Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Quy định về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.49 KB, 15 trang )

BÀI LÀM
A/ ĐẶT VẤN ĐỀ:
Qua quá trình học tập, cũng như tìm hiểu thực tế ta thấy vấn đề thủ tục trong
tố tụng hình sự, là một vấn đề không thể thiếu khi giải quyết một vụ án hình sự.
Vấn đề này được quy định rất rõ ràng và cụ thể trong Bộ luật hình sự năm 2003.
Khi tìm hiểu Bộ luật hình sự ta thấy, ngoài việc quy định các “thủ tục tố tụng
chung”, các nhà lập pháp còn quy định các “thủ tục đặc biệt” cụ thể tại Phần thứ
bảy (gồm các chương từ Chương XXXII – Chương XXXV). Việc quy định về thủ
tục rút gọn là căn cứ pháp lý cho các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền giải
quyết nhanh chóng, kịp thời nhiều vụ án thuộc loại ít nghiêm trọng, có tính chất
quả tang, đơn giản, rõ ràng. Thủ tục này đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng
chống tội phạm một cách kịp thời, góp phần giải quyết tình trạng tồn đọng án kéo
dài và việc vi phạm các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thời hạn giải quyết
vụ án; khắc phục tình trạng quá tải trong các trại giam và những khó khăn trong tổ
chức tạm giữ, tạm giam...
Việc giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn tạo điều kiện để những thiệt hại do
hành vi phạm tội gây ra nhanh chóng được khắc phục, góp phần bảo đảm lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân.
Thủ tục rút gọn đáp ứng yêu cầu của nhân dân là xử lý kịp thời, chính xác
các hành vi phạm tội và người phạm tội, qua đó phát huy tác dụng giáo dục ý thức
pháp luật trong nhân dân, góp phần vào việc phòng ngừa tội phạm.
Thủ tục rút gọn tạo điều kiện cho các cơ quan tiến hành tố tụng tiết kiệm
được thời gian, tiền bạc, công sức trong việc giải quyết những vụ án đơn giản, rõ
ràng, ít nghiêm trọng, tập trung vào việc giải quyết những vụ án nghiêm trọng,
phức tạp hơn; đồng thời cũng tiết kiệm được thời gian, chi phí cho những người


tham gia tố tụng, giúp họ nhanh chóng ổn định cuộc sống và tham gia vào các quan
hệ pháp luật khác.
Với ý nghĩa to lớn trên, em đã lựa chọn đề tài: “ Quy định về điều kiện áp
dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự” làm đề tài cho bài tập lớn của mình.


Sau đây sẽ là phần trình bày của em về đề tài.
B/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Khái niệm thủ tục rút gọn:
Thủ tục rút gọn là thủ tục đặc biệt trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với
những vụ án về tội phạm ít nghiêm trọng, sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ
ràng; Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang, có căn cứ, lai lịch rõ ràng.
2. Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn:
Tại Điều 319 BLTTHS năm 2003 có quy định cụ thể về điều kiện áp dụng thủ
tục rút gọn như sau:
“Thủ tục rút gọn chỉ được áp dụng khi có đủ các điều kiện sau đây:
1.
2.
3.
4.

Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang;
Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng;
Tội phạm đã được thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng;
Người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng.”.

Để hiểu hơn về những quy định của pháp luật, ta có thể đi tìm hiểu kĩ hơn từng
điều kiện được quy định tại Điều 319 BLTTHS. Cụ thể:
-Điều kiện thứ nhất: Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang.
Theo quy định tại ĐIều 82 BLTTHS năm 2003, phạm tội quả tang là trường
hợp người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt khi đang thực hiện tội phạm hoặc
ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt.
Phạm tội quả tang, thông thường là những trường hợp đã xác định rõ ràng về
hành vi phạm tội và người thực hiện hành vi phạm tội. Người bị bắt trong trường
hợp phạm tội quả tang thường nhận tội ngay; chứng cứ tương đối đầy đủ và rõ
ràng; người làm chứng, người bị hại(nếu có) cũng thường được xác định cụ



thể...Đây là một trong những điều kiện cần thiết để có thể giải quyết vụ án nhanh
chóng, thuận lợi và chính xác.
- Điều kiện thứ hai: Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng.
Theo hướng dẫn tại Thông tư số 10/TATC năm 1974: “Tội phạm đơn giản, rõ
ràng là: Vụ án không có các tình tiết phải mất thì giờ điều tra, xác minh, bị cáo đã
nhận tội và trong vụ án chỉ có một hoặc hai bị cáo”.
Có thể hiểu sự việc phạm tội đơn giản là những sự việc mà vấn đề chứng minh
trong vụ án không phức tạp và dễ xác định. Các tình tiết của hành vi phạm tội đơn
giản; vụ án thường ít bị cáo hoác có thể có nhiều bị cáo nhưng không phải trường
hợp phạm tội có tổ chức hoặc đồng phạm phức tạp, khó xác định vai trò, vị trí của
từng đối tượng; lỗi, năng lực trách nhiệm hình sự, động cơ, mục đích phạm tội rõ
ràng. Việc giải quyết vụ án không liên quan đến nhiều cấp, nhiều nghành, đến
chính sách dân tộc, tôn giáo, phong tục tập quán hay những vấn đề xã hội phức tạp
khác.
Chứng cứ rõ ràng là những chứng cứ đã được thu thập tương đối đầy đủ ngay từ
đầu, thông qua biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai cuả người bị hại,
người trực tiếp chứng kiến sự việc phạm tội, các tang vật thu được ở hiện
trường...Các chứng cứ này không chỉ đầy đủ mà còn phải thống nhất và đảm bảo
giá trị chứng minh.
Những trường hợp phạm tội quả tang nhưng không đảm bảo điều kiện tính chất
của sự việc phạm tội đơn giản, rõ ràng thì không áp dụng thủ tục rút gọn.
- Điều kiện thứ ba: Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng.
Theo quy định tại Điều 8 BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009: “Tội
phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao
nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 3 năm tù...”. Dấu hiệu về mặt nội
dung chính trị - xã hội của loại tội này là tính nguy hại không lớn cho xã hội, dấu
hiệu về mặt hậu quả pháp lý của loại tội này có thể là phải chịu hình phạt đến mức



cao nhất là 3 năm tù. Do hậu quả mà tội phạm gây cho xã hội và hậu quả pháp lý
mà người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng có thể phải chịu là không lớn nên
việc xử lý có thể nhanh chóng, dễ dàng hơn và nếu trong trường hợp việc xử lý
không chính xác thì hậu quả cũng không đến mức nghiêm trọng so với các trường
hợp thực hiện loại tội phạm khác và dễ khắc phục.
- Điều kiện thứ tư: Người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng.
Lai lịch, căn cước của người phạm tội là vấn đề cần làm rõ trong quá trình giải
quyết vụ án. Qua việc xác định lai lịch căn cước, các cơ quan tiến hành tố tụng có
thể làm rõ được nhiều yếu tố về nhân thân của người phạm tội, trên cơ sở đó có
những quyết định đúng đắn trong việc định tội và quyết định hình phạt. Người
phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng được coi là một điều kiện để áp dụng thủ tục
rút gọn vì các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ không phải mất nhiều thời gian để điều
tra xác minh nên có thể rút ngắn thời gian giải quyết vụ án mà vẫn đảm bảo cho
việc xem xét, giải quyết những vấn đề của vụ án được chính xác. Nếu căn cước, lai
lịch của người phạm tội chưa được xác minh chắc chắn thì không được áp dụng thủ
tục rút gọn.
3. Những bất cập và hướng hoàn thiện thủ tục rút gọn trong tố tụng hình
sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp:
-Thứ nhất: Để tránh tình trạng kéo dài không cần thiết quá trình điều tra, truy
tố, xét xử vụ án hình sự cũng như tình trạng tồn đọng án, đồng thời với mục đích
bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích chính đáng của những người tham gia tố tụng theo
quy định của pháp luật, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) đã quy định thủ tục rút
gọn tại chương XXXIV. Về vấn đề này, Nghị quyết số 08-NQ/TƯ của Bộ Chính trị
đã xác định: “Nghiên cứu để quy định và thực hiện thủ tục rút gọn đối với những
vụ án đơn giản, phạm tội quả tang, chứng cứ rõ ràng, hậu quả ít nghiêm trọng”.
Với tinh thần đó, BLTTHS (Bộ luật tố tụng hình sự) năm 2003 đã khôi phục thủ
tục rút ngắn trước đây được áp dụng để điều tra, truy tố và xét xử đối với những vụ



án hình sự ít quan trọng, phạm tội quả tang, đơn giản, rõ ràng,( ) nay gọi là thủ tục
rút gọn và giành một chương quy định về thủ tục này nhưng hiện nay ít được các
cơ quan tiến hành tố tụng quan tâm, chú ý đến việc áp dụng để giải quyết vụ án
hình sự. Cùng với công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước trên mọi lĩnh vực
trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế, Nghị quyết số
48-NQ/TƯ ngày 25/5/2005 về chiến lược xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TƯ
ngày 2/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ việc cần phải
tiếp tục sửa đổi, bổ sung nhằm tiếp tục hoàn thiện BLTTHS, nâng cao chất lượng
công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự của các cơ quan tiến hành
tố tụng. Những quy định của BLTTHS về thủ tục rút gọn cũng cần phải được
nghiên cứu sửa đổi, bổ sung để đáp ứng yêu cầu. Nhìn chung, áp dụng thủ tục rút
gọn góp phần vào việc giải quyết nhanh chóng vụ án hình sự và tránh tình trạng
tồn đọng án. Quá trình tố tụng theo thủ tục rút gọn được quy định tại BLTTHS
năm 2003 chỉ kéo dài ba mươi ngày kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án hình sự,
giúp cơ quan tố tụng nhanh chóng giải quyết vụ án hình sự; bị can, bị cáo không
phải chờ lâu, không bị tạm giam kéo dài… Mặt khác, việc áp dụng thủ tục này còn
tiết kiệm được thời gian, chi phí… trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Theo quy định tại Điều 319 BLTTHS thì, thủ tục rút gọn chỉ được áp dụng khi
có đủ bốn điều kiện là: Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang; sự việc
phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng; tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm
trọng; người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng. Tuy nhiên, thủ tục rút gọn lại
chỉ được áp dụng trong quá trình điều tra và truy tố chứ không áp dụng trong quá
trình xét xử. Do vậy, tại phiên toà xét xử đối với những vụ án được điều tra, truy
tố, xét xử theo thủ tục rút gọn lại được tiến hành như đối với các vụ án tiến hành
theo thủ tục bình thường.( )..


- Thứ hai: Sau hơn bốn năm thi hành BLTTHS năm 2003 (từ ngày 1/7/2004 đến
nay), hầu như thủ tục này ít được áp dụng, thậm chí có cơ quan tiến hành tố tụng ở

một số tỉnh có năm không có một vụ án nào được điều tra, truy tố, xét xử theo thủ
tục rút gọn. Việc áp dụng thủ tục này do vậy còn nhiều bất cập cần được khắc
phục. Nguyên nhân của sự không áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết vụ án hình
sự là do ngại trách nhiệm; những quy định của BLTTHS về thủ tục rút gọn chưa
được rõ ràng, đầy đủ. Mặt khác lại chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về việc áp
dụng những quy định của BLTTHS về việc điều tra, truy tố theo thủ tục rút gọn.
Điều này thể hiện cụ thể như sau: – Thời hạn điều tra theo thủ tục rút gọn chỉ được
tiến hành trong thời hạn 12 ngày. Trong thời hạn đó cơ quan điều tra phải tiến hành
một loạt các hành vi tố tụng như: Ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định
khởi tố bị can; ra quyết định tạm giam, xin lệnh phê chuẩn tạm giam của Viện
Kiểm sát; hỏi cung bị can; lấy lời khai của người chứng…và tiến hành các thủ tục
khác như định giá tài sản, trưng cầu giám định…Chẳng hạn, để chờ kết quả định
giá tài sản thì nhanh nhất cũng phải mất một tuần, chậm thì hai tuần, có khi kéo dài
hơn nữa. Một trong những khó khăn đáng nói nữa, đó là việc xác minh lý lịch, tiền
án, tiền sự của bị can. Nếu là người địa phương thì thường cũng mất một tuần lễ để
xác minh nhân thân. Nếu là người ở tỉnh khác thì thủ tục này cố gắng lắm cũng mất
khoảng một tháng. – Thời hạn truy tố theo thủ tục rút gọn theo quy định tại Điều
321 BLTTHS là bốn ngày. Nếu vụ án được tiến hành theo thủ tục bình thường thì,
trong thời hạn ba ngày kể từ ngày ra quyết định truy tố bị can trước toà án bằng
bản cáo trạng thì Viện kiểm sát phải giao bản cáo trạng cho bị can. Trong trường
hợp truy tố thì trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày quyết định truy tố bằng bản cáo
trạng, viện kiểm sát phải gửi hồ sơ và bản cáo trạng đến toà án.( ) Trong thủ tục rút
gọn lại không quy định về thời hạn này, nhưng nếu áp dụng theo thủ tục bình
thường cũng không ổn, vì thời hạn nghiên cứu hồ sơ để ra quyết định truy tố lại
quá ngắn so với thời hạn gia quyết định truy tố cho bị can và chuyển hồ sơ cho toà


án. – Thời hạn chuẩn bị xét xử theo thủ tục rút gọn theo quy định tại khoản 1 Điều
324 BLTTHS là bảy ngày. Nếu vụ án được tiến hành theo thủ tục bình thường thì
quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được giao cho bị cáo, người đại diện hợp pháp

của họ và người bào chữa chậm nhất là mười ngày trước khi mở phiên toà.( ) Đối
với thủ tục rút gọn thì BLTTHS lại không quy định thời hạn này nhưng thời hạn
quy định theo thủ tục thông thường thì không thể áp dụng được. Theo khoản 1
Điều 324 BLTTHS thì, trong thời hạn bảy ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án,
thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà phải ra quyết định đưa vụ án ra xét
xử…chứ không quy định phải giao quyết định đưa vụ án ra xét xử cho bị cáo trong
thời hạn bao nhiêu ngày kể từ ngày ra quyết định như đối với vụ án bình thường.
Như vậy, toà án có thể giao quyết định đưa vụ án ra xét xử cho bị cáo bất cứ thời
điểm nào miễn là trước khi mở phiên toà đều được coi là không vi phạm. Nếu giao
quyết định đưa vụ án ra xét xử cận ngày quá thì bị cáo không có thời gian để mời
người bào chữa. Muốn bảo vệ cho thân chủ có hiệu quả ngoài việc nghiên cứu hồ
sơ, sắp xếp lịch để tham gia phiên toà, luật sư còn phải gặp gỡ, trao đổi với thân
chủ, trao đổi, đề xuất với cơ quan tiến hành tố tụng khi cần thiết. Với thời gian điều
tra, truy tố, xét xử theo thủ tục rút gọn như trên thì người bào chữa khó có thể làm
thủ tục kịp để bảo vệ thân chủ. Điều này dẫn đến việc lúng túng khi thực hiện việc
áp dụng thủ tục rút gọn. – Việc áp dụng thủ tục rút gọn theo quy định của BLTTHS
năm 2003 lại không phải là bắt buộc nên mặc dù vụ án có đủ điều kiện để áp dụng
thủ tục này nhưng cơ quan tiến hành tố tụng không áp dụng thì cũng không phải là
vi phạm thủ tục tố tụng. Khoản 1 Điều 320 BLTTHS quy định: “Sau khi khởi tố vụ
án, theo đề nghị của cơ quan điều tra hoặc xét thấy vụ án có đủ các điều kiện quy
định tại Điều 319 của Bộ luật này, Viện kiểm sát có thể ra quyết định áp dụng thủ
tục rút gọn”. Như vậy có thể nói vụ án có điều tra, truy tố, xét xử theo thủ tục rút
gọn hay không hoàn toàn phụ thuộc vào cơ quan điều tra, Viện kiểm sát chứ không
phụ thuộc vào toà án. Tuy nhiên, nếu trường hợp Viện kiểm sát trả hồ sơ để điều


tra bổ sung hoặc tạm đình chỉ vụ án theo quy định tại điểm b và điểm c khoản 1
Điều 323 BLTTHS thì Viện kiểm sát phải ra quyết định huỷ bỏ quyết định áp dụng
thủ tục rút gọn và vụ án được giải quyết theo thủ tục chung. Hoặc trong trường hợp
toà án trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc tạm đình chỉ vụ án theo quy định tại điểm

b và điểm c khoản 1 Điều 324 BLTTHS thì toà án chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát
và vụ án được giải quyết theo thủ tục chung. Có thể thấy rằng, do chưa có quy chế
phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và toà án trong việc điều
tra, truy tố, xét xử đối với những vụ án có đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục
rút gọn nên việc áp dụng thủ tục này trong thực tế còn hạn chế. – Điều kiện áp
dụng biện pháp ngăn chặn được quy định trong BLTTHS còn có điểm chưa hợp lí.
Ngoài ba điều kiện được quy định tại điểm 1,2,3 thì điểm 4 Điều 319 BLTTHS quy
định là “người phạm tội phải có căn cước, lai lịch rõ ràng”. Xác minh căn cước, lai
lịch của người phạm tội là trách nhiệm của cơ quan điều tra và trong trường hợp
cần thiết cơ quan điều tra có thể uỷ thác cho cơ quan điều tra khác( ) tiến hành xác
minh căn cước, lai lịch của người phạm tội. Tuy nhiên, thực tiễn điều tra cho thấy,
những trường hợp này thường lại rơi vào những vụ án mà người phạm tội lại
không nhớ rõ quê quán, nơi cư trú hoặc họ cố tình khai không đúng quê quán, nơi
cư trú “nên Cơ quan điều tra dù có tiến hành điều tra, xác minh lí lịch bị can cũng
chỉ mang tính hình thức, vì đây là việc mò kim đáy bể mà không bao giờ có kết
quả.( ) Do vậy, việc quy định người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng là điều
kiện để áp dụng thủ tục rút gọn chẳng những không tạo điều kiện để cơ quan điều
tra tiến hành điều tra vụ án một cách nhanh chóng mà còn là một trong những quy
định làm hạn chế cơ quan tiến hành tố tụng trong việc áp dụng thủ tục rút gọn để
giải quyết vụ án hình sự. – BLTTHS năm 2003 mới chỉ quy định về việc khiếu nại
đối với quyết định áp dụng thủ tục rút gọn tại khoản 3 Điều 320 nhưng không quy
định cụ thể hậu quả của việc khiếu nại: Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn có thể
bị khiếu nại. Bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền khiếu nại quyết


định áp dụng thủ tục rút gọn; thời hiệu khiếu nại là ba ngày kể từ ngày nhận được
quyết định. Khiếu nại được gửi đến Viện kiểm sát đã ra quyết định áp dụng thủ tục
rút gọn và phải được giải quyết trong thời hạn ba ngày kể từ ngày nhận được khiếu
nại. Như vậy, nếu khiếu nại được chấp nhận hay không chấp nhận thì vụ án sẽ
được giải quyết theo thủ tục nào cũng chưa được quy định rõ ràng. Tuy nhiên, ai

cũng hiểu rằng, nếu khiếu nại được chấp nhận thì vụ án phải được giải quyết theo
thủ tục bình thường nhưng thời hạn điều tra, truy tố sẽ được tính như thế nào để
đảm bảo cho việc tiến hành tố tụng đúng với tinh thần của BLTTHS mà không ảnh
hưởng gì đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố
tụng. Thực tế, nếu quyết định áp dụng thủ tục rút gọn bị khiếu nại và việc giải
quyết khiếu nại dù có kịp thời, đúng quy định của BLTTHS thì cũng mất 6 ngày,
mà thời hạn truy tối đa chỉ là bốn ngày, nếu khiếu nại không được chấp nhận. –
BLTTHS chưa có quy định về sự tham gia của người bào chữa. Nếu người bào
chữa cứ làm thủ tục tham gia bào chữa như đối với các vụ án bình thường thì họ
khó có thể bào chữa kịp thời và hiệu quả, vì thời hạn điều tra chỉ có 12 ngày mà
việc bị can tiến hành mời được người bào chữa, người bào làm thủ tục xin được
cấp giấy chứng nhận người bào chữa thì cũng mất mấy ngày rồi. Ngoài những lí do
trên, việc cơ quan tiến hành tố tụng ngại, không áp dụng thủ tục rút gọn để giải
quyết vụ án hình sự, kể cả trường hợp có đủ điều kiện để có thể áp dụng. Đó là,
nhận thức của cán bộ điều tra trong việc áp dụng thủ tục rút gọn. Có ý kiến cho
rằng, không bị áp lực về lượng án thì không việc gì phải áp dụng thủ tục rút gọn
một cách gấp gáp như vậy. Họ cho rằng, nếu thời gian ngắn như vậy thì dễ dẫn đến
sai sót và nếu không may lại làm oan người vô tội thì trách nhiệm rất lớn . Do đó,
cứ theo thủ tục bình thường để điều tra, truy tố, xét xử cho cẩn thận vẫn tốt hơn.
- Thứ ba: Từ việc phân tích những bất cấp nêu trên cho thấy, thủ tục rút gọn là
một trong những vấn đề cơ bản cần được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp
với xu thế hội nhập và tiến trình cải cách tư pháp, để từ năm 2007 đến năm 2010


có thể thông qua. Nếu tuyệt đối hoá điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn như hiện
nay…thì hầu như không thể thực hiện được.( ) Để khắc phục những bất cập nêu
trên, theo chúng tôi cần sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLTTHS theo hướng
sau: – Đối với thời hạn áp dụng thủ tục rút gọn: Để đảm bảo cho việc tiến hành các
hoạt động điều tra, truy tố và xét xử theo thủ tục rút gọn theo có hiệu quả, đồng
thời tạo điều kiện cho những người tham gia tố tụng nhất là người bị tạm giữ, bị

can, bị cáo thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của họ, cần quy định thời hạn điều tra,
truy tố và xét xử theo thủ tục rút gọn là 45 ngày chứ không chỉ là 30 ngày như hiện
nay. – Đối với thẩm quyền quyết định áp dụng thủ tục rút gọn: Theo quy định của
BLTTHS thì, cơ quan điều tra chỉ có quyền đề nghị viện kiểm sát ra quyết định áp
dụng thủ tục rút gọn chứ không có quyền quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. Việc
có áp dụng thủ tục rút gọn hay không lại hoàn toàn phụ thuộc và Viện kiểm sát.
Tức là trên cơ sở đề nghị của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát ra quyết định áp dụng
thủ tục rút gọn. Điều này không những không giản lược được thủ tục mà còn phức
tạp thêm. Do vậy, theo chúng tôi cần quy định theo hướng để cơ quan điều tra có
quyền ra quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn khi vụ án có đủ điều kiện để áp
dụng thủ tục rút gọn. Mặt khác, BLTTHS lại quy định: Khi có đủ điều kiện áp
dụng thủ tục rút gọn theo quy định thì Viện kiểm sát cũng không bắt buộc phải ra
quyết định áp dụng thủ tục rút gọn mà có thể ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn
hoặc không ra quyết định. Quy định này dẫn đến tình trạng có nhiều vụ án đủ điều
kiện để điều tra, truy tố, xét xử theo thủ tục rút gọn nhưng vẫn được tiến hành theo
thủ tục thông thường. Từ sự phân tích trên, khoản 1 Điều 320 cần sửa đổi theo
hướng: “Sau khi khởi tố vụ án, cơ quan điều tra ra quyết định áp dụng thủ tục rút
gọn, nếu xét thấy vụ án có đủ các điều kiện quy định tại Điều 319 của Bộ luật
này.” – Đối với điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn: Như đã phân tích trên, chỉ cần
giữ ba điều kiện quy định tại các điểm 1,2,3 Điều 319 BLTTHS và bỏ quy định
“người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng” là điều kiện để áp dụng thủ tục rút


gọn. Tuy nhiên, cũng cần nói thêm rằng, hiện nay BLTTHS của chúng ta quy định
thủ tục rút gọn chỉ áp dụng đối với tội phạm ít nghiêm trọng cũng cần phải được
cân nhắc và xem xét. Điểm 3 Điều 319 quy định: Thủ tục rút gọn chỉ được áp dụng
khi có đủ các điều kiện sau đây: Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm
trọng. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy, tính phức tạp của vụ án lại không
phải lúc nào cũng phụ thuộc vào loại tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất
nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng. Do vậy để đảm bảo tính kịp thời và khẩn

trương trong quá trình tố tụng nên bổ sung điểm 3 Điều 319 theo hướng: Thủ tục
rút gọn chỉ được áp dụng khi có đủ các điều kiện sau đây: Tội phạm đã thực hiện là
tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng. – Đối với việc khiếu nại quyết định áp
dụng thủ tục rút gọn: cần bổ sung thêm quy định vào Điều 320 BLTTHS trong đó
quy định rõ thời hạn điều tra, truy tố, xét xử trong trường hợp khiếu nại được chấp
nhận hoặc không được chấp nhận. – Đối với vấn đề tham gia tố tụng của người bào
chữa trong thủ tục rút gọn: Để tạo điều kiện cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như người bào chữa tham gia tố
tụng có hiệu quả, cần bổ sung thêm một điều luật quy định về vấn đề này với nội
dung giản lược một số thủ tục để người bào chữa có thể tham gia một cách kịp thời
như, nếu được bị can hoặc thân nhân của họ yêu cầu mời luật sư và bị can đã đồng
ý thì luật sư không cần phải xuất trình giấy chứng nhận người bào chữa ngay mà
chỉ cần giấy giới thiệu của Văn phòng luật sư, xuất trình thẻ luật sư là có thể tham
gia tố tụng nhưng chậm nhất là 3 ngày luật sư phải xuất trình giấy chứng nhận
người bào chữa. – Những người tiến hành tố tụng đối với vụ án được giải quyết
theo thủ tục rút gọn cũng cần phải được chuyên nghiệp hoá để đáp ứng yêu cầu của
việc giải quyết vụ án theo thủ tục này. Hiện nay do chưa có hướng dẫn cụ thể về
việc áp dụng thủ tục rút gọn và trong BLTTHS còn có những quy định quá chung
chung, chưa rõ ràng nên phần lớn các cơ quan tiến hành tố tụng không quan tâm
đến việc áp dụng thủ tục này. Nếu có một đội ngũ điều tra viên, kiểm sát viên,


thẩm phán được phân công chịu trách nhiệm về thủ tục này thì họ mới quan tâm
đến việc áp dụng nó trong thực tế. – Đối với thành phần hội đồng xét xử: Thủ tục
rút gọn không có nghĩa là chỉ rút ngắn thời hạn điều tra, truy tố, xét xử mà nó còn
giản lược một số thủ tục. Theo quy định của BLTTHS hiện hành thì, trong giai
đoạn điều tra, khi kết thúc điều tra, cơ quan điều tra không phải làm bản kết luận
điều tra mà ra quyết định đề nghị truy tố và gửi hồ sơ cho viện kiểm sát. Trong giai
đoạn truy tố, viện kiểm sát không phải làm bản cáo trạng mà ra quyết định truy tố
bị can trước toà án bằng quyết định truy tố. Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm thì

ngoài việc rút ngắn thời hạn chuẩn bị xét xử, mọi thủ tục đều tiến hành như đối với
các vụ án thông thường. Chúng tôi cho rằng BLTTHS nên quy định thành phần hội
đồng xét xử sơ thẩm theo thủ tục rút gọn chỉ cần một thẩm phán mà không cần
phải có thêm hai hội thẩm như đối với các vụ án được đưa ra xét xét xử theo thủ
tục thông thường. Quy định theo hướng này vừa tạo điều kiện cho toà án chủ động
trong việc sắp xếp lịch xét xử đồng thời khắc phục tình trạng thiếu hội thẩm tham
gia phiên toà nhưng vẫn đảm bảo được chất lượng xét xử. – Về việc giao các quyết
định tố tụng cho bị can, bị cáo. Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bị can,
bị cáo và áp dụng thống nhất những quy định về thủ tục rút gọn trong việc giải
quyết vụ án hình sự, BLTTHS cần bổ sung quy định về thời hạn giao quyết định
truy tố cho bị can, quyết định đưa vụ án ra xét xử cho bị cáo. Ngoài ra, cần có quy
định để đảm bảo sự phối hợp và chế ước giữa cơ quan điều tra, viện kiểm sát và
toà án trong việc áp dụng thủ tục rút gọn. Nếu vụ án có đủ điều kiện áp dụng thủ
tục rút gọn mà không được điều tra, truy tố, xét xử theo thủ tục này thì phải coi đây
là trường hợp vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
-Thứ tư: Thủ tục rút gọn có nhiều tính ưu việt, thúc đẩy quá trình giải quyết vụ
án được nhanh chóng, người phạm tội được rút ngắn thời gian bị tạm giam trong
một số trường hợp, khắc phục tình trạng tồn đọng án kéo dài chính vì vậy mà
BLTTHS năm 2003 đã khôi phục thủ tục này. Tuy nhiên, để việc áp dụng thủ tục


này có hiệu quả, những quy định của BLTTHS năm 2003 về thủ tục rút gọn cần
được tiếp tục nghiên cứu để khắc phục những bất cập và sửa đổi, bổ sung để đáp
ứng yêu cầu của việc giải quyết vụ án theo thủ tục này được nhanh chóng, kịp thời
nhưng phải đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đồng thời đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.
C/ KẾT THÚC VẤN ĐỀ:
Trên đây là toàn bộ phần trình bày của em về đề tài “Quy định về điều kiện áp
dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự”. Qua đề tài này với mong muốn phần
nào làm sáng tỏ vấn đề để từ đó hiểu hơn về thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự.

Bên cạnh việc em đã cố gắng tận dụng những kiễn thức đã được học từ thày cô,
sách vở và sự tìm tòi tài liệu để hoàn thiện phần đề tài mà em đã lựa chọn. Tuy
nhiên, do đây là một trong những đề tài khó, rộng và việc đào sâu kiến thức còn
nhiều hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót trong bố cục trình bày,
cũng như trong bài làm của mình.
Chính vì vậy, em rất mong nhận được sự giúp đỡ của thày cô để đề tài mà em
quan tâm được sáng tỏ và bài làm của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình: “Luật tố tụng hình sự Việt nam”, trường Đại học luật Hà Nội,
2.
3.
4.
5.
6.

Nxb: Tư pháp, HN-2006.
Bộ luật Hình sự năm 2009.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
Thông tư số 10/TATC năm 1974.
Nghị quyết số 08/NQ/TC của Bộ chính trị.
Nghị quyết số 48/NQ/TC ngày 25/5/2005 về chiến lược xây dựng, hoàn

thiện hệ thống pháp luật...
7. Nghị quyết số 49/NQ/TC ngày 2/6/2005 về chiến lược cải cách Tư pháp...


MỤC LỤC

C/ KẾT THÚC VẤN ĐỀ................................................................................................13
:



×