Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Triết học duy vật nhân bản phoiơbắc và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học mác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (309.73 KB, 19 trang )

SVTH: Phan Thanh Trí Tâm GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

NHÓM 9– ĐÊM 3 – KHÓA 22 Trang i

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
VIỆN NGHIÊN CỨU SAU ĐẠI HỌC







BÀI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI 11:

“Triết học duy vật nhân bản Phoiơbắc và vai
trò của nó đối với sự ra đời của triết học
Mác”

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
SVTH: Phan Thanh Trí Tâm
Lớp : Đêm 3
Nhóm: 9
Khóa: 22



TPHCM, tháng 12 năm 2012


SVTH: Phan Thanh Trí Tâm GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

NHÓM 9– ĐÊM 3 – KHÓA 22 Trang ii


MỤC LỤC
TRIẾT HỌC DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC VÀ VAI TRÒ
CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC


CHƯƠNG I: NỘI DUNG CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN
PHOIƠBẮC 1

1.1 Vài nét sơ lược về Phoiơbắc 1

1.2 Nội dung cơ bản triết học Phoiơbắc 1

1.2.1. Quan niệm về giới tự nhiên và con người 2

1.2.2. Quan niệm về nhận thức 5

1.2.3 Quan điểm về tôn giáo 6

CHƯƠNG II : NHỮNG GIÁ TRỊ,HẠN CHẾ CỦA CHỦ NGHĨA
DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC VÀ VAI TRÒ ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI
CHỦ NGHĨA MAC 11

2.1 Những giá trị và hạn chế của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc . 11

2.1.1Những giá trị 11


2.1.2Những hạ n chế 11

2.2.Vai trò của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc đến sự ra đời chủ
nghĩa Mác 13

KẾT LUẬN 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO 15


SVTH: Phan Thanh Trí Tâm GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

NHÓM 9– ĐÊM 3 – KHÓA 22 Trang iii

LỜI MỞ ĐẦU
Bất cứ khoa học nào cũng vì con người, hướng tới cuộc sống con người. Triết
học là một trong những hình thái ý thức xã hội, là khoa học về những quy luật
chung nhất của tự nhiên, xã hội loài người và tư duy. Do đó, con người là đối
tượng nghiên cứu của triết học trong tính phổ quát.
Lutvich Phoiơbắc(1804-1872) với tham vọng xây dựng một triết học thoát li khỏi
tính tư biện, Phoiơbắc xem con người là đối tượng nghiên cứu chủ yếu. Ông xem
triết học của mình như sự khắc phục học thuyết của Hegel và các bậc tiền bối
khác. Nếu như Hegel khách quan hoá lý tính, bản thể luận hoá tư duy, tách khỏi
họat động cảm tính và những nhu cầu của họ, thì triết học mới của Phoiơbắc xuất
phát từ con người và chỉ có con người mới là chủ thể hiện thực của lý
tính.Phoiơbắc viết: “Phương pháp của tôi ở chỗ nào? Ở chỗ thông qua con người
đưa tất cả những cái siêu nhiên về tự nhiên và thông qua tự nhiên đưa những cái
siêu nhiên về con người…”
Chính vì vậy tôi thực hiện bài báo cáo này với 3 mục đích
Thứ nhất là nêu lên một cách cơ bản có hệ thống về nội dung chủ nghĩa duy

vật nhân bản Phoiơbắc
Thứ hai là khái quát về những giá trị và hạn chế của chủ nghĩa duy vật nhân
bản Phoiơbắc
Cuối cùng là vai trò của chủ nghĩa Phoiơbắc đến sự ra đời của triết học Mac









SVTH: Phan Thanh Trí Tâm GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

NHÓM 9– ĐÊM 3 – KHÓA 22 Trang 1

CHƯƠNG I: NỘI DUNG CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN
PHOIƠBẮC
1.1 Vài nét sơ lược về Phoiơbắc
Lutvích Phoiơbắc (1804-1872) - đại biểu cuối cùng của triết học cổ điển
Đức, sự kết thúc đầy vinh quang của nó, nhà cải cách kiên cường của nền triết
học Đức - nhà duy vật và khai sáng. L.Phoiơbắc sinh trưởng trong một gia đình
trí thức có tên tuổi. Người cha là một luật sư, muốn con trở thành người hữu ích
cho chế độ đương thời, vì thế đã khuyên Phoiơbắc chọn một nghề có khả năng
thành đạt trong cuộc sống. Năm 1823 với mục đích nghiên cứu tôn giáo,
Phoiơbắc vào học tại khoa thần học của trường đại học Heidelberg, nhưng sau
một năm lại rời khoa thần học và chuyển đến Berlin, nơi Hegel đang giảng triết
học. Chẳng mấy chốc Phoiơbắc trở thành người học trò nghiêm túc của Hegel.
Năm 1928 Phoiơbắc gởi cho Hegel bản luận án của mình mang tên “ Về một tính

đơn nhất, phổ biến và vô hạn” trong đó ông nói thẳng tâm nguyện triển khai tiếp
tục chủ nghĩa duy tâm khách quan. Năm 1829 Phoiơbắc lúc đó 25 tuổi bắt đầu sự
nghiệp giảng dạy của mình tại trường đại học Erlangen. Tại đây Phoiơbắc trình
bày logic học và siêu hình học, đồng thời nhen nhóm tư tưởng nhân bản mà về
sau trở thành nội dung chủ yếu của chủ nghĩa duy vật đặc trưng - chủ nghĩa duy
vật nhân bản với khái niệm trung tâm là tình yêu. Năm 1841 Phoiơbắc cho ra mắt
tác phẩm chính “Bản chất đạo Cơ đốc”, ấn tượng mà nó đem lại thật to lớn.
Những năm tiếp theo ông viết “Luận cương khởi đầu về cái cách triết học”
(1842), “Các luận điểm triết học cơ bản của tương lai”(1843), Phoiơbắc đứng bên
lề của diễn biến cách mạng 1848 tỏ ra là người thu động về chính trị mặc dù hoan
nghênh tinh thần dân chủ tư sản của cuộc cách mạng đó. Ông mất năm 1872
1.2 Nội dung cơ bản triết học Phoiơbắc
Phoiơbắc cho rằng ông có sứ mạng phải xây dựng nền triết học mới xuất phát
từ quan điểm coi triết học mới phải là triết học về con người, mang lại cho con
người sự hạnh phúc thật sự trên trần gian. Chính vì vậy Phoiơbắc xem con người
SVTH: Phan Thanh Trí Tâm GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

NHÓM 9– ĐÊM 3 – KHÓA 22 Trang 2

là đối tượng nghiên cứu của triết học. Chính vì việc cho rằng triết học xưa nay
nghiên cứu về vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại, mà mối quan hệ này lại
thuộc về bản chất con người; bởi chỉ con người đang sống đang hiện hữu tồn tại
mới có tư duy. Chính vì vậy muốn giải quyết đúng đắn được mối quan hệ giữa tư
duy và tồn tại thì phải xuất phát từ con người. Do đó con người là đối tượng của
triết học mới mà phoiơbắc xây dựng nên- triết học duy vật nhân bản. Nội dung
của nó bao gồm những quan niệm chủ yếu sau:
1.2.1. Quan niệm về giới tự nhiên và con người
Phoiơbắc quan tâm đến các mặt tự nhiên và sinh học của con người. Về mặt tự
nhiên, con người được Phoiơbắc xem xét từ hai góc độ. Trước hết, con người
không phải là sản phẩm của Thượng đế như các nhà thần học quan niệm, nó cũng

không phải là sự tha hoá của ý niệm tuyệt đối như Hegel nói, mà là sản phẩm của
giới tự nhiên, ông viết: “Giới tự nhiên là ánh sáng, điện từ, từ tính, không khí,
nước, lửa, đất, động vật, thực vật, con người… Bởi vì con người là thực thể hoạt
động thiếu tự chủ và vô thức”. Như vậy sự phát sinh và tồn tại của con người
cũng giống như của các hiện tượng tự nhiên khác, chỉ có điều khác là: con người
là sản phẩm tiến hoá cao nhất của giới tự nhiên, là một sinh vật bậc cao có tính
vượt trội so với các loài động vật khác ở đời sống tinh thần của nó: “Sự khác biệt
cơ bản giữa loài người và loài vật là gì? Câu trả lời chung rất đơn giản là: Đó là
sự khác nhau trong ý thức đúng với nghĩa chân chính của từ này… Bởi ý thức
theo nghĩa chính xác chỉ có ở chỗ, khi chủ thể có khả năng nhận thức được loài
của mình, bản chất của mình. Động vật nhận thức mình như một cá thể, nó chỉ
làm chủ được quá trình tự cảm giác mà thôi, chứ không phải như một loài… Bởi
vậy, động vật sống đơn giản một mình còn con người sống có bạn. Đời sống nội
tâm của con vật hoà đồng với thế giới bên ngoài, còn con người sống với cả hai
chiều: nội tâm và thế giới bên ngoài. Đời sống nội tâm của con người liên quan
mật thiết với loài và bản chất của loài. Con người suy nghĩ, bàn luận và nói với
chính mình”.
Do là sản phẩm của tự nhiên, con người không tách khỏi tự nhiên, vì thế tinh
thần cũng không cần đối lập với tự nhiên như thực tiễn đặt trên nó. “Triết học
SVTH: Phan Thanh Trí Tâm GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

NHÓM 9– ĐÊM 3 – KHÓA 22 Trang 3

mới - Phoiơbắc viết - biến con người kể cả tự nhiên như cơ sở hạ tầng của con
người, thành đối tượng duy nhất, toàn diện và cao nhất của triết học, biến thuyết
nhân bản, kể cả sinh lý học, thành một khoa học toàn diện”. Như vậy trong khi
xuất phát từ con người Phoiơbắc không tách rời và đối lập con người với tự
nhiên. Theo ông, để vận dụng đúng đắn nguyên lý nhân bản chúng ta cần nhất
thiết phải thừa nhận rằng vật chất là thực thể duy nhất, là chân lý, tồn tại bên
ngoài con người và sinh ra con người. Cơ sở của sự thống nhất của con người là

tính vật chất, tức cơ thể của nó.
Về mặt sinh học, ông cho rằng mỗi con người là một cá thể sinh học đặc biệt
có lý trí, có ý chí, có trái tim… của riêng mình. Từ đó, con người có thể nhận
thức, khát vọng, đam mê, rung động cảm xúc. Phoiơbắc viết: “Trong ý chí, tư
duy và tình cảm hàm chứa bản chất tối cao, tuyệt đối của con người và mục đích
tồn tại của nó. Con người sống để nhận thức, để yêu và để muốn. Nhưng mục
đích của lý trí là gì? lý trí là lý trí; của tình yêu là gì? tình yêu; của ý chí là gì? là
tự do ý chí. Chúng ta nhận thức để nhận thức, yêu để yêu, muốn để muốn, nghĩa
là muốn tự do… Cái tồn tại vì chính mình là cái hoàn toàn đúng đắn”. Con người
là thực, chứ không phải con người trong ý tưởng, con người trừu tượng. Do đó,
mỗi con người đều có một năng lực to lớn. Và năng lực này bắt nguồn từ trong cá
tính cá nhân của mỗi con người, chứ không phải do Thượng đế nào tạo ra cả.
Ngoài ra, do sống trong một cộng đồng, nên mỗi con người đều có những ràng
buộc với những người khác. Do tiếp xúc với xã hội mà “từ một tồn tại thuần tuý
vật lý, con người trở thành một tồn tại chính trị, nói chung trở thành một cái gì đó
khác với tự nhiên, tồn tại đó chỉ quan tâm đến bản thân mình”. Mỗi cảm xúc của
một người không phải là của riêng người đó, mà là trong sự hoà hợp với cảm xúc
với mọi người trong cộng đồng. Từ đó, tình yêu cũng tiềm tàng trong mỗi một
con người. Và nó xuất phát từ bản chất cộng đồng của con người, chứ không phải
từ Thượng đế. Đây chính là một ý trong quan điểm vô thần của Phoiơbắc.
Về tính ích kỷ, ông cho rằng tính ích kỷ không chỉ mang tính cá nhân như các
nhà tư tưởng, các nhà đạo đức học trước ông (đặc biệt là những người theo chủ
nghĩa duy hạnh) tuyên bố, mà nó còn mang tính xã hội. Phoiơbắc viết: “Không
SVTH: Phan Thanh Trí Tâm GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

NHÓM 9– ĐÊM 3 – KHÓA 22 Trang 4

chỉ có một tính ích kỷ đơn độc hay là tính ích kỷ cá nhân mà còn có một tính ích
kỷ xã hội, một tính ích kỷ của gia đình, của tập thể, của cộng đồng, một tính ích
kỷ yêu nước. Tất nhiên, tính ích kỷ là nguyên nhân của mọi điều ác, nhưng cũng

là nguyên nhân của mọi điều thiện, bởi vì không cái gì khác ngoài tính ích kỷ đã
tạo nên sự chiếm hữu ruộng đất, nên thương nghiệp, cũng vì tính ích kỷ mà có
nghệ thuật, có khoa học… Tính ích kỷ ngăn cấm sự trộm cướp, dối trá, làm hạn
chế sự ngoại tình”.
Phoiơbắc cũng cho rằng, tỉnh yêu giữa con người với nhau vừa là phương tiện,
vừa là mục đích của sự hoà hợp xã hội. Ngoài ra, nó còn là động lực của tiến bộ
xã hội. Ông nói: “Chúng ta không thể là con người nếu không biết yêu, và một
đứa trẻ trở thành người lớn khi nó đã biết yêu; tình yêu phụ nữ là tình yêu phổ
quát, ai không yêu phụ nữ người đó không yêu con người. Tuy nhiên trong “biển
trời” mênh mông của tình yêu thì tình yêu của người đàn ông dành cho người
phụ nữ là tình yêu đích thực”. Với ông, “con người và tình yêu chỉ là một
Phoiơbắc công nhận một cách dứt khoát rằng, tồn tại là chủ thể, tư duy là
thuộc tính, ý thức là sản phẩm của bộ óc con người, Phoiơbắc đi đến việc tìm
hiểu sâu hơn bản chất tự nhiên - sinh học của con người. “Bản chất chung của
con người là gì? Những nhân tính cơ bản trong con người là gì? Đó là lý tính, ý
chí và trái tim. Con người hoàn thiện có năng lực tư duy, sức mạnh ý chí và
nguồn lực tình cảm. Năng lực tư duy chính là ánh sáng của nhận thức, sức mạnh
của ý chí chính là năng lượng của tính cách, nguồn lực tình cảm chính là tình
yêu… Trong ý chí, tư duy và tình cảm luôn chứa đựng bản chất tối cao, tuyệt đối
của con người và mục đích tồn tại của nó… Con người tồn tại để nhận thức, yêu
thương và mong muốn. Nhưng mục đích của lý tính, của ý chí, của tình yêu là
gì? Là để làm cho con người trở thành người tự do”. Đoạn trích này là một văn
bản điển hình thuộc Chương I với nhan đề “Bản chất chung của con người” trong
tác phẩm “Bản chất Kitô giáo”, do Phoiơbắc viết vào năm 1841. Qua những lời
lẽ đó, nhà triết học cổ điển Đức muốn chứng minh rằng, bản chất chung của con
người là tổng hoà mọi khát vọng chính trị, mọi năng lực nhận thức và nhu cầu tự
nhiên - sinh học đã trầm tích trong quá trình phát triển lịch sử lâu dài của nó.
SVTH: Phan Thanh Trí Tâm GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

NHÓM 9– ĐÊM 3 – KHÓA 22 Trang 5



1.2.2. Quan niệm về nhận thức
Phoiơbắc cho rằng, giới tự nhiên và con người chứ không phải lý tính logic trừu
tượng hay Thượng đế là khách thể của nhận thức. Chủ thể nhận thức cũng không
phải là lý tính logic trừu tượng mà là con người sống động, đang tồn tại trong
thực tế, có cảm giác, và có lý trí. Cảm tính trực quan là nguồn gốc của tư duy lý
luận, còn tư duy lý luận xử lý tài liệu cảm tính thu được để khám phá ra chân lý.
Chân lý là sự phù hợp giữa tư tưởng trong chủ thể với đối tượng được tư tưởng -
đó là khách thể. Nhờ vào năng lực của cảm giác và lý trí, con người có khả năng
nhận thức đầy đủ giới tự nhiên. Ông cho rằng thế giới hiện thực là thực tiễn được
tri giác, do đó chỉ nhờ có trực quan cảm tính mới có thể nhận thức đươc nó. Khôi
phục và nâng cao vai trò cảm giác, trực quan cảm tính là nhiệm vụ của “triết học
mới”. “Lập trường khởi đầu của triết học cũ như sau: tôi - cái trừu tượng, thực
thể tư duy; thể xác không có quan hệ với bản chất của tôi, ngược lại triết học mới
xuất phát từ luận điểm: tôi - thực thể cảm tính thực sự; thể xác đi vào bản chất
của tôi; thể xác trong tính hoàn hảo của mình là cái tôi của tôi, là bản chất của
tôi”.
Nhưng quá trình nhân thức này là một quá trình lâu dài, phải thông qua nhiều cá
nhân, và nhiều thế hệ khác nhau. Ông tin nếu một người không thể nhận thức
được thế giới, thì mọi thế hệ nối tiếp sau đó có thể nhận thức được thế giới khách
quan vô tận. Phoiơbắc chống lại sự phê phán bất khả tri đối vối tri giác cảm tính,
ông khẳng định rằng tri giác do liên hệ trực tiếp với các sự vật nên không đánh
lừa chúng ta. Nếu như hoài nghi năng lực trực quan thì có nghĩa là hoài nghi tính
chân lý của hiểu biết chúng ta về thế giới. Nếu như đặt ra ranh giới của nhận
thức, thì có nghĩa là hạn chế nhận thức. “Lịch sử nhận thức đã cho thấy, ranh giới
của nhận thức thường xuyên được mở rộng, lý tính con người trong sự phát triển
của mình có khả năng mở ra cho chúng ta những bí mật sâu kín của tự nhiên.
Lịch sử nhân loại là sự chiến thắng thường xuyên trước nhận thức bị hạn chế bởi
hoàn cảnh. Ở con người có bao nhiêu cơ quan cảm giác thì có bấy nhiêu sự cần

SVTH: Phan Thanh Trí Tâm GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

NHÓM 9– ĐÊM 3 – KHÓA 22 Trang 6

thiết để nhận biết trong tính toàn vẹn của nó”. Ông kết luận: “Cái gì chúng ta còn
chưa nhận thức được, con cháu chúng ta sẽ nhận thức được”.
Ông phủ nhận về nguyên tắc sự tồn tại của khách thể không cảm giác được.
Tri giác cảm tính, xét về bản chất, là có tính trực tiếp, nhưng đồng thời có thể trở
thành gián tiếp, nghĩa là đem đến bằng chứng gián tiếp của cái gì mà chúng ta
chưa nhìn thấy, nghe thấy, ngửi thấy. Ông cho rằng: “Như vậy không những cái
bên ngoài, mà cả cái bên trong, không những thể xác mà cả tinh thần, không
những sự vật mà cả tôi cũng là đối tượng của cảm giác, nếu không trực tiếp thì
gián tiếp, nếu không bằng những cảm giác bình thường, thô thiển, thì bằng những
cảm giác tinh tế, nếu không bằng đôi mắt của nhà giải phẫu và nhà hoá học, thì
bằng đôi mắt của nhà triết học, do đó chủ nghĩa kinh nghiệm hoàn toàn đúng đắn,
hợp qui luật khi xem xét nguồn gốc của ý niệm chúng ta trong cảm giác”.
1.2.3 Quan điểm về tôn giáo
Triết học tôn giáo là phần chiếm vị trí chủ đạo trong hệ thống triết học của
Phoiơbắc. Trong cuộc đời hoạt động khoa học của mình, ông đã dành phần lớn
thời gian cho việc nghiên cứu và phê phán tôn giáo. Phoiơbắc viết: “Tư tưởng
đầu tiên của tôi là Thượng đế, thứ hai - lý tính, thứ ba và cuối cùng là con
người”. Điều đó cũng đã được chứng thực bằng việc ra đời của các tác phẩm nổi
tiếng của ông về đề tài tôn giáo: Bàn về cái chết và sự bất tử của linh hồn (1830);
Bản chất của Kitô giáo (1841); Bản chất của tôn giáo (1845). Có thể nói, tư
tưởng cơ bản bao quát toàn bộ triết học tôn giáo của Phoiơbắc là chủ nghĩa vô
thần được xây dựng trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa duy vật nhân bản.
Phoiơbắc cho rằng tôn giáo không đơn giản là những ảo tưởng phi lý, hoang
đường, mà còn là những mơ ước, khát vọng đời thường của con người. Ông tin
tôn giáo chỉ là sự tha hoá bản chất của con người. Phoiơbắc cho rằng yếu tố quan
trọng hàng đầu tạo tiền đề cho sự xuất hiện tôn giáo đó là trạng thái tâm lý của

con người. Sự bất lực, sợ hãi, đau khổ, khó khăn triền miên, cùng với niềm mơ
ước có thể vươn lên trong cuộc sống đầy bất hạnh, bế tắc của con người đã sản
sinh ra các tôn giáo. Ông viết: “Thượng đế không phải là thực thể sinh lý hay
thực thể vũ trụ mà là thực thể tâm lý”. Chính sự xúc cảm mạnh, sự chiêm nghiệm
SVTH: Phan Thanh Trí Tâm GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

NHÓM 9– ĐÊM 3 – KHÓA 22 Trang 7

hay trạng thái đau khổ của con người là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo. “Tôn
giáo thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa con người và loài vật, ở loài vật không có
tôn giáo… Sự khác biệt cơ bản giữa loài người và loài vật là gì? Câu trả lời
chung rất đơn giản là: đó là sự khác nhau trong ý thức đúng với nghĩa chân chính
của từ này… Bởi ý thức theo nghĩa chính xác chỉ có ở chỗ, khi chủ thể có khả
năng nhận thức được loài của mình, bản chất của mình. Động vật nhận biết mình
như một cá thể, bởi vậy nó chỉ làm chủ được quá trình tự cảm giác mà thôi chứ
không phải như một loài… Động vật sống đơn giản một mình, còn con người
sống có bầu có bạn. Đời sống nội tâm của con vật hoà đồng với bên ngoài, còn
con người sống với cả hai chiều: nội tâm và bên ngoài. Đời sống nội tâm của con
người liên quan mật thiết với loài và bản chất của nó. Con người suy nghĩ, bàn
luận và nói với chính mình… Bản chất của con người trong sự khác biệt với
động vật tạo nên nền tảng và đối tượng của tôn giáo”. Từ đó, Phoiơbắc cho rằng
yếu tố quan trọng hàng đầu tạo tiền để cho sự xuất hiện của tôn giáo là yếu tố
tâm lý.
Nhưng sự chiêm nghiệm hay trạng thái đau khổ, trạng thái xúc cảm không
phải là hiện tượng có tính chủ quan như chủ nghĩa duy tâm chủ quan quan niệm,
mà chúng có tính khách quan, nghĩa là gắn liền với các hiện tượng tự nhiên và
đời sống xã hội. Phoiơbắc viết “Tôn giáo là giấc mơ của tinh thần con người
nhưng trong giấc mơ đó chúng ta không phải ở trên bầu trời mà ở trên mặt đất
trong vương quốc của hiện thực, chúng ta nhìn thấy các đối tượng của hiện thực
không phải trong thế giới thực tế của tính tất yếu mà là trong thế giới say mê của

trí tưởng tượng và sự kỳ quặc. Nhiệm vụ của tôi là bóc trần bản chất đích thực
của tôn giáo và triết học tư biện hay thần học, chuyển thế giới nội tâm ra thế giới
bên ngoài, nghĩa là biến đối tượng tưởng tượng thành đối tượng hiện thực”. Trên
tinh thần như vậy, ông phê phán các quan điểm cho rằng, tôn giáo là hiện tượng
có tính ngẫu nhiên hoặc có tính bẩm sinh.
Từ chỗ phân tích một cách toàn diện về nguồn gốc phát sinh của tôn giáo,
Phoiơbắc có cơ sở khoa học để đi đến kết luận: “Bản chất thần thánh không là cái
gì khác như là bản chất con người, bản chất đó được giải phóng khỏi những giới
SVTH: Phan Thanh Trí Tâm GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

NHÓM 9– ĐÊM 3 – KHÓA 22 Trang 8

hạn cá nhân, được khách quan hoá, được nhìn nhận như một bản chất độc lập xa
lạ. Bởi vậy, mọi sự xác định về thần thánh có liên quan đến việc xác định bản
chất con người”. và “không phải Thượng đế đã sáng tạo nên con người theo hình
đáng của mình như đã miêu tả trong Kinh thánh, mà chính con người đã sáng tạo
nên Thượng đế theo hình dáng của mình… mọi Thượng đế đều là tồn tại và được
sáng tạo nên bằng tư tưởng tượng… chính sức mạnh của tư tưởng tượng đã
hướng vào những tính chất cơ bản của con người. Con người u sầu, ốm yếu phản
ánh tâm trạng của mình trong hình ảnh một Thượng đế tương tư, con người vui
vẻ thì ngược lại, họ miêu tả Thượng đế với bộ mặt tươi tỉnh, sáng ngời. Tính đa
dạng của con người quy định tính đa dạng của Thượng đế”. Như vậy, có thể nói
một cách ngắn gọn rằng, Phoiơbắc đã truy tìm bản chất của tôn giáo trong bản
chất của con người, ông viết. “Bản chất thần thánh không là cái gì khác như là
bản chất con người, bản chất đó đã được gột rửa, được giải phóng khỏi những
giới hạn cá nhân, nghĩa là khỏi những con người vật lý hiện thực, được khách
quan hoá, được nhìn nhận như một bản chất độc lập xa lạ. Bởi vậy, mọi sự xác
đinh về bản chất thần thánh đều có liên quan đến việc xác định bản chất con
người. Ông kết luận Thượng đế thì chỉ là tập hợp những giá trị, mơ ước, khát
vọng mà con người muốn đạt được. Thượng đế chỉ là sự thần thánh hoá từ nhân

cách cá nhân. Theo Phoiơbắc, không phải Thượng đế sinh ra con người mà chính
con người đã sinh ra Thượng đế. Đây là một tư tưởng nhân bản của ông.
Dựa trên những khảo cứu lịch sử hiện thực của nhân loại, Phoiơbắc cũng thấy
rằng do niềm tin có tính đảng nên trong lịch sử thường diễn ra cuộc đấu tranh
giữa những người theo tôn giáo và những người dị giáo, cuộc đấu tranh đó diễn
ra một cách quyết liệt, không khoan nhượng và có khi phải trả bằng máu: “Người
Islam giáo tiêu diệt những kẻ dị giáo bằng lửa và thanh kiếm, người Kitô giáo
cũng tiêu diệt những kẻ dị giáo của mình bằng ngọn lửa”.
Ông còn chỉ ra được yếu tố chính trị trong tôn giáo. Nó thể hiện trong việc
mọi thần thánh ban đầu đều sinh ra một cách tự phát nhưng dần dần chúng được
con người lợi dụng. Ban đầu thần thánh là một thực thể tự nhiên, nhưng dần dần
trở thành một chiêu bài chính trị. “Từ một tồn tại thuần tuý vật ly, con người trở
SVTH: Phan Thanh Trí Tâm GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

NHÓM 9– ĐÊM 3 – KHÓA 22 Trang 9

thành một tồn tại chính trị, nói chung trở thành một cái gì đó khác với tự nhiên…
Tương tự như vậy, Thượng đế của con người cũng từ một tồn tại thuần tuý vật lý
trở thành một tồn tại chính trị, tách biệt khỏi tự nhiên”.Nó thể hiện một tư tưởng
hoàn toàn mới của Phoiơbắc so với các bậc tiền bối, bởi vì ông đã nhìn thấy mối
quan hệ hiện thực giữa tự do của con người với hoàn cảnh mà nó đang sống.
Điều mà trước đó Kant và Hegel chỉ đặt ra và giải quyết trên phương diện lý
luận, để rồi cuối cùng phải nương nhờ vào sự tồn tại của Thượng đế (Kant) và
của yếu tố tinh thần (Hegel) như những phương tiện để đạt tới tự do đích thực.
Trái với Kant và Hegel, Phoiơbắc cho rằng, Thượng đế mới là lực lượng cản trở
tự do thực sự của con người, và để đạt tới tự do thì cần loại bỏ Thượng đế. Một
tư tưởng rất giá trị của Phoiơbắc.
Về mặt đạo đức, có những người có chức sắc tôn giáo cao trong giáo hội, song
họ vẫn có những hành vi phi đạo đức. Từ đó ông lên tiếng phản đối quan điểm
của các nhà thần học cho rằng dường như phủ định Thượng đế là một bước dẫn

tới sự tiêu diệt quan hệ đạo đức. Phoiơbắc chứng minh hoàn toàn ngược lại, ông
cho rằng, tôn giáo đã xoá nhòa ranh giới quan hệ giữa người với người, đưa con
người thoát khỏi hạnh phúc trần gian. Ông viết: “Đạo đức và tôn giáo, niềm tin
và tình yêu là những cái đối lập nhau. Kẻ nào kính Chúa, người đó không thể yêu
thương con người hơn người khác, vì anh ta đã đánh mất sự am hiểu con người,
và ngược lại, người nào yêu thương con người một cách đích thực, chân thật, thì
người đó không thể kính Chúa”. Như vậy, theo Phoiơbắc, tình yêu đồng loại có
thể loại trừ sự kính Chúa và ngược lại. Bởi vậy, để có một xã hội tốt đẹp thì phải
tiến hành cải cách tôn giáo: “Tình yêu hiện thực đối với con người cần phải là
quy luật đầu tiên cao quý của con người. Con người đối với con người là Thượng
đế - đó chính là nền tảng thực tiễn cao nhất, là xuất phát điểm của lịch sử toàn
cầu. Quan hệ của đứa bé đối với cha mẹ mình, của chồng đối với vợ, của anh đối
với em, của bạn bè đối với nhau, nói chung là quan hệ của con người đối với con
người. Nói tóm lại, các quan hệ đạo đức thuần tuý chính là các quan hệ tôn giáo”.
Cơ đốc giáo là tôn giáo mà ông đặc biệt phê phán. Cơ đốc giáo cũng nói về tình
yêu, nên theo Phoiơbắc, cần phân biệt tình yêu chân chính với tình yêu Thượng
SVTH: Phan Thanh Trí Tâm GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

NHÓM 9– ĐÊM 3 – KHÓA 22 Trang 10

đế. Công thức của Cơ đốc giáo “Thượng đế là tình yêu” được Phoiơbắc thay
bằng tình yêu chân chính, tình yêu không cần Thượng đế. Tình yêu hạn chế bởi
tín ngưỡng không phải là tình yêu đích thực của nó. Tình yêu của Cơ đốc giáo
không khắc phục được tội ác, không khắc phục được những vấn đề của chính con
người. Tình yêu tự nó nằm ngoài môi trường tín ngưỡng, và tín ngưỡng nằm
ngoài môi trường tình yêu.
Dù phê phán rất mạnh mẽ tôn giáo, nhưng từ chỗ phê phán ông đã nhận thức
được rằng nếu không có tôn giáo, con người sẽ khó sống, vì con người cần có
niềm tin để hướng về, để an ủi mình (dù cho là giả tạo) trong cuộc đời đầy đau
khổ, bất hạnh. Ông thấy rằng tôn giáo là sinh hoạt tinh thần cần thiết và quan

trọng của con người ở mọi thời đại. Từ suy nghĩ đó, ông đã ra sức xây dựng một
thứ tôn giáo mới thay cho Cơ đốc giáo. Đó là tôn giáo của tình yêu vĩnh cửu phổ
quát giữa con người (trước hết là tình yêu nam nữ) dựa trên tính nhân bản mà
trong đó vai trò Thượng đế được giao cho chính con người đảm trách. Trong tôn
giáo mới này, tình yêu sẽ vừa là cơ sở, cũng vừa cứu cánh của con người để con
người có thể thật sự sống đúng như bản tính của mình - chính là quan điểm ông
đưa ra để có thể có được cuộc sống hạnh phúc. Giúp biến trần gian thành thiên
đàng trên mặt đất.
Quan điểm về cải cách tôn giáo này được Phoiơbắc trình bày khá rõ trong
đoạn kết của Tập bài giảng về bản chất của tôn giáo của mình: “Thưa các bạn,
bằng những lời này, tôi kết thúc các bài giảng của mình, tôi mong muốn rằng sẽ
đạt được nhiệm vụ đã đặt ra trong các bài giảng này, mà chính là: Từ bạn của
Thượng đế, trở thành bạn của con người, từ những tín đồ trở thành người duy lý,
từ những người luôn cầu nguyện Thượng đế rủ lòng thương trở thành người lao
động, từ những nghiên cứu sinh ở thế giới bên kia trở thành những người nghiên
cứu viên ở thế giới trần gian, từ những tín đồ Kitô giáo theo sự thừa nhận, theo ý
thức của chính họ, “là nửa súc vật, nửa thiên thần” trở thành những con người
hoàn thiện”.


SVTH: Phan Thanh Trí Tâm GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

NHÓM 9– ĐÊM 3 – KHÓA 22 Trang 11

CHƯƠNG II : NHỮNG GIÁ TRỊ,HẠN CHẾ CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT
NHÂN BẢN PHOIƠBẮC VÀ VAI TRÒ ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CHỦ
NGHĨA MAC
2.1 Những giá trị và hạn chế của chủ nghĩa duy vật nhân bản
Phoiơbắc
2.1.1Những giá trị

Quan điểm về “ tính ích kỉ ” hoàn toàn mới so với lịch sử đương thời. Khi đọc
những lời này của Phoiơbắc. Nó là phôi thai của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Xa
hơn nữa, nhà triết học mang nặng tinh thần nhân đạo coi tính ích kỷ của con
người như là một động lực thúc đẩy sự phát triển của lịch sử xã hội. “Trong lịch
sử, một thời đại mới bắt đầu từ đâu? Bắt đầu từ chỗ, đông đảo quần chúng bị áp
bức đưa ra tính ích kỷ chính đáng của mình chống lại tính ích kỷ cực đoan của
thiểu số người khác… Tính ích kỷ của đa số nhân loại đang bị áp bức phải và sẽ
thực hiện quyền của mình và mở ra một thời đại lịch sử mới… Không thể để cho
thiểu số người là cao thượng, có tài sản, còn số khác là thấp hèn, là chẳng có gì.
Tài sản phải có ở tất cả mọi người”.
Trong quan niệm về con người Phoiơbắc tiếp nối xứng đáng truyền thống
nhân văn trong lịch sử triết học, nhất là triết học thời Phục hưng và chủ nghĩa
duy vật Pháp thế kỷ XVIII, ông thể hiện quan điểm của giai cấp tư sản muốn
khẳng định cá tính sáng tạo của mỗi con người
Trong quan điểm về nhận thức chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc đã có những lý
giải về vai trò của các cảm giác. Con người cùng với các cảm giác của mình đủ
để nhận thức hiện tượng xung quanh
2.1.2Những hạn chế
Mặc dù có nói đến “con người cộng đồng” với tính cách là thực thể xã hội,
ông có điểm hạn chế đó là hiểu cộng đồng hết sức trừu tượng, và thực ra chẳng
khác mấy cộng đồng tôn giáo theo sự lý giải của Kant. Phoiơbắc đã không làm
nổi bật được các đặc trưng của con người, quan hệ tích cực, thực tế của nó với
giới tự nhiên. Phoiơbắc chưa hiểu trọn vẹn quá trình sản xuất thực chất, nền công
SVTH: Phan Thanh Trí Tâm GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

NHÓM 9– ĐÊM 3 – KHÓA 22 Trang 12

nghiệp, nghĩa là chưa hiểu rằng: “Xã hội là sự thống nhất hoàn chỉnh căn bản của
con người với giới tự nhiên”.
Do xem xét con người một cách rất trừu tượng “về mặt xã hội” nên con người

trong triết học Phoiơbắc xét cho cùng chỉ là thực thể tự nhiên. Nó không mang
tính lịch sử, giai cấp, dân tộc. Ông đã tuyệt đối hoá quá mức tình yêu, coi nó là
bản chất của con người mà chưa chú ý đến các mặt khác như chính trị, lịch sử, xã
hội mà con người đang phải sống trong đó. Nếu F.Bacon nhấn mạnh “quyền lực
của con người trước tự nhiên” thì Phoiơbắc lại xuất phát từ quan hệ hài hoà. Khi
con người đặt mình trong mối quan hệ hài hoà với giới tự nhiên, thì mâu thuẫn
không trở nên gay gắt nữa. Ông quan niệm, đời sống hạnh phúc chỉ có được khi
hành động tự do của con người thống nhất với những điều kiện sống của họ. Vì
vậy, muốn sống hạnh phúc, con người cần phải cài tạo điều kiện sống sao cho
phù hợp với bản tính của mình.
Phoiơbắc chứng minh thiếu sức thuyết phục luận cảm giác, bởi vì ông không
hiểu rằng năng lực phản ánh đúng đắn và toàn diện của các cơ quan cảm giác đối
với thực tiễn là kết quả phát triển của chúng trong chiều dài lịch sử hàng ngàn
năm. Hạn chế của Phoiơbắc còn ở chỗ, ông gắn các biểu tượng cảm giác với hoạt
động thực tiễn, vật chất. Phoiơbắc không khắc phục được hạn chế muôn thuở
chứa đựng trong chủ nghĩa duy vật trước Mác nói chung. Phoiơbắc chưa vươn
đến quan điểm duy vật triệt để về quan hệ xã hội và thực tiễn của con người. Ở
ông con người đối lập với giới tự nhiên với tính cách là “con đẻ”, là “loài”.
Phoiơbắc không tách con người như một “loài” ra khỏi tự nhiên; con người tuân
theo các qui luật tự nhiên, sống bên trong và nhờ tự nhiên. Thực tiễn của con
người theo Phoiơbắc là thực tiễn tiêu dùng, chứ không phải của sản suất, của các
hoạt động tích cực; đó là chưa nói đến hoạt động cách mạng. Quan niệm về thực
tiễn của Phoiơbắc là bản sao nặng nề của chủ nghĩa nhân bản và chủ nghĩa tự
nhiên.
Phoiơbắc coi nhận thức là một quá trình tĩnh lại, thụ động của chủ thể tiếp
nhận hình ảnh của khách thể, chứ không phải là quá trình mang tính thực tiễn
năng động, sáng tạo thế giới của chủ thể - là con người. Ông đã bỏ qua hoạt động
SVTH: Phan Thanh Trí Tâm GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

NHÓM 9– ĐÊM 3 – KHÓA 22 Trang 13


thực tiễn. Đây là điểm hạn chế trong quan niệm của Phoiơbắc. Với ông, thực tiễn
là hoạt động bản năng mang tính thấp hèn. Do đó, thực tiễn cần được loại bỏ khỏi
nhận thức, trục xuất ra khỏi hệ thống triết học. M ặc dù, chính bản thân ông cũng
không hiểu chính xác hoạt động thực tiễn. Ông không hiểu chính hoạt động khoa
học cũng là hoạt động thực tiễn, ông không thấy được vai trò quan trọng của thực
tiễn đối với hoạt động nhận thức và đời sống xã hội. Chính vì không nhín thấy
thực tiễn chính là động lực phát triển xã hội, nên ông đã cố tìm kiếm nó trong
tình yêu. Ông lại một lần nữa tuyệt đối hoá tình yêu, coi nó là bản chất của con
người.
Tình yêu được ông tuyên bố như là bản chất chân lý của tôn giáo. Chủ nghĩa
vô thần hiện ra ở đây với tính cách là tôn giáo chân chính, tôn giáo không có
Thượng đế. Quan niệm mở rộng về tôn giáo là điểm yếu nhất của chủ nghĩa nhân
bản của Phoiơbắc. Nó xoá mờ vai trò của tôn giáo (cả tích cực lẫn tiêu cực) đối
với quần chúng, chỉ chú trọng đến sự biện hộ cho ý thức tôn giáo, đưa đến sự
đánh giá lại vai trò lịch sử của tôn giáo như hình thức chủ yếu của đời sống tinh
thần của con người. Nhà vô thần Phoiơbắc đã tự tuyên bố là nhà cải cách tôn giáo
đặc trưng. Trong thái độ chung đối với tôn giáo, ông quan niệm về tính cấp thiết
thay đổi sinh hoạt tôn giáo nhằm giải quyết mối quan hệ xã hội theo hướng nhân
văn. Phoiơbắc cho rằng chừng nào còn xã hội loài người, thì tôn giáo vẫn còn tồn
tại. Đây là quan niệm đầy tính nhân bản của Phoiơbắc. Nhưng cũng đồng thơi là
thái độ không nhất quán của ông đối với tôn giáo
2.2.Vai trò của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc đến sự ra đời chủ
nghĩa Mác
- Quan điểm về “tính ích kỉ” của Phoiơbắc theo Lê Nin thì nó chính là phôi
thai của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nó là chìa khóa gợi mở cho Mác về quan
điểm duy vật lịch sử
- Luận điểm của Phoiơbắc “ "Trong một cung ðiện, ngýời ta suy nghĩ khác
trong một túp lều tranh.Nếu nhý vì ðói, vì nghèo, mà trong cõ thể không có chất
dinh dýỡng, thì trong ðầu óc anh, trong tình cảm và trong trái tim anh cũng

không có chất nuôi ðạo ðức" ðã ðýợc Ãngghen ðánh giá rất cao bởi vì theo quan
SVTH: Phan Thanh Trí Tâm GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

NHÓM 9– ĐÊM 3 – KHÓA 22 Trang 14

ðiểm ðó thì ðiều kiện quy ðịnh suy nghĩ và tý týởng của nó là tiền ðề cho lý luận
về cách mạng trong triết học Mác
Quan niệm về con ngýời trong triết học Phoiõbắc theo ðánh giá của
A.G.Spirkin "chính là ðiểm xuất phát cho những lập luận của Mác về con ngýời
và bản chất con ngýời". Bởi vì, bằng những quan niệm ðó, ngýời khai mở con
ðýờng cho chủ nghĩa duy vật nhân bản ðã giáng một ðòn phá tan mâu thuẫn giữa
chủ nghĩa duy vật và chỉ nghĩa duy tâm khách quan của Hêghen, "ðýa một cách
không úp mở chủ nghĩa duy vật trở lại ngôi vua", ông ðã khẳng ðịnh một cách
dứt khoát rằng "tự nhiên tồn tại ðộc lập ðối với mọi triết học. Nó là cõ sở trên ðó
con ngýời chúng ta bản thân chúng ta cũng là một sản phẩm của tự nhiên ðã sinh
trýởng”. Mác và Ãngghen luôn ðánh giá cao triết học của Phoiõbắc nói chung,
chủ nghĩa duy vật nhân bản của ông nói riêng
Chính triết học tôn giáo của Phoiơbắc đã có ảnh hưởng khá sâu sắc đến sự
hình thành chủ nghĩa vô thần của Mác. Cần phải đánh giá một cách khách quan
rằng, chính Phoiơbắc chứ không ai khác đã giúp M ác thoát khỏi triết học duy tâm
huyền bí của Hegel để đến với chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa vô thần. Điều đó
được khẳng định qua những lời nhận xét sau đây của Engels: “Tác phẩm của
Phoiơbắc “Bản chất của đạo Cơ Đốc” ra đời… đã giáng một đòn phá tan ngay
mâu thuẫn giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm khách quan của Hegel,
đưa một cách không úp mở chủ nghĩa duy vật trở lại ngôi vua… Lúc bấy giờ ai
nấy đều phấn khởi: tất cả chúng tôi lập tức trở thành môn đồ của Phoiơbắc. Đọc
“Gia đình thần thánh” có thể thấy Mác đã đón chào quan điểm mới một cách
nhiệt liệt như thế nào, và quan điểm đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến Mác như thế
nào, mặc dù Mác vẫn có những ý kiến bảo lưu có tính chất phê phán nhưng phải
thừa nhận đầy đủ rằng trong thời kì bão táp và lấn tới của chúng tôi, Phoiơbắc đã

ảnh hưởng đến chúng tôi nhiều hơn bất cứ một nhà triết học nào khác sau Hegel




SVTH: Phan Thanh Trí Tâm GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

NHÓM 9– ĐÊM 3 – KHÓA 22 Trang 15

KẾT LUẬN
Nhìn chung, triết học Phoiơbắc đã khôi phục được truyền thống duy vật thế kỷ
XVIII, và phát triển nó thêm một bước. Ông biết đặt con người vào đúng tâm
điểm phân tích triết học. Triết học của ông chất chứa đầy tính duy vật khả tri và
nhân bản, nó chính là một cội nguồn tư tưởng của triết học M ác.
Bên cạnh những giá trị đó, triết học Phoiơbắc có một số hạn chế như không sâu,
còn nhiều quan niệm siêu hình, phiến diện trong lý giải đối tượng triết học, phân
tích bản chất con người, tỉm hiểu thực tiễn,… Nhất là trong việc xác định nguồn
gốc, động lực phát triển, và phương tiện cải tạo xã hội, quan điểm của Phoiơbắc
còn đầy tính duy tâm.
Tóm lại, triết học cổ điển Đức nói chung, triết học Phoiơbắc nói riêng không chỉ
là thành tựu to lớn của nhân loại, mà nó còn là tiền đề lý luận của triết học M ác,
cũng như chủ nghĩa M ác. Phương pháp biện chứng duy vật - linh hồn của chủ
nghĩa Mác - chính là kết quả cải biến chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc và phát
triền phép biện chứng của Hegel.















SVTH: Phan Thanh Trí Tâm GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

NHÓM 9– ĐÊM 3 – KHÓA 22 Trang 16

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Văn Mưa & ctg (2010), Triết học phần I: Đại cương về lịch sử triết học,
Đại học Kinh tế Hồ Chí M inh
2. Lê Công Sự, Nghiên cứu tôn giáo. Số 1 -2006,
3. Nguyễn Huy Hoàng ( 2006), Quan điểm Phoiơbắc về quan điểm tôn giáo và
con người tại website
/>at=
4. Lương Mỹ Vân, Xuất phát điểm nghiên cứu của C.Mác và Ph.Ăngghen trong
“ hệ tư tưởng Đức” tại website
/>at=
5. Cao Thu Hằng, Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về con người, giải
phóng con người trong hệ tư tưởng Đức và sự vận dụng của Đảng ta tại website
/>at=

×