I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
Vũ quang dũng
Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự -
lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn
thành phố hà nội
luận văn thạc sỹ luật học
Hà nội năm 2008
I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
Vũ quang dũng
Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự -
lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn
thành phố hà nội
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40
luận văn thạc sỹ luật học
Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Ngọc Chí
Hà nội năm 2008
3
MỤC LỤC
Lời cam đoan
1
Lời cảm ơn
2
Danh mục bảng biểu
3
Mục lục
4
MỞ ĐẦU
6
Chƣơng 1: LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC RÚT GỌN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
13
1.1. Khái niệm, bản chất, mục đích và ý nghĩa của thủ tục rút gọn
trong tố tụng hình sự
13
1.1.1. Khái niệm và bản chất của Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự
13
1.1.2. Mục đích của việc áp dụng thủ tục rút gọn
17
1.1.3. Ý nghĩa của việc áp dụng thủ tục rút gọn
18
1.1.4. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng thủ tục rút gọn ở nước
ta hiện nay
19
1.2. Mối quan hệ giữa thủ tục rút gọn với các mô hình tố tụng, với các
nguyên tắc chung của tố tụng hình sự và với pháp luật hình sự
26
1.2.1. Mối quan hệ giữa thủ tục rút gọn với các mô hình tố tụng
26
1.2.2.Thủ tục rút gọn trong mối quan hệ với các nguyên tắc chung của tố
tụng hình sự
29
1.2.3. Mối quan hệ giữa thủ tục rút gọn với pháp luật hình sự
33
1.3. Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự một số nƣớc trên thế giới
36
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ ÁP DỤNG THỦ TỤC RÚT GỌN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
50
2.1. Lịch sử chế định thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự Việt Nam
2.1.1. Giai đoạn trước khi Bộ luật tố tụng hình sự được pháp điển hoá
50
50
4
2.1.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đến trước
khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ra đời
57
2.2. Thủ tục rút gọn theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003
59
2.3. Thực trạng áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự trên địa
bàn thành phố Hà Nội và nguyên nhân của thực trạng
69
2.3.1. Thực trạng áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự trên địa
bàn thành phố Hà Nội
69
2.3.2. Nguyên nhân của thực trạng
73
Chƣơng 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG THỦ TỤC
RÚT GỌN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
77
3.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về thủ tục rút gọn trong tố tụng
hình sự
77
3.1.1. Những nguyên tắc trong việc hoàn thiện thủ tục rút gọn trong tố
tụng hình sự
77
3.1.2. Một số kiến nghị hoàn thiện thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự
81
3.2. Cơ chế thực hiện có hiệu quả thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự
và một số kiến nghị khác
105
3.2.1. Cơ chế thực hiện có hiệu quả thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự
105
3.2.2. Một số kiến nghị khác
106
KẾT LUẬN
108
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
110
5
DANH MỤC BẢNG – BIỂU
STT
TÊN BẢNG – BIỂU
TRANG
Bảng 1.1
Nhóm các tội phạm đủ điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn
34
Bảng 2.1
Thống kê tình hình áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng
hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội
71
6
MỞ ĐẦU
1. Tình cấp thiết của đề tài
Bộ luật tố tụng hình sự đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua ngày 28 tháng 6 năm 1988 (có hiệu lực thi hành
ngày 01 tháng 01 năm 1989), là một đạo luật quy định về trình tự, thủ tục
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án các vụ án hình sự. Qua 3 lần đ-
ược sửa đổi, bổ sung (năm 1990, 1992 và 2000), Bộ luật tố tụng hình sự đã
thực sự là công cụ pháp lý sắc bén, góp phần đặc biệt quan trọng trong cuộc
đấu tranh phòng - chống tội phạm, bảo vệ tốt hơn các quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, tổ chức và Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho việc
thực hiện công cuộc đổi mới đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Tuy nhiên, sau 15 năm thực hiện, Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đã bộc lộ
những bất cập, hạn chế, thiếu sót. Thể hiện qua tình trạng quá tải trong điều
tra, truy tố và xét xử, án tồn đọng rất nhiều, sự vi phạm các quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự về thời hạn điều tra, truy tố, xét xử, thời hạn tạm giữ, tạm
giam…từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng
vẫn thường xảy ra ở nhiều địa phương. Một trong những hạn chế dẫn đến tình
trạng trên là việc Bộ luật không quy định về thủ tục rút gọn, một loại thủ tục
đặc biệt tạo điều kiện cho quá trình giải quyết một số loại án diễn ra nhanh
chóng, kịp thời.
Trước yêu cầu cải cách Tư pháp, cải cách thủ tục tố tụng tư pháp nhằm
đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân, Đảng ta đã tổng kết sâu sắc thực tiễn tổ chức và hoạt động của
các cơ quan Tư pháp và đề ra nhiều chủ trương, biện pháp nhằm xây dựng
một nền Tư pháp lành mạnh, mang bản chất nhân dân, hoạt động thực sự có
hiệu quả.
7
Nghị quyết Trung ương 3 khoá VIII của Đảng đã chỉ rõ: “Nghiên cứu áp
dụng thủ tục rút gọn để xử lý kịp thời một số vụ án đơn giản, rõ ràng.” Tư
tưởng này đã được Nghị quyết số: 08 - NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị về một số nhiệm vụ trong tâm của công tác Tư pháp trong thời gian
tới cụ thể hoá và nhấn mạnh: “Nghiên cứu để quy định và thực hiện thủ tục
tố tụng hình sự rút gọn đối với những vụ án đơn giản, phạm tội quả tang,
chứng cứ rõ ràng, hậu quả ít nghiêm trọng;…” Đây là những cơ sở chính
trị và pháp lý quan trọng cho việc xây dựng thủ tục rút gọn trên thực tế ở
nước ta hiện nay.
Thể chế hoá chủ trương và đường lối của Đảng, ngày 17/12/2003, Quốc
hội nước ta đã thông qua Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Đây là bước đột
phá quan trọng trong hoạt động cải cách Tư pháp của nước ta. Đặc biệt là
trong cải cách thủ tục tố tụng hình sự. Bộ luật đã dành chương XXXIV tại
phần thứ bảy quy định về thủ tục rút gọn với tính chất là một thủ tục đặc biệt
trong tố tụng hình sự.
Tuy nhiên, dưới góc độ khoa học pháp lý vẫn còn khá nhiều vấn đề về lý
luận và thực tiễn áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự cần được tiếp
tục nghiên cứu và làm sáng tỏ hơn. Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng áp
dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự ở nước ta hiện nay cũng như thực
trạng áp dụng thủ tục này ở từng địa phương (nhất là địa bàn thành phố Hà
Nội - Thủ đô của cả nước) để đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng
thủ tục này trong thực tế, góp phần xử lý nhanh chóng, kịp thời, khách quan
nhằm bảo vệ tốt hơn các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, lợi ích của
Nhà nước và xã hội là một nhu cầu khách quan và cần thiết.
Nghị quyết số: 48 - NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
8
định hướng đến năm 2020 đã tiếp tục xác định: “Cải cách mạnh mẽ các thủ
tục tố tụng Tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch,
chặt chẽ nhưng thuận tiện, đảm bảo sự tham gia và giám sát của nhân dân
đối với hoạt động Tư pháp”. Và tiếp đó, Nghị quyết số: 49 - NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020
cũng đã khẳng định: “Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục
tố tụng Tư pháp; xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ
án có đủ một số điều kiện nhất định”.
Với những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: “Thủ tục rút gọn trong tố
tụng hình sự - Lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hà
Nội” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Luật học. Nội dung của đề tài cố gắng
nghiên cứu một cách tổng thể về thực trạng áp dụng thủ tục rút gọn trong tố
tụng hình sự của 14 quận - huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội. Đề tài cũng
đưa ra những luận cứ khoa học về phạm vi, điều kiện, nội dung của thủ tục rút
gọn trong tố tụng hình sự; đồng thời đề ra một số kiến nghị nhằm nâng cao
hiệu quả áp dụng thủ tục rút gọn phù hợp với điều kiện thực tiễn của cả nước
nói chung và thành phố Hà Nội nói riêng đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải
cách Tư pháp trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự là một thủ tục tố tụng đặc biệt mới
được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Trong thời gian qua,
kể cả trước khi Bộ luật ra đời, ở nước ta đã có rất nhiều bài viết, công trình
khoa học nghiên cứu về việc quy định và áp dụng thủ tục rút gọn trong tố
tụng hình sự như: Xây dựng thủ tục rút gọn trong Bộ luật tố tụng hình sự -
Khuất Văn Nga (1999); Về thủ tục rút ngắn trong tố tụng hình sự - Nguyễn
Đức Mai (1997); Luận văn thạc sỹ Luật học: Xây dựng thủ tục rút gọn trong
9
luật tố tụng hình sự Việt Nam - Nguyễn Duy Giảng (2002); Một số vấn đề liên
quan đến việc quy định thủ tục rút gọn trong dự thảo Bộ luật tố tụng hình sự
(sửa đổi) - Nguyễn Duy Giảng (2003); Luận văn thạc sỹ Luật học: Thủ tục rút
gọn trong tố tụng hình sự - Những vấn đề lý luận và thực tiễn - Nguyễn Minh
Quang (2001); Sự cần thiết phải áp dụng thủ tục rút ngắn trong xét xử một số
vụ án hình sự - Nguyễn Minh Tiến (2001); Xây dựng thủ tục rút gọn trong Bộ
luật tố tụng hình sự (sửa đổi) - Nguyễn Quốc Việt (2001); Mấy ý kiến về thủ
tục rút gọn - những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của tố tụng hình sự
Việt Nam - Nguyễn Văn Hoàn (1995); Bàn về thủ tục rút gọn trong hoạt động
tố tụng của các cơ quan Tư pháp nhằm góp phần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp
1992 - Trần Huy Liệu (2001); Bàn thêm về thủ tục rút gọn - Nguyễn Văn
Hoàn (2000); Về thủ tục rút gọn - Nguyễn Thanh Hải (2003). Các bài viết,
công trình nghiên cứu trên đã phân tích, giải quyết và làm rõ được một số vấn
đề về lý luận thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự như: khái niệm, ý nghĩa của
thủ tục rút gọn, các kiến nghị về điều kiện, phạm vi áp dụng thủ tục rút
gọn Nhưng vẫn còn nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn mà các công trình
nghiên cứu trên chưa đề cập đầy đủ, phương pháp tiếp cận còn chưa phù hợp,
chưa có nghiên cứu về thực trạng áp dụng thủ tục rút gọn của từng địa
phương sau khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ra đời. Do các công trình
trên đều đề cập và nghiên cứu vấn đề trước khi Bộ luật ra đời nên việc đánh
giá tình hình chưa có cơ sở thực tiễn.
Bên cạnh đó, có 2 công trình nghiên cứu là: Đề tài cấp cơ sở của Viện
khoa học pháp lý: Thủ tục tố tụng hình sự rút gọn - Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn - Bộ Tư pháp (2004) và luận văn thạc sỹ Luật học: Thủ tục rút gọn
trong pháp luật tố tụng hình sự - Lý luận và thực tiễn - Nguyễn Văn Hiển
(2006). Hai công trình trên đã đề cập tương đối đầy đủ các luận cứ khoa học
như: bản chất, ý nghĩa, mục đích của thủ tục rút gọn, tham khảo kinh nghiệm
10
nước ngoài. Tuy nhiên, việc nghiên cứu ở phạm vi rộng bao trùm ở nhiều địa
phương, chưa đi sâu vào nghiên cứu tình hình áp dụng thủ tục rút gọn của
từng địa phương cụ thể để đưa ra những giải pháp, kiến nghị cho phù hợp
nhằm áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự chặt chẽ và sát với thực tế
các địa phương hơn. Nhất là ở địa bàn thành phố Hà Nội - Thủ đô của cả nư-
ớc, nơi mà tình hình tội phạm trong thời gian qua đã diễn ra tương đối phức
tạp và ngày càng có chiều hướng gia tăng thì việc nghiên cứu tình hình áp dụng
thủ tục rút gọn các vụ án hình sự trên địa bàn này là hết sức có ý nghĩa, đáp ứng
tốt yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm và công cuộc cải cách Tư pháp của
Thủ đô.
Ngoài ra, trong quá trình dự thảo và xây dựng Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003, các cơ quan có thẩm quyền của nước ta đã có nhiều khảo sát và
nghiên cứu về tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới về việc áp dụng
thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự rất có ý nghĩa như: Các báo cáo của đoàn
khảo sát pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại các nước: Hàn
Quốc, Anh, Trung Quốc, Đan Mạch…; các bản dịch Bộ luật tố tụng hình sự
của một số nước trên thế giới như: Nhật Bản, Pháp, Canada, Nga; các tài liệu
dịch về hệ thống Tư pháp của một số nước châu Á, châu Âu, châu Mỹ latinh.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là đưa ra các luận giải khoa học và
một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng thủ tục rút gọn
trong tố tụng hình sự Việt Nam nói chung và nhất là áp dụng có hiệu quả thủ
tục này trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng, góp phần xây dựng Nhà nư-
ớc pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Qua đó, đáp ứng yêu cầu
của công cuộc cải cách Tư pháp và hoàn thiện pháp luật của nước ta giai đoạn
từ nay đến năm 2020, bảo đảm quyền dân chủ của công dân theo đúng đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
11
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận về thủ tục rút gọn trong tố tụng
hình sự, thực trạng pháp luật và thực trạng áp dụng thủ tục rút gọn trên địa
bàn thành phố Hà Nội như: Nghiên cứu lịch sử của chế định thủ tục rút gọn ở
nước ta; các quy định cụ thể về phạm vi, điều kiện, thẩm quyền, nội dung thủ
tục rút gọn và các vấn đề liên quan về bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị
cáo; áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong thủ tục rút gọn; thực trạng áp
dụng thủ tục rút gọn của các cơ quan tiến hành tố tụng tại 14 quận - huyện
trên địa bàn thành phố Hà Nội sau khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 có
hiệu lực thi hành. Bên cạnh đó, luận văn có tham khảo tình hình áp dụng thủ
tục rút gọn trong tố tụng hình sự của một số nước tiến tiến trên thế giới.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở đối tượng và phạm vi nghiên cứu trên, tác giả tập trung vào
giải quyết những nhiệm vụ như sau:
- Khái quát các vấn đề lý luận về thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự nh-
ư: khái niệm, bản chất, ý nghĩa, mục đích, phạm vi điều kiện, nội dung của
thủ tục rút gọn;
- Đánh giá sơ lược lịch sử của chế định thủ tục rút gọn trong pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam từ trước đến nay và thực trạng áp dụng thủ tục rút gọn
trong thời gian từ khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 có hiệu lực thi hành
đến hết năm 2007 của các cơ quan tiến hành tố tụng 14 quận - huyện trên địa
bàn thành phố Hà Nội. Tham khảo tình hình xây dựng và áp dụng thủ tục rút
gọn trong pháp luật tố tụng hình sự ở một số nước tiên tiến trên thế giới.
- Đề ra những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng thủ
tục rút gọn trong tố tụng hình sự Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, đáp ứng
yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN cũng như yêu cầu cải cách
Tư pháp đến năm 2020. Đồng thời, đưa ra một số kiến nghị cụ thể nhằm áp
12
dụng có hiệu quả thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự trên địa bàn thành phố
Hà Nội.
6. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật;
- Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Luận văn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu khoa học xã hội và khoa học pháp lý cụ thể phù hợp với yêu
cầu của từng vấn đề nghiên cứu như: phương pháp phân tích tài liệu, nghiên
cứu lịch sử, tổng hợp, so sánh, thống kê Tư pháp…
7. Những đóng góp mới của luận văn
- Phân tích, đánh giá một cách có hệ thống, toàn diện các vấn đề về
thực trạng áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự trên địa bàn thành
phố Hà Nội;
- Đưa ra các luận giải khoa học về bản chất, ý nghĩa, yêu cầu xây dựng
và áp dụng thủ tục tố tụng trong thời gian tới, đưa ra các giải pháp hoàn thiện
các quy định về thủ tục rút gọn trong Bộ luật tố tụng hình sự cũng như các
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng hình
sự trên địa bàn thành phố Hà Nội.
8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Tăng cường sự nhận thức đúng đắn của nhân dân, cán bộ, công chức
nhất là những người tiến hành tố tụng và các cơ quan tiến hành tố tụng của
thành phố Hà Nội về bản chất, yêu cầu, ý nghĩa của việc quy định và áp dụng
thủ tục rút gọn trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam;
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện thủ tục rút gọn trong tố tụng
hình sự, góp phần nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo
dục và áp dụng pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền về thủ tục rút gọn
trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
13
9. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm 3 chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Lý luận về thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự
Chương 2: Thực trạng pháp luật và áp dụng thủ tục rút gọn trong tố
tụng hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội
Chương 3: Những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng thủ tục rút
gọn trong tố tụng hình sự
14
Chƣơng 1
LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC RÚT GỌN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT, MỤC ĐÍCH VÀ Ý NGHĨA CỦA THỦ TỤC RÚT
GỌN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1.1. Khái niệm và bản chất của Thủ tục rút gọn trong tố tụng
hình sự
Tố tụng được hiểu là việc thưa kiện tại Tòa án, là một thuật ngữ pháp lý
thuộc luật hình thức, chỉ thủ tục giải quyết các vụ việc theo trình tự Tư pháp.
Tố tụng hình sự là toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hình sự, là trình tự, thủ
tục tiến hành hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình
sự. Các giai đoạn tố tụng này có tính độc lập tương đối nhưng giữa chúng
luôn có quan hệ khăng khít và mật thiết với nhau. Giai đoạn trước là tiền đề
của giai đoạn sau và kết quả của giai đoạn sau là sự kiểm chứng tính đúng đắn
của giai đoạn trước.
Hoạt động tố tụng hình sự thường được các cơ quan tiến hành tố tụng
và người tiến hành tố tụng thực hiện theo các giai đoạn tố tụng trên. Theo đó,
các cơ quan tiến hành tố tụng bao gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa
án. Người tiến hành tố tụng bao gồm: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm
phán. Các hoạt động tố tụng này được thực hiện có sự tham gia của những
người tham gia tố tụng như: bị can, bị cáo, người bị tạm giữ , cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội có liên quan theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định
nhằm phát hiện tội phạm và kẻ phạm tội để xử lý kịp thời, nhanh chóng tội
phạm theo đúng pháp luật.
Tuy nhiên, trên thực tế có những vụ án hình sự diễn ra có tính chất đơn
giản, rõ ràng, việc điều tra, thu thập chứng cứ nhanh chóng, không mất nhiều
thời gian. Nếu chúng ta tiến hành giải quyết những vụ án đó theo thủ tục
thông thường thì sẽ dẫn đến việc lãng phí về thời gian, công sức, tiền của của
15
các cơ quan Nhà nước và những người tiến hành tố tụng cũng như những
người tham gia tố tụng. Đồng thời không đáp ứng kịp thời yêu cầu của công
cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm. Từ đó, nảy sinh nhu cầu khách quan
là cần phải có một thủ tục tố tụng vừa nhanh gọn, vừa bảo đảm được tính
khách quan, chính xác để giải quyết các vụ án hình sự có tính chất đơn giản,
chứng cứ rõ ràng.
Nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự của hầu hết các nước trên thế giới
đều thấy có quy định về thủ tục này trong các hoạt động tố tụng hình sự. Như
chúng ta đã biết, trên thế giới có các hệ thống pháp luật cơ bản là hệ thống
pháp luật Châu Âu lục địa, họ pháp luật Anh - Mỹ, họ pháp luật tôn giáo và
họ pháp luật XHCN. Nhưng mỗi hệ thống pháp luật lại có những mô hình tố
tụng khác nhau. Các nước theo hệ thống pháp luật Anh - Mỹ (điển hình là các
nước Anh, Mỹ ) thường áp dụng mô hình tố tụng tranh tụng hay còn gọi là
mô hình tố tụng công bằng. Các nước theo hệ thống pháp luật châu Âu lục địa
(điển hình là các nước Pháp, Đức, Bỉ, Hà Lan ) thường áp dụng mô hình tố
tụng xét hỏi hay còn gọi là mô hình tố tụng kiểm soát tội phạm. Nhưng dù
theo hệ thống pháp luật nào thì mỗi nước đều có một hình thức tố tụng chung,
thống nhất để giải quyết các vụ án hình sự. Mặt khác, tùy thuộc vào điều kiện,
hoàn cảnh và truyền thống văn hóa cụ thể mỗi quốc gia mà có những hình
thức tố tụng đặc biệt áp dụng đối với những loại tội phạm đặc biệt như thủ tục
rút gọn đối với các vụ án hình sự đơn giản, thủ tục xét xử sơ chung thẩm hoặc
chủ thể thực hiện tội phạm đặc biệt như thủ tục tố tụng đối với người chưa
thành niên phạm tội, đối với người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm
thần [22, tr.6-7]
“Thủ tục rút gọn” trong tố tụng hình sự hay “thủ tục rút ngắn”, “thủ
tục giản lƣợc”, “thủ tục đơn giản” là một dạng thủ tục tố tụng hình sự đặc
biệt. Tuy mỗi quốc gia có cách gọi khác nhau nhưng bản chất chung của hình
16
thức tố tụng này là sự rút ngắn thời gian và giản lược các thủ tục tố tụng
không cần thiết so với thủ tục tố tụng thông thường như giảm bớt một số khâu
công việc, một số thủ tục giấy tờ, giảm bớt thành phần những người tiến hành
tố tụng, thời hạn tố tụng để việc giải quyết vụ án được nhanh chóng và kịp
thời nhưng vẫn đáp ứng các yêu cầu và mục đích tố tụng đặt ra.
Nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự của các nước trên thế giới cho
thấy việc xác định mục đích của tố tụng hình sự nói chung và tố tụng theo thủ
tục rút gọn nói riêng có sự ảnh hưởng mang tính quyết định đến bản chất, mô
hình thủ tục rút gọn tại mỗi nước, mỗi hệ thống pháp luật.
Tình hình xã hội hiện nay cho thấy sự phát triển của tội phạm ngày
càng đa dạng và phức tạp, số vụ án hình sự ngày càng tăng trong khi đó số
lượng Thẩm phán và Tòa án có hạn nên tình trạng quá tải trong xét xử ở hầu
hết các nước trên thế giới diễn ra phổ biến. Thực tế này dẫn đến nhu cầu
khách quan là tất cả các nước thuộc tất cả các hệ thống pháp luật phải tìm ra
các hình thức, mô hình tố tụng mới nhanh chóng, hiệu quả, đáp ứng nhu cầu
thực tế, phù hợp với tình hình phát triển tội phạm ở đất nước mình. Do đó, các
quốc gia theo mô hình tố tụng Anh - Mỹ là rất thuận lợi với yêu cầu trên vì
bản chất tố tụng của các nước này cho phép xây dựng được các mô hình tố
tụng đặc biệt. Trong đó, có các thủ tục tố tụng giản lược, thủ tục mặc cả thú
tội, dàn xếp công khai, mặc cả giảm nhẹ hình phạt, giảm nhẹ tội Nhưng vấn
đề cơ bản là phải lựa chọn những loại vụ án nào, tội phạm nào cho phù hợp
với từng loại mô hình tố tụng đặc biệt. [22, tr.8]
Thực tế cho thấy, các quốc gia trên thế giới quy định thủ tục rút gọn
trong tố tụng hình sự để giải quyết nhanh chóng, kịp thời một số loại vụ án
hình sự nhằm giảm bớt sự quá tải của cơ quan tiến hành tố tụng nhưng vẫn
phải đảm bảo các yêu cầu về nguyên tắc cơ bản của mô hình tố tụng chung
của nước đó. Nên thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự không đặt ra cho tất cả
17
các loại vụ án mà chỉ được áp dụng đối với một số loại vụ án nhất định với
những điều kiện cụ thể. Điều kiện thực hiện thủ tục rút gọn trong tố tụng hình
sự ở mỗi quốc gia là khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, tổ
chức bộ máy và hoạt động của hệ thống các cơ quan Tư pháp, truyền thống
pháp luật cũng như yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm ở mỗi nước.
Nhưng phần lớn các nước đều áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự
để giải quyết các vụ án hình sự đối với bị can, bị cáo phạm các tội ít nghiêm
trọng, chứng cứ rõ ràng, tính chất của tội phạm không phức tạp, hình phạt áp
dụng đối với các tội phạm đó không nặng thường là cảnh cáo, phạt tiền. Một
số nước còn quy định cho phép bị can, bị cáo lựa chọn hình thức tố tụng được
áp dụng nếu vụ án có đủ điều kiện để tiến hành theo thủ tục rút gọn. Bên cạnh
đó, thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự ở các nước ngoài việc rút ngắn thời
gian so với thủ tục thông thường còn có biểu hiện rõ nét nhất trong giai đoạn
xét xử đó là việc xét xử vụ án thường do một Thẩm phán đảm nhiệm mà
không có Bồi thẩm đoàn hoặc Hội thẩm nhân dân.
Như vậy, bản chất của thủ tục rút gọn là một hình thức tố tụng đặc biệt
được rút ngắn về thời gian tố tụng, giản lược thủ tục và quy trình tố tụng,
thành phần Hội đồng xét xử so với thủ tục thông thường. Bên cạnh một số
hình thức tố tụng đặc biệt khác như: khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị
hại, hình thức tố tụng mặc cả thú tội, dàn xếp cung khai, tố tụng đối với người
chưa thành niên, người có nhược điểm và thể chất hoặc tâm thần thì thủ tục
rút gọn là một trong những giải pháp hữu hiệu nhằm giải quyết nhanh chóng
một lượng án hình sự nhất định, giảm bớt sự qúa tải trong thủ tục tố tụng
thông thường. Hình thức tố tụng này vừa có khả năng mang lại hiệu qủa
cao trong việc giải quyết các vụ án hình sự của các cơ quan tiến hành tố
tụng vừa có khả năng đáp ứng được các đòi hỏi ngày càng cao của người
18
dân trong việc bảo vệ quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân
trong tố tụng hình sự .
Tuy nhiên, không vì có sự rút ngắn thời gian, giảm bớt một số thủ tục
mà thủ tục rút gọn không tuân theo những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình
sự một quốc gia. Vì nếu chúng ta đặt ra những nguyên tắc riêng biệt cho thủ
tục tố tụng rút gọn thì nó sẽ phá vỡ tính thống nhất trong hệ thống tố tụng của
một quốc gia. Bên cạnh đó, nó sẽ tạo ra sự bất bình đẳng trong việc hưởng quyền
và thực hiện nghĩa vụ của công dân trong hoạt động tố tụng. Và do đó, trong một
quốc gia với một hệ thống tố tụng thống nhất thì không thể tồn tại hình thức tố
tụng khác trái với các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự nước đó.
Về mặt lập pháp, các văn bản luật cả trong nước và các nước trên thế
giới đều không đưa ra một định nghĩa cụ thể, rõ ràng về thủ tục rút gọn.
Nhưng trong các tài liệu, sách báo có liên quan lại có rất nhiều cách định
nghĩa khác nhau. Mặc dù vậy, các nhà nghiên cứu trong nước đều có chung
quan điểm: Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự là thủ tục tố tụng được rút
ngắn về thời gian tố tụng nhằm giúp cho việc diều tra, truy tố, xét xử được
nhanh chóng đối với những vụ án nhất định.
Từ điển Black’s Law đã đưa ra định nghĩa: “Thủ tục rút gọn (summary
proceeding) là một loại thủ tục tố tụng không có bồi thẩm đoàn, xét xử một vụ
việc một cách nhanh chóng và đơn giản”. [57]
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể rút ra khái niệm: “Thủ tục
rút gọn trong tố tụng hình sự là thủ tục tố tụng hình sự được rút ngắn về
thời gian tố tụng, giản lược một số thủ tục nhất định nhưng vẫn đảm bảo
các nguyên tắc chung của tố tụng hình sự nhằm giúp cho việc điều tra, truy
tố, xét xử được nhanh chóng đối với những vụ án trong phạm vi luật định,
góp phần đấu tranh phòng và chống tội phạm kịp thời, có hiệu quả, bảo
đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong tố tụng hình sự”.
19
1.1.2. Mục đích của việc áp dụng thủ tục rút gọn
Thủ tục rút gọn là thủ tục đặc biệt được quy định trong luật tố tụng hình
sự nhằm mục đích làm giảm áp lực, tiết kiệm thời gian, tiền của, công sức của
các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành và tham gia tố tụng, giải
quyết nhanh chóng, kịp thời và hiệu quả một số vụ án hình sự nhất định. Mặt
khác, việc giải quyết các vụ án hình sự theo thủ tục rút gọn vẫn bảo đảm sự
chính xác, tuân thủ triệt để các nguyên tắc chung của tố tụng hình sự, sự thật
của vụ án vẫn được thể hiện một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ, bảo đảm
xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, đảm
bảo các quyền tự do, dân chủ và bình dẳng của công dân trước pháp luật. Ở
một số nước thì thủ tục rút gọn còn là một trong những giải pháp tốt để bị can,
bị cáo cân nhắc, lựa chọn hình thức tố tụng phù hợp, bảo vệ tốt nhất quyền và
lợi ích hợp pháp của mình.
1.1.3. Ý nghĩa của việc áp dụng thủ tục rút gọn
Những quy định về việc áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự là
những căn cứ pháp lý quan trọng để các cơ quan tiến hành tố tụng và những
người tiến hành tố tụng có thẩm quyền giả quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ
án thuộc loại ít nghiêm trọng, bị bắt quả tang, tính chất vụ án đơn giản, lai
lịch của người phạm tội rõ ràng. Do đó, tiết kiệm được thời gian, công sức,
tiền của của nhà nước, tạo điều kiện để các cơ quan tiến hành tố tụng tập
trung vào việc giải quyết các vụ án hình sự phức tạp, nghiêm trọng. Qua đó,
đẩy nhanh tốc độ xử lý các vụ án của toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự, nâng
cao hiệu quả của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, góp phần giải
quyết tình trạng để án tồn đọng kéo dài, khắc phục tình trạng quá tải trong các
trại tạm giam. Bên cạnh đó, việc áp dụng thủ tục rút gọn làm cho những thiệt
hại do hành vi phạm tội gây ra nhanh chóng được khắc phục, xử lý kịp thời
20
các hành vi phạm tội và người phạm tội. Từ đó, phát huy tác dụng giáo dục ý
thức pháp luật trong nhân dân và phòng ngừa tội phạm.
Tuy nhiên, dưới nhiều góc độ khác nhau, thủ tục rút gọn cũng có những
hạn chế nhất định như do bị rút ngắn về thời gian và một số thủ tục khác
(không có bản kết luận điều tra, không có cáo trạng) nên đã ảnh hưởng nhất
định đến quyền lợi của bị can, bị cáo, thậm chí trong một số trường hợp làm
cho bản án sai lệch. Nếu chỉ chú trọng đến vấn đề bảo đảm quyền bình đẳng
của công dân trước pháp luật, thủ tục bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị
cáo thì một số thủ tục sẽ mang tính hình thức. Và do đó, việc áp dụng thủ tục
rút gọn trong tố tụng hình sự sẽ không mang lại hiệu quả mà còn có thể tạo ra
những khó khăn, lúng túng cho các cơ quan tiên hành tố tụng và người tiến
hành tố tụng. Ngược lại, nếu chỉ quá chú trọng đến vấn đề giải quyết vụ án
nhanh chóng, tiết kiệm thì sẽ dẫn đến việc vi phạm các nguyên tắc cơ bản của
tố tụng hình sự. Qua đó, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân sẽ không
được bảo đảm triệt để.
Vì vậy, xuất phát từ điều kiện và hoàn cảnh thực tiễn của nước ta mà
việc nghiên cứu đầy đủ, toàn diện những vấn đề về bản chất, mục đích, ý
nghĩa, các quy định về áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự Việt Nam
và tìm ra các giải pháp tối ưu cho việc xây dựng, áp dụng thủ tục này trên
thực tế là công việc không chỉ mang ý nghĩa lý luận mà còn có giá trị to lớn
về mặt thực tiễn nhất là trong công cuộc cải cách Tư pháp của nước ta hiện
nay.
1.1.4. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng và áp dụng thủ
tục rút gọn trong tố tụng hình sự ở nƣớc ta hiện nay
1.1.4.1. Cơ sở lý luận
* Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về xây dựng và hoàn
thiện thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự
21
Sau khi Bộ luật tố tụng hình sự năm1988 ra đời, hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử các vụ án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự đã
từng bước đi vào nề nếp, mọi thủ tục và hành vi tố tụng của các cơ quan tiến
hành tố tụng đều được thực hiện chặt chẽ trên cơ sở luật định. Từ đó, đã hạn
chế đến mức thấp nhất những vi phạm pháp luật trong quá trình tiến hành tố
tụng, góp phần bảo vệ tốt nhất các quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của
công dân.Tuy nhiên, sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã kéo theo sự
phát triển rất nhanh của các quan hệ xã hội như: dân sự, kinh tế, lao động
Các quan hệ xã hội này không ổn định như thời kỳ bao cấp mà luôn có sự
thay đổi không ngừng, ngày càng đa dạng, phức tạp. Các tranh chấp về dân
sự, kinh tế, lao động cũng có chiều hướng gia tăng cả về số lượng và tính chất
phức tạp. Tình hình tội phạm xảy ra trong xã hội cũng ngày càng phổ biến
hơn, đa dạng, phức tạp hơn nhất là trong lĩnh vực kinh tế với những thủ đoạn
ngày càng tinh vi, có tổ chức cao [22, tr.16]
Chính vì vậy, mặc dù Bộ luật tố tụng hình sự năm 1998 đã qua 3 lần
sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn không đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đấu
tranh phòng, chống tội phạm trên thực tế. Bên cạnh đó, việc áp dụng pháp luật
tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng cũng đã bộc lộ những bất
cập, hạn chế nhất định.
Trước yêu cầu cải cách Tư pháp nhằm đáp ứng tốt yêu cầu của công
cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp nhằm
xây dựng một nền Tư pháp mạnh, mang bản chất nhân dân, hoạt động thực sự
có hiệu quả. Trong đó, vấn đề cải cách thủ tục tố tụng của các cơ quan tiến
hành tố tụng được đặc biệt quan tâm và đề cao.
22
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII; Nghị quyết Trung ương 8 khoá VII
năm 1995 đã xác định: “Nghiên cứu sửa đổi Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng
hình sự phù hợp với tình hình mới;”
Nghị quyết Trung ương 3 khoá VIII năm 1997 chỉ rõ: “Thực hiện
nguyên tắc hai cấp xét xử. Bỏ thủ tục xét xử sơ chung thẩm của Tòa án nhân
dân Tối cao và Toà án quân sự Trung ương. Nghiên cứu áp dụng thủ tục rút
gọn để xét xử kịp thời một số vụ án đơn giản, rõ ràng;…”
Đặc biệt Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị
về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác Tư pháp trong thời gian tới đã chỉ
rõ: “Nghiên cứu để quy định và thực hiện thủ tục tố tụng rút gọn đối với
những vụ án đơn giản, phạm tội quả tang, chứng cứ rõ ràng, hậu quả ít
nghiêm trọng;”
Ngày19/3/2002, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành chỉ thị số:
10/2002/CT-TTg chỉ rõ: “Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Viện kiểm sát
nhân dân Tối cao, Toà án nhân dân Tối cao và Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp
xây dựng thủ tục điều tra rút gọn đối với những vụ án đơn giản, phạm tội quả
tang, chứng cứ rõ ràng, hậu quả ít nghiêm trọng; đề xuất, sửa đổi, bổ sung
Bộ luật tố tụng hình sự”.
Như vậy, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng thủ tục rút
gọn đã được khẳng định, từng bước phát triển phù hợp với đòi hỏi của thực
tiễn. Việc xây dựng thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự sẽ là một giải pháp
tốt nhằm tạo điều kiện cho các cơ quan tiến hành tố tụng tập trung thời gian,
công sức vào việc giải quyết các vụ án phức tạp, khó khăn và khắc phục tình
trạng vi phạm thời hạn tố tụng, kéo dài thời hạn giải quyết vụ án không cần
thiết, tránh tình trạng quá tải trong việc giải quyết các vụ án hình sự, tiết kiệm
thời gian, tiền của, công sức của Nhà nước và nhân dân.
23
Ngày 26/11/2003 tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội nước ta đã thông qua Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003 và đã dành một chương quy định về thủ tục rút
gọn với tính chất là một thủ tục đặc biệt. Các quy định về thủ tục rút gọn
trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 mới chỉ quy định rút gọn về thời
gian điều tra, truy tố, xét xử, rút gọn về kết luận điều tra, cáo trạng đối với
các tội phạm ít nghiện trọng, người phạm tội bị bắt quả tang, sự việc phạm
tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng, người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ
ràng. Nhưng thực tế áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự trong những năm qua
cho thấy các quy định này vẫn cần phải được tiếp tục nghiên cứu, hoàn
thiện cho phù hợp với thực tiễn.
Nghị quyết số 48 - NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020 đã xác định: “Cải cách mạnh mẽ các thủ tục Tư
pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng
thuận tiện, đảm bảo sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động
Tư pháp”. Nghị quyết số 49 - NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020 cũng xác định: “Xây dựng cơ chế
xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất
định”.
Tóm lại, Đảng và Nhà nước ta đều xác định rõ và yêu cầu đổi mới thủ
tục tố tụng hình sự nói chung và từng bước hoàn thiện thủ tục rút gọn trong tố
tụng hình sự nói riêng. Đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công
cuộc cải cách Tư pháp trong thời gian tới và là cơ sở chính trị, pháp lý quan
trọng cho việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thủ tục rút gọn trong tố tụng
hình sự ở nước ta.
* Sự phân hoá các hình thức tố tụng
24
Hiện nay, có quan điểm cho rằng, cần phải phân hoá hình thức tố tụng
hình sự để giải quyết những vụ án hình sự có dấu hiệu riêng biệt. Quan điểm
khác lại cho rằng cần có một thủ tục tố tụng thống nhất đối với tất cả các loại
vụ án không phụ thuộc vào tính chất của tội phạm, hình phạt dự kiến áp dụng
đối với tội phạm, tính chất phức tạp của vụ án. Quan điểm này khẳng định sự
thống nhất của hình thức tố tụng là tuyệt đối, chỉ có hình thức tố tụng thống
nhất với mọi vụ án, đề cao nguyên tắc pháp chế trong tố tụng hình sự, việc
giải quyết mọi vụ án hình sự từ giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án phảI tuân theo một trình tự thống nhất, đảm bảo sự công bằng trong việc
tiến hành tố tụng cũng như áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước. Đòi
hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng phải thực hiện đầy đủ các bước, trình tự, thủ
tục được pháp luật tố tụng hình sự quy định cho moi vụ án. Mặt khác, nó còn
đảm bảo quyền bình đẳng cho bị can, bị cáo khi tham gia tố tụng như : quyền
bào chữa, quyền kháng cáo và bảo đảm được quyền giám sát của nhân dân
đối với các cơ quan tiến hành tố tụng được thuận lợi.
Xét về mặt lý luận thì các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự đã tạo
ra sự thống nhất của hình thức tố tụng, thủ tục tố tụng để giải quyết các vụ án
hình sự. Sự thống nhất của tố tụng hình sự không có nghĩa là không có sự khác
biệt nhất định đối với các vụ án có tính chất và mức độ nghiêm trọng khác nhau,
tính phức tạp khác nhau. Nếu sự phân hoá các hình thức tố tụng giúp cho việc
giải quyết vụ án được nhanh chóng nhưng vẫn đảm bảo được các nguyên tắc cơ
bản của tố tụng hình sự và đạt được mực đích là ổn định các quan hệ xã hội, bảo
đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, lợi ích của xã hội, của nhà
nước thì đó là sự phân hoá khoa học và cần thiết. [22, tr.20]
Việc xây dựng thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự cũng là sự phân
hoá hình thức tố tụng theo hướng này nhưng dù thế nào đi nữa vẫn phải đảm
bảo các quyền hợp pháp và bình đẳng cho bị can, bị cáo trong tố tụng.
25
Vì vậy, việc nghiên cứu xây dựng thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự
phải bảo đảm tính khoa học và hợp lý để giải quyết các vụ án hình sự đơn
giản, chứng cứ rõ ràng là phù hợp với sự phân hoá hình thức tố tụng hình sự.
Mặc dù vậy, sự phân hoá này không gắn liền với những hạn chế về các
nguyên tắc dân chủ và những bảo đảm của tố tụng hình sự.
1.1.4.2. Cơ sở thực tiễn
Theo thống kê của các cơ quan tiến hành tố tụng ở nước ta cho thấy,
các cơ quan này hàng năm phải giải quyết một số lượng án khá lớn. Theo báo
cáo Tổng kết công tác của ngành Toà án từ năm 2003 đến năm 2007 thì số
lượng án các loại cũng như án hình sự đã thụ lý và giải quyết luôn có chiều
hướng gia tăng. Sau đây, là tình hình thụ lý và xét xử sơ thẩm các vụ án hình
sự của toàn ngành Toà án nước ta từ năm 2003 đến hết năm 2007: [15]
- Năm 2003: Đã xét xử sơ thẩm 42.992 vụ / 47.456 vụ đã thụ lý. Đạt tỷ
lệ: 90,5%.
- Năm 2004: Đã xét xử sơ thẩm 52.999 vụ / 55.713 vụ đã thụ lý. Đạt tỷ
lệ: 95,12%.
- Năm 2005: Đã xét xử sơ thẩm 46.965 vụ / 58.602 vụ đã thụ lý. Đạt tỷ
lệ: 80,14%.
- Năm 2006: Đã xét xử sơ thẩm 60.703vụ / 62.166 vụ đã thụ lý. Đạt tỷ
lệ: 97,6%.
- Năm 2007: Đã xét xử sơ thẩm 63.191 vụ / 65.198 vụ đã thụ lý. Đạt tỷ
lệ: 96,9%.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng tỷ lệ án tồn đọng trong xét xử sơ
thẩm án hình sự còn chiếm một tỷ lệ tương đối lớn, trong khi tình hình án
hình sự đang ngày càng có chiều hướng gia tăng và phức tạp. Đây là một
trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng án tồn đọng kéo dài còn nhiều.
Trong khi đó, số lượng Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán vẫn thiếu