính sách và biện pháp kinh tế [69, tr.384].
Các tác giả cuốn Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế tồn cầu hố –
Vấn đề và giải pháp, Bộ Ngoại giao, Vụ hợp tác quốc tế đa phương, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002 cho rằng, có thể tiếp cận về hội nhập theo
ba cách: cách thứ nhất, theo chủ nghĩa liên bang, tức là xem hội nhập là sản
phẩm cuối cùng chứ không phải là một quá trình, với quan tâm chủ yếu dành
cho thể chế, hướng tới sự hình thành một nhà nước liên bang kiểu Hoa Kỳ và
Thụy Sỹ; cách tiếp cận thứ hai, xem hội nhập trước hết thể hiện ở sự liên kết
giữa các quốc gia thông qua phát triển các luồng giao lưu như thương mại, thư

tín, thơng tin, du lịch, di trú, đào tạo... trong một cộng đồng an ninh hợp nhất
như Hoa Kỳ, hay cộng đồng an ninh đa nguyên như Liên minh châu Âu (EU);
cách tiếp cận thứ ba, của những người theo phái tân chức năng, xem hội nhập
dưới góc độ là hành vi mở rộng và làm sâu sắc quan hệ hợp tác giữa các chủ
thể với nhau trong việc hoạch định chính sách [29, tr.53-54].
Theo tác giả Nguyễn Vũ Tùng trong bài viết “Quan hệ giữa độc lập tự
chủ và hội nhập quốc tế” đăng trên Tạp chí Kinh tế và Chính trị thế giới, số 2,
năm


7
2009, hội nhập chính là q trình chủ động tham gia ngày càng sâu rộng vào
đời sống mọi mặt (kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội) của quan hệ quốc tế. Tác
giả cũng nhấn mạnh, ở mức độ trừu tượng hơn, hội nhập cịn là q trình chấp
nhận những qui tắc ứng xử mới đối với hành vi quốc gia trong thời kỳ tồn
cầu hố và hậu chiến tranh lạnh. Hội nhập là một tiến trình chủ quan, phụ
thuộc vào sự lựa chọn của từng nước [122].
Trong cuốn Độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế của Việt Nam trong bối
cảnh mới do GS.TS Nguyễn Xuân Thắng chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, năm 2011, các tác giả cho rằng, khái niệm hội nhập là một cách diễn đạt
khác về tồn cầu hố. Nếu tồn cầu hố (nhìn từ góc độ thể chế) là q trình
tạo ra khung khổ phát triển chung, lôi cuốn các quốc gia đi theo thì hội nhập
quốc tế tự nó là q trình hố thân một cách chủ động của mỗi nước, mỗi khu
vực vào trong các thực thể khu vực, toàn cầu để một mặt, thể hiện được vị thế
và tính tự cường quốc gia, dân tộc, và mặt khác, tham gia loại trừ những khác
biệt để mình là một bộ phận hợp thành trong các chỉnh thể khu vực và tồn
cầu đó. Hội nhập quốc tế là q trình liên kết có mục tiêu, định hướng cụ thể
gắn với phạm vi, cấp độ cũng như điều kiện cụ thể của mỗi nước. Hội nhập
quốc tế là quá trình chủ quan do hai xu thế khách quan là toàn cầu hố và cuộc
cách mạng khoa học cơng nghệ mới qui định [109, tr.49, 50].

Tác giả Hoàng Anh Tuấn với bài viết Môi trường quốc tế và chiến lược
ngoại giao của Việt Nam đăng trên Báo Thế giới và Việt Nam,
, ngày 16/12/2013 đã đưa ra quan niệm, hội nhập quốc
tế là tiến trình các nước chủ động tăng cường các hoạt động gắn kết họ với nhau
dựa trên sự chia sẻ chung về lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực và
tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chứcquốc tế
[121].
Theo tác giả Đặng Đình Quý trong bài viết Bàn thêm về khái niệm “hội
nhập quốc tế” của Việt Nam trong giai đoạn mới, đăng trên Tạp chí Cộng sản
điện tử, , ngày 4/12/2012, hội nhập quốc tế là
hình thức phát triển cao của hợp tác quốc tế, là quá trình chủ động chấp nhận,
áp dụng và tham gia xây dựng các luật lệ và chuẩn mực quốc tế nhằm phục vụ
tối đa lợi ích quốc gia, dân tộc. Tác giả cịn phân tích rõ, từ góc độ nhà nước,
hội nhập quốc tế


8
là quá trình một quốc gia tham gia các hoạt động chung của cộng đồng quốc
tế theo các nguyên tắc, chuẩn mực mà cộng đồng quốc tế thừa nhận. Hội nhập
quốc tế là u cầu có tính khách quan do tác động của q trình tồn cầu hóa
ngày càng sâu rộng, nhưng việc lựa chọn lĩnh vực, mức độ và lộ trình hội
nhập lại là quyết định chủ quan của từng quốc gia phù hợp với lợi ích và hồn
cảnh cụ thể. Bên cạnh đó, từ thực tiễn và lý luận về hội nhập quốc tế trên thế
giới, tác giả đã khái quát một số điểm chung nổi bật về hội nhập quốc tế như:
hội nhập quốc tế bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế, nhưng không giới hạn ở đó, mà
có thể diễn ra trên nhiều lĩnh vực; hội nhập quốc tế là q trình khơng có giới
hạn về thời gian; hội nhập quốc tế không chỉ diễn ra thông qua việc tham gia
các cơ chế hợp tác đa phương mà cịn trên nhiều bình diện; bản chất của hội
nhập quốc tế là quá trình xây dựng và áp dụng các luật lệ và chuẩn mực chung
[100].

Nguyên Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm trong
bài viết Bàn về hội nhập quốc tế đăng trên Báo Thế giới và Việt Nam,
ngày 16/12/2013 cho rằng, hội nhập quốc tế thực
chất là hợp tác kinh tế nhưng ở trình độ cao hơn, đáp ứng những địi hỏi chặt
chẽ hơn như gắn kết với nhau, chia sẻ với nhau lợi ích, nguồn lực, quyền lực;
tuân thủ các quy tắc chung, luật chơi và chuẩn mực chung theo một quá trình
phát triển liên tục từ thấp đến cao, với những hình thức đa dạng, phong phú,
phù hợp với điều kiện cụ thể của từng khu vực hoặc từng cơ chế hội nhập.
Theo ông, hội nhập bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế, từ đó mở rộng sang các lĩnh
vực khác của đời sống xã hội. Cũng có một số trường hợp hội nhập không bắt
đầu từ kinh tế, mà bắt đầu từ chính trị hay văn hóa như trường hợp các nước
gia nhập LHQ, hay trường hợp Việt Nam gia nhập ASEAN, nhưng trong quá
trình phát triển, kinh tế vẫn chiếm vị trí trọng tâm. Hội nhập quốc tế diễn ra
khơng chỉ trên cấp độ tồn cầu, mà cịn ở nhiều cấp độ khác nhau, từ thấp đến
cao dưới danh nghĩa "liên kết" hoặc "nhất thể hóa" như liên kết tiểu khu vực,
liên kết khu vực, liên kết liên khu vực, liên kết liên châu lục, liên kết trên bình
diện song phương hoặc đa phương [33].
Tuy có nhiều cách tiếp cận khác nhau về hội nhập quốc tế, song từ quan
niệm của các học giả có thể thấy, hội nhập quốc tế là quá trình các nước gia
tăng


9
các hoạt động gắn kết, hợp tác với nhau trên những lĩnh vực cụ thể theo
những nguyên tắc nhất định, phù hợp với mục tiêu phát triển của mỗi quốc
gia.
Ngoài việc đưa ra các quan niệm về hội nhập quốc tế, các tác giả cũng
tập trung phân tích một số đặc điểm, cũng như những tác động của quá trình
hội nhập quốc tế đối với đời sống kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội tồn cầu
nói chung, đồng thời chỉ ra những thời cơ, thách thức, cũng như những u

cầu, địi hỏi của q trình hội nhập đối với Việt Nam nói riêng.
Bên cạnh các nghiên cứu về chủ đề hội nhập quốc tế, nhiều học giả đã
dành sự quan tâm, tìm hiểu sâu hơn về vấn đề hội nhập trong lĩnh vực kinh tế
(hội nhập kinh tế quốc tế) trên tinh thần xác định đây là lĩnh vực, nội dung
trọng tâm của tồn bộ tiến trình hội nhập.
Trong cuốn Tồn cầu hố kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế đối với tiến
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam do GS.TS Nguyễn Xuân
Thắng chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2007, trước hết, các tác
giả tập trung phân tích khái niệm tồn cầu hố, hội nhập kinh tế quốc tế. Trên
cơ sở trình bày khái qt và có hệ thống các quan niệm khác nhau về tồn cầu
hố kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế, các tác giả đã đưa ra quan niệm tương
đối phổ quát và sát thực với diễn tiến của xu hướng tồn cầu hố kinh tế và
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Theo các tác giả, hội nhập kinh tế quốc tế
chỉ là cách tiếp cận khác của tồn cầu hố kinh tế, nhìn tồn cầu hố kinh tế từ
góc độ tham gia liên kết của các chủ thể kinh tế vào một chỉnh thể kinh tế thị
trường toàn cầu. Hội nhập kinh tế quốc tế tự nó là một q trình “hố thân”
của mỗi quốc gia, khu vực vào trong các thực thể khu vực, tồn cầu; là q
trình liên kết kinh tế có mục tiêu, định hướng cụ thể của mỗi quốc gia; là tiến
trình nhất thể hố nền kinh tế thế giới… [108, tr.21-23]. Bên cạnh đó, các tác
giả cũng chỉ ra những đặc trưng, biểu hiện mới của toàn cầu hoá kinh tế và
hội nhập kinh tế quốc tế; những tác động và đặc biệt là các hệ luỵ của tồn
cầu hố kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế đối với sự phát triển của nền kinh
tế thế giới nói chung, đến q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở Việt Nam
nói riêng. Các tác giả tiếp tục đi sâu phân tích q trình Việt Nam tham gia
vào tiến trình tồn cầu hố kinh tế và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế, trong
đó tập trung nhiều vào ba lĩnh vực mà nước ta đạt


10
được những thành tựu đáng kể là thu hút FDI, thương mại quốc tế và vấn đề

đổi mới và phát triển hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Từ đó, các tác giả đề
xuất hệ thống giải pháp mang tính chiến lược cho q trình phát triển cơng
nghiệp hố rút ngắn của Việt Nam từ góc độ xem xét những tác động của tiến
trình tồn cầu hố, hội nhập kinh tế quốc tế trên ba đột phá chính: tiếp cận và
triển khai chiến lược thích ứng với tự do hố và phát triển bền vững; điều
chỉnh cơ cấu kinh tế; xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường.
Tác giả Nguyễn Thị Hiền, trong cuốn Hội nhập kinh tế khu vực của một
số nước ASEAN, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2002 cũng tập trung
nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản của hội nhập kinh tế quốc tế, đưa ra
quan niệm riêng về vấn đề hội nhập trên cơ sở khái quát các quan niệm khác
nhau về hội nhập kinh tế quốc tế. Từ đó, tác giả tiếp tục phân tích q trình
hội nhập kinh tế khu vực của các nước ASEAN, triển vọng hội nhập kinh tế
khu vực và một số kinh nghiệm hội nhập của các nước này... Những nội dung
nghiên cứu của tác giả có giá trị nhất định cả về mặt lý luận và kinh nghiệm
thực tiễn cho công cuộc hội nhập quốc tế nói chung, hội nhập kinh tế quốc tế
nói riêng ở nước ta.
Trong cuốn Phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế do PGS.TS Nguyễn Văn Nam chủ biên, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, năm 2006, trước khi đi vào những nội dung nghiên cứu
chính, các tác giả cũng tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về tồn
cầu hố, hội nhập kinh tế quốc tế. Cũng như nhiều học giả khác, các tác giả của
cơng trình này quan niệm, hội nhập thực chất là sự chủ động tham gia vào q
trình tồn cầu hố, khu vực hố. Hội nhập kinh tế quốc tế chính là q trình
chủ động gắn kết nền kinh tế và thị trường của từng nước với kinh tế khu vực
và thế giới thơng qua các nỗ lực tự do hố và mở cửa trên các cấp độ [87,
tr.19, 20]. Tiếp đó, các tác giả phân tích vấn đề phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu hố, hội nhập
kinh tế quốc tế, khẳng định, chỉ có phát triển kinh tế thị trường, Việt Nam mới
khai thác được các nguồn lực để xây dựng chủ nghĩa xã hội, mới hội nhập
được với nền kinh tế thế giới hiện đại, tránh tụt hậu và đưa đất nước phát triển

với nhịp độ nhanh hơn, tiến tới phồn thịnh và phát triển bền vững. Các tác giả
cũng dành thời gian phân tích kinh nghiệm của một số quốc gia


11
như Trung Quốc, Thái Lan và một số nước Đông Âu nhằm rút ra những bài
học cho Việt Nam trong việc chuyển đổi nền kinh tế tham gia hội nhập. Trên
cơ sở đánh giá những thành tựu cũng như những hạn chế của Việt Nam trong
chính sách hội nhập kinh tế quốc tế, các tác giả đưa ra những quan điểm, giải
pháp mang tính định hướng đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế nhằm phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta như xây
dựng đồng bộ các yếu tố thị trường, cải cách doanh nghiệp nhà nước, nâng cao
năng lực cạnh tranh,…
Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan trong bài viết “Nâng cao khả năng
cạnh tranh để hội nhập thành công” đăng trong sách Việt Nam 20 năm đổi mới
và phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Lao động, Hà Nội, năm
2006 cho rằng, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực là quá trình gắn kết nền kinh
tế của nước mình với nền kinh tế khu vực và thế giới, tham gia vào sự phân
công lao động quốc tế, gia nhập các tổ chức kinh tế đa phương, chấp nhận tuân
thủ những qui định chung được hình thành trong quá trình hợp tác và đấu
tranh giữa các nước thành viên của các tổ chức ấy. Trên cơ sở phân tích
những đặc điểm của q trình hội nhập, tác giả khẳng định sự cần thiết phải
tiến hành hội nhập của nền kinh tế nước ta, đồng thời nêu ra những nguyên tắc
cần thực hiện trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam trong đó chú
trọng nhiều đến nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, thể hiện trên ba
góc độ có liên quan mật thiết với nhau như: khả năng cạnh tranh của các mặt
hàng và các loại hình dịch vụ, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và khả
năng cạnh tranh của quốc gia (môi trường cạnh tranh) [73].
Từ những quan niệm khác nhau của các học giả, có thể hiểu, về thực chất,
hội nhập kinh tế quốc tế chính là quá trình các quốc gia tự nguyện tham gia, gắn

kết nền kinh tế trong nước với kinh tế khu vực và thế giới thông qua các nỗ
lực thực hiệc mở cửa và thúc đẩy tự do hoá kinh tế theo những mục tiêu nhất
định, ở những phạm vi, cấp độ khác nhau dựa trên những điều kiện cụ thể của
từng quốc gia.
1.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG TỒN
CẦU HỐ, HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Những năm qua, một chủ đề cũng thu hút sự quan tâm của đơng đảo các
nhà nghiên cứu trong và ngồi nước là về vai trò của nhà nước trong bối cảnh


tồn cầu hố, hội nhập quốc tế.

12


13
Các cơng trình nghiên cứu của các học giả quốc tế tập trung chủ yếu
phân tích, nhận định về sự thay đổi, “biến dạng” của nhà nước trong kỷ
nguyên toàn cầu hố, hội nhập quốc tế.
Trong các cơng trình như “Q trình tồn cầu hóa và Nhà nước: Cái mới
trong việc điều chỉnh kinh tế ở các nước phát triển” của Osadchaja I, Viện
Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003; “Tồn cầu hố kinh tế và chức
năng của nhà nước”của Lei Da, Viện Thông tin khoa học xã hội, Hà Nội,
2003; Tồn cầu hố: Những xu hướng biến đổi lớn do TS Phạm Thái Việt chủ
biên, Viện Thông tin KHXH, Hà Nội, 2004; Tồn cầu hóa và sự tồn vong của
nhà nước của Nguyễn Vân Nam, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2007,
Vấn đề điều chỉnh chức năng và thể chế của nhà nước dưới tác động của tồn
cầu hóa của Phạm Thái Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2008, các tác giả
đã cho thấy những quan điểm khơng thống nhất, thậm chí là trái ngược nhau

của nhiều học giả quốc tế khi bàn luận về vai trò và xu hướng biến đổi của
nhà nước trong thời đại mới. Tựu chung lại có thể thấy hai luồng ý kiến khác
nhau:
Luồng ý kiến thứ nhất cho rằng, tham gia vào tiến trình tồn cầu hố, hội
nhập quốc tế, vai trò của nhà nước ở các quốc gia sẽ giảm đi và ngày càng trở
nên khơng cịn cần thiết nữa. Theo các học giả, quyền lực nhà nước đang bị
phân mảnh. Sự tiêu vong của nhà nước là tất yếu để thay bằng phương thức cai
trị mới tương hợp hơn. Bởi lẽ, tiến trình tồn cầu hố gắn liền với cơ chế mở
cửa, tự do hoá trên nhiều lĩnh vực với sự hoạt động và gia tăng mạnh mẽ các
qui luật khách quan của kinh tế thị trường, các qui tắc, hiệp ước, điều lệ quốc
tế, cùng với sự chi phối, điều hành của các định chế, tổ chức tài chính kinh tế
quốc tế lớn buộc các quốc gia phải tuân thủ, chấp hành khi gia nhập “cuộc
chơi tồn cầu”. Q trình đó tự nó tất yếu sẽ thu hẹp vai trò của nhà nước.
Nhà nước sẽ dần mất đi năng lực điều hành, quản lý xã hội hoặc khơng có khả
năng tác động hữu hiệu đến sự phát triển kinh tế xã hội trong kỷ nguyên tồn
cầu hố. Quyền lực tưởng chừng là cố hữu, độc tôn của nhà nước trong lịch sử
(tổ chức, quản lý, chỉ đạo, điều hành, quyết định mọi vấn đề của đời sống kinh
tế - xã hội) sẽ ngày càng bị các nhân tố mới của tồn cầu hóa (các tổ chức,
định chế tồn cầu, các cơng ty xun quốc gia, các tổ chức phi chính phủ)
cạnh tranh, lấn át, v.v…


14
Luồng ý kiến thứ hai khẳng định, mặc dù đang phải chịu áp lực nặng nề
từ những tác động của tiến trình tồn cầu hố, hội nhập, song nhà nước vẫn có
vai trị quan trọng đối với các quốc gia. Các học giả cũng chỉ ra những thách
thức đối với vai trị của nhà nước trong điều kiện tồn cầu hóa khiến cho chức
năng của nhà nước dường như khơng còn quan trọng nữa đồng thời khẳng
định, trong kỷ nguyên tồn cầu hố, vai trị của nhà nước có thể có những
biến đổi những nó vẫn là phương thức cai trị chính yếu, bởi lẽ, tồn cầu hố,

hội nhập quốc tế, đi kèm với nó là hàng loạt những vấn đề phức tạp nảy sinh
như khủng hoảng, suy thoái kinh tế, phân hố giàu nghèo, tệ nạn xã hội, ơ
nhiễm môi trường… mà bản thân cơ chế tự điều tiết của thị trường tồn cầu
khơng thể hoặc khơng “quan tâm” giải quyết, đòi hỏi nhà nước ở các quốc gia
phải đứng ra can thiệp, điều hành. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cũng thừa
nhận khả năng chia sẻ quyền lực của nhà nước cho các lực lượng toàn cầu mới
như các định chế, thể chế quốc tế, các tập đoàn xuyên quốc gia, các tổ chức
phi chính phủ, đồng thời chỉ ra yêu cầu phải điều chỉnh vai trò quản lý, điều
tiết của nhà nước thông qua các công cụ quản lý vĩ mô, tăng cường năng lực
kinh tế của nhà nước, bổ sung các phương pháp, phương tiện, chức năng mới
của nhà nước cho phù hợp với bối cảnh thời đại mới nhằm thích ứng với
những biến động của xu thế tồn cầu hóa, hội nhập.
Trong khi các học giả nước ngoài quan tâm nhiều vào việc đưa ra những
quan điểm trái chiều về vai trò của nhà nước trong xu thế hội nhập thì các học
giả trong nước phần lớn đều thừa nhận và khẳng định vai trò quan trọng, cần
thiết của nhà nước nói chung, Nhà nước Việt Nam nói riêng đối với tồn bộ
q trình vận động, phát triển của nền kinh tế. Các cơng trình chủ yếu tập
trung phân tích vai trị của Nhà nước đối với việc thúc đẩy nền kinh tế phát
triển; vai trò của Nhà nước trong điều kiện kinh tế thị trường; hay vai trị của
Nhà nước trong bối cảnh tồn cầu hoá, hội nhập quốc tế; lý giải sự cần thiết
phải phát huy vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước trên nhiều lĩnh vực của
đời sống xã hội, đặc biệt đối với thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; chỉ ra sự thay
đổi vai trò của Nhà nước từ khi đất nước thực hiện đổi mới mơ hình phát triển
kinh tế, đồng thời khẳng định vai trò, chức năng quản lý của Nhà nước cần
phải được điều chỉnh, đổi mới cho phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước
trong xu thế thời đại mới.


15
Trong cuốn Quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng

XHCN ở Việt Nam do GS.TS Lương Xuân Quỳ (chủ biên), Nxb Lý luận chính
trị, Hà Nội, 2006, các tác giả đã tập trung phân tích cơ sở lý luận và kinh
nghiệm quốc tế về vai trò quản lý nhà nước về kinh tế; đánh giá thực trạng
những thành tựu cũng như những hạn chế của quản lý nhà nước về kinh tế ở
nước ta trong khoảng mười năm kể từ đổi mới năm 1986; từ đó, các tác giả đề
xuất quan điểm định hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục đổi mới,
hoàn thiện và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta trong
thời gian tiếp theo.
Tác giả Phạm Ngọc Quang với bài viết “Vai trò của Nhà nước trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” đăng
trên Tạp chí Cộng sản, số 8, năm 2009 đã khẳng định, phát huy vai trò của
Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay chính là cách thiết thực góp phần bảo đảm cơng bằng xã hội, vì sự
phát triển dân chủ, văn minh của đất nước, đồng thời vẫn giữ được bản sắc
chính trị - xã hội của dân tộc trong thời kỳ hội nhập. Tác giả nhấn mạnh, ở
Việt Nam hiện nay, vai trò của Nhà nước đối với kinh tế không chỉ xuất phát
từ yêu cầu phổ biến của quá trình phát triển kinh tế thị trường, mà cịn xuất
phát từ tính đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta, Nhà nước có vai
trị to lớn đối với việc bảo đảm sự ổn định vĩ mô cho phát triển và tăng trưởng
kinh tế; cân đối, hài hòa các quan hệ nhu cầu, lợi ích giữa người và người; tạo
ra sự đồng thuận xã hội trong hành động vì mục tiêu phát triển của đất nước.
Tính đúng đắn, hợp lý và kịp thời của việc hoạch định và năng lực tổ chức
thực hiện các chính sách phát triển vĩ mơ do Nhà nước đảm nhiệm là điều
kiện tiên quyết nhất tạo ra sự tăng trưởng kinh tế và sự đồng thuận xã hội.
Đồng thời, tác giả cũng khẳng định, Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc
chỉ đạo thực hiện thắng lợi mục tiêu to lớn của đất nước: dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong bài viết “Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số

9, năm 2000, tác giả Chu Văn Cấp đã phân tích, chỉ ra vai trò của Nhà nước
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta: Nhà nước


tạo môi

16


17
trường hoạt động hiệu quả cho các cá nhân, doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế; Nhà nước tạo môi trường ổn định về kinh tế - xã hội; Nhà nước
soạn thảo kế hoạch, quy hoạch, các chương trình phát triển kinh tế - xã hội và
ban hành chính sách, pháp luật, tạo hành lang thực hiện các kế hoạch, quy
hoạch đó,… Tác giả đồng thời đưa ra những kiến nghị nâng cao hơn nữa vai
trò của Nhà nước trong chỉ đạo phát triển kinh tế thị trường ở nước ta.
Luận án Tiến sĩ Triết học của Lê Thị Hồng về Vai trò định hướng xã hội
chủ nghĩa của nhà nước đối với sự phát triển nền kinh tế Việt Nam hiện nay,
Học viện CTQG Hồ Chí Minh, năm 2001 đã tập trung nghiên cứu vai trò của
Nhà nước Việt Nam đối với q trình phát triển kinh tế nói chung, trong quản
lý, định hướng, điều tiết nền kinh tế thị trường đảm bảo định hướng xã hội
chủ nghĩa từ khi tiến hành đổi mới đến những năm đầu thế kỷ XXI nói riêng.
Tác giả cho rằng, “Nhà nước – nhân tố chính trị cơ bản trực tiếp định hướng
XHCN sự phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay” [70, tr.77-80], hoạt động cơ
bản của Nhà nước là nhằm giữ vững định hướng XHCN đối với nền kinh tế
thị trường ở nước ta. Trên cơ sở làm rõ thực trạng và những vấn đề đặt ra đối
với vai trò định hướng xã hội chủ nghĩa của Nhà nước trong nền kinh tế thị
trường, tác giả đã đề xuất các giải pháp phát huy vai trị này của Nhà nước:
Hồn thiện và nâng cao hiệu lực các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà
nước; nâng cao vai trò của kinh tế Nhà nước như là tiền đề vật chất để Nhà

nước giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển nền kinh tế Việt Nam
theo định hướng xã hội chủ nghĩa; nâng cao năng lực, phẩm chất của các cán
bộ quản lý Nhà nước về kinh tế nhằm đáp ứng yêu cầu định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Trong cuốn Thể chế kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường
và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam do GS.TSKH Lương Xuân Quỳ và
GS.TS Đỗ Đức Bình đồng chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010,
các tác giả đã phân tích những vấn đề lý luận quan trọng về vai trò của Nhà
nước Việt Nam đối với sự phát triển nền kinh tế đất nước khi bước vào xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như: Nhà nước can
thiệp, điều tiết, quản lý nền kinh tế như thế nào; Nhà nước cần phải làm gì để
hồn thành chức năng quản lý kinh tế thị trường; những công cụ nào có thể và
cần phải được sử dụng


18
để Nhà nước hoàn thành được chức năng quản lý điều tiết nền kinh tế. Các tác
giả cũng đánh giá vai trò của Nhà nước ta đối với sự phát triển kinh tế đất
nước hiện nay, đó là vai trị quản lý, điều tiết kinh tế chứ không can thiệp,
điều khiển thị trường, đồng thời cho rằng nhờ có vai trò kinh tế của Nhà nước
mà nền kinh tế nước ta đã có sự tăng trưởng nổi bật, các cân đối vĩ mô của
nền kinh tế cơ bản được giữ ổn định, tạo môi trường và điều kiện cần thiết
cho sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên, các tác giả cũng chỉ ra những hạn chế
của Nhà nước trong việc thực hiện vai trò quản lý, chỉ đạo, điều hành kinh tế
ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện những mục tiêu đã đề ra của đất nước. Từ
đó, các tác giả đề xuất một số quan điểm và các giải pháp hoàn thiện thể chế
kinh tế của Nhà nước phù hợp với đặc thù nền kinh tế chuyển đổi và hội nhập
kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
Tác giả Nguyễn Văn Mạnh với bài viết “Nhận thức mới về vai trò, chức
năng của Nhà nước ta trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa và mở cửa” đăng trong sách Nhìn lại quá trình đổi mới
tư duy lý luận của Đảng 1986 - 2005, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005 đã
phân tích, chỉ ra vai trị, chức năng chủ yếu của Nhà nước Việt Nam hiện nay:
tạo môi trường pháp lý và khuôn khổ, giới hạn cho các hoạt động kinh tế; thực
hiện chức năng quản lý kinh tế vĩ mơ; bảo đảm quốc phịng, an ninh, cung cấp
các dịch vụ hàng hóa cơng cộng; xây dựng và thực hiện các chính sách xã hội,
đảm bảo cơng bằng xã hội; đối ngoại phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Bên cạnh việc khẳng định vai trò ngày càng quan trọng của Nhà
nước, bao phủ toàn diện các mặt, các lĩnh vực trong sự phát triển kinh tế - xã
hội đất nước, tác giả cũng lưu ý, Nhà nước chỉ nên phát huy vai trò quản lý,
điều hành vĩ mô chứ không can thiệp trực tiếp vào sự vận động khách quan của
nền kinh tế trên các lĩnh vực.
Trong luận án Tiến sĩ Triết học Vai trò Nhà nước đối với việc xây dựng
nền kinh tế Việt Nam độc lập tự chủ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
hiện nay của Trần Thị Thu Hường, Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh, 2011,
trên cơ sở chỉ ra những tác động tích cực và tiêu cực của quá trình hội nhập
đến sự phát triển của các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam, phân
tích một số vấn đề lý luận căn bản về vai trò của Nhà nước đối với việc xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, tác


giả đánh giá thực trạng

19


20
những tác động của tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế đến sự phát triển kinh tế
và nguy cơ đe dọa việc phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ của Việt Nam
hiện nay, đồng thời đề xuất một số giải pháp phát huy vai trò của Nhà nước

trong việc đảm bảo xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, hội nhập hiệu quả
với nền kinh tế thế giới như: coi trọng việc xây dựng, hoàn thiện các công cụ
quản lý vĩ mô của Nhà nước nhằm khai thác các nguồn lực trong nước và
quốc tế; đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước; nâng cao vai trò
kinh tế của Nhà nước…
Tác giả Vy Thị Hương Lan với luận án Tiến sĩ Triết học Vai trị của Nhà
nước trong việc thực hiện cơng bằng xã hội ở Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc
tế, Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2012 đã tập trung phân tích
những vấn đề lý luận xung quanh vai trò của nhà nước đối với việc thực hiện
công bằng xã hội trong điều kiện hội nhập quốc tế; đánh giá những thành tựu
và một số hạn chế của Nhà nước Việt Nam đối với việc thực hiện cơng bằng
xã hội ở nước ta. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm
nâng cao vai trò của Nhà nước đối với việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt
Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế như: nâng cao vai trò quản lý điều tiết của
Nhà nước đối với nền kinh tế; hồn thiện cơ sở pháp lý cho việc thực hiện
cơng bằng xã hội; tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách xã hội
để thực hiện cơng bằng xã hội; tăng cường hiệu quả của cơng tác phịng,
chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy Nhà nước.
Thông qua những cơng trình nghiên cứu của các học giả có thể thấy, Nhà
nước Việt Nam vẫn có vai trị quan trọng trong việc chỉ đạo, điều tiết, quản lý
toàn bộ nền kinh tế; là nhân tố lãnh đạo quan trọng góp phần thực hiện thắng
lợi những nhiệm vụ phát triển đất nước theo định hướng của Đảng và ý chí
của nhân dân. Trong bối cảnh thời đại mới, thời đại kinh tế thị trường, tồn
cầu hố, hội nhập quốc tế thì vai trị ấy của Nhà nước càng phải được tăng
cường và phát huy để có thể đảm trách nhiều nhiệm vụ hơn, đối phó, giải
quyết nhiều vấn đề nan giải của đời sống kinh tế, chính, trị, văn hố, xã hội
hơn.
Tuy nhiên, các học giả cũng nhận thấy, so với yêu cầu phát triển của đất
nước trong bối cảnh mới, vai trò quản lý, điều hành nền kinh tế của Nhà nước
Việt Nam còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém như: hệ thống luật pháp còn thiếu




×