Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.65 KB, 13 trang )

MỞ ĐẦU
Thủ tục rút gọn là một thủ tục đặc biệt trong tố tụng hình sự. Việc ban hành
thủ tục rút gọn đã góp phần quan trọng trong việc giải quyết vụ án nhanh chóng,
kịp thời. Trong thủ tục rút gọn, Bộ luật Tố tụng hình sự đã quy định một cách
tương đối đầy đủ về điều kiện áp dụng gồm bốn điều kiện đựợc quy định tại Điều
319. Tuy nhiên, quy định này vẫn có những hạn chế, gây khó khắn trong việc áp
dụng. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này và để khắc phục những hạn chế, sau đây bài
tiểu luận của em xin đi vào đề bài : “ Quy định về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn
trong tố tụng hình sự ”. Bài làm sẽ khơng tránh khỏi những thiếu sót. Em mong
nhận được sự góp ý của thầy cơ để bài làm hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm
ơn !

NỘI DUNG
I.KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA THỦ TỤC RÚT GỌN
1.Khái niệm.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (TTHS) chưa đưa ra một khái niệm chính
thức về thủ tục rút gọn. Căn cứ vào điều kiện áp dụng và các đặc điểm đặc trưng có
thể đưa ra khái niệm về thủ tục rút gọn như sau:
Thủ tục rút gọn là thủ tục đặc biệt trong tố tụng hình sự được áp dụng đối
với những vụ án về tội phạm ít nghiêm trọng, sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ
rõ ràng, người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang và có căn cước lai lịch
rõ ràng1.

1

/>0


2. Ý nghĩa của thủ tục rút gọn.
Việc áp dụng thủ tục rút gọn góp phần tiết kiệm chi phí, thời gian, công sức
trong việc giải quyết những vụ án đơn giản để tập trung vào giải quyết những vụ án


tích cực, nghiêm trọng. Đồng tời góp phần khắc phục tình trạng án tồn đọng kéo
dài và việc vi phạm các quy định về thời hạn tố tụng. Một ý nghĩa quan trọng nữa
là góp phần khắc phục tình trạng quá tải trong các trại tạm giam và những khó
khăn trong tổ chức tạm giam , tạm giữ và góp phần nhanh chóng khơi phục các
quan hệ xã hội bị xâm hại.
II. ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG THỦ TỤC RÚT GỌN ĐƯỢC QUY ĐỊNH TẠI
ĐIỀU 319 BLTTHS NĂM 2003
1.Điều kiện thứ nhất : Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang
Người phạm tội bi bắt quả tang là bắt người khi người đó đang thực hiện tội
phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt.
Khoản 1, Điều 82 BLTTHS năm 2003 quy định : Đối với người đang thực hiện tội
phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt cũng như
người đang bị truy nã thì bất kì người nào cũng có quyền bắt và giải ngay đến cơ
quan Công an, Viện kiểm sát hoặc UBND nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập
biên bản và gửi ngay người bị bắt đến cơ quan điều tra có thẩm quyền. Như vậy,
điều luật quy định ba trường hợp phạm tội quả tang, đó là :
Thứ nhất, người đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện: ở trường hợp này
được hiểu là người đang thực hiện những hành vi được mô tả trong cấu thành tội
phạm của một tội phạm cụ thể theo BLHS nhưng chứ chưa hoàn thành tội phạm đã
bị phát hiện. Đang thực hiện tội phạm được hiểu là đang thực hiện những hành vi
làm cơ sở tiền đề trước hành vi phạm tội, những hành vi này không phải là hành vi
chuẩn bị phạm tội mà đây là những hành vi rất gần, không thể tách rời ra được với
hành vi khách quan trong cấu thành tội phạm nên được coi là hành vi thực hiện tội
1


phạm.; hoặc đã thực hiện hành vi khách quan của tội phạm nhưng chưa thực hiện
được hết các hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm, hoặc mới thực hiện
được một số trong số những hành vi quy định trong cấu thành tội phạm.
Thứ hai, người thực hiện hành vi phạm tội ngay sau khi thực hiện tội phạm

thì bị phát hiện. Trường hợp này các hành vi khách quan trong cấu thành tội phạm
đã được thực hiện hết, các dấu hiệu pháp lý của tội phạm đã thỏa mãn đầy đủ, tội
phạm cũng vừa được hoàn thành nhưng người thực hiện hành vi chưa kịp xóa dấu
vết của tội phạm hoặc đnag cất giấu công cụ, phương tiện phạm tội thì bị phát hiện
và bắt giữ. Trong trường hợp có người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm phát hiện
ngay thì mặc dù khơng có vật chứng để lại cũng là phạm tội quả tang.
Thứ ba, người thực hiện hành vi phạm tội đang bị đuổi bắt: Trường hợp này
người đang thực hiện phạm tội hoăc nagy sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát
hiện nên đã chạy trốn và bị đuổi bắt. Trường hợp này khác với bắt trong trường
hợp khẩn cấp là việc thực hện tội phạm, chạy trốn và bị đuổi bắt có sự liên tục,
khơng bị gián đoạn về thời gian và về diễn biến sự việc. Địa điểm bắt không phải
là hiện trường vụ án.
Đặc điểm của vụ án mà người phạm tội bị bắt quả tang là hành vi phạm tội
đã cụ thể, rõ rang, chứng cứ, tang vật của vụ án được thu giữ đầy đủ nên người
phạm tội buộc phải nhận tội ngay, tội phạm nhanh chóng được xác định.
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 84 BLTTHS 2003 việc bắt quả tang phải
được lập thành văn bản. Sau k hi bị bắt hoặc nhận người phạm tội quả tang cơ quan
điều tra phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 24h phải đưa ra quyết định tạm giữ
hoặc trả tự do cho người bị bắt.
Điều kiện “người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang” là điều kiện
đầu tiên rất quan trọng để xác định vụ án có được đưa ra xét xử hay không theo
2


thủ tục TTHS rút gọn hay khơng. Điều này có ý nghĩa quan trọng để quyết định vụ
án giải quyết theo thủ tục rút gọn vì đặc điểm của phạm tội quả tang sẽ đảm bảo
cho thời gian tố tụng sau này được nhanh chóng, mặt khác yếu tố này có ý nghĩa để
xác định cho điều kiện tiếp theo “ sự việc phạm tội đơn giản, chững cứ rõ ràng”.
2.Điều kiện thứ hai: Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng.
Điều kiện về tính chất của hành vi phạm tội cụ thể là dấu hiệu thể hiện rõ

bản chất của vụ việc có thuộc loại tội phạm được đưa ra xét xử theo thủ tục rút gọn
hay không.
Điều kiện này gồm hai dấu hiệu :sự việc phạm tội đơn giản và sự việc phạm
tội có chứng cứ rõ rang. Căn cứ vào thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự, có thể
hiểu hai điều kiện này nhưu sau:
Sự việc phạm tội đơn giản là những vụ án khơng có những tình tiết phải mất
nhiều thời gian để điều tra , xác định theo quy định tại Điều 63 BLTTHS. Việc xác
định các dấu hiệu cấu thành tội phạm được thực hiện khá dễ dàng, nhanh chóng,
tội phạm đã được thực hiện khơng có đồng phạm, hoặc nếu có thì chỉ có một đồng
phạm. Cụ thể:
+ Hành vi phạm tội thường do một người thực hiện , trong trường hợp có
đồng phạm thì số đồng phạm khơng nhiều và sự câu kết giữa những người này
không chặt chẽ. Tội phạm được thực hiện tại một địa điểnm nhất định và khơng có
liên quan đến địa điểm khác.
+ Mục đích của tội phạm thường là các lợi ích vật chất, động cơ phạm tội
mang tính chất vụ lợi, nhất thời nên dễ dàng xác định được.

3


+ Sự việc phạm tội không liên quan đến những vấn đề chính trị , an ninh, xã
hội , tơn giáo, phong tục tập quán hoặc những vấn đề khác có tính chất phức tạp.
Việc giải quyết vụ án cũng khơng địi hỏi những hoạt động điều tra phức tạp.
Sự việc phạm tội có chứng cứ rõ ràng: chứng cứ rõ ràng là chứng cứ đã được thu
thập tương đối đầy đủ ngay từ đầu, thông qua biên bản bắt người phạm tội quả
tang, lời khai của người bị hai, người trực tiếp chứng kiến sự việc phạm tội, các
tang vật thu tại hiện trường2… Chứng cứ và quá trình thu thập , bảo quản chứng cứ
đều hợp pháp, có độ tin cậy cao. Chứng cứ phải được các cơ quan tiến hành tố tụng
thu thập theo đúng trình tự, thủ tục mà BKTTHS quy định. Các chứng cứ có giá trị
chứng minh trực tiếp, khách quan và hợp pháp.

Do người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang khi đnag thực hiện tội
phạm nên chứng cứ ở đây chủ yếu là lời khai người trực tiếp chứng kiến và người
thực hiện hành vi phạm tội bị bắt giữ, lời khai của người bị hại, biên bản bắt người
phạm tội quả tang có giá trị chứng minh cao và không phải mất thời gian điều tra,
xác minh.
Tất cả các yếu tố trên phải được xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ, bổ
sung cho nhau. Trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, tính
chất đơn giản, chứng cứ rõ ràng của vụ án phải luôn được bảo đảm. Nếu thủ tục rút
gọn đã được áp dụng mà sau đó phát hiện vụ án có những tình tiết phức tạp phải
điều tra bổ sung, cần thời gian xác định thêm thì thủ tục rút gọn bị hủy bỏ, vụ án
phải chuyển về thủ tục thơng thường để giải quyết.

2

ThS Thái Chí Bình, Quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 về thủ tục rút gọn, vướng

mắc, kiến nghị hoàn thiện, ngày 19/03/2015

4


3.Điều kiện thứ ba : tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng.
Khoản 3, Điều 8 BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 ( sau đây gọi
tắt là BLHS năm 2009) quy định: Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy
hiểm không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là
ba năm tù”. Việc đặt ra điều kiện về loại tội phạm để áp dụng thủ tục rút gọn là
điều cần thiết. Điều này một mặt sẽ khoanh vùn rõ ràng các loại tội phạm có thể
được áp dụng thủ tục rút gọn, giúp cho các cơ quan, người tiến hành tố tụng, mặt
khác cũng tránh được khả năng tùy tiện của các cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng.

Theo quy định tại Khoản 3, Điều 8 BLHS năm 2009, để xác định tội phạm ít
nghiêm trọng cần phải dựa trên hai dấu hiệu: dấu hiệu về mặt nội dung chính trị xã
hội và dấu hiệu về mặt hậu quả pháp lý. Dấu hiệu về mặt nội dung chính trị - xã
hội là tính nguy hiểm cho xã hội. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy
hại không lớn cho xã hội. Dấu hiệu về mặt hậu quả pháp lý là tính chịu hình phạt.
Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt đối với
tội ấy đến ba năm tù.
Do hậu quả mà tội phạm gây ra cho xã hội và hậu quả pháp lý mà người
thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng có thể phải gánh chịu là khơng lớn nên việc xử
lý có thể nhanh chóng, dễ dàng hơn và nếu trong trường hợp thực hiện tội phạm
khác và viêc khắc phục hậu quả cũng dễ dàng hơn.
BLHS năm 2009 có 146/267 Điều luật quy định về tội phạm ít nghiêm
trọng. Tuy nhiên khơng phải tất cả các tội phạm ít nghiêm trọng đều có thể áp dụng
thủ tục rút gọn vì cịn phụ thuộc vào điều kiện khác, đặc biệt là điều kiện sự việc
phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng, Nhiều vụ án thuộc loại tội ít nghiêm trọng
nhưng lại phức tạp trong việc thu thập chứng cứ như các tội gây rối trật tự công
cộng, các tội xâm phạm hoạt động tư pháp… thì cũng khơng thể áp dụng thủ tục
5


rút gọn. Do đó số lượng vụ án ít nghiêm trọng được áp dụng để giải quyết theo thủ
tục rút gọn là rất hạn chế, Trong khi thực tiễn xét xử lại có nhiều vụ án phạm tội
nghiêm trọng, hồn toàn thỏa mãn các điều kiện 1, 2, 4 quy định tại điều 319 song
không thể áp dụng được tục rút gọn vì khơng thỏa mãn với điều kiện tội phạm đã
thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng.
4.Điều kiện 4: người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng.
Vấn đề căn cước, lai lịch của bị can, bị cáo là một trong những vấn đề cần
chứng minh của vụ án hình sự theo quy định tại Điều 63 BLTTHS năm 2003, vấn
đề này có ảnh hưởng lớn đến việc giải quyết vụ án : lý lịch của bị can, bị cáo liên
quan đến năng lực trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo, liên quan đến việc quyết

định hình phạt.. Căn cước lai lịch của người phạm tội đã rõ ràng thì thời gian điều
tra, xác minh có thể được rút ngắn và bảo đảm thời gian tố tụng. Đặc điểm về căn
cước, lai lịch của người phạm tội được hiểu một cách chung nhất là đặc điểm về
nhân thân của người phạm tội. Nhân thân của người phạm tội bao gồm các đặc
điểm về giới tính, độ tuổi, thành phần dân tộc, trình độ văn hóa, tiền án, tiền sự …
Khi quyết định áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết vụ án, việc xác định
căn cưới, lai lịch của bị can rõ ràng hay khơng có thể dựa vào lời khai ban đầu của
bị can về lý lịch của họ. Đối với vụ án giải quyết theo thủ tục rút gọn thì khơng
những lý lịch của bị can, bị cáo phải rõ ràng, có giấy tờ chứng minh hợp pháp,
những thông tin về vấn đề này cụ thể, độ tin cậy cao mà còn đòi hỏi việc xác minh
căn cước lai lịch của người phạm tội dễ dàng, nhanh chóng, khơng ảnh hưởng tới
thời hạn áp dụng.
Bốn điều kiện trên đây một mặt độc lập với nhau, mặt khác lại có mối quan
hệ bổ trợ. Vì thế khi xem xét áp dụng thủ tục rút gọn cần phân tích, đánh giá từng
điều kiện trong mối liên hệ tổng thể với các điều kiện khác và chỉ quyết định giải
quyết vụ án theo thủ tục rút gọn khi cả bốn tiêu chí trên đều bảo đảm. Trong quá
6


trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án theo thủ tục rút gọn nếu một trong các
điều kiện này mất đi thì vụ án phải chuyển về thủ tục thông thường để giải quyết.
III.MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT NHẰM HOÀN THIỆN QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG THỦ TỤC RÚT GỌN.
1.Về tính ràng buộc trong việc áp dụng 3
Theo Điều 319 BLTTHS, “TTRG chỉ được áp dụng khi có đủ các điều kiện
sau đây:…”. Đồng thời, khoản 1 Điều 320 BLTTHS còn quy định, “Sau khi khởi
tố vụ án, theo đề nghị của Cơ quan điều tra (viết tắt là CQĐT) hoặc xét thấy vụ án
có đủ các điều kiện quy định tại Điều 319 của Bộ luật này, Viện kiểm sát có thể ra
quyết định áp dụng TTRG”. Với các quy định này thì việc có quyết định áp dụng
TTRG hay không tùy thuộc vào cơ quan tiến hành tố tụng vì điều luật chỉ quy định

là “có thể” mà khơng phải là “phải” ra quyết định áp dụng TTRG. Bên cạnh đó, khi
khơng đủ điều kiện mà áp dụng cũng bị xem là vi phạm các điều kiện này. Nhìn
chung, các quy định này không tạo ra sự ràng buộc cũng như kích thích các cơ
quan tiến hành tố tụng áp dụng TTRG trong điều tra, truy tố, xét xử. Cho nên, để
tạo ra sự ràng buộc các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng TTRG thì cần quy định
bắt buộc chứ không tùy nghi như quy định tại Điều 319 và khoản 1 Điều 320
BLTTHS.
Điều này đã được sửa đổi theo hướng phải ra quyết định, có tính chất bắt
buộc quy định tại Điều 457 BLTTHS năm 2015.
2. Đối với quy định của từng điều kiện cụ thể
 Thứ nhất, đối với điều kiện “Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả
tang”
3

ThS Thái Chí Bình, Quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 về thủ tục rút gọn, vướng

mắc, kiến nghị hoàn thiện, ngày 19/03/2015

7


Trong thực tiễn, có rất nhiều vụ án người phạm tội bị bắt khẩn cấp, tuy không
phải thuộc trường hợp phạm tội quả tang, nhưng lại có nội dung đơn giản, dễ dàng
kiểm tra, đánh giá các tình tiết, chứng cứ của vụ án; hoặc trong những vụ án có
người phạm tội tự thú về hành vi phạm tội của mình mà hành vi phạm tội đó cũng
rất đơn giản, chứng cứ rõ ràng, tội phạm ít nghiêm trọng nhưng vì khơng phải là
trường hợp phạm tội quả tang nên cũng khơng được áp dụng TTRG. Do đó, để
phục vụ cơng tác phịng chống tội phạm đạt hiệu quả và đạt mục đích, ý nghĩa của
TTRG, cần mở rộng phạm vi áp dụng đối với điều kiện thứ nhất này. Theo đó, khi
bắt khẩn cấp, người phạm tội đầu thú, tự thú vẫn có thể áp dụng TTRG nếu đảm

bảo các điều kiện khác được quy định tại Điều 319 BLTTHS.
BLTTHS năm 2015 đã bổ sung thêm đối tượng thuộc khoản này là “hoặc
người đó tự thú”.
 Thứ hai, đối với điều kiện “sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng”
Trong thực tiễn áp dụng điều kiện này, việc hiểu để vận cụng các thuật ngữ
“sự việc phạm tội đơn giản”, “chứng cứ rõ ràng” chưa được thống nhất. Có quan
điểm cho rằng, để đáp ứng điều kiện này thì các tình tiết trong vụ án phải dễ dàng
đánh giá mà khơng phụ thuộc vụ án đó có đồng phạm hay không, người phạm tội
phạm một hay nhiều tội… Quan điểm khác lại cho rằng, khi vụ án có đồng phạm,
người phạm tội phạm nhiều tội thì vụ án đó khơng đáp ứng điều kiện này. Cho nên,
địi hỏi phải có sự quy định rõ ràng các thuật ngữ này để áp dụng thống nhất.
 Thứ ba, đối với điều kiện “tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm
trọng”
Nghiên cứu các tội phạm cụ thể trong BLHS thì khơng hẳn tội phạm ít
nghiêm trọng sẽ dễ dàng thực hiện các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử hơn tội
phạm nghiêm trọng. Tuy nhiên, do khoản 3 Điều 319 BLTTHS quy định chỉ áp
dụng TTRG đối với tội phạm ít nghiêm trọng nên có rất nhiều vụ án có thể áp dụng
được TTRG, nhưng phải giải quyết theo thủ tục chung, làm mất nhiều thời gian,
8


không hạn chế được lượng án tồn đọng, tốn kém về chi phí vật chất, gây thiệt hại
cho các chủ thể tham gia tố tụng hình sự, đơi khi cịn vi phạm cả về thời hạn tạm
giữ, tạm giam, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân.
Theo đó để hồn tồn có thể áp dụng TTRG đối với tội phạm nghiêm trọng. Bởi
vì, việc giải quyết vụ án nhanh chóng, chính xác phụ thuộc vào sự đơn giản, rõ
ràng của các tình tiết trong vụ án mà khơng phụ thuộc vào sự phân loại về tính chất
nguy hiểm của tội phạm. Hơn nữa, việc phân loại tội phạm ở nước ta theo mức cao
nhất của khung hình phạt chứ không phải theo sự đơn giản hay phức tạp của hành
vi phạm tội. Vì vậy, cần mở rộng loại tội được giải quyết theo TTRG đối với cả tội

nghiêm trọng.
 Thứ tư, đối với điều kiện “người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng”
Việc áp dụng căn cứ này trong thực tiễn có vướng mắc qua việc xác định thế
nào là “có căn cước, lai lịch rõ ràng”. Căn cước, lai lịch thuộc điều kiện này được
hiểu là các yếu tố nhân thân của người phạm tội có liên quan đến việc định tội,
định khung, xác định tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; có ý nghĩa
đến việc quyết định hình phạt và chúng phụ thuộc vào từng vụ án khác nhau 4. Cho
nên, để đảm bảo được điều kiện “người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng” phải
chứng minh được các yếu tố này, còn các nội dung khác thuộc về nhân thân người
phạm tội, không nhất thiết phải làm rõ. Bên cạnh đó, một trong những ý nghĩa của
TTRG là giải quyết vụ án được nhanh chóng nên việc xác định căn cước, lai lịch
còn phải đảm bảo điều kiện dễ dàng, nhanh chóng. Nếu việc xác định đó tốn nhiều
thời gian thì khơng đáp ứng mục đích, ý nghĩa của TTRG. Vì vậy, em cho rằng
cần bổ sung “xác định dễ dàng, nhanh chóng” bên cạnh “người phạm tội có căn
cước, lai lịch rõ ràng”.

4

/>9


KẾT LUẬN
Tóm lại, việc giải quyết vụ án theo TTRG là định hướng lớn đã được Đảng,
Nhà nước ta đề ra từ khi đất nước mới giành độc lập. Trong tố tụng hình sự, chế
định này đã được cụ thể hóa trong nhiều văn bản của Chính phủ, các cơ quan tư
pháp trung ương trước khi được quy định chi tiết trong BLTTHS năm 2003. Tuy
nhiên, do bị gián đoạn trong thời gian dài, từ khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1986
có hiệu lực đến khi BLTTHS có hiệu lực, nên các quy định về TTRG trong
BLTTHS chưa được hoàn chỉnh, việc nhận thức, vận dụng các quy định này trong
thực tiễn cịn hạn chế nhất định. Chính vì vậy, BLTT HS năm 2015 đã có sự tổng

kết để sửa đổi, bổ sung quy định về thủ tục rút gọn, cụ thể là điều kiện áp dụng thủ
tục rút gọn, qua đó góp phần phát huy ý nghĩa, vai trò của TTRG, đấu tranh phòng
chống tội phạm ngày càng hiệu quả hơn và bảo vệ tốt quyền con người, quyền
cơng dân trong tố tụng hình sự.

10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Giáo trình luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội
2.Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2003
3. Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015
4. Bộ Luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009
5. Hoàng Thị Minh Sơn, Những bất cập về thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự và
hướng hồn thiện.
6.Các trang web




11


12



×