Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

Chính sách kinh tế mới của lênin và sự vận dụng nó ở việt nam mà chủ yếu là thông qua sự phân tích khoa học của đảng và những đường lối chính sách đổi mới sáng tạo của nhà nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.11 KB, 42 trang )

Phần thứ nhất
Lời mở đầu
Sau 15 năm đổi mới, nhất là trong 5 năm gần đây nền kinh tế xà hội n ớc ta đà đạt đợc những bớc tiến đáng kể. Năm 2020 Việt Nam sẽ là một thị
trờng rộng lớn có số dân khoảng 100 triệu ngời đứng hàng thứ hai trong số
các nớc có dân số lớn ở Đông Nam á, thứ 7 so với các nớc Châu á Thái Bình
Dơng và đứng hàng thứ 10 trên thế giới. Với nhịp độ tăng trởng kinh tế là
8,2% giai đoạn 1991-1995 và 6,9% thời kì 1996-2000, khoảng 7-8% thời kì
2000-2010 cho thấy sau một vài thập kỉ tới Việt Nam sẽ là một quốc gia có
sức vơn mạnh mẽ trên con đờng công nghiệp hóa hiện đại hoá. Tuy nhiên
những khó khăn thách thức về kinh tế xà hội đà gây cản trở cho việc thực
hiện những mục tiêu phơng hớng của Đảng và chính phủ nhằm đa nớc ta trở
thành một nớc công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Trên cơ sở thực tiễn, nớc ta và thế giới trớc thềm thế kỉ 21, với những
thành công và thất bại, vận hội và thách thức, vấn đề là phải nhận thức lại
chủ nghĩa xà hội. Mọi vấn đề cần phải xem xét trong vận động sáng tạo phản
ánh đúng bản chất cách mạng và khoa học của nó theo bản sắc Việt Nam.
Do đó, không thể giải quyết những vấn đề kinh tế xà hội của đất nớc bằng
các chủ trơng biện pháp duỵ trên t duy cũ, mang tính chất bị động và đối phó
với tình hình. Ngợc lại, nó đòi hỏi phải có những chiến lợc, sách lợc vừa
mang tính tình thế, có khả năng đáp ứng yêu cầu trớc mắt vừa tạo nền móng
cho sự phát triển lâu dài.
Tiềm năng t duy lý luận, chính trị và nghệ thuật lÃnh đạo, tổ chức thực
tiễn của Lênin trong thời kì chính sách kinh tế mới vẫn luôn luôn là cội
nguồn của sự sáng tạo của những ngời cộng sản đang trực tiếp lÃnh đạo công
cuộc xây dựng xà hội mới với các giai đoạn phát triển khác nhau.
Cũng nh trớc đây, dân tộc ta phải khai phá con đờng giải phóng đất nớc.
XÃ hội ngày nay chúng ta đang khai phá một con đờng mới xuất phát từ
những điều kiện kinh tế, xà hội,văn hoá, con ngời Việt Nam trong thời đại
mới. Thành công nổi bật của cách mạng nớc ta là dựa vào sức mình là chÝnh,
®ång thêi coi träng sù gióp ®ì qc tÕ, tham khảo kinh nghiệm của nớc
ngoài là giàu thêm sự hiểu biết của ta, độc lập tự chủ, giải quyết đúng đắn


vấn đề do công cuộc đổi mới ở nớc ta đặt ra. Chính vì thế, việc nghiên cứu và
1


vận dụng NEP vào nớc ta trong giai đoạn hiện nay trở nên quan trọng hơn
bao giờ hết.
Với vốn hiểu biết ít ỏi, bài đề án này xin đề cập đến Chính sách kinh
tế mới của Lênin và sự vận dụng nó ở Việt Nam mà chủ yếu là thông qua
sự phân tích khoa học của Đảng và những đờng lối chính sách đổi mới sáng
tạo của Nhà nớc ta. Bài viết này là sự khẳng định con đờng tiến lên CNXH ở
nớc ta hiện nay.
Trớc khi vào bài viết, em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của
các thầy cô giáo, đặc biệt là thầy Nguyễn Tiến Long, giảng viên môn Kinh
tế chính trị - trờng đại học kinh tế quốc dân đà giúp đỡ để em có thể hoàn
thành bài luận văn này đúng thời h¹n.

2


Phần thứ hai

cơ sở của đề tài
Chơng I : cơ sở lý luận
A. Hoàn cảnh ra đời của chính sách kinh tế mới của Lênin.
Mùa xuân 1921 đi vào lịch sử Liên Xô và lịch sử của chủ nghĩa xà hội thế
giới nh một bớc ngoặt: Đảng cộng sản và nhà nớc Xô Viết trẻ tuổi ban hành
chính sách kinh tế mới. Nep từ gọi tắt chính sách kinh tế mới đợc Lênin
dùng lần đầu tiên vào tháng 2 năm 1992, mÃi mÃi vang nên trong tâm trí biết
bao thế hệ những ngời cộng sản các nớc khi họ bắt tay vào giải quyết những
vấn đề phức tạp của chặng đầu thời kì quá độ nên chủ nghĩa xà hội từ điểm

xuất phát khác nhau hoặc khi họ gặp khó khăn, gặp sai lầm khuyết đIểm
trong lÃnh đạo kinh tế-xà hội.
Cuối năm 1920, phần lớn đất nớc Liên Xô đợc giải phóng khỏi bon can thiệp
và bạch vệ. Tiêp đó, sự kết thúc nội chiến đà tạo ra những điều kiện cần thiết
để thực hiện kế hoạch xây dựng c¬ së vËt chÊt cđa nỊn kinh x· héi chđ nghĩa
(XHCN), kế hoạch mà Lênin nêu từ mùa xuân năm 1918. Tuy nhiên tinh
hình kinh tế, chính trị của đất nớc vào cuối năm 1920 đầu năm 1921 đà khác
nhiều so với đầu năm 1918. công lao lịch sử vĩ đại của Lênin và Đảng do ngời lÃnh đạo là sớm nhận thấy những đặc đIểm kinh tế chính trị khác trớc, đÃ
phát hiện những mâu thuẫn và đa ra sự phân tích khoa học về các mâu thuẫn
ấy.
1.sự nỗi thời của chủ nghĩa cộng sản thời chiến.
* Không bao lâu sau Cách mạng tháng Mời, việc thực hiện kế hoạch xây
dựng chủ nghĩa xà hội (CNXH) của Lênin bị gián đoạn bởi cuộc nội chiến
1918-1920. Trong thời kì này Lênin đà áp dụng chính sách công sản thời
chiến
Mục đích trớc tiên của chính sách này là tập chung toàn bộ lực lợng của xÃ
hội và của nhà nớc vào việc đảm bảo chiến thắng thù trong giặc ngoài. Nhng
đồng thời chính sách này còn nhằm mục đích khác là thủ tiêu chủ nghĩa t
bản và gốc rễ cđa nã ë trong níc ®Ĩ cã thĨ nhanh chãng vợt qua không
chỉ là thời kì quá độ giữa CNTB và CNXH, mà nó còn vợt qua cả chính
CNXH tiến thẳng lên CNCS.
Nội dung của chính sách cộng sản thời chiến là: nhanh chóng thc hiện
Quốc doanh hoá nền kinh tế bằng cách quốc hữu hoá tất cả các xí nghiÖp
3


lớn, sau đó cả xí nghiệp vừa và nhỏ; Nhanh chóng xoá bỏ thơng nghiệp t
nhân lớn và nhỏ nh cấm buôn bán ở chợ trong môt số thành phố, đóng cửa
các trung tâm buôn bán lớn; Nhà nớc quản lý hầu hết nông sản, trng thu và
mua nông sản, chuyển mạnh sang phơng thức Nhà nớc quản lý trực tiếp sản

xuất nông nghiệp.
Phơng pháp lÃnh đạo cứng rắn, chủ yếu là những phơng pháp chỉ huy mệnh
lệnh và do hoàn cảnh chiến tranh bắt buộc đòi hỏi tác chiến nhanh và kiên
quyết. Quan niệm của chính sách Chủ nghĩa cộng sản thời chiến về sự
phát triển của cách mạng và những mục tiểu của nó: Đợc cao trào nhiệt tình
lôi cuốn, chúng ta, những ngời đà từng thức tỉnh nhiệt tình của nhân dân, trớc hết về mặt chính trị rồi sau về mặt quân sự,- Lênin đà viết-chúng ta đÃ
tính đến là có thể dựa vào nhiệt tình đó mà trực tiếp thực hiện những nhiệm
vụ kinh tế cũng to tát (nh những nhiệm vụ chính trị chung, nh những nhiệm
vụ quân sự), đó chính là chuyển ngay sang sản xuất và phân phối cộng sản
chủ nghĩa.
Để chuyển nh vậy cần có phải những biện pháp sau: Tuỳ theo từng khả năng
mà tập trung vào tay nhà nớc mọi hình thức hoạt động kinh tế; tập trung hóa
việc quản lý kinh tế và chính trị; tớc đoạt giai cấp t sản, để cả tớc đoạt ở
nông thôn, cỡng bức phân bố các nguồn lao động kể cả huy động cán bộ vào
các ngành then chốt(quân sự hoá lao động); lao động nghĩa vụ chung và các
hình thức lao động không trả tiền khác; khuynh hớng nhà nớc trng thu của
những ngời sản xuất toàn bộ sản phẩm thặng du, xu hớng san bằng đIều kiện
vật chất và tơng tự nh thế, chuyển sang chế độ phân phối bằng hiện vật thông
qua nhà nớc theo nguyên tắc bình quân; áp dụng đến mức độ tối thiểu vai trò
các kích thích bằng kinh tế.
Đó chính là mô hình kinh tế - x· héi” theo quan niƯm chun trùc tiÕp lªn
chđ nghĩa xà hội, không cần qua các giai đoạn trung gian, không cần qua
hình thức quá độ.
Chính sách cộng sản thời chiến đóng vai trò quan trọng trong thắng lợi của
Nhà nớc Xô Viết trong cuộc chiến tranh không khoan nhợng chống CNTB.
Nhờ nó mà quân sự đủ sức để chiến thắng kẻ thù, bảo vệ đợc Nhà nớc Xô
Viết. Xác định tính xác thực của chính sách này bằng logic đấu tranh vì một
chế độ mới, sau khi thay đổi đờng lối, Lênin đà viết: chúng ta không thể
không hành động khác đợc. Bất cứ một hành động nào khác, về phía chúng
ta đều có nghĩa là hoàn toàn đầu hàng . Ngời cũng nhấn mạnh rằng chế độ

công sản thời chiến lại là thành tích của chúng ta.
4


* Tuy nhiên khi hoà bình lập lại, chính sách cộng sản thời chiến không còn
thích hợp, nó trở thành nhân tố kìm hÃm sự phát triển sản xuất. Đặc biệt
cùng với hậu quả nặng nề của 7 năm chiến tranh đế quốc và nội chiến đà làm
cho tình hình kinh tế xà hội trở nên nóng bỏng:
- Về công nghiệp: Ước tính 1/4 tài sản quốc gia mất đi, trong đó nền công
nghiệp bị tổn thất lớn nhất. Tổng sản lợng công nghiệp năm 1920 so với năm
1917 giảm đi 4 lần, số ngời làm việc giảm gần 1/2. Do đó, tỷ trọng sản phẩm
công nghiệp trong nền kinh tế năm 1920 là 25%. Hầu nh tất cả các ngành
đều sa sút. Nguyên vật liệu dự trữ đà dùng hết. So với năm 1913, sản xuất
đại công nghiệp giảm xuống tới 12,8%, còn công nghiệp giảm xuống 44,1%.
Do đó tơng quan đà thay đổi nghiêng về tiểu công nghiệp(từ 24,2% đến
52,3%) .
- Về nông nghiệp: Diện tích gieo trồng sản lợng ngũ cốc, sản lợng chăn nuôi
đều giảm, bình quân ngũ cốc đầu ngời là 246 kg còn trớc chiến tranh là 405
kg.
- Về giao thông vận tải: Bị tàn phá nghiêm trọng, 61% số đầu máy và 28%
số toa xe bị phá, cùng với 4000 chiến cầu và các ga xe, kho tàng. So với tr ớc
chiến tranh, khối lợng vận chuyển năm 1920 chỉ còn 20% (không tính đến
khối lợng vận chuyển của quốc phòng và nhu cầu của bản thân đờng xe lửa
là 12%).
- Về tàI chính tín dụng: Lâm vào tình trạng rối loạn. Năm 1918 bội chi ngân
sách 31 tỷ rúp, năm 1921 con sè béi chi nªn tíi 21,937 tû róp. Møc dù trữ
vàng của ngân hàng thế giới giảm sút nghiêm trọng. Khối lợng tiền tệ tăng
nhanh trong khi khối lợng hàng hoá giảm đà đa đến sự tăng vọt của giá cả.
Mức giá trung bình toàn quốc năm 1923 tăng 21 triệu lần so với năm 1913.
Đồng thời xu hớng hiện vật hoá trong nền kinh tế tăng dần nên.

Do sản xuất lu thông sa sút nên đời sống nhân dân lao động cang thêm khó
khăn so với hồi chiến tranh. Tiền lơng thực tế của công nhân công nghiệp trớc chiến tranh là 22 tỷ rúp đà giảm xuống còn 8,3 tỷ rúp năm 1920. Do thiếu
ăn thờng xuyên, thiếu thuốc men chữa bệnh nên tỷ lệ công nhân mắc bệnh
và tử vong tăng lên. Trong lúc đó, vì thiếu đIều kiện sản xuất nên nhiều nhà
máy phải đóng cửa, số ngời không có việc làm tăng lên, do đó tình trạng
biến chất giai cấp của giai cấp công nhân tiếp tục diễn ra.
Trong thời kì nội chiến, chính sách công sản thời chiến gây thiệt hại cho
lợi ích nông dân, tuy nhiên sự thiếu thốn, khó khăn trong đời sống của nông
dân và công nhân trong thời kì ấy không gây ra sự mệt mỏi về tinh thần, vì
5


quần chúng lao động sẵn sàng lao động quên mình để góp phần vào việc tiêu
diệt bọn phản cách mạng, thiết lập và dữ vững chính quyền nhân dân. Nhng
sau chiến tranh, khi những hi vọng trông chờ vào việc cảI thiện đời sống vật
chất và tinh thần không đợc đáp ứng thì lòng tin giảm dần và sự bất mÃn bắt
đầu tăng lên. Đó là đIều kiện để bon phản cách mạng lợi dụng lừa rối quần
chúng tập hợp lực lợng hòng tấn công vào chính quyền Xô Viết non trẻ.
* Cuộc khủng hoảng xuất hiện ngay sau khi ngừng tiếng súng. Nguy cơ đó
lại tiếp tục tăng lên, đòi hỏi những ngời công sản phảI xem xét, nhận thức
sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về lý luận và thực tiễn thời kì quá độ từ CNTB lên
CNXH.
Thứ nhất, mâu thuẫn khách quan trong sự ra đời nớc Nga. Khi nói về mô
hình cộng sản thời chiến, Lênin cũng chỉ ra sự lác hậu, nghèo đói của nớc
Nga lúc bấy giờ và sự đổ lát đà thúc đẩy phải tìm kiếm con đờng khắc phục
những khó khăn vô cùng to lín vỊ kinh tÕ qua viƯc thùc hiƯn lao động ngang
nhau. Thêm vào đó, trong lý luận CNXH khoa học, Lênin cha thảo ra lý luân
chính trị và kinh tế - xà hội của thời kì quá độ và thời kì xây dựng CNXH.
Cuối cùng, tình trạng rối loạn trong đội ngũ kẻ thù giai cấp, sự rút lui không
có trật tự, dờng nh là sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ t sản khiến mọi ngời tin

rằng việc tổ chức và phân phối phù hợp với dự kiến về CNCS của Mác và
Aghen, không có kích thích kinh tế, đồng thời xoá bỏ quan hệ hàng hoá tiền
tệ là hoàn toàn hiện thực. Vì vậy việc mất giá đồng tiền xay ta lúc đó, cũng
nh việc thay buốn bán bằng phân phối sản phẩm tập trung, trong đó có phân
phối bằng tem phiếu và trng thu lơng thực, đợc coi là những quá trình tự
nhiên, là bằng chứng về sự phát triển rất đáng mong mỏi và hơn nữa là sự
phát triển nhanh chóng đi lên CNCS.
Còn về mặt chính trị của mô hình cộng sản thời chiến thì thực chất là việc
dẫn tới chỗ nhà nớc hoá toàn bộ. Nhng lại nảy sinh vấn đề kết hợp nh thế
nào việc đó với viến cảnh ro Mác vạch ra về sự tiêu vong của nhà nớc. Để trả
lời câu hỏi này, Lênin nói về tính chất rất tạm thời của nhà nớc, về sự tồn tại
của nhà nớc cho đến khi các giai cấp mất đI, vấn đề này hầu nh không còn
xảy ra nữa. Chiến tranh còn đang tiếp tục, việc nhà nớc hóa là tất yếu và tiết
thực, cũng nh sự độc quyền của nhà nớc về sản xuất và phân phối kèm theo
nó là những mặt tiêu cực của sự độc quyền mà Lênin đà cố gắng khắc phục
sau này.
2. Sự phân tích của Lênin về những mâu thuẫn kinh tế và chính trị.
6


Phân tích nguyên nhân của cuộc khủng khoảng năm 1921 ở nớc Nga Lênin
cho rằng nguyên nhân trực tiếp là do ®êi sèng kinh tÕ cđa ngêi lao ®éng xÊu
®i, đặc biệt là họ đà phải đau đớn chấp nhận tình hình xấu đi đó sau khi họ
đà dự định cải thiện tình cảnh chung ở trong nớc và đà thấy đợc sự cải thiện
đó. Viêc chỉ rõ mối quan hƯ lÉn nhau: sù c¶i thiƯn gay niỊm hi väng, sự xấu
đi đột ngột - sự bất mÃn sâu sắc và khủng hoảng là những quan sát hết sức
tinh tế của Lênin. Lênin còn nhìn thấy ở nền kinh tế cả những nguyên nhân
sâu xa hơn của cuộc khủng hoảng. Đó là những biểu hiện về mặt chính trị
của sự thiếu tổ chức và không phù hợp về mặt kinh tế.
Thứ nhất: Mâu thuẫn khách quan trong sự ra đời của CNXH ở nớc Nga. Điều

kiện lịch sử cụ thể cđa níc Nga trong ®ã CNXH hiƯn thc ra ®êi lại không nh
học thuyết Các Mác đà phân tích về mặt lý luận. Đặc điểm của nớc Nga là sự
lạc hậu tơng đối về kinh tế, là sự quyện chặt giữa t bản độc quyền hiện đại
với tàn tích phong kiÕn. Quan hƯ tiỊn t b¶n chđ nghÜa chđ u tồn tại trong
nông thôn(dân số nông thôn chiếm 82,4% dân số, kinh tế nông nghiệp chiếm
51,4% thu nhập quốc dân). Đặc điểm này đợc Lênin rất chú ý phân tích khi
ngời vạch ra chiến lợc tình thế giải quyết khủng hoảng và chiến lợc lâu dài
xây dựng CNXH. Đặt đúng vị trí của vấn đề nông dân và nông nghiệp trong
chiến lợc và sách lợc của Đảng có ý nghĩa quyết định đến bảo vệ những
thành quả Cách mạng và xây dựng CNXH.
Trớc đây, chính quyền Xô Viết đứng vững đợc trong nội chiến và sự can
thiệp của nớc ngoài là nhờ tinh thần hi sinh của nhân dân trớc hết là giai cấp
công nhân và giai cấp công nhâ. Nhiệt tình cách mạng là động lực duy nhất
trong chiến đấu và chiến thắng.
Sau chiến tranh, giai cấp công nhân vẫn là ngời chủ yếu nuôi sống đất nớc,
đời sống của họ lại đang thiếu thốn khó khăn. Nếu Đảng giữ đợc nhiệt tình
cách mạng và lòng tin của họ thì bảo vệ đợc cách mạng. Ngợc lại, nếu làm
mất lòng tin của họ thì sự nghiệp sẽ hết sức nguy hiểm. Giữ vững lòng tin lúc
này có ý nghĩa là phải tìm ra động lực của thời kì xây dựng. Xuất phát từ sự
phân tích đó, Lênin đà chỉ ra rằng: phải bắt đầu từ nông dân và nông nghiệp,
phải cải thiện đời sống ngời lao động trên cơ sở xây dựng quan hệ kinh tế
bình thờng giữa nông nghiệp với công nghiệp, củng cố liên minh công nông
trên cơ sở kinh tế nhằm lôi cuốn những ngời sản xuất nhỏ vào việc xây dựng
đất nớc và đi lên CNXH. Chỉ có một chính sách nh vậy mới tạo đợc tiền đề
cho sự nghiệp công nghiệp hoá XHCN.
7


T tởng đó của Lênin đóng vai trò quyết định trong việc đa ra lý luận Mac-xit
về thời kì quá ®é vµo thùc tiƠn cc sèng vµ lµm phong phó thêm lý luận đó.

Nhờ t tởng ấy mà Đảng đà sửa chữa đợc những sai lầm trong thời kì đó.
Thứ hai: những sai lầm chủ quan của những ngời công sản cũng là một thực
tế phải giải quyết đồng thời với việc giải quyết mâu thuẫn khách quan. Trong
những năm tháng áp dụng Chính sách cộng thời chiến đà hình thành quan
niệm về khả năng quá độ trực tiếp lên CNXH. Nhiều chủ trơng, biện pháp
quá đáng ra đời từ quan niệm này là một trong những nguyên nhân làm tăng
nguy cơ khủng hoảng. Mô hình kinh tế xà hội theo quan điểm trực tiếp lên
XHCN. Không qua các giai đoạn trung gian, không qua các hình thức quá
độ. Mô hình đó không phải dừng lại ở quan niệm mà ®· thĨ hiƯn trong thùc
tÕ sau khi chiÕn tranh kÕt thúc một cuộc thí nghiệm không lâu lắm cho
chúng ta thấy rõ rằng cách làm nh vậy là sai, là trái với những điều trớc kia
chúng ta đà viết về bớc quá độ từ CNTB lên CNXH . Lênin đà chỉ ra vậy.
Quan niệm này không phải chỉ là sản phẩm duy ý chí của ngời quản lý mà
trong đó còn phản ánh nguyện vọng của đông đảo quần chúng lao động
muốn nhanh chóng thoát khỏi cảnh nghèo khổ hôm quan. Rõ ràng đây là
quan niệm mang tính chất lÃng mạn và ảo tởng nhng đà lặp đi lặp lại ở nhiều
nớc kém phát triển XHCN, hay đang ở chặng đầu thời kì quá độ lên CNXH.
Vì vậy, ngay từ năm 1921 khi phân tích quan niệm sai lầm về khả năng quá
độ trực tiếp lên XHCN, Lênin đà chú ý tới ý kiến của Aghen phân tích kinh
nghiệm những năm 1648 và 1789 cho rằng: hình nh có một quy luật đòi hỏi
cách mạng phải tiến xa hơn là nó có thể làm đợc.
Chính đặc điểm đó của phong trào quần chúng đòi hỏi Đảng lÃng đạo có sự
phân tÝch cơ thĨ trong t×nh h×nh cơ thĨ khi vËn dụng lý luận vào thực tiễn.
Điều này đà đợc thực tiễn chứng minh ở hai trờng hợp trớc và sau khi ban
hành chính sách kinh tế mới.
* Trong thời gian thực hiện những chủ trơng biện pháp quá đáng (trớc khi
thực hiện), do không đếm xỉa đến đặc điểm và điều kiện lịch sử cụ thể của
công cuộc xây dựng CNXH, do sù chi phèi cđa quan niƯm chun trùc tiếp
lên CNXH nên tình trạng khủng hoảng ngày càng trầm trọng: sản xuất sa sút
hơn, nhất là nông nghiệp. Dân số ăn theo chế độ cung cấp của Nhà nớc tăng

nhanh trong khi mức lơng thực cung cấp ngày càng ít thấp hơn nhiều so với
mức sống cần thiết. Các chỉ tiêu thu mua trng thu cứ tăng lên, nhng kết quả
cứ giảm xuống, nhu cầu tiền mặt càng tăng, càng phải in và phát hành thêm
thì sức mua của đồng tiền càng giảm. Số lợng của giai cấp công nhân đÃ
8


giảm 1/2, trong đó một bộ phận chuyển về nông thôn. Nông dân ngày càng
không bằng lòng với các chính sách của Đảng. Sai lầm trong lĩnh vực hoạt
động kinh tế gây ra hậu quả chính trị nặng nề: liên minh công nông đứng trớc nguy cơ tan rÃ, chuyên chính vô sản không đợc củng cố, vai trò lÃnh đạo
của Đảng yếu đi. Tình trạng an ninh chính trị và an toàn ngày càng xấu.
Ngợc lai, với tình trạng trên đây, tình hình kinh tế và chính trị đợc cải thiện
nhanh chóng sau khi ban hành NEP vào tháng 3/1921. ngay sau đó, vụ thuế
lơng thực đầu tiên đạt 96% (mặc dù tỉ xuất thu đà đợc hạ thấp và năm 1921
là năm bị hạn hán và lạn đói hoành hành mạnh nhất). Thắng lợi đầu tiên ấy
chứng tỏ NEP là cong đờng đi đúng đắn. Còn sau đó, giữa năm 1922 đến
năm 1925, nông nghiệp phát triển mạnh, trong đó sản xuất lơng thực từ 56,3
triệu tấn tăng lên 74,7 triệu tấn. Nông thôn hoạt động sôi nổi. Nông nghiệp
đợc phục hồi và phát triển kéo theo sự khôi phục công nghiệp và thơng
nghiệp. Đời sống nhân dân lao động đợc ổn định trở lại sau một năm thi
hành chính sách kinh tế mới, Lênin nói Nông dân lấy làm hài lòng với tình
trạng của họ hiện nay. Chúng tôi có thể mạnh dạng khẳng định nh thế.
Sau bốn năm rỡi thi hành chính sách NEP, nớc Nga Xô Viếtkhông chỉ khắc
phục đợc hậu quả của chiến tranh và nạn đói mà sản xuất còn vợt mức chiÕn
tranh. “ Tõ níc Nga cđa chÝnh s¸ch kinh tÕ mới sẽ nảy ra nớc Nga XHCN .
Tính chất đúng đắn của NEP đà đợc lịch sử chứng minh. Ngày nay muốn
vận dụng NEP và có kết quả cần phải đi sâu vào nội dung cơ bản của NEP.
B. nội dung và các biện pháp chủ yếu của chính sách kinh tế mới (NEP).
Theo quan điểm của Lênin, khủng khoảng là một quá trình tích tụ và làm
gay gắt thêm những mâu thuẫn trên lĩnh vực quan trọng của đời sống xà hội.

Sự phân tích sâu sắc của Lênin và chiến lợc giải quyết một cách thắng lợi
cuộc khủng khoảng năm 1921 chính là ở chỗ vạch ra và làm sáng tỏ mối
quan hệ qua lại giữa các lĩnh vực quan träng nhÊt: chÝnh trÞ - x· héi - kinh tÕ.
V× thÕ, tiÕp cËn néi dung cđa NEP tríc hÕt phải theo quan điểm hệ thống,
cho phép nhìn rõ đợc các mối quan hệ ảnh hởng lẫn nhau. Tách riêng từng
nội dung, từng vấn đề trong hệ thống các biện pháp đó thì không nhận thức
đầy đủ, thậm chí hiểu sai NEP.
Trong những nhân tố thúc đẩy cuộc khủng hoảng thì nhân tố đầu tiên là các
chính sách chủ trơng vi phạm lợi ích kinh tế của ngời lao động, trớc hết là
nông dân, trong điều kiện họ đà mệt mỏi trong chiến tranh, bị kiệt sức vì nạn
đói, thiếu công ăn việc làm và thiếu điều kiện bình thờng vỊ trËt tù vµ an
toµn x· héi (chđ u do nan cíp bãc).
9


Một nhân tố quan trọng khác thúc đẩy cuộc khủng hoảng, đợc Lênin chỉ ra
là tệ nạn quan liêu trong bộ máy nhà nớc, xuất hiện sự thoái hoá; hiện tợng
một bộ phận cán bộ, nhân viê, kể cả một số ngời lÃnh đạo xa rời quần chúng,
thiếu tôn trọng lợi ích quần chúng càng phát triển thì càng tăng thêm sự mất
lòng tin và bất mÃn trong quần chúng nhân dân.
Trong điều kiện Đảng lÃnh đạo chính quyền, Lênin đà gắn cuộc khủng
hoảng năm 1921 với tình hình nội bộ của đảng Bôn - sê - vích và đà xem xét:
ý nghĩa của cuộc khủng hoảng chính trị và cuộc khủng hoảng trong Đảng.
Ngoài ra một trong những nhân tố của cuộc khủng hoảng là vai trò của bọn
phản động quốc tế qua sự kiện nổi loạn ở Gôn-stát.
Xem xét toàn diện các nhân tố của cuộc khủng hoảng Lênin đà chỉ ra
nguyên nhân chủ yếu của cuộc khủng hoảng là nguyên nhân bên trong
những sai lầm về lÃnh đạo quản lý, trớc hết và chủ yếu là lĩnh vực kinh tế. Vì
vậy, những nội dung chủ yếu của NEP thực chất không phải là một số các
biện pháp tổng thể các biện pháp, mà là một cơ chế kinh tế. Mục tiêu trớc

mát và cấp bách mà cơ chế trong NEP thực hiện là ổn định và cải thiện đời
sống của những ngời lao động ( kể cả biện pháp cấp bách xuất 10 triệu rúp
vàng để nhập lơng thực và hàng tiêu dùng) và các biện pháp nhằm bảo vệ và
củng cố chính quyền Xô Viết đợc coi là mục tiêu hàng đầu. Các nội dung
của NEP là một hệ thống gồm nhiều mắt xích liên hoàn nhau, có mối quan
hệ bên trong nh một dây chuyền, không thể thiếu khâu nào. Tất cả các khâu
tạo thành một cơ chế kinh tế cho phép nhà nớc tháo gỡ khó khăn, điều hành
sự vận động kinh tế xà hội.
Sau đây là những nội dung chủ yếu của cơ chế kinh tế NEP.
1. Thuế lơng thực
Trong điều kiện nớc Nga lúc bấy giờ, giai cấp công nhân và nông nghiệp là
nguồn nuôi sống xà hội. Sản xuất và đời sống xà hội phụ thuộc vào nông
nghiệp. Khó khăn lớn nhất mà Nhà nớc vấp phải là thiếu lơng thực. Nạn đói
1921 càng tăng thêm khó khăn đó. Vì vậy, mục đích trực tiếp của thuế lơng
thực là một trong những biện pháp cấp tốc cơng quyết nhất, cấp thiết nhất
để cải thiện đời sống của ngời nông dân và nâng cao lực lợng sản xuất của
họ (1) Thực hiện thuế lơng thực, xoá bỏ chế độ trng thu lơng thực thừa có
nghĩa là chuyển từ biện pháp hành chính thuần tuý sang biện phap kinh tế,
thuế lơng thực có vai trò của bớc quá độ đó.
Lúc ấy Lênin đà đặt ra câu hỏi: Tại sao nhà nớc vô sản trớc hết lại cải thiện
đời sống của nông dân chứ không phải là công nhân.
1
0


Và ngời là ngời trực tiếp trả lời câu hỏi đó: vì muốn cải thiên đời sống của
ngời công nhâ thì phải có bánh mỳ và nhiên liệu. Đứng về phơng diện toàn
bộ nền kinh tế quốc dân của chúng ta hiện nay, trở ngại lớn nhất là ở đó, thế
mà chúng ta chỉ có thể tăng thêm sản xuất và thu hoạch lúa mỳ, tăng thêm
dự trữ và vận tải nhiên liệu bằng cách cải thiện đời sống nông dân. Ngời nào

không hiểu điều đó, ngời nào có ý coi việc đa vấn đề nông dân lên hàng đầu
nh thế là một sự từ bỏ chuyên chính vô sản hoặc tơng tự nh vậy thì chẳng
qua chỉ là vì ngời đó không chịu suy nghĩ kĩ càng vấn đề đó và bị lời nói
trống rỗng chi phối . Ngời vô sản nào hoặc đại diện nào của giai cấp vô sản
muốn cải thiện đời sống của giai cấp công nhân bằng con đờng khác thì thực
tế chỉ là những kẻ trợ lực cho bọn bạch vệ và bọ t bản mà thôi. Vì đi theo con
đờng khác có nghĩa là đặt lợi ích phờng hội của giai cấp công nhân lên trên
lợi ích của giai cấp họ.
Nhng mặt khác để cải thiện đời sống của nông dân thì mức thuế lơng thực
phải thấp, nh vậy Nhà nớc phải làm thế nào để có đủ số lơng thực cần thiết?
Tác dụng kích thích của thuế lơng thực đối với nông dân sản xuất và có điều
kiện cải thiện đời sống của mình là ở mức thuế thấp. Mức thuế lơng thực đÃ
đợc giảm xuống thấp hơn mức trng thu gần 1/2, thủ tục thuế đợc đơn giản
hoá. Từ tháng 5/1923 thực hiện thuế đồng nhất với hình thức hỗn hợp bằng
tiền tệ hoặc hiện vật tuỳ theo sự lựa chọn của nông dân, còn từ năm 1924,
hình thức tiền tệ của thuế là chủ yếu. Mức thuế có phân biệt đối với các bộ
phận nông dân: đối với bần nông thì thu thuế bằng 1,2% thu nhập, trung
nông thu 3,5% thu nhập còn đối với phú nông thì thu 5,6% thu nhập.
Do mức thuế thấp nên năm 1921, nhà nớc chỉ thu đợc 240 triệu pút lúa mỳ
sao với 423 triệu pút trng thu trớc đây. Nhng để bù lại, do nông dân hăng hái
sản xuất, mở rộng diện tích nên tổng sản lợng lơng thực của xà hội và các
nông sản khác tăng lên. Nhà nớc qua con đờng trao đổi có đợc khối lợng lơng thực nhiều hơn. Ngoài ra, ro mức thuế ổn định ngời nông dân nào cũng
biết trớc số thuế phải nộp và cố gắng để sản xuất vợt quá mức đó. Nhà nớc
càng thu thuế dễ dàng, thuận lợi.
Thuế lơng thực là đòn xéo mạnh mẽ để khôi phục nền nông nghiệp sau chiến
tranh, biểu hiện yêu cầu của tính quy luận đầu tiên của quá trình khôi phục
kinh tế, bởi vì Thuế lơng thực sẽ giúp vào việc cải thiện đời sống nông dân.
Bây giờ nông dân sẽ bắt tay vào việc một cách yên tâm hăng hái hơn đó
chính là điều chñ yÕu ”.
1

1


2. Khôi phục và phát triển sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp thông
qua trao đổi sản phẩm giữa nông nghiệp và công nghiệp.
Muốn cải thiện đời sống nông dân và công nhân thì không thể dựa vào nền
nông nghiệp gia trëng mang tÝnh chÊt tù cÊp tù tóc mµ chỉ có thể dựa vào
một nền nông nghiệp hàng hoá. Trong thời kì áp dụng chính sách cộng sản
thời chiến, xu hớng hiện vật hoá nền nông nghiệp đợc duy trì và tăng lên xu
hớng kinh tế hóa bị kìm hÃm. ý nghĩa và tác dụng cần có của thuế lơng thực
không thể phát huy đợc trong nền nông nghiệp tự cung tự cấp, vì số nông sản
tăng lên một mức độ nào đó nếu không có trao đổi thì nó mất tác dụng kích
thích. Do đó, thuế lơng thực là một bớc quá độ từ chế độ cộng sản thêi
chiÕn ®Õn chÕ ®é trao ®ỉi x· héi chđ nghÜa bình thờng về sản phẩm.
Khác với chế độ giao nộp, trng thu dựa trên mệnh lệnh trong thời kì thực
hiện chính sách công sản thời chiến, cơ chế kinh tế hàng hoá cho phép đạt
đợc các mục tiêu sau:
a. Đáp ứng nhu cầu tiền mặt của sản xuất và tiêu dùng của xà hội. Thông qua
trao đổi hàng hoá, thúc đẩy quá trình phân công lao động trong công nghiệp,
khuyến khích sản xuất nông nghiệp vừa đi vào chuyên canh vừa phát triển
kinh doanh tổng hợp, nhờ đó các lực lợng sản xuất trong nông nghiệp đợc
khôi phục và phát triển.
b. Đó là con đờng để nhà nớc giải quyết vấn đề lơng thực một cách vững
chắc. Sản xuất lơng thực ngày càng mang tính chất hàng hoá thì nông dân có
lợi hơn và tổng số lơng thực của xà hội cũng tăng lên.
c. Khôi phục và phát triển kinh tế hàng hoá trong nông nghiệp là sống động
lại các ngành kinh tế và toạn bộ sinh hoạt xà hội ở thành thịu và nông thôn.
Nh vậy chính sách thuế lơng thực của Lênin còn bao hàm t tởng chuyển sang
kinh doanh lơng thực, đợc coi nh một đòn bẩy quan trọng cho sự phát triển
sản xuất lơng thực và sản xuất nông nghiệp nói chung. Theo hớng đó, nhà nớc đem lại sự giúp đỡ to lớn về tài chính và kĩ thuật cho nông dân.

Nhờ quán triệt đầy đủ quan điểm của Lênin trong chính sách thuế lơng thực
nên đến năm 1925 sản xuất nông nghiệp nớc Nga đà đạt mức trớc chiến
tranh (1913).
Vấn đề đặt ra là phải giải quyết hai nội dung sau:
Một là, lấy hàng công nghiệp ở đâu để trao đổi với nông dân.
Hai là, khôi phục và phát triển kinh tế hàng hoá bên trong nông nghiệp mới
thực hiện đợc NEP nhng sẽ kéo theo sự khôi phục và kính trích xu hớng t
bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn đó phải giải quyết nh thÕ nµo?
1
2


Trớc hết, Lênin khẳng định: Sự phát triển của trao đổi t nhân, của chủ nghĩa
t bản là một sự phát triển không thể tránh đợc. Việc ngăn cấm, chặn đứng sự
phát triển ấy là có hại cho cách mạng. Nhng không đợc coi nhẹ buông lỏng
sự kiểm tra, kiểm soát sự phát triển ấy của xu hớng t bản chủ nghĩa, nhất là
đấu tranh chống nạn đầu cơ, muốn vậy phải sử dụng hình thức kinh tế
CNTB nhà nớc, Lênin nói: CNTB nhà nớc không đáng sợ, mà đáng mong
đợi. Học tập CNTB nhà nớc(1). Và vì lợi ích của xà hội phải phát triển chủ
nghĩa t bản nhà nớc và tự do buôn bán để phát triển lực lợng sản xuất nông
nghiệp, công nghiệp và để chống tệ quan liêu với điều kiện là hiệu lực quản
lý của bộ máy nhà nớc, là sự củng cố khu vực kinh tế nhà nớc có hiệu quả.
3. Khôi phục và tổ chức lại nền sản xuất công nghiệp phù hợp với yêu cầu
của nông nghiệp
Khôi phục sản xuất nông nghiệp có hai yêu cầu quan trọng:
Một là, có đủ hàng hoá trao đổi với nông dân để kích thích nông nghiệp.
Hai là, tập hợp lại giai cấp công nhân đang bị phân tán vì đói và thiếu việc
làm, củng cố kĩ thuật lao động, duy trì mức năng suất lao động cần thiết, để
phát huy vai trò của công nghiệp và giai cấp công nhân
Để thực hiện những yêu cầu đó phải sắp xếp, lựa chọn lại những ngành công

nghiệp phục vụ thiết thực cho xà hội, đặc biệt là chú ý phát triển tiểu thủ
công nghiệp, là thứ công nghiệp mà ta có thể dễ dàng tìm đợc nguyên vật
liệu để sản xuất.
Nhìn một cách tổng quát, quá trình khôi phục sản xuất công nghiệp có
những đặc điểm có tính quy luật:
- Một là, khôi phục công nghiệp trên cơ sở kĩ thuật cũ.
Trong điều kiện khó khăn bây giờ, đấy là một tất yếu về hai phơng diện kinh
tế và xà hội.
- Hai là, phạm vi khôi phục sản xuất công nghiệp cân đối với nguồn tài
chính, nguyên liệu và nhiên liệu.
Nhờ thực hiện cân đối nên đà đẩy nhanh đợc việc khôi phục các xí nghiệp
tiên tiến, nâng cao công suất sử dụng thiết bị, nâng cao năng suất lao động.
Cũng do khôi phục công nghiệp dựa trên khả năng cân đối thực tế, nên nhà
nớc thực hiện đợc sự tập trung sản xuất trong công nghiệp cho phép tạo ra
sản phẩm thặng d và tạo điều kiện hoạch toán kinh tế.
- Ba là, bớc đi của quá trình khôi phục công nghiệp.
Trớc hết là khôi phục công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm là những
ngành gắn bó với nông nghiệp về nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm. Tiếp đó
1
3


khôi phục công nghiệp than. Các ngành công nghiệp nặng đợc khôi phục
chậm hơn. Do tập trung sản xuất hợp lý và cân đối nên sớm tạo nguồn tích
luỹ.
Nhờ những ngời công nhân lao động và những kết quả lớn lao sự khôi phục
nông nghiệp, nên sản xuất công nghiệp đạt đợc nhịp độ cao cha từng có, mức
tăng sản phẩm trung bình hàng năm 41%. Đến năm 1926, công nghiệp đà vợt mức chiến tranh.
- Bốn là, sử dụng cơ cấu nhiều thành phần trong khôi phục công nghiệp.
Kinh tế t nhân trong công nghiệp đợc phục hồi. Công nghiệp quốc doanh đợc

phục hồi và củng cố, giữ vai trò chủ đạo trong tái sản xuất. Và năm 1923 đến
1924, tỷ trọng công nghiệp XHCN ngày càng làm cho khu vực kinh tế t nhân
phụ thuộc vào mình. Đó là cơ sở đảm bảo cho nhà nớc sử dụng cơ cấu kinh
tế nhiều thành phần có kết quả.
- Năm là, chuyển từ cơ cấu quản lý kinh tế tập trung bằng mệnh lệnh sang
cơ chế hoạch toán kinh tế nguyên tắc tập trung dân chủ. Phơng pháp quản lý
bằng chỉ thị trớc đây đợc thay bằng sự kết hợp tối u, phơng pháp hành chính
với phơng pháp kinh tế. Sự chuyển biến trong quản lý công nghiệp bao gồm
những nội dung chủ yếu sau:
+ Quá độ sang hoạch toán kinh tế. Các xí nghiệp hoạch toán kinh tế đợc
quyền tổ chức cung ứng, quyuền tiêu thụ sản phẩm của mình trên thị trờng.
Muốn chuyển sang hoạch toán kinh tế, không những phải đảm bảo quyền tự
chủ của xí nghiệp về sản xuất mà còn thực thực hiện quyền tự chủ tài chính,
nhất là phân phối lợi nhuận và tiền lơng. Việc thực hiện quyền tự chủ về sản
xuất tài chính phụ thuộc vào chính sách giá cả mà vấn đề then chốt là quan
hệ tỷ giá hàng công nghiệp so với hàng nông sản. Chính sách điều tiết giá cả
theo hai hớng: Các xí nghiệp thơng nghiệp quốc doanh và hợp tác xà giảm
giá hàng bán cho nông thôn đồng thời nhà nớc tăng giá mua đáng kể những
nông sản quan trọng nhất. Thực hiện nhiều biện pháp để giảm giá bán công
nghiệp. Bằng các cuộc vận động củng cố kĩ thuật lao động, tiết kiệm nguyên
liệu vật t, chống lại cách làm ăn kinh tế đà làm tăng năng suất lao động. Kết
quả là lợi nhuận của công nghiệp quốc doanh tăng lên hơn 4 lần.
Nhờ chính sách giá cả tích cực, nhà nớc dành đợc thị trờng nông thôn. trong
năm 1924, đà thiết lập đợc tơng quan giá trị giữa hai ngành công nghiệp và
nông nghiệp, bảo đảm cho hai ngành phát triển ổn định, với nhịp độ khá cao.
+ Đổi mới cơ chế quản lý vĩ m« trong c«ng nghiƯp.
1
4



Khi các xí nghiệp quá độ sang hoạch toán kinh tế, sử dụng ngày càng rộng
rÃi quan hệ hàng hoá tiền tệ thì vấn đề đổi mới cơ chế quản lý vĩ mô đặt ra
ngày càng gay gắt. trong quá trình thực hiện NEP, nhiều hình thức quản lý
phong phú đà đợc phát hiện và vận dụng theo khuynh hớng hoàn thiện và mở
rộng phạm vi áp dụng cac nguyên tắc quản lý kinh tế XHCN dựa trện quan
hệ biện chứng giữa tập trung và dân chủ. Do đó, đổi mới cơ chế quản lý vĩ
mô về thực chất là tăng cờng công tác phối hợp giữa các ngành, các yếu tố
của nền kinh tế quốc dân nhằm đạt đợc hiệu quả kinh tế tối u.
+ Dân chủ hoá quản lý kinh tế
Lênin coi việc lôi cuốn quần chúng vào việc quản lý là một vấn đề nguyên
tắc, thể hiện đòi hỏi cả về mặt dân chủ lẫn mặt tập trung. Đây là kết quả của
sự thay đổi tân gốc quan niệm về những vấn đề cơ bản về phát triển xà hội và
kinh tế. Trong giai đoạn thực hiện NEP, dân chủ hoá trong quản lý kinh tế đợc thực hiện có kết quả trên nhiều mặt khác nhau: Tổ chức hội nghị sản xuất,
thực hiện chế độ phân phối theo lao động, hình thức công khai và dân chủ
trong việc lựa chọn cán bộ lÃnh đạo - quản lý, thực hiện nguyên tắc và kiểm
soát của công nhân.
4. Tổ chức quá trình lu thông.
Lênin đà nêu những chức năng mới của Nhà nớc Vô sản trong lĩnh vực kinh
tế.
-

Điều tiết việc mua bán và lu thông tiền giấy.

-

Tổ chức thơng nghiệp nhà nớc bán buôn và bán lẻ.

ớc.

ổn định các quan hệ hàng hoá tiền tệ giữa các cơ quan kinh tế Nhà n-


Sử dụng hợp tác xà để củng cố quan hệ thơng mại giữa thành thị và
nông thôn.
Phát triển quan hệ tín dụng.
Ngời vạch rõ nhiệm cụ của bộ máy quản lý kinh tế: chúng ta phải học tập
những quan hệ buôn bán trên phạm vi cả nớc, đó là một nhiệm vụ khó khăn,
nhng quyết không phải là không thể làm đợc.
Phơng hớng quản lý lu thông là: căn cứ vào thị trờng hiện có tính toán đến
các quy luật của nó, chiếm lĩnh thị trờng và bằng những biện pháp kinh tế thơng xuyên có cân nhắc và đợc xây dựng trên sự kiểm kê chính xác quá trình
của thị trờng mà nắm vững việc điều tiết thị trờng và lu thông tiền tệ.
1
5


Nội thơng trở thành mắt xích đặt biệt cần nắm vững trong dây truyền quản
lý, điều tiết hoạt động của kinh tế. Thơng nghiệp trở thành mắt xích trong
triển khai NEP vì: Mục đích cao nhất của NEP là thiết lập liên minh kinh tế.
Vì thế thơng nghiệp là mối liên hệ kinh tế duy nhất, là điều kiện tái sản xuất;
hơn nữa không có hoạt động thơng nghiệp thì không thể sử dụng các hình
thức quá độ trong sản xuất và lu thông.
Một trong nhữn vấn đề quan trọng nhất của NEP là phải chiếm các vị chí chỉ
huy trong thơng nghiệp khi triển khai quá trình lu chuyển hàng hoá, đồng
thời hớng quá trình lu thông đó đi thẳng tới nhu cầu của nông thôn và thành
thị. Để nắm chắc các vị trí thơng nghiệp và làm chủ thị trờng, nhà nớc chú ý
đặc biệt đến củng cố mối liên hệ chặt chẽ giữa công nghiệp quốc doanh với
thơng nghiệp quốc doanh và thơng nghiệp tập thể để nắm quỹ hàng hoá công
nghiệp dùng làm phơng tiện điều tiết thị trờng. Nhà nớc sử dụng nhiều hình
thức thơng nghiệp với một cơ cấu thơng nghiệp đảm bảo vai trò của thơng
nghiệp Nhà nớc, đấu tranh bằng cạnh tranh với t bản thơng nghiệp.
Trong suốt quá trình khôi phục kinh tế, thơng nghiệp XHCN ngày càng thể

hiện đầy đủ vai trò của chiếc cầu nối nông nghiệp với công nghiệp. Cũng
trong quá trình tổ chức lu thông hàng hoá theo NEP, Nhà nớc Xô Viết đÃ
nắm vững tính quy luật liện kết giữa thơng nghiệp với tài chính và ngân hàng
nh một chỉnh thể. Việc đây mạnh chu chuyển nội thơng làm cho nhu cầu tiền
mặt tăng lên, sự phát triển của thơng nghiệp đà mọi lực lợng sản xuất phát
triển, tạo nguồn thu cho ngân sách. Ngân hàng nhà nớc XHCN phải gắn chặt
với thơng nghiệp để thúc đẩy toàn bộ lu thông hàng hoá.
Ngoài thơng nghiệp ra, giao thông vận tải là khâu quan trọng. Khi nền kinh
tế chuyển sang quỹ đạo NEP. Tổng sản lợng xà hội tăng nên nhanh chóng,
khối lợng vận chuyển tăng lên nhiều và đa dạng, nhng ngành lại đang gặp
khó khăn. Để khắc phục khó khăn, một mặt nhà nớc đầu t khôi phục giao
thông vận tải, mặt khác nhà nớc chủ trơng cải thiện tình hình tài chính của
giao thông.
5. ổn định tiền tệ, củng cố nền tài chính Xô Viết:
* Chấn chỉnh công tác tài chính, củng cố nền tài chính Xô Viết.
Ngay sau khi cách mạng thành công, Lênin đà ra nhiều biện pháp để chấn
chỉnh công tác tài chính, nh biện pháp kiểm kê và kiểm soát có tác dụng tính
toán nhu cầu thực tế về tài chính của doanh nghiệp, kiểm soát việc chi tiêu,
hạn chế các chi phí sản xuất và chi phí cho bộ máy quản lý. Nhà nớc chủ trơng tổ chức tài chính quốc gia, điều tiết giá cả nhằm thiếp lập quan hÖ kinh
1
6


tế mới giữa thành thị và nông thôn. Lênin cũng đà chỉ ra rằng trong thời đại
chuyên chính vô sản và chế độ công hữu về t liệu sản xuất, tài chính của nhà
nớc phải trực tiếp dựa trên cơ sở lu thông của một bội phận thu nhập nhất
định của các độc quyền nhà nớc. Sự cân đối thu chi chỉ có thể thực hiện trên
cơ sở tổ chức việc trao đổi hàng hoá đúng đắn.
Những quan điểm đó hoàn toàn phù hợp với quy luật tái sản xuất và quy luật
khác của kinh tế hàng hoá đợc thực hiện trọng điều kiện chuyên chính vô

sản. Lênin cũng đà nêu ra những nguyên tắc cơ bản của tài chính XHCN nh
sau:
- Vai trò của chính sách tài chính có ý nghĩa quyết định thắng lợi của công
cuộc cải tạo và xây dựng trong thời kì quá độ.
- Chính sách tài chính phải thống nhất, đợc quy định rõ ràng và các quy tắc
phải đợc chấp hành từ trên xuống dới. Quan điểm về tập trung tài chính,
không mâu thuẫn với yêu cầu phát huy chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong
hoạt hoạt động thực tiễn.
- Hoạch toán kinh tế và kinh doanh theo nguyên tắc xí nghiệp hoàn toàn chịu
trách nhiệm về mặt tài chính đối với kết quả hoạt động kinh tế của mình.
- Nguyên tắc cân đối ngân sách, công tác tài chính gắn với công tác ngân
hàng và thơng nghiệp.
Vận dụng các quan điểm đó vào việc giải quyết những khó khăn về tài
chính, cụ thể là làm thế nào để tăng thu, giảm chi bằng những biện phát cụ
thể thuộc lĩnh vực tài chính trong cuộc khủng hoảng tài chính.
Để giảm chi, chính quyền Xô Viết đà thực hiện mấy biện pháp chủ yếu:
giảm biên chế nhà nớc, thi hành những quy định về các khoản chi tiêu ở mức
tối thiểu, không cấp ngân sách cho các xí nghiệp.
Để tăng thu, các cơ sở kinh tế nhà nớc chuyển sang hoạch toán kinh tế phải
tích nộp lợi nhuận và khấu hao cho ngân sách, xây dựng lại hệ thống thuế
(thuế công thơng nghiệp, thuế thu nhập, thuế tài sản, thực hiện cải cách thuế
đối với nông nghiệp, thi hành chế độ trả tiền đối với tất cả các loại hình dịch
vụ...), phát hành công trái và tín phiếu.
* ổn định tiền tệ.
Trong hệ thống các biện pháp để giải quyết cuộc khủng hoảng, từ thuế lơng
thực đến trao đổi hàng hoá giữa nông nghiệp với công nghiệp, thì việc ổn
định đồng tiền trở thành khâu cuối cùng có tác dụng quyết định củng cố có
kết quả toàn bộ hệ thống, chuyển hẳn nền kinh tế quốc dân sang quỹ đạo
mới và bớc vào một giai đoạn phát triển ổn định vững chắc.
1

7


Việc ổn định tiền tệ lúc này có ý nghĩa là phải tiến hành có kết quả cuộc
chống lạm phát. Năm 1921, thời gian ổn định của đồng rúp kéo dài 3 tháng.
Năm 1922, thời gian ấy kéo dài hơn, gần gấp đôi đà chứng tỏ rằng các biện
pháp chống lạm phát, ổn định tiền tệ là đúng đắn. Những điều kiện để ổn
định tiền tệ đó là:
- Bớc chuẩn bị: đây là thời gian thực hiện một số chính sách và biện pháp
quan trọng nh áp dụng chính sách thuế lơng thực, xoá bỏ chính sách trng thu
lơng thực thừa, chính sách trao đổi hàng hoá, của cố chính sách thơng
nghiệp.
- Bợc một: tiến hành thay đổi đơn vị tiền tệ
Vàng vẫn là hàng hoá tiền tệ, hệ thống tiền tệ phải dựa trên cơ sở mối quan
hệ giữ vàng và tiền. Hệ thống tiền tệ XHCN có khả năng tạo ra sự cân đối
giữa lợng tiền phát hành với khối lợng hàng hoá mà nhà nớc nắm giữ đợc.
- Bớc hai: bớc quá độ của cải cách tiền tệ
Chuyển sang hoạch toán kinh tế đòi hỏi có một thớc đo tin cậy và ổn định,
nên việc tìm tòi thớc đo giá trị phải dựa trên quan điểm hoạch toán kinh tế và
kinh doanh ( phát hành đồng Chec - nô - vet). Từ đó đồng tiền dùng làm thớc
đo phải làm công cụ tín dụng chứ không phải là dùng để bù đắp ngân sách
bội chi, khối lợng tiền tệ phát hành phải phù hợp với mức tăng trởng kinh tế
đợc đảm bảo bằng hàng hoá và vàng.
- Bớc ba: hoàn thành cải cách tiền tệ
Nhà nớc ban hành đạo luật phát hành giấy bạc mới. Củng cố và phát triển hệ
thống ngân hàng. Mở rộng hệ thống tín dụng băng cách thành lập các ngân
hàng khác. Ngân hàng công thơng nghiệp, ngân hàng chuyên nghiệp và năng
lợng, ngân hàng trung tâm của sự nghiệp công cộng và xây dựng nhà ở. Bên
cạnh hệ thống ngân hàng là một hệ thống hợp tác xà tín dụng rộng khắp ở
nông thôn.

Thắng lợi vững chắc của cuộc cải cách tiền tệ đà góp phần quan trọng thực
hiện các mục tiêu kinh tế xà hội của NEP. Trong đó thắng lợi cơ bản nhất là
ổn định đời sống nhân dân, củng cố liên minh công nông, điều chỉnh lại
phân phối thu nhập quốc dân.
Thời kì 1921 đến 1924 là sự thử thách lớn, gay go đối với chính quyền Xô
Viết trẻ tuổi. Thắng lợi của NEP trong thời kì này biểu hiện khá đầy đủ sức
sống của nhà nớc xà hội chñ nghÜa.

1
8


C. ý nghĩa của NEP và bài học thành công
Chính sách kinh tế mới NEP có ý nghĩa cực kì quan trọng. Trớc hết nó khôi
phục đợc nền kinh tế X« ViÕt sau chiÕn tranh. ChØ trong mét thêi gian ngắn
đà tạo ra một bớc phát triển quan trọng biết một nớc Nga bị tàn phá năng lề
sau chiến tranh trở thành một đất nớc có nguồn lơng thực dồi dào. Từ đó, nó
khắc phục khủng hoảng chính trị, củng cố lòng tin của nhân dân vào sự
thắng lợi tất yếu và bản chất tốt đẹp của CNXH theo nguyên lý mà Lênin đÃ
vạch ra.
Chính sách kinh tế mới của Lênin còn đánh dấu một bớc phát triển mới về lý
thuyết nền kinh tế nhiều thành phần, các hình thức kinh tế quá độ, việc duy
trì và phát triển quan hệ hàng hoá tiền tệ, quan tâm tới lợi ích kinh tế cá
nhân. Trớc hết là những vấn đề có tính chất nguyên tắc trong việc xây dựng
mô hình nền kinh tế XHCN.
Từ đó chính sách kinh tế mới có ý nghĩa quốc tế to lớn đối với các nớc phát
triển theo định hớng XHCN, trong đó có nớc ta. Những quan điểm kinh tế
của Đảng ta nhất là từ đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V đến nay ®· thĨ
hiƯn sù nhËn thøc vËn dơng quan ®iĨm của Lênin trong chính sách kinh tế
mơi. Tất nhiên, do thời gian và không gian cách xa nhau, trải qua những biến

động khác nhau, nên nhận thức và vận dụng có thể có sự khác nhau về bớc đi
nội dung và biện pháp cụ thể trong khi tiến hành ở níc ta.
Víi mét ý nghÜa v« cïng to lín nh vậy, cùng với những thành công rực rỡ
mà nó thu đợc trong công cuộc cải tổ nớc Nga Xô Viết đà xây dựng bài học
cho tất cả các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là những nớc đi lên từ điểm
xuất phát thấp.
Thứ nhất, là chiến lợc liên minh công nông về mặt thành tích. Tính tất yếu
phải lựa chọn con đờng quá độ đặc biệt lên CNXH xét một cách khái quát
chủ yếu là do giai cấp công nhân cha phát triển hay phát triển cha đầy đủ.
Do ®ã, cha cã ®đ tiỊn ®Ị vÌ kinh tÕ x· hội, cha có chỗ dựa về chính trị cho
công cuộc xây dựng CNXH bảo đảm sự lÃnh đạo của Đảng và cho phép Nhà
nớc thực hiện chức năng quản lý của mình có hiệu quả.
Phát huy vai trò sức mạnh của giai cấp công nhân bằng cách hình thành khối
liện minh bằng hai sức mạnh: bên trong là liện minh giữa giai cấp công nhân
và nông dân, bên ngoài là liên minh quốc tế XHCN. Điều này sẽ giúp củng
cố nhà nớc trẻ tuổi cha có cơ sở kinh tế xà hội vững vàng. Đồng thời, xây
dựng động lực cách mạng trong giai đoạn mới, biến công cuộc xây dựng
CNXH thành sự nghiệp của quân chúng. Điều kiện đầu tiên ®Ó khëi ®éng
1
9


phong trào quần chúng là phải ổn định, cải thiện ít nhiều đời sống quần
chúng vốn rất thấp và đà chịu thiếu thốn nhiều năm trong chiến tranh. Để
liên minh công nông về mặt kinh tế đáp ứng đợc yêu cầu xây dựng cớ sở
kinh tế bớc đầu của CNXH và tạo đọc động lực cho quá trình ấy thì phải bắt
đầu từ nông nghiệp và nông thôn.
Thứ hai, là con đờng từ nền kinh tế nhiều thành phần đến nền kinh tế XHCN
Đặc điểm kinh tế chủ yếu trong thời kì quá độ là tính chất nhiều thành phần
của nền kinh tế có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần,

những bộ phận, những mảnh của CNTB lẫn vào CNXH.(1)
chỉ trong một thời gian ngắn của mấy năm đầu thập kỉ 20, trong nền kinh tế
Xô Viết đà diễn ra hai quá trình chuyển biến kinh tế cơ bản. Quá trình thứ
nhất, chuyển thành phần kinh tế XHCN sang quỹ đạo NEP. Đây là đòi hỏi
của quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ lực lợng
sản xuất. Trớc hết là phải đảm bảo những cân đối nhất định về tài chính,
nguyên liệu và nhiên liệu. Muốn vậy, phải kiên quyết tổ chức lại sản xuất
khu vực kinh tế XHCN lựa chọn những đơn vị cần thiết nhất có đủ điều kiện
sản xuất và quản lý để tập trung đầu t, sớm phát huy vai trò của chúng trong
quá trình tái sản xuất xà hội. Tiếp theo, phải chuyển các cơ sở kinh tế XHCN
sang hoạch toán kinh tế, tạo điều kiện cho cúng hoạt động theo yêu cầu mới
bằng cách: phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh của cơ sở, đổi mới
nội dung và hình thức quản lý kinh tế Nhà nớc.
Quá trình thứ hai, chuyển hớng quản lý điều tiết các thành phần kinh tế t
nhân và cá thể sang quỹ đạo NEP.
Với một ý nghĩa lịch sử to lớn, với bài học thành công trong công cuộc xây
dựng CNXH, chính sách kinh tế mới NEP của Lênin đÃ, đang và se đợc vận
dụng sáng tạo trong điều kiện nớc ta nhằm đa đất nớc vững bíc tiÕn vµo thÕ
kØ míi víi mét nỊn kinh tÕ giàu mạnh, chính trị ổn định, xà hội công bằng
văn minh.

Chơng II

Việt Nam hội nhâp vào nền kinh tế của thế giới.
giới
Sau khi Việt Nam hoàn toàn đợc giải phóng (sau 30/4/1975), níc Céng Hoµ
X· Héi CHđ NghÜa ViƯt Nam non trẻ với vô vàn những khó khăn trong quá
trình xây dựng và phát triển đất nớc. Tuy nhiên chúng ta có những thuận lợi
cơ bản. Đặc biệt là cuộc đổi mới do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đÃ
khởi xớng và đạt đợc những thành tựu bớc đầu quan trọng trong việc phát

2
0



×