Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng một số biện pháp kỹ thuật đến năng suất và chất lượng cải bắp tại thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.96 MB, 107 trang )

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BVTV : Bảo vệ thực vật
CT : Công thức
ĐC : Đối chứng
NSLT : Năng suất lý thuyết
NSTT : Năng suất thực thu
MPNN : Màng phủ nông nghiệp
TGST : Thời gian sinh trưởng
TCVN : Tiêu chuẩn Việt Nam
SBP : Sau bón phân
i
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Ảnh hưởng của thời gian cách ly bón phân đạm đến dư
lượng NO
3
-
và năng suất rau cải bắp KK Cross tại Thái Nguyên
Bảng 3.2. Ảnh hưởng của lượng đạm bón đến các giai đoạn sinh
trưởng của cải bắp KK Cross
Bảng 3.3. Ảnh hưởng của lượng đạm bón đến số lá ngoài của rau
cải Bảng 3.4. Ảnh hưởng của lượng đạm bón đến đường kính tán lá
rau cải bắp KK Cross
Bảng 3.5. Ảnh hưởng của lượng đạm bón đến một số chỉ tiêu bắp
Bảng 3.6. Ảnh hưởng của lượng đạm bón đến tình hình sâu hại
chủ yếu trên cây cải bắp
Bảng 3.7. Ảnh hưởng của lượng đạm bón đến các yếu tố cấu thành
năng suất và năng suất của cải bắp KK Cross
Bảng 3.8. Ảnh hưởng của liều lượng đạm bón đến kết quả phân tích
dư lượng NO
3
-



vật trên cải bắp KK Cross
Bảng 3.9. Ảnh hưởng của lượng đạm bón đến các yếu tố cấu thành
năng suất và năng suất của cải bắp KK Cross
Bảng 3.10. Ảnh hưởng của một số loại thuốc BVTV sau phun đến
mật độ sâu hại chính trên cải bắp KK Cross
Bảng 3.11. Ảnh hưởng của một số loại thuốc BVTV sau
phun đế hiệu lực trừ sâu trên cải bắp KK Cross
Bảng 3.12. Ảnh hưởng của thuốc BVTV đến các yếu tố cấu thành
năng suất và năng suất của cải bắp KK Cross
Bảng 3.13. Sơ bộ hạch toán kinh tế
Bảng 3.14. Ảnh hưởng của mảng phủ đến các giai đoạn sinh
trưởng của cải bắp KK Cross
Bảng 3.15. Ảnh hưởng của màng phủ đến số lá ngoài của rau cải
bắp KK Cross
Bảng 3.16. Ảnh hưởng của màng phủ đến đường kính tán lá rau cải bắp
KK Cross
33
35
36
39
42
44
46
48
49
51
52
54
57

58
59
61
ii
Bảng 3.17. Ảnh hưởng của màng phủ đến một số chỉ tiêu bắp
Bảng 3.18. Ảnh hưởng của màng phủ đến tình hình sâu hại chủ
yếu trên cây cải bắp KK Cross
Bảng 3.19. Ảnh hưởng của màng phủ đến các yếu tố cấu thành
năng suất và năng suất của cải bắp KK Cross
Bảng 3.20. Ảnh hưởng của màng phủ đến kết quả phân tích dư
lượng NO
3
-

trên cải bắp
Bảng 3.21. Hiệu quả kinh tế
63
64
65
67
68
iii
DANH MỤC HÌNH
Đồ thị 3.1 Ảnh hưởng của lượng đạm bón đến tốc độ ra lá ngoài
của cải bắp KK CROSS vụ sớm
Đồ thị 3.2: của Ảnh hưởng của lượng đạm bón đến tốc độ ra lá
ngoài của cải bắp KK CROSS vụ chính
Đồ thị 3.3. Ảnh hưởng của lượng đạm bón đến động thái tăng
trưởng đường kính tán của cải bắp KK CROSS vụ sớm
Đồ thị 3.4. Ảnh hưởng của lượng đạm bón đến động thái tăng

trưởng đường kính tán của cải bắp KK CROSS vụ chính
Đồ thị 3.5 . Ảnh hưởng của lượng đạm bón đến năng suất lý thuyết
và năng suất thực thu của cải bắp KK CROSS vụ sớm
Đồ thị 3.6 . Ảnh hưởng của lượng đạm bón đến năng suất lý thuyết
và năng suất thực thu của cải bắp KK CROSS vụ chính
Đồ thị 3.7. Ảnh hưởng của thuốc BVTV đến năng suất lý thuyết và
năng suất thực thu cải bắp KK CROSS vụ sớm
Đồ thị 3.8. Ảnh hưởng của thuốc BVTV đến năng suất lý thuyết và
năng suất thực thu cải bắp KK CROSS vụ chính
Đồ thị 3.9. Ảnh hưởng của màng phủ đến động thái ra lá ngoài của
cải bắp KK CROSS vụ sớm
Đồ thị 3.10. Ảnh hưởng của màng phủ đến động thái ra lá ngoài của
cải bắp KK CROSS vụ chính
Đồ thị 3.11.Ảnh hưởng của màng phủ đến động thái tăng trưởng
đường kính tán của cải bắp KK CROSS vụ sớm
Đồ thị 3.12.Ảnh hưởng của màng phủ đến động thái tăng trưởng
đường kính tán của cải bắp KK CROSS vụ chính
Đồ thị 3.13 . Ảnh hưởng của màng phủ đến năng suất lý thuyết và
năng suất thực thu cải bắp KK CROSS vụ sớm
Đồ thị 3.14 . Ảnh hưởng của màng phủ đến năng suất lý thuyết và
năng suất thực thu cải bắp KK CROSS vụ chính
38
38
40
40
47
47
55
55
60

60
62
62
66
66
iv
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Rau là loại thực phẩm rất cần thiết trong đời sống hàng ngày và không
thể thay thế được, vì rau có vị trí quan trọng đối với sức khoẻ con người. Nó
là loại cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao, giá trị sản xuất của rau gấp 2 - 3 lần
so với cây lúa. Bên cạnh đó, rau còn có chu kỳ sinh trưởng ngắn, có thể gieo
trồng nhiều vụ trong một năm. Với nhu cầu sản xuất rau tăng nhanh, thì
những lo ngại về sự an toàn của sản phẩm rau cũng ngày càng tăng. Việc
nghiên cứu và phát triển sản xuất rau an toàn ở nước ta được phát động quan
tâm thực hiện từ giữa những năm 90 của thế kỷ trước. Tuy nhiên cho đến nay
kết quả vẫn còn hạn chế. Theo số liệu của Cục Trồng trọt (2010), năm 2009
diện tích rau trồng theo quy trình an toàn mới đạt 2% trung bình cả nước. Có
rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, song việc sử dụng hóa chất bảo
vệ thực vật và phân bón hóa học thiếu kiểm soát trong canh tác rau là yếu tố
quyết định [23].
An toàn thực phẩm là một vấn đề hết sức quan trọng cho sức khoẻ con
người. Trung tâm quốc gia kiểm soát bệnh tật (National Centres for Diseas
Control) của Hoa Kỳ đã từng báo cáo vào năm 1999, đã có 76 triệu người ở
Hoa kỳ đã bị ngộ độc vì thức ăn, trong đó có 325.000 người nhập viện và
5.000 tử vong. Ở Việt Nam, theo thống kê của Bộ Y tế (2006), trong khoảng
thời gian từ 2001 - 2005, đã có gần 23.000 người Việt Nam bị ngộ độc thức
ăn. Riêng năm 2005, đã có 144 vụ ngộ độc với 4.304 người nhập viện và 53
ca tử vong. Nghiên cứu cho thấy nguyên nhân của ngộ độc phần lớn do vi
sinh vật (51,4%), có độc trong thức ăn (27,1%), hoá chất (8,3%) và 13,2%

không rõ nguyên nhân [16].
Theo báo cáo (2007) của Bộ Y tế trong những năm gần đây, mỗi năm
Việt Nam có khoảng 150.000 người bị bệnh ung thư (năm 2010: 216.000
người) và có tới 1 nửa (bằng dân số trung bình của 1 huyện) trong số đó bị chết
1
vì căn bệnh này. Một trong những nguyên nhân chính gây bệnh ung thư đó là
do thức ăn bị nhiễm độc (thuốc BVTV, NO
3
, Kim loại nặng….), trong đó có
rau quả [16].
Tại các vùng sản xuất rau tập trung, chuyên canh ven thành phố và khu
công nghiệp, do hệ số sử dụng ruộng đất cao, thời vụ rải đều nên trên đồng
ruộng hầu như có cây trồng quanh năm đã tạo ra nguồn thức ăn liên tục cho
các loại sâu hại do vậy khó tránh khỏi việc sử dụng thuốc thường xuyên.
Trung bình một chu kỳ trồng cải bắp ở Đà Lạt người nông dân phải phun từ
12-15 lần với lượng thuốc từ 4-5 kg/ha trong một vụ 75-90 ngày ( [31]. Ngoài
ra, nhiều nông dân còn sử dụng thuốc bảo vệ thực vật độ độc cao để xử lý hạt
giống, sử dụng thuốc không rõ nguồn gốc, sử dụng liên tục một loại thuốc…
Bên cạnh tồn dư hóa chất bảo vệ thực vật, dư lượng nitrat (NO
3
-
) vượt
ngưỡng cho phép trong sản phẩm rau xanh là 2 nhân tố chủ yếu làm cho rau
mất an toàn, gây hại cho sức khỏe người sử dụng.
Như vậy, để giải bài toán cân đối giữa năng suất, ngoại hình sản phẩm
với việc tích lũy NO
3
-
dư lượng hóa chất bảo vệ thực vật cho rau xanh tại mỗi
vùng trồng nhất định đều cần tổ chức nghiên cứu để xác định ngưỡng hợp lý

cho canh tác an toàn và bền vững.
Cải bắp là loại rau thuộc nhóm cây họ hoa thập tự có diện tích gieo
trồng lớn nhất trong vụ chính ở nước ta nói chung và Thái Nguyên. Đây là
loại cây chịu tác động của nhiều loại sâu bệnh và rất mẫn cảm với phân bón
hóa học. Biện pháp kỹ thuật để cải bắp đạt được năng suất cao và đảm bảo an
toàn vệ sinh thực phẩm là mối quan tâm thường xuyên của người sản xuất và
cả người tiêu dùng.
Để góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và đảm bảo vệ sinh an
toàn thực phẩm cho cải bắp trồng tại Thái Nguyên , chúng tôi tiến hành thực
hiện đề tài: “ Nghiên cứu ảnh hưởng một số biện pháp kỹ thuật đến năng
suất và chất lượng cải bắp tại Thái Nguyên”.
2
2. Mục đích yêu cầu của đề tài
2.1.Mục đích
- Xác định liều lượng đạm và thời gian cách ly bón phân đạm đối với
rau cải bắp tại Thái Nguyên
- Xác định được loại thuốc bảo vệ thực vật thích hợp để trừ sâu hại rau
cải bắp tại Thái Nguyên.
- Đánh giá hiệu quả kinh tế của màng phủ đối với rau cải bắp tại Thái
Nguyên
2.2.Yêu cầu
- Đánh giá được khả năng sinh trưởng, phát triển
- Đánh giá được khả năng chống chịu sâu bệnh hại
- Đánh giá được năng suất
- Đánh giá được hiệu quả kinh tế
3. Ý nghĩa của đề tài
3.1.Ý nghĩa khoa học
Xác định biện pháp kỹ thuật làm cơ sở để xây dựng quy trình canh tác
an toàn. Kết quả nghiên cứu góp phần làm tài liệu tham khảo cho công tác
nghiên cứu, chỉ đạo sản xuất, biện pháp phòng trừ sâu bênh hại trên rau cải

bắp tại Thái Nguyên.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Góp phần hoàn thiện quy trình sản xuất cải bắp theo hướng VietGAP
tại Thái Nguyên nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, mức độ an toàn vệ
sinh thực phẩm và mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người sản xuất.
3
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Cùng với sự phát triển chung của kinh tế thế giới, nền nông nghiệp
cũng đang trên đà phát triển với hàng loạt các giống cây trồng mới được lai tạo,
chuyển gen…có năng suất cao phẩm chất tốt đang thay dần những giống cũ, bản
địa, cổ truyền năng suất thấp. Nhiều biện pháp thâm canh mới đang được áp
dụng vào sản xuất trên nhiều vùng sản xuất rộng lớn tạo ra sản phẩm năng suất,
chất lượng cao, có tính cạnh tranh cao đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và hướng tới
thị trường xuất khẩu. Theo các tiêu chí của thực hành nông nghiệp tốt (Good
Agricultural Practice - GAP) như: EUROGAP, ASEANGAP… việc sản xuất
rau an toàn (RAT) theo tiêu chuẩn GAP là một nhu cầu khách quan trong xu thế
hội nhập. Trong tình hình nước ta đã tham gia tổ chức thương mại thế giới
(WTO), khu vực thương mại tự do (AFTA) hàng rào thuế quan được thay thế bởi
các qui định về an toàn thực phẩm, kiểm dịch thực vật. Sản phẩm nông nghiệp
phải đảm bảo các tiêu chuẩn xuất khẩu là đòi hỏi khách quan. Do đó, việc quy
hoạch, xây dựng vùng sản xuất theo hướng an toàn vệ sinh thực phẩm là nhu cầu
cần thiết để kịp thời đáp ứng cho việc cung cấp sản phẩm nông nghiệp chất
lượng cao cho thị trường trong nước và ra thị trường thế giới góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp hiện nay.
Phân bón là dinh dưỡng không thể thiếu để cây trồng sinh trưởng và phát
triển thuận lợi. Song, cũng giống như các nhân tố đất, nước, thuốc BVTV, phân
bón luôn tiềm tàng, ẩn chứa rất nhiều nguy cơ ô nhiễm cho cây trồng đặc biệt là
cây rau. Đó là các nguy cơ ô nhiễm về sinh học (virus, vi khuẩn, nấm) và hóa

học (các nguyên tố kim loại nặng, hàm lượng nitơrat). Vì vậy, việc sử dụng phân
bón hợp lý và an toàn cho cây trồng nói chung, cây rau nói riêng là một việc làm
cần thiết, phục vụ cho sức khỏe con người. Trong hoạt động sản xuất nông
4
nghiệp phân bón là một trong những vật tư quan trọng và được sử dụng với một
lượng khá lớn hàng năm. Phân bón đã góp phần đáng kể làm tăng năng suất cây
trồng, chất lượng nông sản, đặc biệt là đối với cây lúa ở Việt Nam. Theo đánh
giá của Viện Dinh dưỡng Cây trồng Quốc tế (IPNI), phân bón đóng góp khoảng
30-35% tổng sản lượng cây trồng. Tuy nhiên phân bón cũng chính là những loại
hoá chất nếu được sử dụng đúng theo quy định sẽ phát huy được những ưu thế,
tác dụng đem lại sự mầu mỡ cho đất đai, đem lại sản phẩm trồng trọt nuôi sống
con người, gia súc. Ngược lại nếu không được sử dụng đúng theo quy định, phân
bón lại chính là một trong những tác nhân gây nên sự ô nhiễm môi trường sản
xuất nông nghiệp và môi trường sống.
Lượng nitrat có thể tích lũy trong mỗi loại rau, phụ thuộc vào nhiều yếu
tố, trong đó liều lượng phân đạm sử dụng cho cây trồng được đặc biệt quan tâm.
Sự có mặt của nitrat trong nông sản sẽ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người
và dư lượng nitrat trong mô thực vật vượt quá ngưỡng an toàn được xem như
một độc chất.
Trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, người nông dân chỉ chú trọng
đến năng suất, thâm canh tăng vụ chạy theo lợi nhuận. Nên đã trồng rau theo
cách bón phân cho rau một cách bừa bãi, phun thuốc trừ sâu một cách không có
giới hạn, thậm chí là cả các loại thuốc không được phép sử dụng . Dẫn đến mỗi
năm có hàng nghìn ca ngộ độc thực phẩm, do sử dụng các sản phẩm rau tươi có
chứa dư lượng thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật vượt xa mức độ cho phép.
Thực tế, việc hàng ngày ăn phải rau không đảm bảo tiêu chuẩn là mầm mống
gây nên nhiều căn bệnh nguy hiểm như ung thư, ngộ độc thần kinh, rối loạn
chức năng thận… . Thuốc bảo vệ thực vật cũng là một nhân tố gây mất ổn
định môi trường, nó gây ô nhiễm nguồn nước, đất, để lại dư lượng trên nông
sản phẩm gây độc cho người và nhiều loài động vật máu nóng. Tuy nhiên

trong những năm gần đây, vấn đề bảo vệ môi trường được quan tâm hơn bao
5
giờ hết, nhiều loại thuốc bảo vệ thực vật mới, trong đó nhiều thuốc trừ sâu
bệnh sinh học có hiệu quả cao, an toàn với môi trường được ra đời.
Màng phủ nông nghiệp ngày càng được sử dụng rộng rãi vì những lợi ích
của nó đối với nhiều loại cây trồng. Đối với những loại cây rau: cải bắp, mướp
đắng, dưa chuột, ớt, đậu đũa, côve … thì biện pháp sử dụng màng phủ nông
nghiệp là giải pháp tối ưu. Vì như vậy sẽ kiểm soát được độ ẩm trong đất. Mùa
mưa lượng nước mưa không trực tiếp rơi xuống mặt luống nên bộ rễ không bị
úng nước do thiếu oxy, mặt luống không bị trơ mòn làm trơ rễ. Đất tơi xốp suốt
vụ giúp duy trì độ ẩm đất ổn định suốt mùa vụ, bộ rễ rau lan toả khắp mặt líp. Sử
dụng màng phủ còn giảm tối đa được công làm cỏ. Cây trồng có lá già không
trực tiếp tiếp xúc với mặt đất nên giảm được nguồn nấm bệnh lây lan từ đất. Một
số côn trùng do ảnh hưởng của màng phủ nên không có chỗ trú ẩn, khả năng gây
hại giảm: như bù lạch, rầy mềm trên dưa hấu, sâu ăn tạp. Từ đó giảm lượng
thuốc BVTV phải phun. Khi bón phân vào ruộng rau có màng phủ sẽ giảm sự
rửa trôi phân bón, đặc biệt giảm bốc hơi và rửa trôi của phân đạm bón vào.
Màng phủ che gần hết luống đất, làm cho rau quả nằm trên không phải tiếp xúc
trực tiếp với mặt đất nên giữ cho rau quả sạch làm tăng giá trị sản phẩm. Dùng
màng phủ sẽ tạo cho người nông dân nhiều điều kiện ứng dụng kỹ thuật canh tác
mới, giống mới vào nông nghiệp.
Thái Nguyên phấn đấu đến năm 2015, tối thiểu 20 % diện tích tại các
vùng sản xuất rau an toàn tập trung đáp ứng yêu cầu VietGAP, 10% tổng sản
phẩm được chứng nhận và công bố sản xuất, chế biến theo quy trình sản xuất
RAT. Để phục vụ cho mục tiêu trên thì việc nghiên cứu các biện pháp kỹ
thuật nhằm hoàn thiện quy trình kỹ thuật sản xuất cải bắp an toàn phục vụ cho
sản xuất rau an toàn tại địa phương là khâu đầu tiên trong chuỗi quá trình từ
đồng ruộng đến bàn ăn của một nền sản xuất hội nhập
6
1.2. Tình hình nghiên cứu và sản xuất rau trên thế giới

1.2.1.Tình hình sản xuất rau trên thế giới
Theo tổ chức Nông - Lương thế giới ( FAO), trên thế giới có khoảng trên
17 triệu ha đất sử dụng cho trồng rau, bao gồm hơn 120 chủng loại rau khác nhau
với sản lượng lên tới trên 245 triệu tấn. Trong đó có 12 chủng loại chủ lực được
trồng trên 80% diện tích rau trên toàn thế giới, loại được trồng nhiều nhất là cà
chua 2,7 triệu ha, dưa hấu 1,93 ha, hành 1,91 triệu ha, cải bắp 1,7 triệu ha… Để
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người, ngoài việc mở rộng diện tích,
năng suất và sản lượng các loại rau cũng không ngừng tăng.
Bảng 1.1. Tình hình sản xuất rau trên thế giới qua các năm
Năm Diện tích (ha) Năng suất (tấn/ha) Sản lượng (tấn)
2004 15.937.621 14,3413 228.567.064
2005 16.478.642 14,2494 234.811.143
2006 16.882.868 14,3506 242.279.601
2007 17.022.433 14,4379 245.079.950
2008 17.110.000
14,3385 245.329.000
( Nguồn: FAO - 2010) [15].
Qua bảng trên ta thấy: Tình hình sản sản xuất rau trên thế giới từ năm
2004 trở lại đây có nhiều biến động cả về diện tích, năng suất và sản lượng.
- Về diện tích: Từ năm 2004 - 2007 diện tích trồng rau trên thế giới đã
tăng nên nhanh chóng. Năm 2004 diện tích trồng rau trên thế giới chỉ có
15.937.621 ha. Nhưng đến năm 2007 đã lên tới 17.110.000 ha. Như vậy chỉ
sau 3 năm diện tích trồng rau trên thế giới đã tăng 1.172.388 ha ( trung bình
tăng 293.039 ha/năm). Qua đó ta thấy được cây rau chiếm vị trí ngày càng
quan trọng trong nền sản xuất nông nghiệp thế giới.
- Về năng suất: Nhìn chung trong những năm gần đây tương đối ổn
định dao động từ 14,3413 - 14,4379 tấn /ha.
7
- Về sản lượng: Từ năm 2004 trở lại đây tuy năng suất rau không tăng
nhưng do diện tích tăng qua các năm nên sản lượng rau trên thế giới đã tăng rõ

rệt, bình quân hàng năm tăng 4.190.484 tấn/ năm. Điều đó đã chứng tỏ nghề
trồng rau trên thế giới đang có xu hướng phát triển nhanh chóng, rau xanh trở
thành nhu cầu thiết yếu và ngày càng tăng lên với đời sống của con người.
Theo Trung tâm rau quả thế giới, rau là loại cây có tốc độ tăng diện tích
đất trồng nhanh nhất trên thế giới. Nhiều khu vực trước đây trồng ngũ cốc và
bông sợi hoặc bỏ hoang thì nay đã chuyển sang trồng các loại rau có giá trị
kinh tế cao (châu á cũng là khu vực có tốc độ tăng diện tích đất trồng rau cao
nhất trên thế giới hiện nay). Trung Quốc là một quốc gia phát triển rộng nhất
lớn châu lục, tốc độ tăng trưởng của ngành rau gần bằng tốc độ tăng trưởng
kinh tế nước này.
Trong vòng 20 năm qua, sản xuất rau của Trung Quốc đạt tốc độ tăng
trưởng trung bình trên 6%/năm. So với mặt bằng chung của các nước đang
phát triển trên thế giới, tốc độ tăng trưởng của ngành rau Trung Quốc cao hơn
tới 3%/năm
Tính chung toàn thế giới, tốc độ tăng diện tích đất trồng rau trung
bình đạt 2,8%/năm, cao hơn 1,05%/năm so với diện tích đất trồng cây ăn trái,
1,33%/năm sao với cây lấy dầu, 2,36%/ năm so với cây lấy rễ, 2,41%/ năm so
với cây họ đậu. Trong khi đó, diện tích trồng cây ngũ cốc và cây lấy sợi lại
giảm tương ứng là 0,45%/năm và 1,82%/năm [36].
Nhu cầu nhập khẩu rau dự báo sẽ tăng khoảng 1,8%/ năm. Các nước
phát triển như Pháp, Đức, Canada… vẫn là những nước nhập khẩu rau chủ
yếu. Các nước đang phát triển, đặc biệt là Trung Quốc, Thái Lan và các nước
nam bán cầu vẫn đóng vai trò chính cung cấp rau tươi trái vụ [17].
Cũng theo FAO (2001), sản lượng rau tiêu thụ bình quân đầu người
toàn thế giới là 78 kg/năm. Riêng châu Á sản lượng rau 2001 đạt khoảng
487.215 triệu tấn. Trong đó Trung Quốc là nước có sản lượng rau cao nhất,
đạt 70 triệu tấn/năm; thứ 2 là Ấn Độ với sản lượng rau đạt 65 triệu tấn/năm.
Nhìn chung, mức tăng trưởng sản lượng rau châu Á các năm qua đạt khoảng
3% năm, tương đương khoảng 5 triệu tấn/ năm .
8

Hiện nay, hầu hết các nước trên thế giới đã ứng dụng những kỹ thuật
tiên tiến trong sản xuất rau như : kỹ thuật thuỷ canh, kỹ thuật trồng rau trong
điều kiện có thiết bị che chắn (nhà lưới, nhà nilon, nhà màn, màng phủ nông
nghiệp ) và trồng ở điều kiện ngoài đồng theo qui trình sản xuất nghiêm ngặt
đối với từng loại rau và phù hợp với từng vùng sinh thái.
Nói như vậy không có nghĩa là sản xuất rau theo phát triển kỹ thuật
công nghệ cao chiếm ưu thế tuyệt đối. Cho đến nay, sản xuất rau ngoài đồng
vẫn chiếm phần lớn diện tích và sản lượng rau của thế giới và có lẽ sẽ chẳng
có gì thay thế được hình thức sản xuất này. Chẳng hạn như sản xuất rau trong
nhà kính chỉ thực sự có nghĩa trong mùa đông ở các nước xứ nước lạnh, trong
khi sản xuất rau ngoài đồng vẫn có thể cho năng suất cao với chất lượng đảm
bảo và giá thành hạ nếu được áp dụng các quy trình nghiêm ngặt. Thêm vào
đó ngày nay, với các công nghiệp bảo quản, chế biến tiên tiến người ta có thể
dự trữ và cung cấp rau ăn cho cả mùa đông.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu và sản xuất rau trong nước
1.2.2.1.Các văn bản pháp luật
Trên cơ sở thực trạng sản xuất hiện nay, yêu cầu hội nhập các sản phẩm
nông nghiệp, trong đó có rau quả của nước ta, từ kinh nghiệm quản lý an toàn vệ
sinh thực phẩm của các nước đi trước, Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và PTNT
trong năm 2008 đã ban hành hàng loạt các văn bản làm cơ sở pháp lý cho hoạt
động chuyên môn và sản xuất. Nổi bật và quan trọng nhất là các văn bản sau:
Quyết định số 379/2008/QĐ-BNN ngày 28/1/2008 của Bộ NN&PTNT
về ban hành quy trình thực hành nông nghiệp tốt cho rau quả tươi an toàn ở
Việt Nam (VietGAP) [21].
Quyết định số 84/2008/QĐ-BNN ngày 28/7/2008 về việc ban hành quy
chế chứng nhận quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP) cho
rau, quả và chè an toàn [23].
9
Quyết định số 107/2008/QĐ-TTg ngày 30/7/2008 của Thủ tướng Chính
phủ về một số chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, chế biến tiêu thụ rau, quả

và chè an toàn đến 2015 [22].
Quyết định số 99/2008/QĐ-BNN ngày 15/10/2008 về việc ban hành
quy định quản lý sản xuất, kinh doanh rau, quả và chè an toàn [24].
1.2.2.2.Tình hình sản xuất rau ở Việt Nam
Việt Nam có vị trí địa lý trải dài qua nhiều vĩ độ, khí hậu nhiệt đới gió
mùa và có một số vùng tiểu khí hậu đặc biệt như Sa Pa, Tam Đảo, Đà Lạt…
có điều kiện tự nhiên khá thuận lợi cho sản xuất rau. Việt Nam có thể trồng
được trên 120 loại rau có nguồn gốc nhiệt đới, á nhiệt đới, ôn đới và cùng với
các tiến bộ KHCN các loại rau trái vụ được sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng và phục vụ chế biến xuất khẩu Đối với nghề trồng rau, Việt Nam
đã hình thành nên 4 vùng sinh thái rõ rệt (Đường Hồng Dật, 2002)[10].
- Vùng khí hậu á nhiệt đới: Sapa, Bắc Hà (Lào Cai), Đà Lạt (Lâm
Đồng). Vùng này có mùa đông lạnh với nhiệt độ khoảng 4-5
0
C đôi khi xuống
dưới 0
0
C, rất thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển các loại rau ôn đới.
- Vùng nhiệt đới có mùa đông lạnh: Vùng đồng bằng, trung du và miền
núi phía Bắc với khí hậu chia thành 4 miền rõ rệt, cho phép trồng rau quanh
năm. Vụ Xuân Hè phù hợp cho việc trồng trọt các loại rau chịu nóng và ưa nước,
vụ Thu Đông phù hợp cho các loại rau ưa lạnh và chịu hạn, đặc biệt vụ Đông ở
các tỉnh đồng bằng, trung du và các tỉnh miền núi phía bắc có thể trồng trọt các
loại rau có nguồn gốc ôn đới và á nhiệt đới như xu hào, cà chua, cải bắp,
- Vùng nhiệt đới có mùa hè khô nóng bao gồm các tỉnh cực nam Trung
bộ: Ninh Thuận, Bình Thuận Phù hợp với sản xuất một số loại rau đặc thù
như các loại dưa và hành tây.
- Vùng nhiệt đới điển hình : Các tỉnh Nam bộ với khí hậu chia thành 2
mùa rõ rệt trong năm (mùa mưa và mùa khô) nên việc trồng rau gặp nhiều
khó khăn hơn cả.

10
Chính nhờ vào các đặc trưng khí hậu này mà rau nước ta rất phong phú
và đa dạng về các chủng loại, đặc biệt là rau vụ đông. Có thể nói đây là thế
mạnh của sản xuất rau Việt Nam so với các nước trong khu vực.
Sản lượng rau trên đất nông nghiệp được hình thành từ 2 vùng sản xuất chính:
- Vùng rau chuyên canh ven thành phố và khu công nghiệp, chiếm 38-
40 % và 45- 50 % sản lượng [27]. Tại đây, rau sản xuất phục vụ cho tiêu dùng
của dân cư tập trung là chủ yếu. Chủng loại rau vùng này rất phong phú và
năng suất cũng cao hơn. Tuy nhiên, mức độ an toàn thực phẩm rau xanh ở đây
lại thấp hơn so với các vùng sản xuất khác.
- Vùng rau hàng hoá được luân canh với cây lương thực trong vụ đông
tại các tỉnh phía bắc, đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ và tại tỉnh
Lâm Đồng. Sản phẩm rau tươi của vùng này ngoài cho tiêu dùng trong nước
còn là nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và cho xuất khẩu sang các nước
có mùa đông lạnh không trồng được rau. Nếu phát huy được lợi thế này,
nghành sản xuất rau sẽ có tốc độ nhảy vọt.
Ngoài ra, với gần 12 triệu hộ nông dân ở nông thôn, với diện tích trồng
rau gia đình bình quân 30m
2
/hộ (cả rau cạn và rau mặt hồ), nên tổng sản
lượng rau cả nước hiện nay khoảng 6,6 triệu tấn. Bình quân lượng rau xanh
sản xuất tính trên đầu người ở nước ta vào khoảng 84 kg/người/năm (tiêu thụ
80 kg) như kế hoạch đề ra năm 2005 chúng ta mới chỉ đạt chỉ tiêu về khối
lượng rau cho tiêu dùng trong nước và một phần xuất khẩu.
11
Bảng 1.2: Diện tích, sản lượng rau ở Việt Nam phân theo địa phương
T
T
Địa phương
2007 2008 2009

D.tích
(ha)
S.lượng
(tấn)
D.tích
(ha)
S.lượng
(tấn)
D.tích
(ha)
S.lượng
(tấn)
Cả nước 706.479 11.084.655 722.580 11.510.700 735.335 11.885.067
I Miền Bắc 335.835 4.889.834 339.534 5.002.330 330.578 4.956 667
1 ĐB.Sông Hồng 160.747 2.996.443 156.144 2.961.669 142.505 2.832.753
2 Đông Bắc 82.543 947.143 85.948 1.018.904 89.359 1.084.037
3 Tây Bắc 15.563 179.419 16.681 195.605 18.093 211.852
4 Bắc Trung Bộ 76.982 766.829 80.761 826.152 80.620 828.024
II Miền Nam 370.644 6.194.730 383.046 6.510 387 404.757 6.928.400
1 Nam Trung bộ 47.427 708 316 46 646 695 107 49 459 713 473
2 Tây nguyên 61.956 1 274 728 67 075 1 482 361 74 299 1 635 944
3 Đông Nam Bộ 69. 723 892 631 70 923 940 225 73 094 1 014 715
4 ĐBS Cửu Long 191 538 3 319 055 198 402 3 392 694 207 905 3 564 268
Nguồn: Tổng cục thống kê 2008-2010
Theo số liệu thống kê, diện tích trồng rau cả nước ta năm 2009 là
735.335 ha, năng suất đạt 161,6 tạ/ha, sản lượng đạt 11.885.067 tấn, tăng
30,02% so với năm 2001 (514.600 ha), tăng gấp đôi so với 10 năm trước
(năm 1996 là 342,6 nghìn ha). Đây là một trong nhóm cây trồng có tốc độ
tăng diện tích gieo trồng nhanh nhất trong một thập kỷ qua [26].
Theo quan điểm của nhiều nhà khoa học cho rằng: Rau an toàn là rau

không dập nát, úa, hư hỏng, không có đất bụi bao quanh, không chứa các sản
phẩm hoá học độc hại: hàm lượng nitrat, kim loại nặng, dư lượng thuốc bảo vệ
thực vật cũng như các vi sinh vật gây hại được hạn chế theo tiêu chuẩn an toàn.
Trong những năm gần đây, diện tích cải bắp trong cả nước đều tăng.
Tính từ 1993 đến 2005, tỷ lệ tăng trưởng diện tích này là 12,8%. Mặc dù năng
suất không tăng nhiều do chưa chủ động được nguồn giống và đầu tư về mặt
kỹ thuật nhưng sản lượng cải bắp cũng tăng không ngừng với 13% mức tăng
trưởng hàng năm.
Sau 5 năm thực hiện chương trình phát triển rau quả và hoa cây cảnh đã
đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Tốc độ tăng trưởng diện tích rau đạt
5,54 %/ năm [33].
Ngành hàng rau quả đã góp phần đáng kể trong chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp theo nghị định số 09/NQ-CP ngày
12
15/06/2000 của chính phủ. Nhiều sản phẩm có chất lượng cao đã chiếm lĩnh
được thị trường của nhiều nước trên thế giới. Nhiều tiến bộ khoa học mới đã
được áp dụng trong sản xuất như khâu tạo giống mới sạch bệnh, thâm canh,
bảo vệ thực vật làm gia tăng nhanh năng suất, chất lượng sản phẩm [33].
Công tác giống : Với chương trình giống cây trồng, vật nuôi và giống
cây lâm nghiệp thời kỳ 2000-2005 được thủ tướng chính phủ phê duyệt. Sau 5
năm, chương trình đã tạo được nhiều giống mới, nhập nội được nhiều quỹ gen
quý, nhân và cung cấp cho sản xuất một khối lượng lớn giống tiến bộ kỹ thuật
đáp ứng nhu cầu sản xuất hàng hoá, phục vụ xuất khẩu và thay thế nhập khẩu.
So với lúc bắt đầu chương trình giống, tỷ lệ giống tiến bộ kỹ thuật trong sản
xuất đã gia tăng 2-3 lần. Việc ban hành Pháp lệnh về giống cây trồng là cơ sở
pháp lý quan trọng để tăng cường hiệu quả quản lý giống cây trồng [33].
Trong chế biến : đã chú trọng đầu tư phát triển mới và nâng cấp nhiều cơ sở
chế biến rau quả đã được trang bị đầu tư thiết bị và công nghệ hiện đại tạo ra
những sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Đào tạo nguồn nhân lực: đã đào tạo cán bộ kỹ thuật, quản lý vững về

trình độ chuyên môn, nghiệp vụ góp phần thúc đẩy ngành rau quả Việt Nam
phát triển nhanh, mạnh và bễn vững [33].
Trong nhiều năm gần đây, nhiều địa phương đã tích cực triển khai các dự
án, đề tài phát triển rau an toàn, tập trung chủ yếu ở các đô thị lớn: Hà Nội có
3.756 ha rau an toàn (RAT) chiếm 44% diện tích trồng rau đáp ứng được 20%
nhu cầu tiêu dùng. Diện tích an toàn ở Vĩnh Phúc là 1500 ha, thành phố Hồ Chí
Minh hơn 3000 ha, Bà Rịa - Vũng Tàu có hàng trăm mô hình trồng rau an toàn
thành công và sẽ phát triển đến 1000 ha trong những năm sắp tới. Rau sạch cũng
đang phát triển ở Hải Phòng, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Quảng Nam, An
Giang Đáng mừng là đã có những chủ trương, kế hoạch phát triển rau sạch của
nhà nước từ Trung ương đến địa phương cũng như sự hỗ trợ của quốc tế [32].
13
Mô hình sản xuất rau an toàn được xây dựng ở các tỉnh miền Bắc, trong
đó có các tỉnh, thành phố như: Hà Nội, Hưng Yên, Hà Tây, Bắc Ninh, Vĩnh
Phúc, Hải Phòng là các vùng sản xuất trọng điểm. Tính đến tháng 5 năm
2007, tổng diện tích trồng rau của 6 tỉnh đồng bằng sông Hồng này mới chỉ
đạt 16000 ha, chưa đạt 10 % diện tích trồng rau.
Sở NN & PTNT thành phố Hà Nội đã xây dựng đề án sản xuất và tiêu
thụ rau an toàn giai đoạn 2007 - 2010 với số tiền đầu tư lên tới 350 tỷ đồng.
Đề án đạt mục tiêu đến năm 2010 thành phố có 100 % diện tích sản xuất theo
theo quy trình sản xuất rau an toàn [18].
Tại các tỉnh miền Nam, mặc dù hầu hết các tỉnh đã triển khai trồng thử,
nhân rộng diên tích trồng rau an toàn, song chưa có thống kê cụ thể nào về
diện tích trồng rau an toàn tại tỉnh này. Thành phố Hồ Chí Minh- địa phương
được đánh giá là có phong trào phát triển diện tích rau an toàn khá mạnh. Đến
tháng 5 năm 2007 có tổng số 1.712 ha được công nhận là có đủ điều kiện sản
xuất rau an toàn trên tổng số hơn 2.000 ha trồng rau [18].
Điều tra sản xuất rau có xu hướng ngày càng mở rộng về diện tích và
sản lượng tăng đồng thuận. Sản lượng rau tiếp tục gia tăng (3,5%/năm) do
tăng diện tích và tăng năng suất. Với khối lượng rau trên đây, năm 2009

lượng rau sản xuất bình quân đầu người ở Việt Nam đạt xấp xỉ 140
kg/người/năm, cao hơn trung bình toàn thế giới (128 kg/người/năm), gấp đôi
các nước ASEAN. Vấn đề quan trọng hiện nay trong sản xuất rau là chất
lượng vệ sinh an toàn thực phẩm.
Tháng 3/2007 Hà Nội đã thông qua đề án “Sản xuất và tiêu thụ rau an
toàn với mục tiêu: “Hoàn thành quy hoạch sản xuất rau an toàn, hình thành
các vùng sản xuất rau an toàn tập trung được đầu tư đồng bộ cơ sở hạ tầng,
tăng sản lượng và chất lượng rau an toàn cung cấp cho người tiêu dùng thủ
đô, phấn đấu đến năm 2008 có 80% và năm 2010 có 100% diện tích sản xuất
rau của Hà Nội được sản xuất theo quy trình sản xuất rau an toàn”[2].
14
Tỉnh Vĩnh Phúc có chương trình “Phát triển rau sạch cộng đồng” nằm
trong chương trình IPM - NNS được triển khai theo quyết định số 179/QĐ
ngày 1/2/1997 của UBND tỉnh. Nội dung cơ bản của chương trình là áp dụng
các nguyên tắc IPM trên cây rau, thực hiện 5 điều cấm trong sản xuất, ứng
dụng rộng rãi chế phẩm EM và các chế phẩm sinh học khác [18].
Tại Hưng Yên có một số mô hình sản xuất rau an toàn ở quy mô nhỏ
do Viện nghiên cứu rau quả phối hợp với địa phương thực hiện: mô hình dưa
chuột an toàn tại Kim Động (thực hiện 2004-2007), rau ăn lá tại thị xã Hưng
Yên (thực hiện 2005-2007). Thực hiện yêu cầu của Bộ NN & PTNT hiện nay,
Sở NN & PTNT xây dựng đề án sản xuất rau an toàn giai đoạn 2008 - 2010
trên địa bàn toàn tỉnh. Dự án hướng tới khép kín từ sản xuất đến tiêu thụ[18].
Hiện nay chưa có một quy trình kỹ thuật sản xuất rau an toàn thống
nhất trong cả nước. Mỗi địa phương áp dụng một quy trình sản xuất rau an
toàn khác nhau. Ở các vùng rau an toàn, phần lớn ngươi dân tự sản xuất, tự
tiêu thụ đã dẫn đến đầu ra không ổn định, chưa gây dựng được niềm tin ở
người tiêu dùng về chất lượng rau.
Như vậy việc trồng rau an toàn chưa thực sự được các tỉnh và người
dân coi trọng, sản xuất bấp bênh, tiêu thụ rất khó khăn, quản lý chất lượng
chưa được triển khai chặt chẽ.

Ngoài các địa phương trên, hiện các tỉnh, thành phố khác như Hải
Phòng, Hải Dương, Việt Trì, Thái Bình, Thái Nguyên, Hà Nam, Đà Nẵng, Huế,
Cần Thơ đều có các dự án phát triển rau an toàn và các mô hình trình diễn.
1.2.2.3. Tình hình sản xuất rau tại Thái Nguyên
Theo thống kê của cục thống kê Thái Nguyên từ năm 2006 - 2010, diện
tích gieo trồng và sản lượng rau được thể hiện qua bảng sau
Bảng 1.3. Diện tích, sản lượng rau ở một số địa phương trong tỉnh
15
Địa điểm
Diện tích (ha) Sản lượng (tấn)
2006 2007 2008 2009 2010 2006 2007 2008 2009 2010
Toàn tỉnh
7.176 7.982 8.047 7.724 8.920 8.523 99.879 116.745 117.798 139.635
TP Thái Nguyên
801 782 709 776 815 14.774 14.567 12.492 13.745 1.5382
Sông Công
276 300 349 381 421 2.779 3.147 4.603 5.455 6.133
Định Hóa
664 684 725 651 778 5.913 6.059 8.140 8.983 10.497
Võ Nhai
324 348 333 426 324 2.667 3.145 4.175 5.436 4.448
Phú Lương
536 529 521 392 290 5.952 5.460 6.520 4.656 3.718
Đồng Hỷ
1.013 1.211 1.270 1.055 1.071 14.758 18.160 21.908 18.359 19.469
Đại Từ
1.002 1.460 1.572 1.699 2.417 10.318 17.470 22.548 25.158 36.182
Phú Bình
1.185 1.220 1.231 1.178 1.381 10.931 13.585 17.010 17.477 21.326
Phổ Yên

1.375 1.448 1.337 1.166 1.423 17.140 18.286 19.349 18.460 22.480
(Nguồn: Cục thống kê tỉnh Thái Nguyên tháng 05/2012)
Hiện nay, tại Thái Nguyên sản xuất rau an toàn theo VietGAP vẫn
chưa được mở rộng do kinh phí đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cho nghiên
cứu khoa học, cho phân tích chất lượng sản phẩm, xúc tiến thương mại và
quảng bá sản phẩm còn những hạn chế nhất định. Sản phẩm chưa có thương
hiệu cũng là một cản trở đến việc mở rộng diện tích sản xuất.
Tỉnh đã có chính sách đầu tư cho công tác quy hoạch, phát triển vùng
sản xuất rau an toàn
Các ban ngành của tỉnh đã quan tâm đến giải pháp đầu tư đồng bộ từ
khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ, trong đó khâu sản xuất được hỗ trợ, hướng
dẫn và giám sát kỹ thuật.
1.3. Các kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài:
1.3.1. Tình hình nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng bón, thời gian bón
đến sinh trưởng, phát triển của cây rau và hàm lượng nitrat trong rau
16
Phân hóa học dùng để bón vào đất cung cấp cho cây trồng và cải tạo
môi trường đất. Mặt khác phân bón còn dùng để phun qua lá bổ sung dinh
dưỡng và điều hòa sinh trưởng cho cây trồng.
Theo M. Yamaguchi (1983), A. Gupta (1987) thì đạm là yếu tố hạn chế
hàng đầu với năng suất rau. Khi cung cấp đủ đạm cây sinh trưởng phát triển
tốt, nếu thiếu đạm thì không những cây sinh trưởng phát triển kém, năng suất
kém mà phẩm chất lại giảm [18].
Theo M.E. Yarvan (1980) thì khi bón lượng đạm tăng từ 30 lên 180 kg
N/ha làm tăng hàm lượng NO
3
-
trong cà rốt từ 21,7 lên 40,6 mg/kg đều vượt
ngưỡng cho phép của tổ chức y tế thế giới quy định [18].
Năm 2005 tác giả Rankop, Dimitrop và các tác giả khác cho rằng: Các

thời kỳ sinh trưởng khác nhau của cây cải bắp thì yêu cầu về N, P, K cũng thay
đổi từ thời kỳ đầu đến thời kỳ cuối, cây hút 85% đạm, 96% lân và 84% kali [14].
Theo Đặng Thị An và cộng sự (1998) khi khảo sát chất lượng rau ở các
chợ nội thành đã thấy 30 trong 35 loại quả phổ biến có tồn dư NO
3
vượt trên
500mg/kg. Một nghiên cứu khác cho thấy trong các phương thức canh tác rau,
rau sản xuất an toàn, đầu tư thấp và rau hữu cơ đều có hàm lượng NO
3
dưới
ngưỡng cho phép (500 mg/kg). Trong khi tất cả các mẫu rau sản xuất theo
hướng thâm canh cao đều có hàm lượng NO
3
cao hơn (từ 700-1300
mg/kg).12].
Các nghiên cứu gần đây (Trần Khắc Thi và cs, 2008) [29] cho thấy có
tới trên 20 yếu tố làm tăng hàm lượng NO
3
trong rau xanh và môi trường canh
tác nhưng chủ yếu vẫn do các yếu tố sau quyết định:
Bón nhiều phân đạm: Các nghiên cứu cho thấy với nhóm rau cải ăn lá
có thời gian sinh trưởng dưới 60 ngày, cứ 10kg N sẽ cho 3 - 3,2 tấn sản
phẩm/ha và dư lượng NO3 sẽ tích lũy 60mg/kg chất xanh. Nếu bón quá 80 kg
N thì năng suất chững lại, không theo quy luật và dư lượng NO3 sẽ vượt
17
ngưỡng cho phép. Với mỗi nhóm cây việc tích lũy NO3 trong sản phẩm ăn
được có khác nhau theo thứ tự: lá- thân- củ- quả.
Theo diễn đàn rau sạch và sức khỏe cộng đồng, khi phân tích hàm lượng
nitrat trên rau cải bắp, cải xanh, su hào, cà chua, đậu, chè trong sản xuất ở các
địa phương: Hà Nội, Thái Nguyên, Bắc Giang, Hải Phòng, Nam Định, thành

phố Hồ Chí Minh, trên 100 mẫu kiểm tra đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép từ
1,3 - 5 lần [ 18].
Theo số liệu điều tra của Trung tâm Tư vấn đầu tư về nitrat trong rau
nghiên cứu trên thị trường Hà Nội và một số địa phương khác cho thấy: sự
tồn tại dư lượng nitrat trong rau vượt quá tiêu chuẩn cho phép: Mẫu rau tại
chợ Ngã tư sở ( Hà Nội), cải trắng có dư lượng nitrat cao gấp 9,47 lần, cải
xanh 3,47 lần, dưa chuột là 5,08 lần, bắp cải 3,13 lần; tương tự trong các mẫu
rau cải bắp ở Hoằng Hóa - Thanh Hóa là 3,13 lần; một số mẫu củ cải ở Sóc
Sơn - Hà Nội là 8,5 lần [ 18]
Theo Vũ Thị Đào( 1999), khi nghiên cứu ảnh hưởng của lượng bón phân
đạm đến tích lũy nitrat trong rau ở các thí nghiệm trồng rau sạch cho thấy:
Đối với cải bao, hành khi mức bón đạm càng cao thì sự tích lũy nitrat càng
cao và đều vượt ngưỡng cho phép. Cụ thể là mức bón đạm của cải bao từ 90 -
180 kg N/ha thì sự tích lũy nitrat tăng dần từ 1.240 - 2.737 mg/kg tươi; với
hành hoa mức bón đạm từ 50 - 90 kgN/ha thì dư lượng nitrat tăng từ 645-
1.050mg/kg tươi [ 11].
Bón phân hóa học, đặc biệt là bón phân đạm liều lượng quá cao sẽ ảnh
hưởng đến chất lượng nông sản, trong đó được quan tâm nhiều nhất là làm
tăng hàm lượng nitrat trong rau quả. Theo Bùi Xuân Quang (1998), với cà
chua nếu bón liều lượng đạm trên 150 kgN/ha, bắp cải trên 200 kg N/ha, cải
ngọt trên 120 kgN/ha thì dễ dẫn đến hàm lượng nitrat tích lũy trong sản phẩm
vượt quá mức cho phép [ 25]. Ngoài ra, việc sử dụng phân lân, kali, phân bón
lá cũng ảnh hưởng đến sự tích lũy hàm lượng nitrat trong rau. Kết quả nghiên
18
cứu trên cải bắp khi sử dụng super lân bón với liều lượng 80 kg P
2
O
5
/ha, 80
-100 kg K

2
O/ha hàm lượn nitrat trong rau giảm rõ rệt.
Nghiên cứu của Bùi Quang Xuân ( 1993-1997) về ảnh hưởng của phân
bón đến năng suất và hàm lượng nitrat trong rau trên đất phù sa sông Hồng đã
cho thấy việc bón phân đạm làm tăng hàm lượng nitrat trong đất và cả trong
rau. Liều lượng bón đạm thích hợp nhất để rau đạt năng suất cao,hàm lượng
nitrat trong ngưỡng cho phép đơi với súp lơ là 120 kgN/ha, hành tây là 100 kg
N/ha, cải bắp 200 kgN/ha. Bón đạm kết hợp với kali hoặc lân với liều lượng
thích hợp đều làm tăng năng suất và giảm lượng nitrat trong rau [ 25].
Cải bắp là loại rau ăn lá, cho nên có nhu cầu đối với nguyên tố dinh
dưỡng khá cao. Với năng suất 30 tấn/ha cải bắp, cây lấy đi từ đất 125kg N,
33kg P
2
O
5
, 109 kg K
2
O. Hiện nay ở một số cơ sở sản xuất, nông dân đã đạt
được các năng suất 80-100 tấn/ha cải bắp, thì lượng các chất dinh dưỡng được
hút từ đất lại càng nhiều hơn rất nhiều. Ngoài các nguyên tố đa lượng, cải bắp
cũng hút đi từ đất một lượng canxi đáng kể: với mức năng suất 30 tấn/ha, cây
lấy đi 2 kg CaO/ha [36].
1.3.2 Tình hình nghiên cứu và sử dụng thuốc BVTV
Thuốc bảo vệ thực vật cũng là một nhân tố gây mất ổn định môi trường,
nó gây ô nhiễm nguồn nước, đất, để lại dư lượng trên nông sản phẩm gây độc
cho người và nhiều loài động vật máu nóng. Tuy nhiên trong những năm gần
đây, vấn đề bảo vệ môi trường được quan tâm hơn bao giờ hết, nhiều loại
thuốc bảo vệ thực vật mới, trong đó nhiều thuốc trừ sâu bệnh sinh học có hiệu
quả cao, an toàn với môi trường được ra đời.
Khi phun thuốc trừ sâu, trừ bệnh, trừ cỏ dại thuốc sẽ tạo thành một lớp

mỏng trên bề mặt lá, quả, thân cây, mặt đất, mặt nước và một lớp chất lắng gọi là
dư lượng ban đầu của thuốc. Theo Cục BVTV những năm gần đây việc sử dụng
thuốc BVTV tăng cả về chủng loại thuốc, số lần phun, nồng độ, thời gian cách
19
ly. Số lượng thuốc BVTV nhập khẩu tăng 8 lần trong vòng 20 năm (1990 nhập
15.000 tấn; 1998 nhập 33.000 tấn; 2008: 71.000 tấn; 2010: 110.000 tấn) [18].
- Nhiều nông dân còn sử dụng những loại thuốc nhập lậu có độc tố cao
đã bị cấm sử dụng như Monitor, Wofatox do còn một nguyên nhân nữa là
các loại thuốc nhập lậu này giá rẻ, phổ diệt sâu rộng và hiệu quả diệt cao.
- Một nguyên nhân quan trọng khác là khoảng thời gian cách ly giữa lần
phun thuốc cuối cùng tới lúc thu hoạch không được tuân thủ nghiêm ngặt, đặc biệt
là các loại rau thu hoạch liên tục như dưa chuột, cà chua, đậu côve, mướp đắng
Tại các vùng rau tập trung chuyên canh ven thành phố như Hà Nội, Đà Lạt
- Tại các vùng sản xuất rau chuyên canh luôn tạo nguy cơ cho các loài
sâu bệnh hại liên tục phát sinh phát triển và gây hại trên diện rộng, nguy cơ
bùng phát dịch luôn luôn tiềm ẩn, do vậy người nông dân sử dụng thuốc
BVTV tăng số lần phun, tăng liều lượng và nồng độ.
- Do hệ số sử dụng ruộng đất cao, thời vụ rải đều đã tạo ra nguồn thức ăn
liên tục cho các loại sâu và tạo ra sự di chuyển của bướm ngày càng mạnh mẽ từ
ruộng sắp thu hoạch tới ruộng mới trồng, do vậy khó tránh khỏi việc sử dụng
thuốc thường xuyên. Trung bình một chu kì trồng cải bắp, người nông dân phải
phun tư 7- 15 lần với lượng thuốc từ 4 - 5 kg/ha trong một vụ từ 75 - 90 ngày [18].
Ngoài ra, nhiều nông dân còn sử dụng nhiều loại thuốc trừ sâu độ độc
cao (nhóm I, II) để bảo quản hạt giống các loại rau hay bị sâu, mọt như hạt
mùi, tía tô, rau dền, rau muống, húng quế
Với hiện trạng sử dụng thuốc BVTV như vậy dư lượng thuốc BVTV
thường cao hơn rất nhiều so với ngưỡng cho phép. Kiểm tra 35 mẫu rau tại
các tỉnh phía Nam, Cục BVTV phát hiện tới 54% mẫu có dư lượng thuốc bảo
vệ thực vật, trong đó 8,6% mẫu được phát hiện có hàm lượng thuốc bảo vệ
thực vật đủ khả năng gây ngộ độc cho người sử dụng. Tại Bình Dương, kiểm

tra 228 mẫu có đến 72 mẫu phát hiện dư lượng clo và 9 mẫu có dư lượng
thuốc bảo vệ thực vật vượt giới hạn. Tại Đồng Nai, kiểm tra 495 mẫu rau, có
20
tới 56 mẫu có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật cao gấp nhiều lần tiêu chuẩn
cho phép [2].
1.3.3.Tình hình nghiên cứu và sử dụng màng phủ nông nghiệp
Những nghiên cứu trên thế giới và trong nước cho thấy màng phủ nông
nghiệp có nhiều tác dụng như: hạn chế côn trùng, làm giảm số lần phun thuốc
trừ sâu bệnh. Màng phủ cách ly mầm bệnh tấn công từ đất hay từ rơm rạ lên
cây, bề mặt màng phủ khô nhanh sau khi mưa, lá chân khô ráo, không thuận
lợi cho mầm bệnh phát triển. Hạn chế cỏ dại: màng phủ có mặt đen ngăn cản
ánh sáng mặt trời, làm cho cỏ dại không thể mọc được, … Điều hòa độ ẩm
mặt đất và giữ cấu trúc đất: Mùa nắng mặt đất có màng phủ ngăn cản sự bốc hơi
nước, giữ độ ẩm cho đất, mùa mưu lượng nước mưa không trực tiếp rơi trên mặt
luống nên rễ cây không bị úng nước, mặt luống không bị xói mòn, đất giữ được
cấu trúc tơi xốp và độ ẩm ổn định. Màng phủ ngăn cản sự bốc hơi của phân đạm,
làm giảm sự rửa trôi của phân bón khi tưới nước hoặc gặp trời mưa to. Sự hấp
thụ các chất dinh dưỡng N, P, K, Ca, Mg từ bộ rễ cây trồng có sử dụng màng phủ
cao hơn 1,4 - 1,5 lần so với không sử dụng màng phủ.
Màng phủ đã được sử dụng ở nhiều quốc gia trên thế giới như: Mỹ,
Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Indonesia… trong hơn 20 năm qua.
Ở Việt Nam, trường Đại học Cần Thơ đã bắt đầu nghiên cứu, sử dụng
màng phủ nông nghiệp từ năm 1992, nhưng tập trung nhất từ năm 1997 -
2000. Việc sử dụng màng phủ nông nghiệp được thực hiện nhiều hơn khoảng
4-5 năm trở lại đây, đặc biệt các thí nghiệm Nghệ An cho thấy việc sử dụng
màng phủ cho cây lạc đã làm tăng năng suất từ 30-40% so với không sử dụng
màng phủ; tại Thành Phố Hồ Chí Minh, Viện nghiên cứu dầu thực vật cũng đã
tiến hành các thử nghiệm về biện pháp sử dụng màng phủ cho lạc từ năm
2001- 2001, năng suất thu được tăng từ 20- 32% so với không sử dụng màng
21

×