Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

thực trạng và giải pháp thu hút fdi của nhật bản vào việt nam từ năm 1988 đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (497.76 KB, 72 trang )


Nguyn c Anh - u t 47D
TRƯờNG đại học kinh tế quốc dân
khoa đầu t
chuyên đề
thực tập tốt nghiệp
Đề tài:
thực trạng và giải pháp thu hút fdi của nhật bản vào
việt nam từ năm 1988 đến năm 2020
Giáo viên hớng dẫn
: PGS.TS. Từ Quang Phơng
Sinh viên thực hiện
: Nguyễn Đức Anh
Lớp
: Đầu t 47D
Hà Nội, 05/2009
Chng I
1
Nguyễn Đức Anh - Đầu tư 47D
THỰC TRẠNG FDI NHẬT BẢN TẠI VIỆT NAM
TỪ NĂM 1988 - 2008
I. Tổng quan tình hình thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Việt Nam từ năm 1988 – 2008

:

1. Tình hình thu hút FDI tại Việt Nam

:

1.1 Về cấp phép đầu tư



:
Ngày 19/12/1987, nước ta đã chính thức ban hành luật đầu tư nước ngoài vàp
Việt Nam. Trong những năm đầu tiên, FDI tại Việt Nam mang tính chất thăm dò, vì
thế mà số dự án cấp mới cũng như số vốn đăng ký không nhiều. Tuy nhiên trong
những năm sau, nguồn vốn FDI đã tăng lên cả về số dự án và vốn đăng ký.
Bảng 1: Vốn FDI của cả nước từ năm 1991 - 2008
Đơn vị 1991–1995 1996–2000 2001–2005 2006- 2008 Tổng
Số dự án DA 1371 1724 3935 2673 9703
Tỷ trọng số DA % 16.71 21.02 47.98 14.27 100
Vốn đăng ký Tỷ USD 18.5 25.5 20.8 64.01 128.81
Tỷ trọng VĐK % 14.36 19.79 16.15 49.69 100
Vốn thực hiện Tỷ USD 7.1 13.5 13.92 23.6 58.12
Tỷ trọng VTH % 15.4 29.09 30.82 24.78 100
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Giai đoạn từ năm 1991 – 1995 : Trong thời kỳ này hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngoài tăng lên nhanh chóng. trong đó chỉ riêng năm 1991, năm thấp nhất của
thời kì, cũng đạt 1.2 tỷ USD gần bằng cả ba năm của thời kì trước cộng lại. Lượng
vốn đăng ký tăng nhanh qua các năm. Tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư bình quân hàng
năm đạt 45% / năm. Thời kỳ này, các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được phân bổ
2
Nguyễn Đức Anh - Đầu tư 47D
rộng rãi trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Nhiều ngành công nghiệp mới
xuất hiện như: công nghiệp điện tửm công nghệ sinh học, chế tạo xe máy, ô tô Bên
cạnh đó. sự hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra nhiều
sản phẩm mới có chất lượng cao, giá thành hạ đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất
khẩu. Ngoài ra, các kết quả khả quan của các dự án thăm dò dầu khí đã tạo cơ sơ để
phát triển ngành công nghiệp lọc dầu, hoá dầu thành ngành công nghiệp mủi nhọn ở
nước ta.
Giai đoạn từ năm 1996 – 2000: trong giai đoạn này hoạt động FDI diễn ra khá

sôi động. Tổng vốn đăng ký cao khi đạt 25,5 tỷ USD, trong đó VTH đạt 13,5 tỷ. Nếu
so sánh với thời kỳ trước đó thì chúng ta có thể thấy được tiềm năng thu hút VĐT của
Việt Nam với các nhà nước ngoài trong giai đoạn này là rất hấp dẫn. Trong giai đoạn
này, VĐK vào Việt Nam đạt đỉnh điểm vào năm 1996 và giảm dần trong các năm sau
đó do ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ. Xu hướng đầu tư trong thời
kỳ có thay đổi khi chuyển từ đầu tư theo chiều rộng sang đầu tư theo chiều sâu.
Giai đoạn từ năm 2001 – 2005: so với giai đoạn trước đã có sự thay đổi. Mặc
dù tổng VĐK giảm nhưng VTH lại tăng lên. Điều này cho thấy sự khả thi của các dự
án FDI thời kỳ này tốt hơn. Sau sự kiện khủng bố tại Mỹ vào tháng 11/ 2009, Việt
Nam với nền chính trị ít biến động đã trở thành một địa điểm thích hợp cho các nhà
đầu tư nước ngoài. Vì thế mà số dự án FDI thời kỳ này cũng tăng mạnh đạt 3935 dự
án, đa phần là các dự án có quy mô vừa và nhỏ. Vốn FDI vẫn tập trung vào các ngành
công nghiệp và các thành phố lớn
Giai đoạn từ năm 2006 đến nay: Làn sóng ĐTNN vào Việt Nam thực sự tăng
mạnh và trở thành làn sóng FDI thứ 2 vào Việt Nam.Bằng chứng là tính đến cuối năm
2006, Việt Nam đã có 7,8 tỷ USD là vốn đăng ký cấp mới (tăng 200% so với năm
2005) trong đó vốn thực hiện là 4,1 tỷ USD tăng 124,24% so với cùng kỳ năm
2005.Số VĐK tiếp tục tăng mạnh trong những năm sau đó.Tuy nhiên trong thời kỳ
này ta thấy VTH chưa tương xứng so với VĐK khi chỉ có 23.6 tỷ USD.Một trong
những lý do mà vốn thực hiện chưa tương xứng với vốn đăng ký là do bị ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới. Dẫn đến tình trạng các nhà đầu tư phải hoãn
các chương trình đầu tư của họ.
1.2 Tình hình tăng vốn đầu tư, mở rộng sản xuất

:


3
Nguyễn Đức Anh - Đầu tư 47D
Cùng với việc thu hút các dự án đầu tư mới, nhiều dự án sau khi hoạt động có

hiệu quả đú mở rộng quy mô sản xuất-kinh doanh, tăng thêm vốn đầu tư, nhất là từ
năm 2001 trở lại đây. Quá trình tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất được chia làm các
thời kỳ theo xu hướng biến động của nền kinh tế
Thời kỳ 1988-1990 : việc tăng vốn đầu tư hầu như chưa có, Việt Nam mới bước
đầu mở cửa với các nước trên thế giới, thêm nữa do số lượng doanh nghiệp đầu tư
nước ngoài còn ít vì thế lượng tăng vốn thời kỳ này còn rất ít.
Thời kỳ từ năm 1991 – 1995 : số VĐK là 2,13 tỷ USD. Trong đó vốn tăng thêm
chủ yếu tập trung vào các dự án đầu tư nước ngoài thuộc lĩnh vực công nghiệp và xây
dựng, đạt 40,6% vốn tăng thêm trong giai đoạn này.Do vốn đầu tư chủ yếu từ các nhà
đầu tư châu Á (59%) nên trong số vốn tăng thêm, vốn mở rộng của các nhà đầu tư
châu Á cũng chiếm tỷ trọng cao nhất 66,8% trong giai đoạn 1991-1995
Thời kỳ từ năm 1996 – 2000 : Trong giai đoạn này số vốn tăng thêm đã tăng
gấp hai lần so trong giai đoạn 1991-1995. Cũng giống nhau giai đoạn từ năm 1991 –
1995 thì số vốn tăng thêm cũng chỉ tập trung vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng,
chiếm 65,7% số vốn tăng thêm trong giai đoạn này. Các nhà đầu tư châu Á trong giai
đoạn này có số vốn đạt 67% tổng vốn đầu tư trong 5 năm 1996-2000. Số lượt tăng vốn
bình quân trong thời kỳ này là 165 lượt/ năm.
Thời kỳ từ năm 2001-2005 : vốn đầu tư tăng thêm đạt 7,08 tỷ USD (vượt 18%
so dự kiến) tăng 69,7% so với 5 năm trước. Bắt đầu từ năm 2002 lượng vốn đầu tư
tăng thêm vượt con số 1 tỷ USD và từ năm 2004 đến 2007 vốn tăng thêm mỗi năm
đạt 2,14 tỷ USD, trung bình tăng 37%/năm; trong đó ngành công nghiệp và xây dựng
chiếm 77,3% vốn tăng thêm trong thời kỳ 2001-2005. Số vốn đầu tư từ các nhà đầu tư
Châu Á cũng tăng thêm trong giai đoạn này, đạt 70,3% trong thời kỳ 2001-2005. Số
lượt tăng vốn bình quân cũng tăng lên so với thời kỳ khi đạt 432 lượt/năm, gấp 3 lần
so với thời kỳ trước đó.
Giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2008 : dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam tăng mạnh. Chỉ trong 3 năm từ năm 2006 đến năm 2008 số vốn tăng thêm đã là
8,5 tỷ USD.Vốn tăng thêm vẫn chủ yếu tập trung vào các dự án ĐTNN thuộc lĩnh vực
công nghiệp và xây dựng; trong năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 80,17% và
4

Nguyễn Đức Anh - Đầu tư 47D
79,1% tổng vốn tăng thêm; trong đó các nhà đầu tư Châu Á có tỷ lệ vốn tăng thêm
trong năm 2006, 2007 tỷ lệ tương ứng là 72,1% 80% tổng vốn tăng thêm. Năm 2008
thì số vốn tăng thêm trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ đã lên tới mức 97,6% tổng
vốn tăng thêm tuy nhiên các nhà đầu tư Châu Á chỉ chiếm 23,6%. Tuy nhiên số lượt
tăng vốn bình quân hàng năm vẫn tương đối cao,đạt 434 lượt/năm tương đương với
thời kỳ trước đó.
Như vậy có thể thấy một xu hướng chung của dòng vốn đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam là số vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam biến động theo tình hình kinh tế
thế giới và đang có xu hướng tăng mạnh trong những năm tới. Số vốn tăng thêm trong
từng năm có lúc giảm lúc tăng tuy nhiên luôn danh một tỷ lệ lớn cho các ngành công
nghiệp và xây dựng. Một điều đang lưu ý là lượng vốn tăng thêm và những dự án mở
rộng thường diễn ra tại những vùng kinh tế trọng điểm, những thành phố lớn có điều
kiện cơ sở hạ tầng tốt hơn, với tỷ lệ dành cho khu vực miền Nam thường cao hơn cho
các khu vực miền Bắc. Qua khảo sát thường niên của Tổ chức Xúc tiến thương mại
Nhật Bản -JETRO tại Việt Nam có trên 70% doanh nghiệp ĐTNN được điều tra có kế
hoạch tăng vốn, mở rộng sản xuất tại Việt Nam; thể hiện sự tin tưởng và an tâm của
nhà ĐTNN vào môi trường đầu tư-kinh doanh tại Việt Nam.
2. Cơ cấu FDI tại Việt Nam

:
2.1.Cơ cấu vốn ĐTNN phân theo ngành nghề :
Bảng 2: Cơ cấu FDI cả nước phân theo ngành nghề
(tính tới thời điểm 31/12/2008)
Đơn vị Công nghiệp Nông – Lâm -
Ngư nghiệp
Dịch vụ Tổng
Số dự án
DA
6303 976 2524 9803

5
Nguyễn Đức Anh - Đầu tư 47D
Tỷ trọng số DA % 64.29 9.95 25.76 100
Vốn đăng ký Tỷ USD 87.79 4.79 57.18 149.76
Tỷ trọng VĐK % 58.62 3.19 38.19 100
Vốn thực hiện Tỷ USD 29.66 2.29 20.05 52.01
Tỷ trọng VTH % 57.02 4.4 38.58 100
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Lĩnh vực công nghiệp luôn luôn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng vốn đăng
ký, vốn thực hiện và số dự án FDI tại Việt Nam. Tiếp đến là ngành dịch vụ và nông –
lâm – ngư nghiệp. Việt Nam là một quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong
phú, bên cạnh đó giá nhân công lại rẻ vì thế mà hầu hết các dự án FDI đều tập trung
vào ngành công nghiệp và dịch vụ. Ta sẽ đi xem xét trong từng lĩnh vực:
Thứ nhất, FDI trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng:
Bảng 3: FDI cả nước trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng
Đơn vị
CN dầu
khí
CN nhẹ CN nặng CN thực
phẩm
Xây dựng Tổng
Số DA
DA
48 2740 2602 350 563 6303
Tỷ trọng
số DA
%
0.76 43.47 41.28 5.56 8.93 100
VĐK
Tỷ USD

14.47 15.68 47.16 4.19 6.27 87.79
Tỷ trọng
VĐK
%
16.49 17.86 53.72 4.78 7.15 100
VTH
Tỷ USD
4.65 6.88 14.13 1.87 2.12 29.66
Tỷ trọng
VTH
%
15.71 23.21 47.64 6.32 7.13 100
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Trong lĩnh vực công nghiệp các nhà đầu tư FDI tập trung vào 2 lĩnh vực công
nghiệp và công nghiệp nhẹ. Trong những năm qua, Việt Nam khuyến khích các nhà
đầu tư tập trung vào các ngành nghề như sản xuất vật liệu mới, cơ khí chế tạo, sản
phẩm và linh kiện điện tử, sản phẩm công nghệ cao, Đây cũng chính là những dự án
có khả năng tạo giá trị gia tăng cao. Thêm vào đó đây là nhưng ngành nghề thuộc
Danh mục các lĩnh vực khuyến khích và đặc biệt khuyến khích đầu tư. Đặc biệt, đây
là 2 ngành nghề có thể tận dụng tối đa được lợi thế so sánh của Việt Nam so với
những quốc gia khác về tài nguyên và nhân công.
Thứ hai, FDI trong lĩnh vực dịch vụ:
6
Nguyễn Đức Anh - Đầu tư 47D
Các nhà đầu tư nước ngoài chủ yếu tập trung vào kinh doanh trong lĩnh vực bất
động sản bao gồm: xây dựng căn hộ, văn phòng, phát triển khu đô thị mới, kinh doanh
hạ tầng KCX – KCN.
Bảng 4: FDI cả nước trong lĩnh vực dịch vụ
Chuyên ngành Số DA
Tỷ trọng

số DA (%)
VĐK
tỷ USD
%VĐK
VTH
(tỷ USD)
%VTH
Dịch vụ
1438 56.97 3.33 5.83 1.34 6.68
GTVT-Bưu điện
235 9.31 6.25 10.93 3.47 17.32
Khách sạn-Du lịch
250 9.9 15.41 26.96 4.46 22.26
Tài chính-Ngân hàng
68 2.69 1.05 1.83 0.99 4.94
Văn hóa-Ytế-Giáo dục
294 11.65 1.75 3.06 0.64 3.19
XD Khu đô thị mới
14 0.55 8.22 14.38 2.84 14.17
XD Văn phòng-Căn hộ
189 7.488 19.36 33.87 5.73 28.6
XD hạ tầng KCX-KCN
36 1.426 1.78 3.14 0.56 2.79
Tổng 2524 100 57.15 100 20.03 100
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Các nhà đầu tư nước ngoài chủ yếu tập trung vào kinh doanh trong lĩnh vực bất
động sản bao gồm: xây dựng căn hộ, văn phòng, phát triển khu đô thị mới, kinh doanh
hạ tầng KCX – KCN. Trong năm 2008 tuy vốn đăng ký vẫn tiếp tục tập trung đăng ký
vào lĩnh vực công nghiệp nhưng đã có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư mạnh vào lĩnh
vực dịch vụ, chiếm 38.17% tổng vốn đăng ký của cả nước, tăng so với cùng kỳ năm

2007 chỉ đạt mức 34,43%.
Vốn đầu tư có sự chuyển hướng từ công nghiệp sang ngành dịch vụ trong
những năm gần đây, đặc biết là đầu tư vào lĩnh vực khách sạn – du lịch và xây dưng
văn phòng – căn hộ là do Việt Nam trong những năm qua luôn là điểm đến thu hút
khách du lịch đông đảo. Sự ổn định chính trị giúp cho Việt Nam có được môi trường
hòa bình, là nơi an toàn cho các khách du lịch; vì thế việc các nhà đầu tư FDI đầu tư
vào khách sạn – du lịch là điều tất nhiên. Mặt khác trong 10 năm qua Việt Nam, đặc
biệt là các thành phố lớn như Hà Nội , TP Hồ Chí Minh luôn là những thành phố có
7
Nguyễn Đức Anh - Đầu tư 47D
giá thuê văn phòng vào bậc cao trên thế giới, chỉ xếp sau Thượng Hải, Trung Quốc.
Mà đây là những thành phố thu hút lượng vốn FDI nhiều nhất ở Việt Nam. Mặt khác
tại các thành phố lớn luôn có lượng dân cư đông, các dịch vụ nhà ở luôn ở tình trạng
cung không đủ cầu. Vì thế các nhà đầu tư FDI đầu tư vào lĩnh vực xây dựng văn
phòng và căn hộ nhằm để đáp ứng các nhu cầu trên.
Thứ ba, FDI trong lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp:
Luật ĐTNN dành nhiều ưu đãi cho các dự án đầu tư vào lĩnh vực nông-Lâm-
ngư, nhưng do nhiều nguyên nhân, kết quả thu hút ĐTNN vào lĩnh vực nông-Lâm-
ngư cũng thấp so với nhu cầu. Lượng vốn đăng ký chỉ đạt 4,79 tỷ USD với 976 dự án,
quá thấp so với 2 lĩnh vực kể trên. Có thể kể ra hai lý do chính dẫn đến tình trạng trên:
Một là, lợi nhuận là điều quan tâm chính của các nhà đầu tư FDI nhưng khi đầu
tư vào lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp thì lợi nhuận thu được của họ không cao so với 2
ngành dịch vụ và công nghiệp – xây dựng.
Hai là, đầu tư vào lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp thành công hay không phụ
thuộc vào rất nhiều vào thời tiết, điều nay đem lại một rủi ro cao cho các nhà đầu tư.
2.2 Cơ cấu ĐTNN phân theo vùng lãnh thổ:
Bảng 5: Cơ cấu FDI cả nước phân theo vùng kinh tế
(tính đến thời điểm 31/12/2008)
Địa phương
Số dự

án
Vốn đăng ký
(tỷ USD)
Vốn thực hiện
(tỷ USD)
TP Hồ Chí Minh 2834 26.26 9.36
Bà Rịa-Vũng Tàu 161 15.55 5.24
Hà Nội 1308 17.54 7.02
Đồng Nai 960 13.52 6.4
Ninh Thuận 19 9.96 0.84
Bình Dương 1720 9.62 3.94
Hà Tĩnh 11 7.92 2.71
Thanh Hóa 35 6.96 0.45
Phú Yên 40 6.32 1.43
Quảng Ngãi 16 3.59 0.57
Tổng 7104 117.24 37.96
Tỷ lệ so với cả nước ( % ) 72.46 78.28 72.98
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Tổng hợp của sinh viên
8
Nguyễn Đức Anh - Đầu tư 47D
Qua 20 năm hoạt động tại Việt Nam, các nhà ĐTNN đã trải rộng khắp cả nước.
Tính đến thời điểm 19/12/2008, ĐTNN đã có mặt trên 64 tỉnh thành, thành phổ cả
nước với 9803 dự án. Trong đó dẫn đầu vẫn là các thành phố lớn như TP Hồ Chí
Minh, Bà Rịa – Vũng Tàu, Hà Nội. Đây là những thành phố lớn của cả nước với cơ sở
hạ tầng hiện đại, dân trí cao và nguồn lao động dồi dào. Chính vì thế, đây là nhữn đại
bàn trọng điểm, có lợi thế, đã góp phần là động lực, lôi kéo phát triển nền kinh tế xã
hội của cả nước nói chung và các vùng lân cận nói riêng.
Một điều nữa cần được biết, đó là cơ cấu địa bàn tiếp nhận đầu tư cũng đã có
những thay đổi rõ rệt trong phạm vi cả nước. Nếu như trước đây các nhà ĐTNN chủ
yếu tập trung tại vùng kinh tế phía bắc và phía nam thì nay đã lan rộng ra khắp các

tỉnh thành. Có thể dẫn chứng qua việc xuất hiện của một số tỉnh thuộc khu vực miền
Trung như Hà Tĩnh, Quảng Ngãi đã nằm trong số 10 địa phương có số vốn đăng ký
cao nhất cả nước.Việc này một mặt thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa tại các địa
phương, cải thiện đời sống nhân dân, giải quyết công ăn việc làm cho người dân. Mặt
khác sẽ nâng cao trình độ phát triển của nhiều địa phương, rút ngắn khoảng cách với
các trung tâm lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh.
2.3. Cơ cấu ĐTNN phân theo hình thức đầu tư :
Tính đến hết tháng 12/2008, hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm 77.26% về
số dự án; hình thức liên doanh chiếm 18.59% về số dự án ; tiếp theo là hình thức hợp
đồng hợp tác kinh doanh với 2.32% số dự án,còn lại là công ty cổ phần, hợp đồng
BOT,BT,BTO và công ty mẹ con. Đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài có xu
hướng gia tăng nhanh chóng về số dự án, tuy nhiên, do dự án quy mô nhỏ và vừa
chiếm đa số nên mặc dự chiếm đa số về số dự án nhưng về quy mô vốn đăng ký của
các dự án đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài không cao hơn nhiều so với
hình thức liên doanh. Sự thay đổi này có thể thấy rõ từ năm 1998 cho đến năm 2008
Bảng 6: So sánh hình thức FDI cả nước giữa năm 1998 và 2008
(tính đến thời điểm 31/12/2008)
Đơn vị: %
Hình thức đầu tư
Số dự án Vốn đầu tư
9
Nguyễn Đức Anh - Đầu tư 47D
1998 2008 1998 2008
100% vốn nước ngoài 71.62 77.26 45.60 58.49
Liên doanh 24.72 18.59 42.53 34.44
Hợp đồng hợp tác KD 3.53 2.32 8.79 3.08
Công ty cổ phần - 1.73 - 2.76
Hợp đồng BOT,BT,BTO 0.12 0.09 3.07 1.17
Công ty Mẹ - Con - 0.01 - 0.07
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư- Tổng hợp của sinh viên

Trong 2 năm 1998 và 2008 ta thấy loại hình 100% vốn nước ngoài có tăng
mạnh. Số dự án và vốn đầu tư đều tăng mạnh. từ 71.62% lên tới 77,26% số dự án; từ
45.6% lên tới 58.49% tổng vốn đầu tư FDI cả nước. Việc gia tăng hình thức 100%
vốn nước ngoài này một mặt thể hiện sự tin tưởng của các nhà đầu tư nước ngoài về
môi trường đầu tư tại Việt Nam. Tuy nhiên sự gia tăng hình thức này sẽ là bất lợi với
Việt Nam chúng ta do không có điều kiện học hỏi được những kinh nghiệm trong quá
trình quản lý và làm việc từ các công ty nước ngoài.
Trong khi đó hình thức liên doanh đã giảm đi do 2 nguyên nhân chính. Thứ
nhất là do các nhà đầu tư FDI sau nhiều năm hoạt động đầu tư ở Việt Nam đã có kinh
nghiệm vì thế họ thấy họ đủ tự tin để có thể tự mình quản lý và tiến hành đầu tư tại
Việt Nam. Lý do thứ hai là ở một số nước phát triển thì họ cũng nêu ra nhược điểm ở
các doanh nghiệp Việt Nam là chưa đủ khả năng và trình độ để tiến hành liên doanh
khi bên Việt Nam không đáp ứng được nhu cầu của họ, vì thể hình thức này đang có
xu hướng giảm đi. Ngoài ra trong khoảng 10 năm từ năm 1998 – 2008 thì đã xuất hiện
một số hình thức đầu tư mới như công ty cổ phần, công ty mẹ con. Đây là các hình
thức khá mới mẻ từ Việt Nam và các nước có số dự án FDI theo hình thức công ty cổ
phần chủ yếu là các nước Châu Á như Đài Loan, Malaysia, Nhật Bản,
2.4. Cơ cấ u ĐTNN phân theo đối tác đầu tư :
Trong 20 năm qua đã có 81 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam với
tổng vốn đăng ký trên 83 tỷ đô la Mỹ. Trong đó, các nước Châu Á chiếm 69%, trong
đó khối ASEAN chiếm 19% tổng vốn đăng ký. Các nước châu Âu chiếm 24%, trong
đó EU chiếm 10%. Các nước Châu Mỹ chiếm 5%, riêng Hoa Kỳ chiếm 3,6%. Tuy
nhiên, nếu tính cả số vốn đầu tư từ các chi nhánh tại nước thứ 3 của các nhà đầu tư
Ho a Kỳ thì vốn đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam sẽ đạt con số trên 5.5 tỷ USD, đứng
10
Nguyễn Đức Anh - Đầu tư 47D
vị trí thứ 9 trong tổng số 80 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam, ví dụ
Tập đoàn Intel không đầu tư trực tiếp từ Mỹ vào Việt Nam mà thông qua chi nhánh tại
Hồng Kông. Trong các vị trí đứng đầu về đối tác đầu tư tại Việt Nam chủ yếu là các
nước trong khu vực Châu Á. Đây là những nước không dồi dào về mặt tài nguyên,

mặt khác do giá nhân công ở những nước này cao vì thế đầu tư tại Việt Nam trong các
ngành công nghiệp và dịch vụ để tận dụng nguồn tài nguyên đa dạng, phong phú và
chi phí nhân công rẻ ở nước ta.
II. Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản vào Việt Nam từ năm
1988 – 2008 :
1.Vài nét về quan hệ kinh tế Việt Nam và Nhật Bản :
Ngày 21/9 năm 1973 Việt Nam và Nhật Bản chính thức thiết lập quan hệ
ngoại giao đánh dấu sự tiếp nối các quan hệ giao lưu vốn có từ lâu đời giữa 2
nước. Từ những thế kỷ trước, nhiều thương gia Nhật Bản đã đến buôn bán và
kinh doanh ở Việt Nam. Phố Hiến ở miền Bắc và Hội An ở miền trung là những
địa danh ghi đậm dấu ấm các mối quan hệ giao lưu đó.
Sau khi Việt Nam hoàn toàn thống nhất, mối quan hệ giữa hai nước có cơ
hội phát triển toàn diện cả về ngoại giao, chính trị, kinh tế và các lĩnh vực khác.
Mối quan hệ về kinh tế giữa 2 nước Việt Nam và Nhật Bản chủ yếu là trao đổi
thương mại và viện trợ, đầu tư.
1.1.Về lĩnh vực trao đổi thương mại

:

Năm 1976 Nhật Bản là bạn hàng lớn thứ 2 của Việt Nam sau Liên Xô,
Việt Nam đã xuất sang Nhật khối lượng hàng hóa trị giá 44,5 triệu USD, chiếm
40% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang khu vực 2.
Thời kỳ từ năm 1979 – 1982 do vấn đề Campuchia và bầu không khí
chiến tranh không thuận lợi ở Đông Nam Á, thương mại giữa hai nước giảm từ
267,5 triệu USD năm 1978 xuống còn 128 triệu USD năm 1982. Trong thời kỳ
này Việt Nam nhập khẩu tư Nhật Bản lớn hơn xuất khẩu trở lại. Các mặt hàng
nhập khẩu từ Nhật Bản lớn hơn xuất khẩu. Các mặt hàng nhập khẩu lương thực,
nhiên liệu, vải, khoáng sản, sản phẩm công nghiệp nhe, sản phẩm hóa học và
kim loại. Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản lương thực, thực phẩm, nguyên
liệu (gỗ,cao su), nhiên liệu khoáng sản, hàng hóa đã chế biến.

11
Nguyễn Đức Anh - Đầu tư 47D
Từ năm 1983 đến năm 1986 thương mại giữa 2 nước Việt Nam và Nhật
Bản đã phát triển trở lại. Năm 1986 thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản
tăng lên 272,1 triệu USD. Đặc biệt là khi Liên Xô tan rã, Nhật Bản trở thành
bạn hàng lớn nhất của Việt Nam.
Từ năm 1990 đến nay tổng kim ngạch buôn bán hai chiều có giá trị tăng
lên liên tục giữa các năm. Năm 1990 tổng kim ngạch buôn bán hai chiều trị giá
809 triệu USD, năm 1991 là 871 triệu USD. Đến năm 1995 đạt 2,6 tỷ. Trong
thời gian này, hàng hóa Việt Nam chủ yếu xuất nguyên liệu thô, lương thực,
thực phẩm, khoáng sản và dầu thô là mặt hàng Nhật Bản mua chủ yếu. Phía
Nhật xuất sang Việt Nam chủ yếu là ô tô, xe máy, máy dệt và máy xây dựng.
Sau khi Việt Nam trở thành một thành viên chính thức của tổ chức WTO
thì quan hệ Việt Nam và Nhật Bản đã được cải thiện về mọi mặt, đặc biệt là về
mặt kinh tế.Các công ty, tập đoàn của Nhật Bản, những nguồn vốn đầu tư từ
Nhật Bản vào Việt Nam đã tăng lên rất nhiều. Ngày càng có những hợp động
hợp tác kinh doanh, liên doanh giữa các công ty, tập đoàn bên Nhật Bản với các
doanh nghiệp ở Việt Nam.
1.2. Về viện trợ

:

Trước 1975 mối quan hệ viện trợ giữa Việt Nam và Nhật Bản đã tồn tại.
Nhật Bản đã chính thức viện trợ cho Việt Nam dân chủ cộng hòa. Sau khi Việt
Nam thống nhất, tổng số tiền viện trợ của Nhật Bản trong hai 2 năm 1975 –
1976 là 15 triệu USD. Để tăng cường thúc đẩy buôn bán với lãi suất thấp thoogn
qua các cơ quan hợp tác quốc tế của Nhật Bản, Nhật Bản đã hứa cung cấp cho
Việt Nam một khoản viện trợ không hoàn lại là 16 tỷ yên trong vòng 4 năm và
các khoản cho vay khoảng 20 tỷ yên. Việc Nhật Bản quyết định trì hoãn kế
hoạch tài trợ 14 tỷ yên ( trong đó có 4 tỷ yên viện trợ không hoàn lại và cho vay

10 tỷ yên) vào cuối năm 1978 báo hiệu một thời ký xấu đi trong quan hệ giữa 2
nước
Thời kỳ từ năm 1979 đến năm 1992 là thời kỳ Nhật Bản thực hiện chủ
trương “đông cứng” tài trợ kinh tế nhưng không đình chỉ các cuộc tiếp xúc
ngoại giao và viện trợ nhân đạo được thể hiện Nhật Bản tiếp tục viện trợ cho
Việt Nam một khoản trị giá 130000 USD dưới hình thức viện trợ nhân đạo, sử
12
Nguyễn Đức Anh - Đầu tư 47D
dụng mua hàng của Nhật Bản như mua xe tải, ô tô điện, máy ủi và các loại hàng
hóa khác cần thiết cho việc xây dựng lại nền kinh tế Việt Nam và cho phép một
cách không chính thức các công ty của Nhật Bản buôn bán với Việt Nam. Tới
đầu những nă m1990 cuộc chiến tranh lạnh kết thúc, nền kinh tế Việt Nam từng
bước thoát khỏi khủng hoảng và quan hệ ngoại giao của Việt Nam với nhiều
quốc gia phương Tây và các tổ chức quốc tế được bình thường hóa. Vào năm
1992 chính phủ Nhật Bản quyết định nối lại viện trợ ODA cho Việt Nam với
tổng số 281,2 triệu USD, đưa nước này lên đến vị trí số 1 trong số của quốc gia
tài trợ cho Việt Nam.
Từ năm 1992 đến nay nguồn vốn Nhật Bản viện trợ cho Việt Nam đã tăng
lên.Năm 1993 là 598,9 triệu USD. Sau năm 1995, nguồn FDi của Nhật Bản đổ
vào Việt Nam đã tăng lên nhanh chóng với sự có mặt của các nhà sản xuất Nhật
Bản lớn. Đồng Yên lên giá thúc đẩy các công ty này chuyển dịch việc sản xuất
của mình ra nước ngoài và cải thiện cơ sở hạ tầng với mở rộng nguồn chảy ODA
và FDI vào Việt Nam. Đây được xem như là làn song đầu tư thứ nhất của Nhật
Bản vào Việt Nam. Năm 1996,việc mất giá của đồng Yên và sự đình trệ của nền
kinh tế Nhật Bản đã làm các dự án quy mô lớn tụt lùi, thay vào đó là việc triển
khai các dự án đầu tư quy mô nhỏ.Khoản vốn viện trợ tăng lên giữa các năm cho
đến năm 1999 đạt tới 1120 triệu USD.Nhưng đến năm 2000 đã giảm xuống còn
864 triệu USD. Tuy nhiên ngay sau đấy đã tăng lên liên tục cho các năm tiếp
sau. Đến nay Nhật Bản trở thành nhà tài trợ số một cho Việt Nam.
Như vậy, thương mại và viện trợ là hai lĩnh vực đi tiên phong trong mối

quan hệ kinh tế và là tiền đề để phát triển đầu tư trực tiếp của Nhật bản vào Việt
Nam
2. Thực trạng FDI của Nhật Bản tại Việt Nam
Tính đến thời điểm 19/12/2008 Nhật Bản đã có 1048 dự án FDI tại Việt Nam
với số VĐK đạt 17,184 tỷ USD, trong đó số VTH là 5,22 tỷ USD đưa Nhật Bản trở
thành quốc gia đứng thứ ba về số VĐK và đứng thứ nhất về số VTH.
2.1 Quy mô vốn và dự án FDI Nhật Bản thời kỳ 1988 – 2008 :
Bảng 7: FDI của Nhật Bản từ năm 1991 - 2008
13
Nguyễn Đức Anh - Đầu tư 47D
(tính đến thời điểm 31/12/2008)
đơn vị : triệu USD
Giai đoạn 1988-1990 1991-1995 1996-2000 2001-2005 2006-2008
VĐK của Nhật 10.8 1367.1 1313.4 2624 11869.54
VTH của Nhật 8.98 1191.71 923.12 1963 531.4
Tổng VTH cả nước 512.3 7113.4 13446 13992 23634
VTH của Nhật/ Tổng
VTH cả nước (%)
1.75 16.75 6.96 14.03 2.25
VTH/VĐK của Nhật (%) 83.15 87.17 70.28 74.81 4.5
Số DA 7 111 192 352 443
Quy mô VTH bình quân
1 DA FDI Nhật
1.28 10.74 4.81 5.58 1.2
Quy mô VTH bình quân
1 DA FDI cả nước
2.4 5.2 7.8 3.56 20.18
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Tổng hợp của sinh viên
2.1.1.Quy mô vốn FDI Nhật Bản : được chia làm 5 giai đoạn như sau
Giai đoạn đầu từ năm 1988 – 1990 : đây là giai đoạn thăm dò thị trường của

các nhà đầu tư Nhật Bản. Số dự án cũng như VĐK thời kỳ này là khá thấp. Việt Nam
ban hành luật Đầu tư nước ngoài vào tháng 12/1987 vì thế vào thời điểm này bộ luật
còn nhiều hạn chế và sơ hở. Chính vì thế môi trường đầu tư ở Việt Nam ở giai đoạn
này là không được tốt và còn nhiều rủi ro. Bên cạnh đó, những khó khăn về mặt chính
trị đã ảnh hưởng rất lớn đến việc thu hút vốn FDI vào Việt Nam: vấn đề Campuchia,
vấn đề Mỹ thực hiện lệnh cấm vận đối với Việt Nam. Do đó lượng vốn FDI nói chung
và Nhật Bản nói riêng vào Việt Nam thời kỳ này thấp là điều dễ hiểu. Các nhà đầu tư
khi đầu tư vào Việt Nam chủ yếu quan tâm tới các dự án dễ thu hồi vốn như khai thác
tài nguyên thiên nhiện, dịch vụ.
Giai đoạn thứ hai từ năm 1991 – 1995. Đây là giai đoạn tăng khối lượng vốn
đầu tư, được coi là làn sóng FDI đầu tiên vào Việt Nam. Đây là thời kỳ đánh dấu một
bước ngoặt trong lịch sử quan hệ Việt Nam – Nhật Bản, đồng thời đánh dấu sự kiện
lần đầu tiên Việt Nam trở thành một trong mười nước nhận ODA song phương lớn
14
Nguyễn Đức Anh - Đầu tư 47D
nhất của Nhật Bản. Lượng vốn đăng ký của Nhật Bản trong thời kỳ này tăng mạnh đạt
1367,1 triệu USD, trong khi đó lượng vốn thực hiện đạt 16,75% tổng vốn thực hiện cả
nước. Như vậy so với thời kỳ trước thì đây là một sự bùng nổ về vốn đầu tư trực tiếp
của Nhật Bản vào Việt Nam. Đợt bùng nổ này có được do 2 nguyên nhân chính sau:
Một là, Việt Nam đã đạt được nhiều thành công trong vấn đề quan hệ đối
ngoại với các nước khác. Đặc biệt đáng chú ý là việc Mỹ bỏ lệnh cấm vận Việt
Nam (tháng 2 năm 1994) và việc Việt Nam gia nhập ASEAN vào tháng 7 năm
1995. Hai sự kiện này đã đưa Việt Nam bước vào quá trình quốc tế hóa nền kinh
tế, hội nhập với thế giới và khu vực.
Hai là, Việt Nam đã cải thiện được môi trường đầu tư nói chung ở Việt
Nam. Sau hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, với hai kế hoạch
5 năm từ năm 1986-1995, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa quan trọng. Đặc biệt trong giai đoạn 1991-1995, cấp độ tăng GDP bình
quân qua các năm là 8,2%, trong năm 1995 đạt tới 9,5%. Nông nghiệp hàng năm
tăng 4.5%, công nghiệp 13,5%, kim ngạch xuất khẩu tăng 20%. Sản lượng lương

thực tăng nhanh từ 21,5 triệu tấn (năm 1990) lớn 27,5 triệu tấn (năm 1995).
Ba là, Nhật Bản thay đổi chính sách kinh tế đối ngoại của mình, hướng vào
các nước Châu Á và Đông nam Á. Chính sách của Nhật Bản thay đổi là do xu
hướng của nền kinh tế thế giới và bối cảnh của thế giới chi phối. Giai đoạn này là
giai đoạn quốc tế hóa đời sông kinh tế,buộc các nước phải hội nhập vào nền kinh
tế thế giới, mở rộng thị trường trong nước và đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Giai đoạn thứ ba từ năm 1996 – 2000 : Trong giai đoạn này Châu Á gặp
một cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ. Lượng vốn FDI của Nhật trong thời gian
này cũng bắt đầu có xu hướng giảm tuy nhiên Nhật Bản vẫn là một trong những
quốc gia có lượng vốn đăng ký lớn tại Việt Nam với 923.12 triệu USD. Mặt khác
tuy VĐK có giảm so với thời kỳ trước tuy nhiên tỷ lệ VTH/VĐK của FDI Nhật
Bản vẫn ở mức chấp nhận được với 70,28%. Tuy nhiên cần nhìn nhận một điều,
sự suy giảm mạnh mẽ của các nhà đầu tư Nhật Bản cho thấy họ rất nhạy cảm với
môi trường đầu tư và chưa thực sự tin tưởng vào thị trường Việt Nam. Mặc dù
Thái Lan và Indonexia là hai nước chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ cuộc khủng
15
Nguyễn Đức Anh - Đầu tư 47D
hoảng tài chính tiền tệ nhưng sự suy giảm vốn FDI Nhật Bản ở hai thị trường này
vẫn nhỏ hơn so với ở Việt Nam. Sang năm 2000, FDI Nhật Bản vào Việt Nam có
vẻ khả quan hơn với VĐK là 110,43 triệu USD, ngăn chặn đà thụt lùi về VĐK.
Mức độ đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam đã dần tăng lên, mở ra một bược khởi
đầu trở lại của tiến trình đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam.
Giai đoạn thứ tư từ năm 2001 – 2005 : đây là giai đoạn phục hồi dòng FDI
Nhật Bản. Trong thời kỳ này,tỷ lệ VTH/VĐK của FDI Nhật cũng như tỷ lệ VTH
của FDI Nhật so với VTH của cả nước đều đã tăng lên. Tuy nhiên tỷ trọng VTH
của Nhật/VĐK lại không đều ở các năm. Năm 2001 đạt cao nhất là 86,03% trong
khi các năm khác chỉ dao đọng từ 70,81% đến 75,23%. Vào năm 2003 và 2004,
với Sáng kiến chung Việt – Nhật và Hiệp định về Bảo hộ đầu tư Việt – Nhật có
hiệu lực, đầu tư của Nhật đã có dấu hiệu phục hồi với VTH năm 2004 đạt 669,72
triệu USD, gấp đôi năm 2003. Đây cũng là kết quả của những cố gắng quản cáo

hình ảnh Việt Nam và các hoạt động XTĐT đem lại.
Giai đoạn từ năm 2006 – 2008 : là giai đoạn bùng nổ dòng vốn FDI Nhật
Bản, được coi là làn sóng FDI thứ hai của Nhật Bản vào Việt Nam. Đây là thời
kỳ có số VĐK tăng cao kỷ lục với hơn 11 tỷ USD. Việc bùng nổ này là kết quả
tất yếu của Việt Nam trong quá trình gia nhập nền kinh tế quốc tế với thành quả
là trở thành một thành viên của tổ chức WTO. Tuy nhiên tỷ lệ VTH/VĐK của
Nhật Bản cũng như VTH của Nhật /VTH FDI cả nước lại giảm mạnh. Đây có thể
coi là kết quả của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới trong năm qua, nó đã làm
cho các nhà đầu tư gặp khó khăn trong việc giải ngân dòng vốn của họ, buộc phải
hoãn lại các dự án đầu tư để tránh bị thua lỗ.
2.1.2. Quy mô dự án FDI Nhật Bản:
Các nhà đầu tư Nhật Bản chủ yếu đầu tư tại Việt Nam vào các dự án có có
quy mô vừa và nhỏ. Bên cạnh đó. quy mô VTH bình quân 1 dự án FDI Nhật Bản
thường nhỏ hơn so với mức trung bình.
Giai đoạn đầu là giai đoạn thăm dò thị trường vì thế trong giai đoạn đầu
tiên quy mô dự án FDI Nhật Bản chỉ đạt 1,28 triệu USD. Tuy nhiên bước vào giai
đoạn bùng nổ vốn đầu tư từ năm 1991 – 1995 thì quy mô VTH bình quân dự án
16
Nguyễn Đức Anh - Đầu tư 47D
FDI Nhật cao hơn so với mức trung bình, điều này cũng xảy ra với thời kỳ từ năm
2001 – 2005. Tuy nhiên vào 2 thời kỳ còn lại quy mô dự án FDI Nhật tại Việt
Nam đều nhỏ hơn so với quy mô VTH dự án của FDI cả nước. Đặc biệt là vào
thời kỳ từ năm 2006 – 2008 , quy mô VTH dự án FDI Nhật nhỏ hơn rất nhiều so
với cả nước.
Các nhà đầu tư Nhật Bản chủ yếu đầu tư tại Việt Nam với các dự án quy
mô vừa và nhỏ là do một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất, các dự án quy mô vừa và nhỏ sẽ có độ an toàn cao, ít rủi ro và phù
hợp với tính cách thận trọng của các nhà đầu tư Nhật Bản.
Thứ hai, cơ sở hạ tâng của Việt Nam còn lạc hậu, trình độ quản lý, tay nghề
công nhân còn thấp do đó Việt Nam chưa đủ điều kiện để tiếp nhận các dự án đầu

tư có qui mô lớn của Nhật Bản, thường là các dự án có công nghệ cao hiện đại.
2.2 Cơ cấu vốn FDI Nhật Bản tại Việt Nam:
2.2.1 Cơ cấu vốn FDI Nhật Bản phân theo ngành tại Việt Nam:
Bảng 8: Cơ cấu FDI Nhật Bản phân theo ngành tại Việt Nam
(tính đến thời điểm 31/12//2008)
Đơn vị Công nghiệp Nông – Lâm -
Ngư nghiệp
Dịch vụ Tổng
Số dự án
DA
686 67 295 1048
Tỷ trọng số DA % 65.46 6.39 28.15 100
Vốn đăng ký Tỷ USD 14.71 0.19 2.27 17.17
Tỷ trọng VĐK % 85.61 1.13 13.26 100
Vốn thực hiện Tỷ USD 4.4 0.11 0.71 5.22
Tỷ trọng VTH % 84.01 2.02 13.97 100
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Tổng hợp của sinh viên
Nhật Bản là một nước công nghiệp phát triển hàng đầu trên thế giới, Tuy
nhiên Nhật Bản là một quốc gia nghèo tài nguyên thiên nhiên, trong khi đó có lợi
thế về vốn và công nghệ hiện đại. Vì thế lĩnh vực mà các nhà đầu tư Nhật Bản
thường ưa thích là các lĩnh vực về công nghiệp và xây dựng, đặc biệt là các
ngành công nghiệp nặng.
17
Nguyễn Đức Anh - Đầu tư 47D
Nhìn vào bảng, ta thấy Nhật Bản chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công
nghiệp, tiếp đến là ngành dịch vụ.Nhật Bản là một nước công nghiệp phát triển
hàng đầu trên thế giới, Tuy nhiên Nhật Bản là một quốc gia nghèo tài nguyên
thiên nhiên, trong khi đó có lợi thế về vốn và công nghệ hiện đại. Mặt khác Việt
Nam là nơi có nguồn tài nguyên dồi dào, thêm vào đó chi phí nhân công lại rẻ
mạt. Nhật Bản vì lý do này nên sẽ chủ yếu đầu tư vào những ngành tận dụng

được lợi thế so sánh của Việt Nam. Ngành công nghiệp do đó đương nhiên sẽ là
nơi tập trung chủ yếu của FDI Nhật Bản.
Cơ cấu vốn FDI Nhật Bản tại Việt Nam thực tế có sự thay đổi về lĩnh vực
theo thời gian.
Giai đoạn đầu Nhật Bản tập trung nhiều đến các dự án khai thác tài
nguyên thiên nhiên dịch vụ, chiếm đến hơn 60% tổng FDI của Nhật vào Việt
Nam. Nhật Bản chủ trọng vào việc khai thác tài nguyên thiên nhiên tại những
nước kém phát triển để phục vụ cho hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp.
Giai đoạn từ năm 1991 – 2000 cơ cấu FDI Nhật Bản theo ngành có nhiều
sự thay đổi. Ngành công nghiệp luôn dẫn đầu về số dự án, VĐK cũng như VTH.
Việc Việt Nam ban hành các chính sách ưu đãi theo hướng phát triển sản xuất
vào xuất khảu, cùng với việc cơ sở hạ tầng được cải thiện, trình độ lao động
nâng cao nên các nhà đầu tư Nhật Bản đã đưa ngành công nghiệp làm mũi nhọn
hàng đầu của họ.
Giai đoạn thứ ba từ năm 2001 – 2005 Nhật Bản vẫn chủ yếu tập trung vào
lĩnh vực công nghiệp với 259 dự án và 1,8 tỷ USD VTH. Trong quá trình này
Nhật Bản có nhu cầu chuyển giao các cơ sở sản xuất và kỹ thuật hiện đại cơ khí
hóa. Mặt khác đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp tại Việt Nam nói riêng và
các nước Asean nói chung đã đem lại những hiệu quả tích cực trong việc giải
quyết vấn đề thiếu lao động ở Nhật Bản từ sau giai đoạn ".hát triển thần kỳ".
Sau lĩnh vực công nghiệp, Nhật Bản dành sự quan tâm cho lĩnh vực dịch vụ và
nông – lâm – ngư nghiệp.
Giai đoạn cuối cùng từ năm 2006 – 2008 tuy ngành công nghiệp vẫn đứng
đầu và chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng vốn đăng ký cũng như vốn thực hiện
nhưng số dự án FDI Nhật Bản đang có xu hướng chuyển sang lĩnh vực dịch vụ.
18
Nguyễn Đức Anh - Đầu tư 47D
2.2.1.1. FDI Nhật Bản trong lĩnh vực công nghiệp:
Bảng 9: Cơ cấu FDI Nhật Bản trong lĩnh vực công nghiệp
Chuyên ngành

Số
DA
VĐK
(tỷ USD)
Tỷ trọng
VĐK (%)
VTH
(tỷ USD)
Tỷ trọng
VTH (%)
VTH/
VĐK
CN dầu khí 5 6.29 42.82 1.28 29.16 20.35
CN nặng 440 6.24 42.48 2.23 50.8 35.74
CN nhẹ 187 0.96 6.53 0.21 4.78 21.88
CN thực phẩm 25 0.23 1.56 0.11 2.5 47.83
Xây dựng 29 0.97 6.61 0.56 12.76 57.73
Tổng 686 14.69 100 4.39 100 -
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Tổng hợp của sinh viên
Trong lĩnh vực công nghiệp, ngành công nghiệp nặng dẫn đầu về số dự án
và vốn thực hiện. Tuy nhiên nếu xét về số vốn đăng ký thì ngành CN dầu khí dẫn
đầu với số VĐK đạt 6,29 tỷ USD. Trong đó phải kể đến dự án công ty lọc hóa dầu
Nghi Sơn có tổng VĐK gần 6,2 tỷ USD trong năm 2008. Như vậy có thể thấy
phần lớn các nhà đầu tư Nhật Bản tập trung chủ yếu vào lĩnh vực CN nặng. Đây
là lĩnh vực yêu cầu nguồn lực lớn, các thiết bị và kỹ năng quản lý tiên tiến, hiện đại.
Nhật Bản là một nước có trình độ công nghệ hiện đại, cái họ thiếu ở đây là nguồn lực
lao động. Bên cạnh đó Việt Nam chúng ta lại có nguồn lao động dồi dào, chi phí lao
động thấp. Vì thế khi sang Việt Nam đầu tư, các doanh nghiệp FDI Nhật Bản chú
trọng vào lĩnh vực CN nặng để tận dụng lợi thế so sánh về nguồn lực của Việt Nam
Mặc dù lĩnh vực công nghiệp thực phẩm và xây dựng chiếm số VĐK cũng như

VTH khá thấp chỉ ở mức từ 1,56% đến 12,76% nhưng tỷ lệ VTH/VĐK lại đạt cao,
đứng đầu trong ngành công nghiệp. Trong khi đó thấp nhất lại là ngành CN dầu khí,
cao hơn là CN nhẹ và CN nặng. Trong năm 2008, mặc dù dự án của công ty lọc hóa
dầu Nghi Sơn có VĐK lên tới 6,2 tỷ USD tuy nhiên VTH chỉ đạt 200 triệu USD, điều
này là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á đã làm cho tiến độ thực
hiện dự án chậm lại.
2.2.1.2. FDI Nhật Bản trong lĩnh vực dịch vụ:
Bảng 10: Cơ cấu FDI Nhật Bản trong lĩnh vực dịch vụ
(tính đến thời điểm 31/12/2008)
Chuyên Số VĐK Tỷ trọng VTH Tỷ trọng VTH/
19
Nguyễn Đức Anh - Đầu tư 47D
ngành DA
(triệu USD)
VĐK (%) (triệu USD) VTH (%) VĐK
Dịch vụ khác 203 264.4 11.45 27.96 3.92 10.57
GTVT-Bưu
điện
29 501.8 22.03 179.56 25.17 35.78
Khách sạn-
Du lịch
13 126.08 5.73 83.71 11.73 66.4
Tài chính-
Ngân hàng
5 138 6.2 71.4 10.02 51.74
Văn hóa-Y
tế-Giáo dục
28 129.62 5.73 48.89 6.85 37.4
XD hạ tầng
KCN-KCX

2 141.34 6.17 27.64 3.87 19.55
XD khu đô
thị mới
1 100 4.4 0.45 0.06 0.45
XD văn
phòng-căn hộ
14 876.87 38.3 273.81 38.38 31.23
Tổng 295 2278.15 100 713.44 100 -
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Tổng hợp của sinh viên
Cơ cấu FDI Nhật Bản trong lĩnh vực dịch vụ cũng đã có sự thay đổi so với
những năm trước. Nếu như trước đây các dự án FDI Nhật Bản chủ yếu tập trung
vào lĩnh vực GTVT – Bưu điện và dịch vụ khác thì đến thời điểm này lĩnh vực mà
các nhà đầu tư Nhật Bản ưa thích lại là lĩnh vực xây dựng văn phòng căn hộ.
Ngành GTVT – Bưu điện chỉ đứng thứ 2 về tổng VĐK. Trong những năm gần
đây, hầu hết các nhà đầu tư nước ngoài cho rằng Việt Nam có giá thuê 1 m
2
văn
phòng quá cao. Vì thế, nắm bắt được nhu cầu vì thuê văn phòng, nhà ở ngày càng
cao các nhà đầu tư Nhật Bản đã có sự chuyện hướng sang lĩnh vực này. Bên cạnh
đó, lĩnh vực khách sạn du lịch là lĩnh vực có tỷ lệ VTH/VĐK cao nhất. Đây là
lĩnh vực đang khá hấp dẫn các nhà đầu tư trong thời gian gần đây do Việt Nam
giờ đây đang trở thành một nơi du lịch hấp dẫn với du khách nước ngoài do chi
phí sinh hoạt thấp,cảnh quan đẹp và an ninh tốt. Có thể nhận thấy là trong lĩnh
vực dịch vụ, về VTH cũng như tỷ lệ VTH/VĐK thì đứng đầu là các lĩnh vực bất
động sản.
2.2.1.3

FDI Nhật Bản trong lĩnh vực Nông – Lâm – Ngư nghiệp:
20
Nguyễn Đức Anh - Đầu tư 47D

Bảng 11: Cơ cấu FDI Nhật Bản trong lĩnh vực Nông – Lâm – Ngư nghiệp
Chuyên ngành Số DA
VĐK
(triệu USD)
Tỷ trọng
VĐK (%)
VTH
(triệu USD)
Tỷ trọng
VTH (%)
VTH/
VĐK
Nông – Lâm 55 154.54 79.58 73.08 69.82 47.3
Thủy sản 12 39.66 20.42 31.59 30.18 79.65
Tổng 67 194.2 100 104.67 100 -
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Tổng hợp của sinh viên
Trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp thì ngành chiếm ưu thế là ngành nông
– lâm nghiệp. Đây là ngành có số dự án,VĐK,VTH cao hơn so với ngành thủy
sản. Tuy nhiên về tỷ lệ VTH/VĐK thì ngành thủy sản lại cao hơn với tỷ lệ
79,65%. Ngành thủy sản mặc dù có nhiều lợi thế và tiềm năng phát triển tại Việt
Nam, nhưng số DA,VĐK và VTH thâp hơn và đang có xu hướng giảm là do đây
là một lĩnh vực nhạy cảm của hai nước, đựac biệt là sau sự vụ kiến bán phá giá
tôm của Việt Nam làm cho các nhà đầu tư Nhật Bản đắn đo khi đầu tư vào lĩnh
vực này.
Tuy nhiên nếu xét một cách tổng thể thì ngành nông lâm ngư nghiệp có số
dự án, VĐK và VTH thấp hơn rất nhiều so với 2 ngành trên. Mặt khác trong lĩnh
vực này thì tỷ lệ VTH/VĐK lại cao khi đạt tới 79,65%, ngành nông lâm thấp hơn
đạt 47,3% nhưng nếu so với 2 ngành kể trên thì đây là những tỷ lệ khá cao.
Như vậy, cơ cấu đầu tư FDI Nhật Bản tại Việt Nam chủ yếu tập trung vào
lĩnh vực công nghiệp ( đặc biệt là CN nặng). tiêp đến là lĩnh vực dịch vụ và cuối

cùng là nông – lâm – ngư nghiệp. Giải thích vẫn đề này có thể là do bởi các
nguyên nhân sau:
Thứ nhất, Nhật Bản là một nước có nguồn tài nguyên khan hiếm do vậy mà việc
đi tìm các nguồn tài nguyên để phục vụ cho việc sản xuất là một nhu cầu tất yếu. Việt
Nam là một nước có nguồn tài nguyên phong phú, tuy nhiên bản thân Việt Nam ta lại
không có đủ điều kiện để khai thác một cách hiệu quả các nguồn tài nguyên. Mặt
khác chi phí nhân công của Việt Nam lại rẻ mạt nếu so với các nước trong khu vực.
Vì thế để tận dụng các nhà đầu tư Nhật Bản chủ yếu tập trung vào những ngành công
nghiệp, dịch vụ.
21
Nguyễn Đức Anh - Đầu tư 47D
Thứ hai, rủi ro gặp phải khi đầu tư trong lĩnh vực Nông – Lâm – Ngư nghiệp là
khá lớn khi phải phụ thuộc vào thiên nhiên, mặt khác lợi nhuận thu được từ lĩnh vực
này không cao. Vì thế các doanh nghiệp FDI Nhật Bản không ưa thích lĩnh vực này.
Vì thế FDI của Nhật Bản vào lĩnh vực này đã thấp nay lại đang có xu hướng giảm đi
và chưa có dấu hiệu hồi phục.
Bên cạnh đó, trong cơ cấu theo ngành của FDI Nhật Bản có sự bất hợp lý.
Bảng 12: So sánh cơ cấu FDI của cả nước, FDI của Nhật Bản và FDI
của khu vực Asean
Đơn vị : %
FDI của cả nước
FDI của Nhật
Bản
FDI của khu vực
Asean
Công nghiệp 58,62 85,61 38,45
Nông – Lâm –
Ngư nghiệp
3,2 1,13 7,71
Dịch vụ 38,18 13,26 53,85

Tổng 100 100 100
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Tổng hợp của sinh viên
Ta thấy, FDI cả nước cũng có sự tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công
nghiệp trong đó FDI của khu vực Asean lại ưa thích lĩnh vực dịch vụ hơn. Tuy
nhiên ở hai nguồn FDI này sự chênh lệch giữa ngành công nghiệp, dịch vụ và
nông lâm ngư nghiệp không lớn như FDI của Nhật Bản. Đây được coi là một cơ
cấu đầu tư bất hợp lý và không cân đối trong FDI Nhật Bản.Khi xét tỷ lệ giữa 3
ngành Công nghiệp, Nông – lâm – ngư nghiệp và Dịch vụ thì với FDI của cả
nước có tỷ lệ tương ứng lần lượt là 18 : 1 : 11, FDI của khu vực Asean là 5 : 1 :7.
Trong khi đó với FDI Nhật Bản thì tỷ lệ này lại mất cân đối là 76 : 1 : 12. Như
vậy trong 3 nguồn FDI thì Nhật Bản có sự mất cân đối nhất trong 3 lĩnh vực công
nghiệp, dịch vụ và nông – lâm – ngu nghiệp
Tóm lại, cơ cấu FDI Nhật Bản tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp,
và so với tình trạng FDI nói chung thì FDI Nhật Bản trong lĩnh vực nông lâm ngư
22
Nguyễn Đức Anh - Đầu tư 47D
nghiệp còn thấp. Trong những năm qua, theo báo cáo của Bộ NN và PTNN thì
FDI Nhật Bản đang ngày càng có xu hướng giảm sút vào lĩnh vực nông nghiệp.
2.2.2. Cơ cấu FDI Nhật Bản theo vùng lãnh thổ:
Tính đến thời điểm 19/12/2008 thì FDI Nhật Bản đã xuất hiện khắp 3 miền
Bắc Trung Nam của cả nước.
Bảng 13: Cơ cấu FDI Nhật Bản phân theo vùng kinh tế
Vùng
Số DA
VĐK
(triệu USD)
Tỷ trọng
VĐK (%)
VTH
(triệu USD)

Tỷ trọng
VTH (%)
VTH/
VĐK (%)
Miền núi và trung
du Bắc Bộ
17 241.46 1.41 23.4 0.6 9.7
Đồng bằng
sông Hồng
435 5141.04 30.1 1559.7 39.6 30.34
Duyên hải Bắc
Trung Bộ
15 6861.5 40.15 354.6 9.01 5.2
Duyên hải Nam
Trung Bộ
38 211.3 1.24 60.9 1.55 28.8
Khu vực
Tây Nguyên
18 33.5 0.2 19.7 0.5 58.8
Đông Nam Bộ 506 4477.05 26.2 1883.4 47.84 42.1
Đồng bằng Sông
Cửu Long
19 122.5 0.7 35.5 0.9 28.9
Tổng 1048 17088.35 100 3937.2 100 -
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Tổng hợp của sinh viên
Nhìn bảng ta có thể thấy trong 7 vùng kinh tế trọng điểm của cả nước thì
vùng Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ đứng đầu về số dự án và VTH FDI
Nhật Bản, trong đó đứng đầu về VĐK lại là vùng duyên hải Bắc Trung Bộ.
Trong vùng đồng bằng sông Hồng đứng đầu là thành phố Hà Nội với tổng
VĐK đạt 2.46 tỷ USD và 245 dự án. Trong vùng Đông Nam Bộ đứng đầu là TP

Hồ Chí Minh với 1.98 tỷ USD và 300 dự án. Vùng duyên hải Bắc Trung Bộ tuy
chỉ có 15 dự án nhưng số VĐK ở đây lại cao,tuy nhiên xét về mặt bằng chung thì
23
Nguyễn Đức Anh - Đầu tư 47D
vùng duyên hải Bắc Trung Bộ không phải là vùng kinh tế hấp dẫn với các nhà
đầu tư FDI Nhật Bản vì trong 6,86 tỷ USD VĐK thì riêng thành phố Thanh Hóa
đã chiếm 6,83 tỷ USD với dự án lọc hóa dầu Nghi Sơn. Vùng kinh tế hấp dẫn
nhất đối với các nhà đầu tư Nhật Bản là vùng đồng bằng sông Hồng và vùng
Đông Nam Bộm không những đứng đầu về VĐK mà tỷ trọng VTH cũng chiếm
một tỷ trọng cao lần lượt là 39.6% và 47.84%. Ngoài 3 vùng kinh tế kể trên thì
các vùng kinh tế khác chỉ có lượng VĐK và VTH khá thấp. Điều này cho thấy sự
mất cân đối trong cơ cấu vùng của nguồn FDI Nhật Bản. Thấp nhất là khu vực
Tây Nguyên, khu vực thích hợp cho các lĩnh vực nông – lâm nghiệp, lĩnh vực mà
các nhà FDI Nhật Bản không ưa thích vì thế vốn FDI Nhật Bản thu hút được ở
khu vực này là thấp nhất. trong 7 vùng kinh tế trọng điểm.
Bảng 14: So sánh cơ cấu FDI của Nhật Bản theo 3 miền
trong 3 giai đoạn từ năm 1996 - 2008
Địa
phương
Giai đoạn Miền Bắc Miền Trung Miền Nam Tổng
Số DA
1996-00 74 7 111 192
2001-05 160 10 182 352
2006-08 196 15 232 443
Tỷ
trọng
VĐK
(%)
1996-00 42.8 2.3 54.9 100
2001-05 56.2 12.2 31.6 100

2006-08 51.3 16.4 32.3 100
Tỷ
trọng
VTH
1996-00 47.84 2.3 49.86 100
2001-05 47.02 12.48 40.5 100
2006-08 48.3 14.3 37.4 100
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Tổng hợp của sinh viên
Vốn FDI Nhật Bản cũng đã sự chuyển biến khi ngày càng có nhiều tỉnh
thành trong cả nước có sự góp mặt của FDI Nhật Bản. Sự mở rộng địa bàn đầu tư
của FDI Nhật Bản được thể hiện trong năm 1996 chỉ có 24 tình thành có vốn FDI
Nhật Bản thì cho đến năm 2008 đã có 42 tình thành có sự góp mặt của FDI Nhật
Bản với số dự án qua các thời kỳ cũng đã có sự tăng lên. Các tỉnh miền Bắc và
24
Nguyễn Đức Anh - Đầu tư 47D
miền Nam với các tỉnh thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai,
vẫn chiếm ưu thế so với các khu vực miền Trung. Nhưng có thể thấy qua các năm
thì các tỉnh miền Trung đã có số dự án, VĐK và VTH đang trong chiều hướng
tăng lên.Điều này chứng tỏ nhiều thành phố đã có sự phát triển kinh tế, có chính
sách thu hút FDI đúng đắn, lôi cuốn được các nhà đầu tư Nhật Bản. Điều này
hoàn toàn có lợi cho Việt Nam trong việc giảm khoảng cách về trình độ phát triển
kinh tế giữa các vùng miền trong cả nước.
Tóm lại, cơ cấu đầu tư theo lãnh thổ của FDI Nhật Bản tập trung chủ yếu
vào những địa phương có cơ sở hạ tầng hiện đại, kinh tế phát triển như TP Hồ
Chí Minh, Hà Nội, Trong khi đó các tỉnh miền núi và miền Trung dù đã có
những dự án FDI Nhật Bản nhưng chưa cao so với cả nước. Tuy nhiên qua thời
gian thì vốn FDI cũng đã có những thay đổi theo vùng lãnh thổ theo hướng mở
rộng địa bàn đầu tư ra cả nước và từng bước phù hợp với cơ cấu đầu tư, với nhu
cầu xây dựng và phát triển kinh tế trong những năm qua tại Việt Nam.
2.2.3. Cơ cấu vốn đầu tư theo hình thức đầu tư


:

Nhật Bản tham gia đầu tư vào Việt Nam dưới 3 hình thức: xí nghiệp liên
doanh, công ty 100% vốn nước ngoài và hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Thời gian đầu tiên, hình thức liên doanh được Nhật Bản ưa chuộng nhất bởi vì
các nhà đầu tư Nhật Bản muốn phía Việt Nam cùng chia sẻ rủi ro với họ nếu có.
Liên doanh với một đối tác bản địa, các nhà đầu tư sẽ yên tâm và mạnh dạn hơn
trong kinh doanh vì họ có một người bạn đồng hành được nhà nước bảo trợ( hầu
hết bên đối tác liên doanh của Việt Nam là các doanh nghiệp của nhà nước). Hình
thức này cũng cho phép Nhật Bản có khả năng thuận lợi để mở rộng phạm vi và
lĩnh vực kinh doanh khi họ đã hiểu rõ về thị trường Việt Nam.
Hình thức liên doanh giữa Nhật Bản và Việt Nam chủ yếu liên quan tới các
dự án chế biến nông – lâm nghiệp, công nghiệp nhẹ, dịch vụ, sản xuất xe máy …
Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh chỉ chiếm một phần khá nhỏ trong
tổng vốn đầu tư của Nhật Bản và chủ yếu tập trung trong lĩnh vực thăm dò, khai
thác dầu khí.
25

×