Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Ảnh hưởng của hai phương thức nuôi khác nhau đến sức sản xuất của gà sao dòng trung nuôi trong nông hộ tại xã an tường, thành phố tuyên quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 88 trang )

CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Cs
D/R
đ
ĐVT
NST
VCK
P - thô
L – thô
K – TS
SS
PN
TTTĂ
E
E’
LTĂTN
TCVN
TT
R/D
TB
X
m
x
Cv%
:
:
:
:
:
:
:


:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
Cộng sự
Dài/rộng
Đồng
Đơn vị tính
Nhiễm sắc thể
Vật chất khô
Protein thô
Lipit thô
Khoáng tổng số
Sơ sinh
Production Number
Tiêu tốn thức ăn
Gen liên kết giới tính
Gen chịu trách nhiệm về sinh dục
Lượng thức ăn thu nhận

Tiêu chuẩn việt nam
Tuần tuổi
Rộng /dài
Trung bình
Giá trị trung bình
Sai số của số trung bình
Hệ số biến dị
i
DANH MỤC CÁC BẢNG
B ng: 1.1. M c t ng kh i l ng c a gia c m nonả ứ độ ă ố ượ ủ ầ 9
B ng: 1.2. C ng sinh tr ng t ng i c a gia c m non (%)ả ườ độ ưở ươ đố ủ ầ 9
B ng 1.3. S n l ng tr ng tính theo tu i c a gia c m (%)ả ả ượ ứ ổ ủ ầ 18
B ng 1.4. Th nh ph n hoá h c c a th t m t s lo i gia c mả à ầ ọ ủ ị ộ ố ạ ầ 24
B ng 1.5. Kh n ng cho th t c a g Saoả ả ă ị ủ à 31
B ng 1.6. Kh n ng sinh s n c a g Saoả ả ă ả ủ à 31
B ng 2.1. S b trí thí nghi m trên n g Sao Th ng ph mả ơđồ ố ệ đà à ươ ẩ 36
B ng 2.2. S b trí thí nghi m trên n g Sao sinh s nả ơđồ ố ệ đà à ả 36
B ng 2.3. Ch dinh d ngả ếđộ ưỡ 36
B ng 3.1.a. T l nuôi s ng c a g Sao th ng ph m giai o n t 1 ả ỷ ệ ố ủ à ươ ẩ đ ạ ừ
n 12 tu n tu iđế ầ ổ 45
B ng 3.1.b. T l nuôi s ng g Sao sinh s n giai o n t 27 n 47 ả ỷ ệ ố à ả đ ạ ừ đế
tu n tu iầ ổ 47
B ng 3.2.a. Kh i l ng c th g Sao qua các tu n tu i (gam/con)ả ố ượ ơ ể à ầ ổ 49
B ng 3.2.b. Sinh tr ng tuy t i c a g Sao (g/con/ng y)ả ưở ệ đố ủ à à 52
B ng 3.2.c. Sinh tr ng t ng i c a g Sao (%)ả ưở ươ đố ủ à 55
B ng 3.3. Ch s s n xu t PN v ch tiêu kinh t g Sao t 1-12 TTả ỉ ố ả ấ à ỉ ế à ừ . .57
B ng 3.4.a. Kh o sát kh n ng cho th t c a g Sao tr ng c hai giai ả ả ả ă ị ủ à ố ở ả
o n 60 v 84 ng y tu iđ ạ à à ổ 59
B ng 3.4.b. Kh o sát kh n ng cho th t c a g Sao Mái c hai giai ả ả ả ă ị ủ à ở ả
o n 60 v 84 ng y tu iđ ạ à à ổ 60

B ng 3.5. Th nh ph n hoá h c c a th t Ng c g Sao 84 ng y tu iả à ầ ọ ủ ị ự à ở à ổ. .62
B ng 3.6.a. Tu i v kh i l ng b t u c a g Sao.ả ổ đẻ à ố ượ ắ đầ đẻ ủ à 64
B ng 3.6.b. Tu i v kh i l ng g các giai o n kh o sátả ổ đẻ à ố ượ àở đ ạ ả 64
B ng 3.7. Kh n ng v n ng su t tr ng/mái c a g Saoả ả ă đẻ à ă ấ ứ ủ à 65
B ng 3.9. Tiêu tôn th c n /10 tr ng c a g Saoả ứ ă ứ ủ à 68
B ng 3.10. N ng su t tr ng/mái v tiêu t n th c n /10 qu tr ngả ă ấ ứ à ố ứ ă ả ứ 69
B ng 3.11.a. Kh n ng cho phôi v t l p n Lô Iả ả ă à ỷ ệấ ởở 70
B ng 3.11.b. Kh n ng cho phôi v t l p n Lô IIả ả ă à ỷ ệấ ởở 71
B ng 3.12. H ch toán hi u qu kinh t i v i g sao th ng ph m ả ạ ệ ả ếđố ớ à ươ ẩ
theo 2 ph ng th c nuôi Khác nhauươ ứ 71
ii
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, ĐỒ THỊ
th 3.1: Sinh tr ng tích lu qua 12 tu n tu i c a g SaoĐồ ị ưở ỹ ầ ổ ủ à 51
Bi u 3.2 : Sinh tr ng tuy t i qua 12 tu n tu iể đồ ưở ệ đố ầ ổ 54
th 3.3: Sinh tr ng t ng i (%)Đồ ị ưở ươ đố 56
iii
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chăn nuôi gia cầm hiện nay chiếm một vị trí quan trọng trong việc phát
triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Ưu điểm của chăn nuôi gia cầm là thời gian nuôi ngắn, khả năng quay vòng
vốn nhanh nên lợi nhuận cao, cho hiệu quả nhanh và cao hơn so với những
đối tượng vật nuôi khác. Ý nghĩa hơn cả là trứng và thịt gia cầm có giá trị
dinh dưỡng cao, tương đối đầy đủ và cân bằng chất dinh dưỡng. Thịt, trứng
gia cầm có nhiều axit amin, vitamin và khoáng vi lượng. Sản phẩm gia cầm
dễ chế biến, dễ ăn, ngon miệng, phù hợp với mọi lứa tuổi và tỷ lệ đồng hoá
cao. Những năm gần đây nhu cầu sử dụng thịt gia cầm trong nước tăng mạnh,
đặc biệt là thịt gà chất lượng cao đang được thịnh hành và ưa chuộng ở các
thành phố, tỉnh thành trong cả nước dẫn tới hiện tượng cầu vượt quá cung.
Một trong những giống gà được người tiêu dùng ưa chuộng đó là giống

gà Sao. Thịt gà Sao được xếp vào món ăn đặc sản, đặc biệt gà Sao không

mắc
các bệnh như: Marek, Leucosis nên nuôi gà Sao không phải dùng các loại
vaccine này. Những bệnh Mycoplasma, Salmonella mà những giống gà
thường hay mắc thì ở gà Sao chưa thấy xuất hiện, do vậy khi nuôi gà Sao
rất ít phải dùng kháng sinh. Trong dịch cúm gia cầm mấy năm vừa qua
chưa thấy xuất hiện trên gà Sao. Đây là một trong những đặc điểm quý của
gà Sao. Tuy nhiên, tình hình chăn nuôi gà Sao hiện nay vẫn đang còn nhiều
bất cập như: Phạm vi chăn nuôi chưa rộng (Tập trung chủ yếu ở Đồng bằng
sông Cửu Long, miền Trung và một số ít tỉnh miền Bắc như Bắc Ninh, Hà
Tây, Thái Nguyên, Hải Dương …).
Chăn nuôi gia cầm cần phải đẩy mạnh và đa dạng hóa các phương thức
chăn nuôi như: trang trại, bán công nghiệp, thả vườn với các giống gà phù
hợp với điều kiện khí hậu, cơ sở vật chất, phong tục tập quán từng vùng, tạo
ra sản phẩm chất lượng cao, duy trì được hương vị truyền thống và đáp ứng
thị hiếu tiêu dùng. Có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng về
1
trứng và thịt cho đời sống con người.
Chăn nuôi gia cầm ở tỉnh Tuyên Quang nói chung và thành phố Tuyên
Quang nói riêng đã được hình thành từ rất lâu, nhưng phương thức nuôi chủ
yếu là nhỏ lẻ, các trang trại nuôi tập trung còn ít. Mặt khác cơ cấu giống gà
của tỉnh còn hạn chế, chưa có nhiều giống gà đặc sản chất lượng thịt thơm
ngon để cung cấp cho thị trường.
Để giải quyết vấn đề này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Ảnh hưởng của hai phương thức nuôi khác nhau đến sức sản xuất
của gà Sao dòng Trung nuôi trong nông hộ tại xã An Tường, thành
phố Tuyên Quang”.
2. Mục tiêu của đề tài
- Đánh giá sức sản xuất và hiệu quả kinh tế của giống gà Sao dòng Trung

nuôi trong nông hộ theo 2 phương thức chăn nuôi khác nhau.
- Cung cấp cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc lựa chọn phương thức
chăn nuôi gà Sao phù hợp, hiệu quả cao.
- Hoàn thiện quy trình kỹ thuật chăn nuôi gà Sao trong nông hộ nhằm
khuyến cáo để phát triển, nhân rộng mô hình chăn nuôi tại thành phố Tuyên
Quang và các địa phương khác.
3. Ý nghĩa của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
- Nghiên cứu, bổ sung tài liệu về khả năng thích nghi, sức sản xuất và
hiệu quả kinh tế của giống gà Sao trong điều kiện nuôi trong nông hộ với hai
phương thức chăn nuôi khác nhau, phục vụ cho các nghiên cứu tiếp theo về
giống gà này.
- Tạo cơ sở cho việc bảo tồn và nhân giống gà Sao dòng Trung nuôi
trong nông hộ.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Giúp người chăn nuôi lựa chọn được phương thức chăn nuôi phù hợp,
có hiệu quả kinh tế cao trong chăn nuôi gà Sao, phát triển giống gà này phục
vụ cho nhu cầu thị trường và phát triển kinh tế của địa phương.
- Góp phần bảo tồn nguồn gen các giống gia cầm bản địa trong điều kiện
2
nuôi nhốt và bán chăn thả tại các hộ nông dân.
3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1. Cơ sở nghiên cứu tập tính của vật nuôi
1.1.1.1. Tập tính của vật nuôi
Tập tính chính là các hoạt động, phản ứng trả lời các kích thích ở các loài
động vật hay tất cả các hành vi trong cuộc sống của chúng. Tập tính phản ánh toàn
bộ hoạt động sống của động vật, biểu hiện các mối quan hệ giữa động vật với môi

trường, với tự nhiên, với các cá thể khác trong loài và khác loài vô cùng phong
phú và đa dạng. Theo Phan Cự Nhân và Trần Đình Miên (1999) [29], đã phân
chia tập tính của vật nuôi thành các loại chính sau đây:
Tập tính bẩm sinh: Chính là bản năng của động vật, mà bản năng chính
là các hoạt động, cử động có trước ý thức dẫn tới các tính cách, các biểu hiện
sống của động vật. Bản năng là chuỗi phản xạ nối tiếp theo một trình tự nhất
định được ghi trong gen cơ cấu di truyền của động vật. Bản năng không thay
đổi, nó đặc trưng và có lợi cho loài và là kết quả của chọn lọc tự nhiên.
Tập tính tiếp thu: Được hình thành và bắt chước qua huấn luyện của con
người, qua biến đổi môi trường mới không ghi trong bộ gen, không được
chương trình hoá trong gen nên mềm dẻo, linh hoạt và luôn thay đổi theo
ngoại cảnh và môi trường sống mới.
Tập tính hỗn hợp: Là những tập tính mới được hình thành trong điều
kiện sống thay đổi, trong đó có cả tập tính bẩm sinh và tập tính tiếp thu, mà
ranh giới của nó rất khó phân biệt.
Tập tính của động vật chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố đó là: Tính di
truyền, các nhân tố khí hậu (nhiệt độ, ánh sáng, độ ẩm tương đối, mưa, gió, sự
căng thẳng dẫn đến stress). Nghiên cứu di truyền tập tính của động vật có ý
4
nghĩa đặc biệt quan trọng cả về lý thuyết lẫn thực tiễn. Việc nắm vững các
nền tảng khoa học của tập tính và di truyền học, tập tính của vật nuôi giúp các
nhà chăn nuôi trong việc chăm sóc, phòng chống dịch bệnh có hiệu quả cao.
Tác giả Phan Cự Nhân và Cs (1999) [29] đã cho rằng tập tính là một biểu hiện
rõ rệt đầu tiên của con vật đối với điều kiện sống. Vì vậy, nghiên cứu tập tính
của vật nuôi rất cần thiết. Tập tính là một tính trạng được sử dụng trong chọn
giống, bởi chúng đảm bảo cho sự tồn tại của loài trước mọi biến động của môi
trường. Mặt khác, chỉ tiêu cơ bản của ngành chăn nuôi là năng suất, điều này
liên quan trực tiếp tới mọi trạng thái của vật nuôi.
1.1.1.2. Tính trạng số lượng của vật nuôi
Phần lớn các tính trạng sản xuất của vật nuôi là các tính trạng số lượng,

cơ sở di truyền học của các tính trạng số lượng do các gen nằm trên NST quy
định. Theo Nguyễn Văn Thiện (1995) [44] Các tính trạng số lượng là những
tính trạng, mà ở đó sự khác nhau giữa các cá thể là sự sai khác nhau về chủng
loại. Sự khác nhau này chính là nguồn vật liêu để cung cấp cho chọn lọc tự
nhiên, cũng như chọn lọc nhân tạo.
Tính trạng số lượng còn được gọi là tính trạng đo lường, vì sự nghiên
cứu phụ thuộc vào sự đo lường, như mức độ tăng trọng của gà, kích thước các
chiều đo, khối lượng trứng … Tuy nhiên có những tính trạng mà giá trị của
chúng có được bằng cách đếm, như số lợn con đẻ ra trong một lứa, số lượng
trứng đẻ ra trong một năm, vẫn được coi là các tính trạng về số lượng, đó là
tính trạng số lượng đặc biệt.
Hệ số di truyền có liên quan đến tính trạng số lượng được gọi là di
truyền học số lượng. Di truyền học số lượng vẫn lấy các quy luật di truyền
học của Mendel làm cơ sở, nhưng do đặc điểm riêng của tính trạng số lượng
so với các tính trạng chất lượng đều là đối tượng nghiên cứu của di truyền học
Mendel, nên phương pháp nghiên cứu trong di truyền học số lượng khác với
5
phương pháp nghiên cứu trong di truyền học Mendel về 2 phương diện
Thứ nhất là: Các đối tượng nghiên cứu không chỉ dừng lại ở mức độ cá thể,
mà phải mở rộng tại mức độ quần thể bao gồm các nhóm cá thể khác nhau
Thứ hai là: Sự sai khác nhau giữa các cá thể không thể là sự phân loại
mà nó đòi hỏi phải có số đo lường các cá thể.
Nghiên cứu đặc điểm di truyền học của các tính trạng số lượng, bên cạnh
việc vận dụng các di truyền học của Mendel, còn phải sử dụng các khái niệm
toán thống kê, xác suất để phân tích các giá trị di truyền.
Giá trị đo lường được của tính trạng số lượng trên một cá thể được gọi là
giá trị kiểu hình của cá thể đó, các giá trị có liên hệ với kiểu gen là giá trị kiểu
gen và giá trị có liên hệ với môi trường là sai lệch của môi trường. Như vậy
có nghĩa là kiểu gen quy định một giá trị nào đó của cá thể và môi trường gây
ra một sự sai lệch của kiểu gen hướng này hoặc kiểu gen hướng khác. Quan

hệ trên có thể biểu thị như sau:
P = G + E
Trong đó: P: Là giá trị kiểu hình
G: Là giá trị kiểu gen
E: Là sai lệch môi trường
Nếu trung bình sai lệch môi trường của một quần thể bằng (0) thì trung
bình giá trị kiểu hình bằng trung bình giá trị kiểu gen. Khi đó thuật ngữ trung
bình quần thể là trung bình giá trị kiểu hình hoặc trung bình giá trị kiểu gen
của quần thể và trung bình quần thể là tổng các tích số của từng giá trị kiểu
gen, với tần số của nó khi đề cập đến các thế hệ kế tiếp nhau.
Giá trị kiểu gen của tính trạng số lượng do nhiều gen có hiệu ứng nhỏ
cấu tạo thành, đó là các gen mà hiệu ứng riêng biệt của từng gen thì rất
nhỏ, nhưng tập hợp nhiều gen nhỏ thì sẽ có ảnh hưởng rõ rệt đến tính trạng
nghiên cứu. Hiện tượng này người ta gọi là hiện tượng đa gen, môi trường
6
có ảnh hưởng rất lớn đến tính trạng số lượng, trong khi đó đối với tính
trạng chất lượng là những tính trạng đơn gen thì ít bị ảnh hưởng do tác động
của môi trường.
Tác động của các nhân tố ngoại cảnh như: (Nhiệt độ, ánh sáng, độ ẩm,
thức ăn, nước uống, không khí ) nên tính trạng số lượng là rất lớn nó có thể
kìm hãm hoặc phát huy để làm thay đổi các giá trị của tính trạng đó. Giá trị
kiểu gen được phân ra làm 3 phương thức hoạt động, đó là sự cộng gộp, sự
sai lệch trội, lặn và tương tác giữa các gen như sau:
G = A + D + I
Trong đó: G: Là giá trị kiểu gen
A: Là Giá trị cộng gộp
D: Là sai lệch do tác động trội, lặn
I : Là sai lệch do tương tác giữa các gen
Để đo lường được các giá trị truyền đạt từ bố mẹ cho đời con phải có
một giá trị đo lường mới có liên hệ trực tiếp với gen chứ không phải với kiểu

gen, đó chính là hiệu ứng trung bình giữa các gen. Tổng các hiệu ứng trung
bình giữa các gen quy định tính trạng (tổng các hiệu ứng được thực hiện với
từng cặp gen ở mỗi Lô cút và trên tất cả các Lô cút), được gọi là giá trị cộng
gộp hoặc giá trị giống của cá thể. Đây chính là thành phần quan trọng của
kiểu gen vì nó có tính chất cố định hoặc di truyền cho đời sau.
Sai lệch trội, lặn: khi ta đi xem xét một số Lô cút duy nhất, sai lệch
trội (D) được sinh ra từ tác động qua lại giữa các cặp Alen trong cùng một
Lô cút (đặc biệt là các Alen dị hợp tử) điều này rất có ý nghĩa trong lai giống
vật nuôi.
Sai lệch tương tác giữa các gen: Là sai lệch do tương tác giữa các gen
không cùng một Lô cút, sai lệch này thường thấy trong di truyền học số lượng
hơn trong di truyền học của Mendel. Ngoài ra các di truyền học số lượng còn
chịu ảnh hưởng nhiều của môi trường E và được chia thành hai loại sai lệch
7
do môi trường là Eg và Es.
Sai lệch môi trường chung: Là sai lệch do các yếu tố môi trường có tính
chất thường xuyên và không cục bộ tác động lên toàn bộ cá thể trong cùng
một nhóm vật nuôi.
Sai lệch môi trường riêng: Là sai lệch do các nhân tố môi trường có tính
chất không thường xuyên và cục bộ tác động riêng rẽ lên từng cá thể trong
cùng một nhóm vật nuôi. Tóm lại khi một kiểu hình của một cá thể được cấu
tạo bởi từ hai Lô cút trở lên thì giá trị kiểu hình của nó được biểu thị như sau:
P = A + D + I + Eg + Es
Theo Dickenson, (1952) (dẫn theo Nguyễn Văn Thiện 1995) [44], vấn đề
tương tác giữa kiểu gen di truyền với môi trường rất quan trọng đối với ngành
chăn nuôi gia cầm. Qua việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới tính trạng số
lượng ở trên ta thấy rằng muốn nâng cao năng suất của vật nuôi cần phải:
* Tác động về mặt di truyền (G)
- Tác động vào hiệu ứng cộng gộp (A) bằng cách chọn lọc
- Tác động vào các hiệu ứng trội (D) và át gen (I) bằng cách phối giống

tạp giao
* Tác động về mặt môi trường
- Cải tiến điều kiện chăn nuôi như: Thức ăn, thú y, chuồng trại Trong
chăn nuôi các giống vật nuôi luôn nhận được từ bố mẹ một số gen quy định
tính trạng số lượng nào đó và được xem như là nhận được từ bố mẹ một khả
năng di truyền. Tuy nhiên, khả năng đó có phát huy được tốt hay không còn
phụ thuộc rất lớn vào điều kiện sống, sinh hoạt của vật nuôi.
1.1.2. Sinh trưởng và những yếu tố ảnh hưởng tới khả năng sinh trưởng ở
gia cầm
1.1.2.1. Tốc độ sinh trưởng
Tốc độ sinh trưởng là đặc điểm chất lượng về sức sản xuất thịt, nó mang
8
tính di truyền và liên quan đến những đặc điểm trao đổi chất, kiểu hình, dòng,
giống. Đặc điểm này có ý nghĩa rất lớn, nếu giống gia cầm nào có tốc độ sinh
trưởng nhanh thì khả năng vỗ béo và giết thịt sớm hơn và sử dụng thức ăn
cũng tốt hơn. Chỉ tiêu để đánh giá tốc độ sinh trưởng là sinh trưởng tuyệt đối
và sinh trưởng tương đối.
Theo Nguyễn Duy Hoan (1998) [9], gia cầm non có tốc độ sinh trưởng
rất nhanh, sau 2 -3 tháng đầu nó tăng khối lượng đến hàng chục lần so với lúc
mới nở. Cụ thể qua bảng sau:
Bảng: 1.1. Mức độ tăng khối lượng của gia cầm non
Loại gia cầm
Tỷ lệ tăng trọng so với khối lượng một ngày tuổi
10 lần 20 lần 30 lần 40 lần
Ngày tuổi đạt được
Vịt con 20 30 40 60
Ngỗng con 20 30 50 80
Gà tây con 30 60 70 80
Gà con 40 70 90 -
Nguồn: Giáo trình chăn nuôi gia cầm NXBNN Hà Nội 1998

Đặc biệt tốc độ sinh trưởng nhanh nhất ở tháng thứ nhất, thể hiện cụ thể
qua bảng sau:
Bảng: 1.2. Cường độ sinh trưởng tương đối của gia cầm non (%)
Loài
Tuổi
Gà con Gà tây con Vịt con Ngỗng con
Tháng thứ 1 150 150 180 170
Tháng thứ 2 85 100 90 45
Tháng thứ 3 50 70 25 35
Tháng thứ 4 30 40 4 10
Tháng thứ 5 20 30 4 7
Nguồn: Giáo trình chăn nuôi gia cầm NXBNN Hà Nội 1998
9
Tốc độ sinh trưởng của gia cầm còn phụ thuộc vào loài, giống. Sinh
trưởng là quá trình tích luỹ chất hữu cơ do đồng hoá và dị hoá, là sự tăng
chiều dài, chiều cao, bề ngang, khối lượng của các bộ phận và toàn bộ cơ thể
con vật trên cơ sở tính chất di truyền của đời trước. Sinh trưởng chính là sự
tích luỹ dần các chất mà chủ yếu là Protein. Tốc độ và sự tổng hợp Protein
cũng chính là tốc độ hoạt động của các gen điều khiển quá trình sinh trưởng
của cơ thể vật nuôi.
Gia cầm là sinh vật hơn nữa là một cơ thể sống hoàn chỉnh, vì vậy vật
nuôi có các đặc trưng cơ bản của sự sống, trong các đặc trưng cơ bản đó sức
sản suất là một đặc trưng được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.
Theo tác giả Chanbers. J.R (1990) [60] đã đưa ra khái niệm sức sản suất
của cơ thể là tổng hợp sự sinh trưởng của các bộ phận như: Thịt, xương, da
lông. Những bộ phận này không chỉ khác nhau về tốc độ sinh trưởng mà còn
khác nhau về chế độ dinh dưỡng và nhiều yếu tố khác. Trần Đình Miên và Cs,
(1992) [22] đã khái quát như sau: Sinh trưởng là quá trình tích luỹ các chất
hữu cơ do đồng hoá và dị hoá là sự tăng chiều cao, chiều dài, bề ngang, khối
lượng của các bộ phận và toàn bộ cơ thể con vật trên cơ sở tính chất di truyền

từ đời trước. Sinh trưởng của gia cầm luôn gắn với phát dục đó là quá trình
thay đổi về chất và lượng, là sự tăng lên và hoàn chỉnh các tính chất, chức
năng, hoạt động của cơ thể. Hai quá trình đó liên quan mật thiết và ảnh hưởng
lẫn nhau tạo nên sự hoàn thiện cơ thể của gia súc, gia cầm. Sinh trưởng và
phát dục của gia súc, gia cầm tuân theo tính quy luật và theo giai đoạn.
Tác giả Phùng Đức Tiến (1996) [41] khi nghiên cứu đường cong sinh
trưởng của gà thịt Hybro HV85 và các tổ hợp lai gà Broiler hướng thịt Ross –
208 và HV 85, Ngỗng Rheinland cũng cho kết quả tương tự.
Khi nghiên cứu về sinh trưởng không thể không nói đến phát dục, vì
hai quá trình này diễn ra cùng lúc trên cùng cơ thể của vật nuôi. Phát dục là
10
quá trình thay đổi về chất, tức là tăng thêm và hoàn chỉnh các tính chất,
chức năng của các bộ phận trên cơ thể. Phát dục của cơ thể con vật bắt
nguồn từ khi trứng thụ tinh và trải qua nhiều giai đoạn phức tạp mới đến giai
đoạn trưởng thành.
1.1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới khả năng sinh trưởng
- Ảnh hưởng của dòng, giống
Trong cùng điều kiện chăn nuôi, mỗi giống khác nhau có khả năng sinh
trưởng và sinh sản khác nhau. Các giống gia cầm chuyên thịt có tốc độ sinh
trưởng nhanh hơn các giống gia cầm chuyên trứng và kiêm dụng. Theo
Nguyễn Mạnh Hùng và Cs, (1994) [11] thì sự khác nhau về khối lượng cơ thể gia
cầm là rất lớn, giống gà kiêm dụng nặng hơn gà hướng trứng khoảng 500 - 700g.
So sánh tốc độ sinh trưởng của các giống gà Leghorn trắng và Plymouth Rock
trắng, thấy rằng gà Plymouth Rock trắng sinh trưởng nhanh hơn gà Leghorn trắng
ở giai đoạn 2 - 6 tuần tuổi và sau đó không có sự khác nhau.
Theo Chanbers. J.R (1990) [60] có nhiều gen ảnh hưởng đến sự phát
triển của cơ thể gà. Có gen ảnh hưởng đến sự phát triển chung hoặc ảnh
hưởng tới sự phát triển theo nhóm tính trạng, hay một vài tính trạng riêng lẻ.
Tác giả Nguyễn Đăng Vang và Cs, (1999) [53] khi nghiên cứu tốc độ sinh
trưởng trên 2 dòng gà kiêm dụng 882 và jiang cun của giống gà Tam Hoàng

cho thấy tốc độ sinh trưởng của 2 dòng gà này là có sự khác nhau cụ thể là: Ở
15 tuần tuổi dòng 882 đạt 1872,67g/con, trong khi đó dòng Jiang cun đạt
1748,86g/con. Theo Phùng Đức Tiến (1996) [41] đối với gà Hybro HV85 ở
56 ngày tuổi, khối lượng cơ thể đạt 1915,38 gam/con. Như vậy các nghiên
trên đã trứng tỏ sự khác biệt về tốc độ sinh trưởng do di truyền, ít nhất có một
gen về sinh trưởng liên kết với giới tính. Ảnh hưởng của dòng, giống đến tốc
độ sinh trưởng thể qua sự di truyền các đặc điểm của chúng cho đời sau, được
đặc trưng bởi hệ số di truyền. Đã có những kết quả nghiên cứu hệ số di truyền
về tốc độ sinh trưởng và khối lượng cơ thể.
11
Theo Nguyễn Ân và Cs, (1983) [1] hệ số di truyền ở các thời điểm khác
nhau cũng cho ta kết quả khác nhau. Hệ số di truyền ở 3 tháng tuổi là 0,26 -
0,5. Kushner (1974) cho biết hệ số di truyền về khối lượng sống của gà ở 1, 2
và 3 tháng tuổi tương ứng là 0,33; 0,46 và 0,43.
- Ảnh hưởng của tính biệt và tốc độ mọc lông
Sự khác nhau về tốc độ sinh trưởng và khối lượng của cơ thể do yếu tố
tính biệt quy định. Trong đó con trống có tốc độ sinh trưởng nhanh hơn con
mái. Những sai khác này được quy định không phải do hormone sinh dục mà
do gen liên kết giới tính, những gen này ở gà trống (1 NST giới tính) hoạt
động mạnh hơn ở gà mái (2 NST giới tính). Lúc mới sinh gà trống nặng hơn
gà mái 1% và khi tuổi càng tăng thì sự khác nhau càng lớn: Ở 2; 3 và 8 tuần
tuổi sự khác nhau tương ứng là 5%; 11% và 27%. Theo Nguyễn Duy Hoan và
Cs (1998) [10] thì tốc độ sinh trưởng của con trống non cao hơn con mái non.
Tác giả Phùng Đức Tiến (1996) [41] và F.A. Hays (1994) [61] đã xác
định biến dị di truyền và tốc độ mọc lông phụ thuộc vào giới tính. Theo
Siegel và Dumington, (1987) thì những alen quy định tốc độ mọc lông nhanh
phù hợp với tăng khối lượng cao. Trong cùng một dòng thì gà mái mọc lông
nhanh hơn gà trống. Tốc độ mọc lông còn liên quan đến chất lượng thịt của
gia cầm, những con nào có tốc độ mọc lông nhanh thường có chất lượng thịt
tốt hơn. Theo H.Brandech và Biilchel, (1978) [8] những gia cầm lớn nhanh thì

có tốc độ mọc lông nhanh, đây cũng là một tính trạng di truyền liên kết với
giới tính.
Tốc độ sinh trưởng còn phụ thuộc vào tốc độ mọc lông, các kết quả
nghiên cứu đã xác định trong cùng một giống, cùng tính biệt những gà có tốc
độ mọc lông nhanh sẽ có tốc độ sinh trưởng và phát triển tốt hơn. Theo một số
tác giả cho rằng tốc độ mọc lông có quan hệ chặt chẽ với tốc độ sinh trưởng,
những gà lớn nhanh thì mọc lông nhanh và đều hơn những gà chậm lớn.
12
- Ảnh hưởng của hình dáng kích thước và chiều đo cơ thể
Tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng, các giống gia cầm được chia thành 3
loại hình: Hướng trứng, hướng thịt, kiêm dụng. Gà hướng thịt thường có hình
dáng cân đối, ngực sâu, chân chắc, tiết diện hình vuông hay hình chữ nhật,
nhưng gà chuyên trứng lại có kết cấu thanh gon, tiết diện hình tam giác.
Theo tài liệu của Chanbers, J.R, (1990) [60] thì kích thước các chiều đo
có tương quan với sức sản xuất của gà Broiler. Tác giả cũng cho biết độ lớn
góc ngực, dài chân, dài đùi và đường kính ống chân có tương quan với khối
lượng cơ thể.
- Ảnh hưởng của chế độ dinh dưỡng
Chế độ dinh dưỡng đóng vai trò quan trọng đối với sức sản xuất của gia
cầm. Việc cung cấp đầy đủ và cân đối giữa các chất sẽ giúp cho gia cầm phát
huy tốt tiềm năng di truyền và sức sản xuất của từng giống, dòng. Tác giả Lê
Hồng Mận và Cs (1993) [21] cho rằng muốn phát huy được khả năng sinh
trưởng cần phải cung cấp đầy đủ thức ăn tối ưu, với đầy đủ các chất dinh
dưỡng được cân bằng nghiêm ngặt giữa Protein, các Axitamin với năng
lượng. Ngoài ra trong thức ăn hỗn hợp nuôi gà còn được bổ sung nhiều chế
phẩm sinh học, hoá học để kích thích sinh trưởng làm tăng chất lượng thịt.
Dinh dưỡng là một trong những nhân tố quan trọng quyết định đến sức sản
xuất của gia cầm, khi đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng thì thời gian đạt khối
lượng tiêu chuẩn sẽ giảm xuống. Theo Phạm Minh Thu (1996) [47] khối
lượng cơ thể gà Broiler Rhoderi Jiang cun ở 2 chế độ dinh dưỡng nuôi khác

nhau lúc 12 tuần tuổi cho khối lượng là hoàn toàn khác nhau.
Như vậy để đạt năng suất và hiệu quả trong chăn nuôi gia cầm, đặc biệt
để phát huy được tiềm năng sinh trưởng thì một trong những vấn đề căn bản
là lập ra những khẩu phần nuôi dưỡng đảm bảo, phù hợp và cân đối trên cơ sở
tính toán nhu cầu về Axit amin cho từng giai đoạn. Ngoài ra khả năng sinh
trưởng của từng loại gia cầm còn bị ảnh hưởng rất lớn bởi điều kiện chăm sóc,
nuôi dưỡng, mùa vụ, khí hậu chuồng trại, phương thức chăn nuôi và vệ sinh
phong bệnh …
13
- Ảnh hưởng của môi trường
Điều kiện môi trường có ảnh hưởng lớn đến quá trình sinh trưởng cũng
như sức sản xuất của gia cầm. Nếu điều kiện môi trường là tối ưu cho sinh
trưởng và phát triển thì gia cầm khỏe mạnh và lớn nhanh, nếu điều kiện môi
trường không thuận lợi thì sẽ tạo điều kiện cho vi sinh vật phát triển gây bệnh
ảnh hưởng đến sức khoẻ của con vật.
- Ảnh hưởng của nhiệt độ
Nhiệt độ cao làm cho gà sinh trưởng chậm, tăng tỷ lệ chết, gây thiệt hại
về kinh tế. Theo Lê Hồng Mận và Cs (1993) [21] giai đoạn gà con cần nhiệt
độ từ 30
0
C - 35
0
C, nếu nhiệt độ thấp hơn gà ăn kém và chậm lớn, chết nhiều.
Sau 5 tuần tuổi nhiệt độ tiêu chuẩn của chuông nuôi từ 18
0
C - 20
0
C sẽ giúp gà
ăn khoẻ và lớn nhanh. Chế độ chiếu sáng cũng ảnh hưởng tới khả năng
sinh trưởng và sức sản xuất, vì gà rất nhạy cảm với ánh sáng. Lewis. P.D,

Perry. G.C and Morris T.R, (1992) [68] cho biết các giống gà khác nhau
thì tác động của thời gian chiếu sáng cũng khác nhau, đặc biệt vào các
tuần tuổi 9; 12; 15. Từ tuần thứ 9 trở đi nếu tăng thời gian chiếu sáng thì
sẽ kích thích gà phát dục sớm.
Ngoài ra các yếu tố khác như: Ẩm độ, độ thông thoáng, tốc độ gió lùa và
mật độ nuôi nhốt cũng ảnh hưởng đến sức sản xuất của gia cầm. Nguyễn Hữu
Cường và Cs (1986 - 1996) [4], khi nghiên cứu trên gà Broiler BE11, V35,
AV35 từ 1 - 49 ngày tuổi cho biết khi mật độ nuôi nhốt cao thì khả năng tăng
trọng sẽ giảm.
1.1.3. Sinh sản và những yếu tố ảnh hưởng tới khả năng
sinh sản ở gia cầm
1.1.3.1. Khả năng sinh sản
Sinh sản là cơ sở cho mọi năng suất ở vật nuôi, là tính trạng được các
nhà chọn giống quan tâm. Đối với gia cầm những tính trạng mà các nhà chọn
14
giống quan tâm là: Tuổi đẻ lần đầu, tuổi thành thục sinh dục, tỷ lệ đẻ, sản
lượng trứng, tỷ lệ trứng có phôi … Ở các loài gia cầm khác nhau thì những
đặc điểm sinh sản cũng có sự khác nhau rõ rệt. Theo Trần Đình Miên và Cs
(dẫn theo Phạm Thị Minh Thu 1996) [47] đã viết con người chúng ta luôn chú
trọng đến sinh sản của gia cầm là vì: chức năng đó không những liên quan
đến việc duy trì nòi giống, sự sinh tồn của loài mà còn giúp con người nhân
nhanh số lượng đầu gia cầm và khả năng sản xuất ra 2 sản phẩm quan trọng
đó là trứng và thịt gia cầm.
Đối với gia cầm sự di truyền về sinh sản cũng hết sức phức tạp, theo các
công trình nghiên cứu của nhiều tác giả cho thấy, việc sản xuất trứng có thể
do 5 yếu tố ảnh hưởng mang tính di truyền đó là:
Tuổi thành thục về tính dục: Nhiều tác giả cho rằng cũng có ít nhất 2 gen
chính tham gia vào yếu tố này, một là cặp gen E và e (gen liên kết với giới
tính) hai là cặp gen E’ và e’. Gen trội E chịu trách nhiệm về tính thành thục
sinh dục

Cường độ đẻ: Yếu tố này do hai cặp gen Rr và R’r’ phối hợp cũng với
nhau để điều hành cường độ ấp.
Bản năng đòi ấp: Do hai gen A và C điều khiển phối hợp với nhau.
Thờì gian nghỉ đẻ: (đặc biệt là nghỉ vào mùa đông) Do cặp gen Mm điều
khiển, nếu gà có cặp gen mm thì mùa đông vẫn đẻ đều.
Thời gian kéo dài chu kỳ đẻ: Do cặp gen Pp điều hành
Yếu tố thứ nhất và yếu tố thứ 5 là 2 yếu tố kết hợp với nhau, cũng có
nghĩa là các cặp gen Ee và Pp có phối hợp với nhau. Tuy nhiên ngoài các gen
chính tham gia vào quá trình điều khiển các yếu tố trên còn có một số gen phụ
trợ vào.
1.1.3.2. Những yếu tố ảnh hưởng tới khả năng sinh sản
- Ảnh hưởng của tuổi đẻ quả trứng đầu
Tuổi của gà mái khi đẻ quả trứng đầu tiên đó là một chỉ tiêu để đánh giá
15
sự thành thục về sinh dục, chỉ tiêu này cũng là một yếu tố cấu thành năng
suất. Tuổi đẻ trứng đầu được xác định bằng số ngày tuổi từ khi nở đến khi đẻ
quả trứng đầu tiên. Trong một đàn được xác định bằng tuổi đẻ của 5% số cá
thể trong đàn.
Hays (dẫn theo H. Brandech và Biilchel 1978) [8] thì những gà có tuổi
đẻ quả trứng đầu > 245 ngày cho sản lượng trứng thấp hơn so với những gà
có tuổi đẻ quả trứng đầu < 215 ngày là 6,9 quả. Khavecman (1972) (dẫn theo
Phạm thị Minh Thu 1996) [47], cho biết tuổi đẻ trứng đầu còn phụ thuộc vào
chế độ dinh dưỡng, các yếu tố môi trường đặc biệt là thời gian chiếu sáng.
Thời gian chiếu sáng kéo dài sẽ thúc đẩy gia cầm đẻ trứng sớm. Theo Siegel
và Dunmington (dẫn theo Bùi Thị Oanh, (1996) [31], khối lượng và cấu trúc
thành phần cơ thể là những nhân tố ảnh hưởng đến tính thành thục của gà
mái. Nhưng trên thực tế gà năng cân lại đẻ ít trứng.
Theo HocKing và Cs (dẫn theo chanbers năm 1990) [60] đã giải thích
nguyên nhân gây nên hiện tượng đẻ ít trứng của gà nặng cân là do trong cơ
thể gà tồn tại nhiều bao noãn, chúng thường xuyên lấn át buồng trứng. Tác giả

Nguyễn Đăng Vang và Cs, (1999) [53] đã xác định tuổi đẻ quả trứng đầu trên
gà Tam Hoàng 882 là 143 ngày. Tác giả Nguyễn Đăng Vang và Cs, (1999)
[54] khi nghiên cứu trên gà Đông Tảo cho thấy gà gà Đông Tảo có tuổi đẻ
quả trứng đầu là 157 ngày tuổi. Theo H. Brandech và Bilchel (1978) [8] hệ số
di truyền tính trạng tuổi đẻ quả trứng đầu tiên của gà là h
2
= 0,15 - 0,14. Giữa
tuổi thành thục sinh dục và kích thước cơ thể có mối tương quan nghịch, nếu
chọn lọc theo hướng tăng khối lượng quả trứng sẽ dẫn đến tăng khối lượng cơ
thể và tăng tuổi đẻ quả trứng đầu tiên.
Trong cùng một giống, dòng, cá thể nào được chăm sóc nuôi dưỡng tốt,
điều kiện thời tiết, khí hậu và chế độ chiếu sáng phù hợp sẽ có tuổi thành thục
16
về sinh dục sớm hơn.
- Ảnh hưởng của sản lượng trứng
Sản lượng trứng là chỉ tiêu phản ánh chất lượng giống, sản lượng trứng
là số trứng thu được trong một thời gian sinh sản của gà, nó phụ thuộc vào
cường độ đẻ và thời gian đẻ. Cường độ đẻ trứng là sức đẻ trong một thời gian
nhất định, cường độ này được xác định theo khoảng thời gian 30 hoặc 60
ngày hoặc 100 ngày trong giai đoạn đẻ. Hiện nay sản lượng trứng tính theo
tuần tuổi. Theo Pedroso(1975), ở Cu Ba các dòng gà thuần chủng được tính
sản lượng trứng từ 23 - 74 tuần tuổi, các dòng khác được tính sản lượng trứng
từ 26 – 78 tuần tuổi. Các hãng gia cầm nổi tiếng trên thế giới như Shaver -
Canada, Euribrid - Hà Lan, ArborEikerr - Mỹ, Lomhn - Tây Đức, ISA - Pháp.
Theo Mack (1991) (dẫn theo Nguyễn Thị Thanh Bình 1998) [2] sản lượng
trứng cũng tính theo tuần và kéo dài tới 78 - 80 tuần tuổi. Cường độ đẻ trứng
cao nhất vào các tháng thứ 2 và thứ 3 sau đó giảm dần cho đến hết năm đẻ.
Đối với gà cao sản, đồ thị đẻ trứng tăng từ khi bắt đầu đẻ cho đến tuần
24 đạt 50% và đỉnh cao từ tuần thứ 30 - tuần 35 đạt > 90%, sau đó giảm dần
và giữ ở mức 60% ở tuần thứ 76. Khi cường độ đẻ giảm nhiều gà thường hay

biểu hiện bản năng đòi ấp, các giống gà khác nhau thì bản năng này cũng
khác nhau. Số lượng trứng có tương quan di truyền âm với khối lượng cơ thể
nhưng khối lượng trứng lại có tương quan di truyền dương với khối lượng cơ
thể. Cho nên khi gà đẻ lần đầu thường có khối lượng trứng nhỏ sau đó tăng
dần lên cùng với sự phát triển của cơ thể gà trong thời gian đẻ. Phạm Thị
Minh Thu (1996) [47] cho rằng thời gian đẻ kéo dài là yếu tố quyết định đến
sản lượng trứng.
Sản lượng trứng là một tính trạng di truyền nó phụ thuộc hay liên quan
trực tiếp với giống, dòng, sự phát triển, tuổi, độ béo, trạng thái sức khoẻ, khối
lượng sống, sự thay đổi lông, bản tính ấp bóng, độ thành thục, cường độ và
17
sức bền của đẻ trứng, chu kỳ và nhịp độ của đẻ trứng, thức ăn và dinh dưỡng,
tiểu khí hậu chuồng nuôi, kỹ thuật chăm sóc và quá trình quản lý của con
người. Theo Trần Đình Miên và Cs (1994) [23]. Cho biết quy luật đẻ trứng
của gia cầm thay đổi theo tuổi và có sự khác nhau giữa các loài. Nguyễn Thị
Bạch Yến (1996) [59] cho rằng năng suất trứng của gà Tây cao nhất ở năm
thứ nhất sau đó giảm dần ở các năm sau từ 10 - 20% so với năm trước. Theo
Nguyễn Duy Hoan và Trần Thanh Vân (1998) [10] năng suất trứng của gà
năm thứ 2 giảm so với năm đầu là 15 - 20%, nhưng với vịt thì năng suất trứng
cao nhất năm thứ 2, ngỗng tăng dần từ năm thứ nhất đến năm thứ 3 đạt đến
đỉnh cao, sau đó giảm dần.
Bảng 1.3. Sản lượng trứng tính theo tuổi của gia cầm (%)
Tuổi đẻ (năm) Gà Vịt Ngỗng Gà Tây
Năm thứ 1 100 100 100 100
Năm thứ 2 85 109 125 106
Năm thứ 3 85 82 165 94
Năm thứ 4 62 73 150 75
Năm thứ 5 55 54 75 37
(Nguồn Nguyễn Mạnh Hùng và Cs, 1994)
- Ảnh hưởng của khối lượng trứng

Khối lượng trứng là một tính trạng số lượng quan trọng, là thành phần
thứ 2 cấu thành nên năng suất trứng. Khối lượng trứng phụ thuộc vào chiều
đo của quả trứng vào khối lượng lòng trắng, lòng đỏ và vỏ trứng. Ngoài ra
khối lượng trứng còn phụ thuộc vào giống, khối lượng cơ thể gà, tuổi đẻ và
chế độ dinh dưỡng, đây là những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng
trứng giống, tỷ lệ nở, chất lượng và sức sống của gà con. Theo Ranch (1971)
(dẫn theo Nguyễn Thị Thanh Bình, 1998) [2] cho rằng khối lượng trứng tăng
dần đến cuối chu kỳ đẻ, khối lượng trứng và sản lượng trứng thường có hệ số
tương quan âm. Theo một số tác giả đã xác định hệ số này là 0,11. Theo Bùi
Quang Tiến và Cs, (1985) [38] khi nghiên cứu trên gà Rhode-Ri cho thấy hệ
18
số này là 0,33, và khối lượng trứng từ 46 - 51g cho tỷ lệ nở cao nhất đạt
75,5%. Trong khi Nguyễn Duy Nhị (1984) [30] khi nghiên cứu ấp trứng gà
Plymouth Rock dòng TD3, đời 8 đã kết luận trứng có khối lượng từ 52 - 54 g
cho tỷ lệ nở đạt 72,6% và trứng có khối lượng 56 - 60 g cho tỷ lệ nở đạt
57,9%. Qua kết quả trên cho thấy trứng có khối lượng > 55g < 45g cho tỉ lệ
nở thấp.
- Ảnh hưởng của hình dạng và chất lượng trứng
Theo một số tác giả cho rằng chất lượng trứng gồm 2 phần: Bên ngoài
quả trứng và bên trong của quả trứng.
Chất lượng bên ngoài gồm: Khối lượng, hình dáng, mầu sắc, độ dày và
bền của vỏ trứng.
Chất lượng bên trong gồm: Lòng đỏ, lòng trắng, giá trị dinh dưỡng, màu
sắc, mùi vị, các chỉ số hình thái của lòng đỏ và lòng trắng.
Trứng gia cầm có hình bầu dục với một đầu lớn và một đầu bé hay hình
e líp với hai đầu trứng tròn đều. Hình thái của quả trứng có liên quan đến đặc
điểm của từng cá thể, tuy nhiên, đây cũng là tính trạng mang tính di truyền rõ
rệt. Theo một số tác giả đã nghiên cứu thì hình dáng trứng của gia cầm có hệ
số di truyền h
2

= 0,14 và được đánh giá qua chỉ số hình thái. Chỉ số này được
tính theo công thức D/R (dài/rộng) hoặc R/D (rộng/dài) x 100.
Theo Marble (1943), (dẫn theo Nguyễn Thị Thanh Bình, 1998) [2] chỉ số
hình thái của trứng được xác định bằng tỷ lệ giữa đường kính lớn và đường
kính nhỏ. Chỉ số hình dạng của trứng bình thường từ 1,3 - 1,4. Theo Sarenke
dẫn theo Vũ Quang Ninh (2002) [26] cho rằng chỉ số hình dạng là chỉ tiêu cơ
bản để đánh giá tỷ lệ ấp nở và độ bền vững của vỏ trứng. Nếu trứng đồng đều
sẽ cho quá trình phát triển của phôi đồng đều, số gà con nở cùng một thời
gian nhiều. nếu kích thước trứng không đồng đều khi đưa vào ấp, những trứng
nhỏ phôi sẽ phát triển nhanh hơn, nở sớm hơn những trứng có kích thước lớn.
Độ dày của vỏ trứng ảnh hưởng đến độ bền của trứng và có ý nghĩa
19
trong việc vận chuyển, quá trình trao đổi chất và là nguồn gốc cung cấp can xi
cho phôi. Một số tác giả cho rằng độ dày vỏ trứng chịu ảnh hưởng của các
yếu tố di truyền. Theo một số tác giả đã tính được độ dày vỏ trứng từ 0,15 -
0,3. Các yếu tố ảnh hưởng của môi trường như: Nhiệt độ chuồng nuôi cao,
tuổi gà già, các điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng kém và các tác nhân gây
stress đều có thể làm giảm độ dày của vỏ trứng.
Lòng trắng trứng gồm: Lòng trắng loãng và lòng trắng đặc, được cấu tạo
chủ yếu là chất Albumin, một số khoáng chất khác. Nước giúp cho quá trình
cấu tạo lông, da và các nội quan trong quá trình phát triển phôi. Chất lượng
lòng trắng trứng được xác định bằng đơn vị Haugh. Theo Xergecva (1977),
(dẫn theo Nguyễn Thị Thanh Bình 1998) [2], trứng ấp có chất lượng tốt phải
đạt từ 75 đến 90 đơn vị Haugh. Những gà có tỷ lệ đẻ trứng cao thường trứng
có hàm lượng lòng trắng cao.
Lòng đỏ trứng: Là thành phần quan trọng nhất của trứng gồm có H20,
Protein, Lipit, Gluxit, các Axit amin không thay thế và Vitamin làm nhiệm vụ
cung cấp chất dinh dưỡng cho phôi. Chất lượng lòng đỏ còn được xác định
bằng chỉ số lòng đỏ. Trong những năm gần đây các nhà khoa học đã tập trung
nghiên cứu các chỉ tiêu chất lượng trứng, để nâng cao giá trị sinh học của

trứng, cũng như nâng cao khả năng ấp nở, tỷ lệ gia cầm con khoẻ mạnh.
Căn cứ vào kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả cho thấy: Chỉ số hình
thái trứng và số gen quy định tính trạng này không giống nhau ở các loại gia
cầm. Theo Nguyễn Minh Quang (1994) [34] cho biết, số lượng gen quy định
tính trạng chỉ số hình thái trứng ở Vịt là 61 - 63 gen, ở Gà là 78 - 84 gen, ở
Ngỗng là 64 - 65 gen. Bùi Quang Tiến và Cs (1985) [38] đã kết luận: nói
chung chỉ số hình thái trứng có ý nghĩa quan trọng không chỉ trong tiêu thụ,
vận chuyển và bảo quản, mà còn liên quan đến tỷ lệ ấp, nở của gia cầm.Theo
Xergecva (1977), (dẫn theo Nguyễn Thị Thanh Bình 1998) [2], đã tìm thấy
20
tương quan di truyền giữa chỉ số hình thái với tỷ lệ ấp, nở.
Theo H.R.Wilson (1991) cho biết có sự tương quan giữa chỉ số hình thái
với sự phát triển của phôi. Theo Nguyễn Thị Bạch Yến (1996) [59] thường
những quả trứng quá tròn hoặc quá dài đều cho tỷ lệ ấp, nở thấp. Tác giả Bùi
Văn Chủm (2000) [3] cho biết những quả trứng quá dài cho tỷ lệ ấp nở thấp là
vì buồng khí quá xa so với phôi, đối với quả trứng quá tròn thường thì buồng
khí quá nhỏ (thể tích buồng khí bé) hàm lượng Oxy thấp không đủ cung cấp
cho quá trình hoạt động của phôi thai. Mặt khác khoảng cách giữa buồng khí
và đĩa phôi gần nhau làm tốc độ trao đổi khí mạnh sinh ra hiệu nhiệt và sản
phẩm độc gây ảnh hưởng đến sự phát triển của phôi. Vì vậy, chỉ số hình thái
còn là căn cứ để đánh giá chất lượng bên trong của trứng. Theo tác giả Lê Thị
Thuý, Nguyễn Văn Thiện, Bùi Quang Tiến, (1994) [48].
- Ảnh hưởng của tỷ lệ phôi và ấp nở
Tỷ lệ phôi là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá khả năng sinh sản của gia
cầm. tỷ lệ phôi phụ thuộc vào tuổi, tỷ lệ trống mái trong đàn, mùa vụ, chế độ
dinh dưỡng và chọn đôi giao phối.
Tỷ lệ nở phụ thuộc vào trứng có phôi, chất lượng trứng và chế độ ấp.
Đây là chỉ tiêu để đánh giá sự phát triển phôi và sức sống của gia cầm non.
Hệ số di truyền của tỷ lệ nở thấp, theo Critlen năm 1957 thì h
2

= 0,03 – 0,05.
Theo Nguyễn Quý Khiêm và Cs, (1998 - 1999) [16] cho biết khối lượng
trứng, sự cân đối giữa các thành phần cấu tạo (lòng trắng, lòng đỏ) và cấu trúc
vỏ trứng có ảnh hưởng lớn đến tỷ lệ ấp nở. Thường tỷ lệ ấp nở cao ở những
trứng có khối lượng trung bình. Trứng quá to hoặc quá bé đều cho tỷ lệ ấp nở
thấp. Bạch Thị Thanh Dân và Cs, (1996 - 1997) [5] và theo Nguyễn Đức
Trọng và Cs, (1999) [50], ngoài các yếu tố như vệ sinh thú y, kỹ thuật thu
nhặt và bảo quản trứng, thì quy trình ấp nở cũng có vai trò rất quan trọng ảnh
hưởng đến tỷ lệ ấp nở của trứng gia cầm.
1.1.4. Sức sản xuất thịt của gia cầm
21
Khả năng sản xuất thịt là khả năng tạo nên khối lượng cơ ở độ tuổi mà
đem giết thịt đạt hiệu quả kinh tế cao. Ở gia cầm sức sản xuất thịt được đánh
giá qua hai chỉ tiêu: Năng suất thịt và chất lượng thịt.
1.1.4.1. Năng suất thịt
Năng suất thịt là chỉ tiêu quan trọng và thông dụng để đánh giá sức sản
xuất thịt của gia cầm. Năng suất thịt được đánh giá thông qua khối lượng cơ
thể, tỷ lệ thân thịt, tỷ lệ các bộ phận và tỷ lệ phần nạc, mỡ, da, đặc biệt là tỷ lệ
thịt đùi, thịt ngực và tỷ lệ mỡ bụng. Theo Ricard, F.H và Poudman (1967)
[64] cho biết mối tương quan giữa khối lượng sống và khối lượng từng phần
giết mổ là rất cao, thường là 0,9 và tương quan giữa khối lượng sống và tỷ lệ
mỡ bụng là thấp (0,2 - 0,5). Chanbers (1990) [60] thì cho rằng giữa các dòng
luôn có sự khác nhau về di truyền, năng suất thịt xẻ hay năng suất các phần
như thịt đùi, thịt ngực, cánh, chân hay các phần thịt ăn được (không xương)
và từng phần thịt, xương, da.
Các tác giả Nguyễn Văn Thiện, Hoàng Phanh, (1999) [45] nghiên cứu
khả năng sinh trưởng và sinh sản của gà Mía cho biết: Nhìn chung tỷ lệ thân
thịt, thịt đùi, thịt lườn của gà Mía cao hơn gà Ri. Tác giả Bou Wkamp (1973)
(dẫn theo Phạm Thị Minh Thu, 1996) [47] đã nghiên cứu và so sánh tỷ lệ thịt
xẻ và các phần thịt trên đàn gà thương phẩm và khẳng định rõ sự sai khác ở

các chỉ tiêu trên giữa các công thức lai, khi nghiên cứu mối quan hệ giữa thịt
xẻ và năng xuất thịt gà Newhamshire. Theo Ngô Giản Luyện, (1994) [20] thì
trong cùng một dòng gà tỷ lệ thân thịt của con đực lớn hơn con cái từ 1 - 2 %,
trong khi tỷ lệ tỷ lệ thịt ngực của con mái lại cao hơn con trống.
Tác giả Nguyễn Đăng Vang và Cs, (1999) [54], nghiên cứu lai kinh tế
giữa gà Kabir và Lương Phượng hoa cho thấy tỷ lệ thân thịt là 72,32 – 72,4%;
tỷ lệ thịt đùi là 20,64 - 21,43%; tỷ lệ thịt ngực là 20,68 - 20,8%. Tác giả
Nguyễn Đăng Vang và Cs, (1989-1990) [53], khi mổ khảo sát gà Tam Hoàng
22

×