BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
TIỂU THUYẾT “LÀM ĐĨ” CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG
DƯỚI GÓC NHÌN LN LÝ HỌC
Họ tên nhóm sinh viên:
Phạm Thị Huyền - 715611047
Hồ Hoàng Anh - 715611019
Nguyễn Thùy Dương - 715611030
Hoàng Vĩnh Hiển - 715611040
HÀ NỘI, 2023
1
Mục lục
1. Mở đầu ........................................................................................................... 1
2. Khái quát phê bình luân lý học văn học ..................................................... 2
2.1 Khái niệm..................................................................................................... 2
2.2 Khái niệm các cơng cụ phê bình ln lý học văn học............................... 5
3. Lựa chọn luân lý trong tiểu thuyết “Làm đĩ” của Vũ Trọng Phụng ....... 7
3.1 Lúc dậy thì ................................................................................................... 9
3.2 Vào đời ....................................................................................................... 10
3.3 Trụy lạc ...................................................................................................... 13
4. Nguyên nhân lựa chọn luân lý ................................................................... 15
5. Vũ Trọng Phụng - tiểu thuyết “Làm đĩ” những giá trị luân lý còn đến
ngày nay.............................................................................................................. 19
5.1 Từ Vũ Trọng Phụng tới tiểu thuyết “Làm đĩ” ......................................... 19
5.2 Từ tiểu thuyết “Làm đĩ” tới bài học giáo dục giới tính ........................... 21
6. Kết luận ........................................................................................................ 23
1
TIỂU THUYẾT “LÀM ĐĨ” CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG
DƯỚI GĨC NHÌN LUÂN LÝ HỌC
Phạm Thị Huyền - 715611047
Hồ Hoàng Anh - 715611019
Nguyễn Thùy Dương - 715611030
Hoàng Vĩnh Hiển - 715611040
Lớp E1 - Khoa Ngữ Văn - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt: Bài viết giới thiệu phương pháp phê bình văn học mới - phương pháp phê bình
luân lý học văn học đang có nhiều tiềm năng phát triển trong văn học Việt Nam. Qua đó, vận
dụng phương pháp nghiên cứu này vào nghiên cứu tiểu thuyết “Làm đĩ” của nhà văn Vũ Trọng
Phụng để phân tích và làm rõ những vấn đề về đạo đức luân lý, thân phận luân lý, lựa chọn luân
lý, nguyên nhân và cơ chế lựa chọn. Từ đó rút ra được thơng điệp đạo đức nhà văn muốn truyền
tải thông qua thiên tiểu thuyết “tả chân” này.
Từ khóa: Phê bình ln lý học văn học, Vũ Trọng Phụng, luân lý, thân phận, lựa chọn,
nguyên nhân.
1. Mở đầu
Vũ Trọng Phụng là một trong những tên tuổi nổi bật trong hàng ngũ văn
chương hiện thực Việt Nam trước cách mạng. Người ta phong cho ông danh hiệu
là hiện tướng xuất sắc nhất của khuynh hướng “tả chân” đương thời. Các tác phẩm
của Vũ Trọng Phụng làm dấy lên những vấn đề xã hội, về đạo đức luân lý của con
người. Sinh thời, nghiệp cầm bút chỉ với chín năm ngắn ngủi, nhưng Vũ Trọng
Phụng đã để lại cho nhân loại một kho tàng văn học quý giá: truyện ngắn, tiểu
thuyết, phóng sự, kịch, … Giữa sự phong phú đó, thể loại ơng ghi được nhiều dấu
ấn hơn cả, đó là tiểu thuyết. Khơng lặp lại những hiện thực đã được nhắc đến trong
các tác phẩm của nhà văn khác, Vũ Trọng Phụng phát hiện và phản ánh những
vấn đề mà ta khơng thể tìm thấy trong các tác phẩm của những nhà văn cùng thời.
Tiểu thuyết “Làm đĩ” của Vũ Trọng Phụng ra đời như lời cảnh tỉnh các cha
1
mẹ quan tâm đến đời sống của con cái, đặc biệt là giáo dục giới tính ngay từ thủa
cịn nhỏ. “Làm đĩ” được nhà văn cho ra đời vào cuối mùa tư sản hóa, trong bối
cảnh xã hội tung hơ “Âu hóa” nhưng lại ln cố gắng giữ những định kiến, nghi
kỵ, cho rằng cái dâm là cái tục, cái dâm không nên được đưa lên miệng để giải
bày. Một xã hội với những giá trị đạo đức bị đảo lộn, trái phải thật giả được phản
ánh rõ rệt và đặc sắc thông qua ký sự của Huyền – nhân vật trung tâm của tác
phẩm. “Làm đĩ” là một tấn bi kịch đạo đức, khơng chỉ một mình Huyền mà cịn
là của lồi người, bất kể khơng thời gian hay không gian nào.
Thiên chức của văn chương là hướng con người đến chân – thiện – mỹ, đó
là những giá trị đạo đức, luân lý được nhà văn thể hiện qua mỗi câu chuyện. Và,
phê bình luân lý học văn học chính là cơng cụ tuyệt vời giúp các nhà nghiên cứu
và người đọc khám phá ra những giá trị đạo đức mà nhà văn muốn truyền tải.
Phương pháp nhấn mạnh bản chất luân lý và chức năng giáo dục của văn chương,
xem nguồn gốc của văn chương là từ luân lý xã hội. Vận dụng phê bình luân lý
học văn học vào phân tích và nghiên cứu vấn đề luân lý đạo đức trong “Làm đĩ”
giúp người đọc hiểu các giá trị đạo đức nhà văn truyền tải, làm sáng tỏ những góc
khuất luân lý, những bi kịch bị ẩn giấu đi hay được gây ra từ luân lý đạo đức con
người.
Bài nghiên cứu này sử dụng phương pháp phê bình ln lý học văn học như
một góc nhìn mới về tác phẩm “Làm đĩ”. Thơng qua việc tìm hiểu, phân tích thân
phận luân lý và sự lựa chọn luân lý của nhân vật Huyền, chúng tôi đi sâu vào thế
giới nội tâm phức tạp, tra rõ nguyên nhân và động cơ lựa chọn luân lý của nhân
vật. Đồng thời tiếp nhận những giá trị luân lý trong tác phẩm và làm rõ quan niệm
đạo đức của Vũ Trọng Phụng.
2. Khái quát phê bình luân lý học văn học
2.1 Khái niệm
“Phê bình luân lý học văn học” (Ethical Literary Criticism 文学伦理学批评) là phương pháp nghiên cứu và phê bình luân lý trong văn học
do nhà nghiên cứu người Trung Quốc Nhiếp Trân Chiêu sáng tạo ra. Phương pháp
2
trên cơ sở tiếp thu lý thuyết phê bình luân lý phương Tây và kết hợp truyền thống
đạo đức đồ sộ, phong phú của Trung Quốc. Theo ông, phương pháp phê bình này
giải quyết được những hạn chế của phê bình ln lý học phương Tây trước nó.
Nhiếp Trân Chiêu cho rằng văn học là sản phẩm của nền đạo đức luân lý xã hội,
chức năng giáo dục của văn học và trách nhiệm xã hội phê bình văn học được
nhấn mạnh.
Năm 2010, Nhiếp Trân Chiêu đã định nghĩa về phê bình luân lý học văn học
như sau: “Phê bình luân lý học văn học là một phương pháp dùng để đọc, phân
tích và lý giải tác phẩm văn học, nghiên cứu tác giả và các vấn đề văn học từ góc
độ luân lý học. Tư tưởng cơ bản của phương pháp này đó là, văn học về bản chất
là nghệ thuật của ln lý vì nó là sự biểu đạt đặc thù những ý tưởng luân lý và
đời sống đạo đức trong những hoàn cảnh lịch sử đặc biệt. Văn học không phải là
nghệ thuật ngôn từ mà là nghệ thuật của văn bản do văn tự tạo thành. Nó khơng
phải là hình thái ý thức xã hội hay hình thái thẩm mỹ mà là hình thái vật chất do
sự tồn tại của văn bản chữ nghĩa. Giáo dục hay giáo huấn là thuộc tính cơ bản và
cũng là chức năng hàng đầu của văn học trong khi cảm thụ thẩm mỹ là thuộc tính
và là chức năng thứ yếu phục vụ cho thuộc tính và chức năng đầu tiên”.1
Về cơ bản, phương pháp phê bình luân lý học văn học là một phương pháp
nghiên cứu văn học, điều mà phương pháp này chú ý đến là những phân tích, lý
giải các hiện tượng luân lý trong thế giới nghệ thuật do nhà văn sáng tạo nên. Thế
giới đó được xây dựng như một xã hội, có những định chế, quy luật đạo đức riêng
rẽ. Chúng ta không thể quy chụp đây là thế giới thực, vì vậy trong quá trình đi tìm
các quy luật luân lý, bản thân người nghiên cứu cần ý thức rõ ràng đây là một tác
phẩm nghệ thuật, cần phải đảm bảo những nguyên tắc thẩm mỹ của nghệ thuật.
Phê bình luân lý học văn học có mối quan hệ gần gũi với luân lý học, bởi lẽ
nguồn gốc của phê bình luân lý học văn học từ luân lý học, nhưng được áp dụng
cho một đối tượng khác. Đối tượng nghiên cứu của phê bình ln lý học văn học
Nguyễn Hồng Tuệ Anh (2022), Tiểu thuyết Thiếu nữ đánh cờ vây của Sơn Táp dưới góc nhìn phê bình ln lí
học văn học, Nghiên cứu văn học số 2 - 2022, tr 83 - 91.
1
3
là các hiện tượng trong thế giới ngôn từ nghệ thuật mà nhà văn tạo dựng nên, từ
đây đưa ra phán đoán thẩm mỹ từ cái thế giới hiện thực mà lại khơng phải hiện
thực đó. Cịn đối với ln lý học, đối tượng nghiên cứu lại là các hiện tượng đạo
đức trong xã hội hiện thực, từ đây nhà nghiên cứu đưa ra các giá trị luân lý thiện
ác, đúng sai. Luân lý học là một công cụ của ngành xã hội học, phê bình luân lý
học văn học là cơng cụ để phê bình văn chương, thuộc ngành văn học. Nhiếp Trân
Chiêu có khẳng định: “Phương pháp phê bình luân lý học văn học và luân lý học
vừa có điểm tương đồng vừa có điểm khác biệt trên phương diện đối tượng, nội
dung và mục đích đạt tới.”2 Cần phân biệt rõ ràng hai vấn đề này để không sử
dụng nhầm lẫn công cụ của các chuyên ngành, hay hiểu sai về phương pháp phê
bình luân lý học văn học.
Có thể thấy rằng, phương pháp phê bình lý luận học văn học đã mở ra hướng
nghiên cứu và tiếp nhận các giá trị quan trọng cho nghiên cứu văn học. Nhà nghiên
cứu Nhiếp Trân Chiêu đã đóng góp những cơng lao to lớn cho việc hồn thiện lý
thuyết này, từ các góc độ khác nhau, Nhiếp Trân Chiêu đưa ra các phạm trù nghiên
cứu của phương pháp phê bình.
Thứ nhất, từ góc độ quan hệ giữa nhà văn và sáng tác, phê bình luân lý học
văn học tìm hiểu các quan niệm đạo đức của nhà văn, quá trình hình thành quan
niệm này, hơn cả phương pháp nghiên cứu sự tác động quan niệm luân lý và
khuynh hướng đạo đức của nhà văn đối với tác phẩm.
Thứ hai, từ góc độ quan hệ sáng tác và xã hội, phê bình luân lý nghiên cứu
các giá trị đạo đức và giá trị xã hội được thể hiện trong tác phẩm, làm thế nào để
thể hiện luân lý đạo đức đó vào thế giới ngơn từ. từ đây khám phá ra tác động
ngược lại của văn chương đối với xã hội hiện thực. nhấn mạnh chức năng giáo
dục của văn chương.
Thứ ba, từ góc độ mối quan hệ giữa người đọc và sáng tác, phương pháp
giúp tìm hiểu cảm thụ của người đọc về quan niệm đạo đức của nhà văn, khuynh
Đỗ Văn Hiểu (2016), Phát triển phê bình luân lí học văn học ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Khoa học, Đại học
Sư phạm Hà Nội, Số 5, tr 53 - 58.
2
4
hướng luân lý mà nhà văn thể hiện trong tác phẩm. Ngồi ra, phê bình nghiên cứu
về sự bình giá của người đọc đối với quan niệm đạo đức của nhà văn.
Bên cạnh đó, các vấn đề như đánh giá khuynh hướng đạo đức của nhà văn
và các sáng tác từ cái nhìn luân lý, quan niệm đạo đức của tác giả, khuynh hướng
đạo đức được thể hiện đối với các giá trị truyền thống, ảnh hưởng của quan niệm
đạo đức, khuynh hướng đạo đức đối với độc giả cùng thời và tương lai, mối quan
hệ giữa văn chương và phong tục, giáo dục luân lý xã hội,… đều thuộc phạm trù
của phê bình luân lý học văn học. Mục đích của phương pháp khơng chỉ dừng lại
ở việc nghiên cứu luân lý trên bề mặt văn bản, sâu xa hơn phương pháp nghiên
cứu mối quan hệ của tác phẩm văn học và xã hội, văn học và tác gia, văn học và
độc giả từ góc độ luân lý.
2.2 Khái niệm các cơng cụ phê bình ln lý học văn học
Để sử dụng phương pháp phê bình luân lý học văn học vào việc phân tích
luân lý của một tác phẩm, người ta thường sử dụng các công cụ như: “Môi trường
luân lý, trật tự luân lý, thân phận luân lý, lựa chọn luân lý, lưỡng nan luân lý,
cấm kỵ luân lý, ý thức luân lý,...”3. Các công cụ này tạo thành hệ thống diễn ngôn
giúp người nghiên cứu thao tác dễ dàng hơn trong lĩnh vực phê bình mới. Chính
nhờ những đặc điểm này, phương pháp phê bình ln lý học văn học có sức lan
rộng đến nhiều quốc gia khác.
Theo phê bình luân lý học văn học, cấm kỵ luân lý được định nghĩa là những
quy tắc, định chế đạo đức không được phép phá vỡ, đây là những nguyên tắc cốt
lõi duy trì trật tự luân lý cộng đồng. Trong quá trình phát triển của văn minh nhân
loại, con người đề ra hai đại cấm kị luân lý đó là cấm hơn nội tộc và giết hại người
thân. Khi con người tấn công phá vỡ cấm kỵ luân lý, dẫn đến tình trạng hỗn loạn
luân lý, điều này khiến con người đối mặt với lưỡng nan luân lý và khốn cảnh
luân lý, cuối cùng bước vào con đường bi kịch cuộc đời hoặc kết thúc sinh mệnh.
Tiếp đến, khốn cảnh luân lý được xây dựng trên cơ sở của hiện tượng hỗn
Đỗ Văn Hiểu (2016), Phát triển phê bình ln lí học văn học ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Khoa học, Đại học
Sư phạm Hà Nội, Số 5, tr 53 - 58.
3
5
loạn luân lý, đó là những mâu thuẫn và xung đột luân lý. Khốn cảnh luân lý dồn
ép con người đến chỗ không biết đối mặt thế nào, giải quyết sao cho ổn thỏa. Khốn
cảnh luân lý được biểu hiện dưới rất nhiều hình thức, trong đó lưỡng nan ln lý
là phổ biến nhất.
Lưỡng nan luân lý được hiểu đơn giản là sự đứng giữa hai mệnh đề đạo đức
liên quan và tác động trực tiếp đến lựa chọn luân lý của con người. Nếu chủ thể
đưa ra phán xử và quyết định đối với từng mệnh đề một, riêng lẻ hai mệnh đề thì
lựa chọn luân lý nào cũng sẽ là phù hợp với nguyên tắc. Nhưng nếu chủ thể chỉ
chọn một trong hai mệnh đề sẽ khiến cho mệnh đề không được chọn trở thành
điều phản bội luân lý, đi ngược lại với đạo lý con người.
Thân phận luân lý là một trong những nội dung quan trọng của phê bình
luân lý học văn học. Trong “Dẫn luận Phê bình luân lý học văn học”, Nhiếp Trân
Chiêu đã đưa ra khái niệm: “Trong văn bản văn học, sự xuất hiện của tất cả vấn
đề luân lý thông thường đều có mối tương quan với thân phận luân lý. Thân phận
luân lý có nhiều cách phân loại, chẳng hạn như thân phận dựa trên cơ sở huyết
thống, thân phận dựa trên cơ sở quan hệ luân lý, thân phận dựa trên cơ sở quy
phạm đạo đức, thân phận dựa trên cơ sở quan hệ tập thể và xã hội, thân phận dựa
trên cơ sở nghề nghiệp [...]. Thân phận luân lý là tiền đề của hành vi đạo đức và
quy phạm đạo đức, đồng thời có sự ràng buộc đối với chủ thể hành vi đạo đức, có
lúc thậm chí là những ràng buộc mang tính bắt buộc, tức là những ràng buộc
được thể hiện thông qua cấm kỵ luân lý”.4
Cuối cùng, lựa chọn luân lý cũng là một trong những nội dung quan trọng
nhất của phê bình luân lý học văn học. Trong cuốn “Dẫn luận phê bình luân lý
học văn học”, Nhiếp Trân Chiêu đã đưa ra khái niệm về lựa chọn luân lý như sau:
“Trong thuật ngữ của phê bình luân lý học văn học, lựa chọn luân lý có hai
phương diện ý nghĩa: một mặt, lựa chọn luân lý chính là lựa chọn đạo đức của
con người, tức là thông qua sự lựa chọn đề đạt đến sự trưởng thành và hoàn thiện
Nguyễn Hoàng Tuệ Anh (2022), Tiểu thuyết Thiếu nữ đánh cờ vây của Sơn Táp dưới góc nhìn phê bình ln lí
học văn học, Nghiên cứu văn học số 2 - 2022, tr 83 - 91.
4
6
về đạo đức; mặt khác, lựa chọn luân lý chỉ sự lựa chọn hai hoặc nhiều hơn những
lựa chọn đạo đức, lựa chọn khác nhau sẽ có kết quả khác nhau, do đó sự lựa chọn
khác nhau có giá trị luân lý khác nhau”. 5
3. Lựa chọn luân lý trong tiểu thuyết “Làm đĩ” của Vũ Trọng Phụng
Vũ Trọng Phụng là nhà văn “tả chân” của trường phái hiện thực Việt Nam.
Trong các tác phẩm của ông luôn châm biếm, phê phán cái xã hội nửa tây nửa ta
lúc bấy giờ. Ơng ln đề cập đến cái dâm của con người và những lựa chọn luân
lý đi theo bản năng để rồi gây nên một xã hội hỗn loạn mọi giá trị. Đọc tiểu thuyết
của Vũ Trọng Phụng, người ta sẽ dễ dàng bắt gặp những nhân vật bị tác giả đặt
vào môi trường luân lý đặc biệt, để rồi phải đưa ra những lựa chọn luân lý. Họ
dần bị tha hóa vì những lựa chọn trong mơi trường đặc biệt.
Trong phê bình luân lý học văn học, nhà nghiên cứu muốn đi sâu tìm hiểu
lựa chọn luân lý của nhân vật thì buộc phải quay trở lại tìm hiểu môi trường luân
lý của tác phẩm. Môi trường luân lý là bối cảnh xuất hiện và tác động đến việc
lựa chọn luân lý của nhân vật.
Trong tiểu thuyết “Làm đĩ”, Vũ Trọng Phụng đã lựa chọn một môi trường
luân lý đặc biệt: Việt Nam trong giai đoạn 1900 - 1945. Thành thị Việt Nam thời
ấy đang “Âu hóa” một cách nửa mùa - cái mới chưa tới, cái cũ chưa qua. Xã hội
thị thành đầy rẫy sự nhốn nháo, đảo lộn mọi hành vi, các quy tắc bị phá vỡ hình
thành nên xã hội hỗn loạn ln lý. Đó là một xã hội tư sản thành thị Việt Nam
đang theo đuổi một lối sống trống rỗng và đồi bại. Phong trào “Âu hóa” được
tuyên truyền dưới cái vỏ bọc "văn minh, tiến bộ, cải cách xã hội", nhưng thực chất
lại là những hoạt động ăn chơi không lành mạnh, với mục đích chà đạp lên những
giá trị đạo đức truyền thống. Tuy nhiên Âu hóa cũng chỉ ở mức “nửa mùa”, con
người ta vẫn ôm khư khư lấy những tư tưởng đạo đức phong kiến cổ hủ như coi
trọng trinh tiết người con gái, cho rằng cái dâm là cái cấm kỵ không được nhắc
đến,... Trong xã hội đầy sự hỗn loạn đó, Vũ Trọng Phụng để cho nhân vật đứng
Nguyễn Hoàng Tuệ Anh (2022), Tiểu thuyết Thiếu nữ đánh cờ vây của Sơn Táp dưới góc nhìn phê bình luân lí
học văn học, Nghiên cứu văn học số 2 - 2022, tr 83 - 91.
5
7
trước những lựa chọn đạo đức. Khi cấm kị bị phá vỡ, con người chỉ còn con đường
cuối cùng là con đường bi kịch.
Phê bình luân lý học văn học cho rằng giữa thân phận luân lý và lựa chọn
luân lý của nhân vật có sự tác động qua lại. Thân phận luân lý là cơ sở để con
người lựa chọn và lựa chọn là khởi đầu cho sự hình thành thân phận luân lý mới.
Trong tiểu thuyết “Làm đĩ” của Vũ Trọng Phụng, nhân vật Huyền được nhà văn
tạo ra nhiều thân phận luân lý, sau mỗi một lần lựa chọn, Huyền lại có một thân
phận mới và có tác động đến lựa chọn tiếp theo của cô. Tuy nhiên, không phải lúc
nào Huyền cũng được chọn, cô bị đẩy vào, xét trên tổng thể, Huyền là nạn nhân
của xã hội phong kiến nửa mùa nửa thực dân đó.
Thân phận luân lý xuyên suốt của nhân vật Huyền là người phụ nữ Việt Nam
sống trong xã hội “nửa mùa”. Nhân vật Huyền được Vũ Trọng Phụng xây dựng
là một đứa con gái nhà tử tế, có ngoại hình xinh đẹp, thơng minh và được ăn học
đàng hồng. Thân phận luân lý này gắn liền với dòng máu Việt đang chảy trong
Huyền cùng với những lý tưởng đạo đức của con người phương Đông, đặc biệt là
tư tưởng Nho gia. Đó là tư tưởng cơng dung ngơn hạnh – thủy chung son sắc của
dân tộc. Ý thức luân lý đó được quy phạm lên thân phận người phụ nữ Việt một
cách hết sức mãnh liệt khiến nó tỏa ra ở khắp mọi mặt sinh hoạt, vật chất cũng
như tinh thần. Quan niệm “xuất giá tòng phu” là chuẩn mực, một lịng chung thủy
là điều hiển nhiên trong hơn nhân gia đình, cái tân tiết của người con gái trở thành
vật để đánh giá cả một con người,... Thân phận luân lý này khiến Huyền phải tin
tưởng và đi theo cái thước đo mẫu mực về thân phận thiếu nữ của xã hội đặt ra.
“[...] Cái danh dự một người đàn bà đã tựa căn bản vào một vật rất nhỏ mọn,
rất mỏng mảnh là cái màng tân, thì đối lại, những cử chỉ như nặn ra một vẻ mặt
e lệ, ngây thơ, và cách ép rất kín đáo đơi xương hơng thật chặt lại để gây ra sự
khó nhọc chật vật và sự đau đớn cho tân lang cũng có khi cứu vớt được người đàn
bà!” [6.372]
Trong suốt chiều dài của tác phẩm, trong mỗi mối quan hệ, nhà văn Vũ Trọng
Phụng đã xây dựng cho Huyền các thân phận luân lý khác nhau để từ đó làm cơ
8
sở cho việc lựa chọn luân lý của nhân vật này.
3.1 Lúc dậy thì
Từ xa xưa, loạn luân đã được con người liệt vào một trong hai đại cấm kị
luân lý. Bronislaw Malinowski khẳng định: “Loạn luân phải được ngăn cấm bởi
vì (...) loạn ln khơng tương thích với sự thiết lập những nền móng ban đầu của
văn hóa. Ở loại văn minh nào mà phong tục, đạo đức và pháp luật cho phép loạn
ln, thì gia đình sẽ khơng còn tồn tại. Ở độ tuổi trưởng thành chúng ta sẽ chứng
kiến sự phá hủy của gia đình, từ đó xã hội hỗn loạn hồn tồn và truyền thống
văn hóa sẽ khơng cịn có thể tiếp tục nữa.”6 Khi phạm phải cấm kỵ ln lý, cịn là
đại cấm kị thì con người phải đối mặt với khốn cảnh luân lý hay lưỡng nan luân
lý. Cho đến cuối cùng, cũng chẳng thể thoát được con đường bi kịch.
Trong tiểu thuyết “Làm đĩ”, nhà văn Vũ Trọng Phụng đã để nhân vật Huyền
phạm phải cấm kỵ luân lý này. Mối tình đầu của Huyền là mối tình loạn luân vụng
trộm với người anh họ Lưu - con giai một bà bác ngoại. Mối tình cứ thế nảy nở
lên từ những lần tiếp xúc gần gũi trong ngơi nhà. Có lẽ, Nguyễn Lưu là kẻ đem
lòng say mê trước, hắn bày ra những lần săn sóc, những lần ghen tng. Để rồi,
một cơ gái chưa từng trải qua chuyện yêu đương bao giờ dần bất chấp hết cả luân
lý để lún sâu vào trong bể tình đó.
Từ ý thức của thân phận ln lý, Huyền nhận thức được mối tình này là loạn
luân. Nhưng, Huyền lại khơng thể ngăn cấm được mình thơi mong nhớ về mối
tình đó. “Chúng em là anh em họ! Ái tình hy sinh thanh bần, hạnh phúc, ngần ấy
tiếng cũng không mạnh được bằng cái tiếng ghê gớm này: loạn luân. Nghĩ như
vậy, em buồn lắm, khổ lắm, khơng biết gì nữa, cả đến ăn uống cũng chểnh mảng,
lắm lúc lại ngồi thẫn người ra, mất trí.”[6.294] Chính sự rung cảm sai trái, mối
tình oan nghiệt này khiến Huyền vi phạm vào cấm kỵ luân lý. Như một lẽ tất
nhiên, Huyền và Lưu bị đẩy vào khốn cảnh luân lý.
Sau một đêm không trăng sao, Huyền đã mất cái quý giá nhất của danh dự
6
Nguyễn Anh Dân (2021), Vài nét về cấm kị luân lí, Tạp chí Văn nghệ quân đội, vannghequandoi.com.vn,
9
người đàn bà vào tay Lưu. Cô cảm thấy hoảng loạn vì giờ chẳng biết nên làm thế
nào nữa. Trong phút chốc, Huyền muốn trốn đi, liều đời mình cho tình yêu. “Cái
triết lý cuối cùng! Đi trốn! Liều đời với Lưu” [6.339]. Tại thời điểm này, Huyền
đối mặt với hai sự lựa chọn, giữa bố mẹ và tình yêu của mình. Một mặt, Huyền bị
đạo làm con chi phối, Huyền khơng thể đứng lên để bênh vực cho tình yêu của
mình khi thấy những giọt nước mắt của mẹ hay Huyền khơng thể cãi lại bố mình
khi ơng nói : “Ơng là bố mày, Ơng có quyền gả chồng cho mày lắm, ơng bắt mày
ngồi đâu thì mày phải ngồi đấy!” [6.410] . Nhưng mặt khác, Huyền vẫn nuôi khát
khao được trốn đi để xây dựng gia đình với người mình u.
Đơi trẻ viết thư cho những người bạn để mong muốn được chỗ tá túc chân,
kiếm nơi lập nghiệp. Nhưng viết đi hai lá thư, lần lượt trở về đều báo tin xấu. Ở
lại cũng chẳng được, trốn đi cũng chẳng xong, Lưu vì lo cho người tình của mình
mà chạy ngược xi đến kiệt sức. Anh mang nặng trên vai cái trách nhiệm của
một thằng đàn ông phải lo cho người con gái của mình. Nhưng bên ngồi kia
chẳng cịn lối thốt, Lưu bị dồn vào bế tắc không biết nên làm thế nào để lo cho
cuộc sống của cả hai đứa, vừa hay khi về biết chuyện bố mẹ Huyền định gả nàng
cho một người giàu sang, Lưu thấy cuộc đời mình chẳng cịn điều gì nữa. Anh
đau khổ vì tình, khơng đến được với người con gái mình u, Lưu chọn cái chết
để giải thốt tất cả. Sáu giờ sáng, một tên Tây về báo cho gia đình Huyền đến để
nhận xác của Lưu được vớt từ sơng lên.
Về phía Huyền, sau khi người tình của mình chết, Huyền đau khổ đến tột
cùng nhưng cũng chẳng thể làm được gì cho người yêu của mình, khơng những
vậy cịn phải bước chân lên xe hoa theo sự sắp đặt của bố mẹ. Huyền phải lấy kẻ
mà mình khơng u, phải chấp nhận cưới một thằng chồng bị giang mai vì thói ăn
chơi trác táng và sau đó chính nó là kẻ đẩy Huyền vào con đường trụy lạc. Do
hoàn cảnh, buộc Huyền phải lựa chọn nghe theo sự sắp xếp hôn sự của bố mẹ mà
trong lòng vẫn còn nhớ thương da diết Nguyễn Lưu.
3.2 Vào đời
Ở chặng đường này, Huyền được nhà văn xây dựng cho một thân phận luân
10
lý mới. Xét trên mối quan hệ xã hội, Huyền mang thân phận là một người vợ của
cậu tham Kim - kẻ giàu có trong vùng, làm việc cho Tây, học đòi sống theo lối
của Tây. Trong mối quan hệ vợ chồng, điều cấm kỵ khơng được phạm phải đó là
ngoại tình. Nhưng Huyền dù có chồng vẫn lựa chọn ngoại tình với Tân, đau đớn
thay người gián tiếp đẩy Huyền vào lựa chọn này lại là âm mưu của chồng mình.
Về sống nhà chồng, Huyền tưởng rằng mình sẽ rất đau khổ vì cái chết của
Lưu và cuộc sống với người mình khơng u. Nhưng, được sống trong nhung lụa,
được chồng yêu chiều, dần dà Huyền thấy mê đắm với cuộc sống này, cũng thấy
mình rung động với người chồng sắp đặt. Một lần, Huyền được chồng cho đi xã
giao cùng với mình tại bữa tiệc nhảy đầm, nơi đây Kim giới thiệu Huyền cho Tân.
Như có tiếng sét ái tình, Huyền mới gặp Tân đã đem lịng nhớ thương.
“Đêm hôm ấy, nằm trong sự ôm ấp của chồng em đã không sao xua đuổi
được sự mơ màng, ao ước và tưởng tượng rằng đó là em nằm trong cánh tay Tân.
[...] Mà đã khơng cịn là một người đoan chính cao thượng từ đời nào mất rồi, thì
hỏi giữ gìn đức hạnh nữa mần chi? Khơng bao giờ như đêm ấy sự hư hỏng nảy
mầm trong óc một gái đã có chồng [...]” [6.449]
Trước khi hạ xuống lựa chọn sẽ ngoại tình với Tân, Huyền cũng đã đắn đo
nhiều chiều. Huyền nghĩ đến Lưu, nếu Lưu không chết thì Huyền đã trở thành
người vợ trung thành nhất, một người vợ “sạch sẽ” nhưng với Kim, Huyền khơng
cịn là một người trinh tiết nữa, hơn hết Huyền cho rằng kẻ chấm dứt cho cuộc đời
trong trắng kia là Kim, Kim thật đáng chết sau những bi kịch mà hắn gây ra. Sau
suy nghĩ cân nhắc lựa chọn đó, Huyền nằm xuống bên cạnh Kim, nhưng lại ôm
chiếc chăn tưởng tượng là Tân. Cuộc ngoại tình bằng tinh thần đã mở đầu cho lựa
chọn phá vỡ cấm kỵ luân lý trong hơn nhân - một cuộc ngoại tình thật sự.
Từ sau cái đêm đó, Huyền bắt đầu câu dẫn Tân, sử dụng các thủ đoạn lẳng
lơ để quyến rũ, gây thương nhớ cho Tân. Huyền và Tân có những lần giao cấu,
những cuộc hẹn hò nhưng Kim lại chẳng hề hay biết, hắn cịn rất vui vẻ tiếp tay
cho đơi gian phu dâm phụ: “Khơng nhận lời ngay thì ra tơi nghi ngại gì bạn tơi
à? Thì ra tơi sợ mợ khơng là người đứng đắn à? Nghi hoặc thì là người sống cả
11
ghen! [...] theo Âu hóa, thì khơng được nghi ngờ như người cổ hủ [...]” [6.477].
Huyền khi ấy vẫn còn ý thức luân lý từ thân phận của mình, bên ngồi vẫn tỏ ra
ái ngại, nhưng chính câu chốt hạ của Kim, cũng là câu nói tiếp thêm chút lực đẩy
Huyền vào cuộc ái tình vi phạm đạo đức luân lý, “Thơi đi, mợ cũng hủ bại vừa
chứ! Đừng nói nữa! Đồ ngu![...]” [6.478].
Cái kim trong bọc lâu ngày sẽ lịi ra, cuộc tình dun vụng trộm đến ngày
phát giác, người chồng mù quáng ấy như được dẫn thêm chút ánh sáng, mở mang
đầu óc tối tăm của nó. Kim phát giác ra Huyền ngoại tình, “Ấy thế là con Huyền
bắt đầu đi đến cái chặng đường khốn nạn nhất đời của nó”. [6.502]. Như một lẽ
tất yếu, khi Huyền đã phạm phải cấm kỵ luân lý, cuộc đời của Huyền rồi sẽ lâm
vào bi kịch.
Kim trước đó dù yêu chiều vợ hết mực, nhưng bây giờ hắn lại giáng xuống
mặt vợ mình những cú đấm. Sau khi nói ra bằng chứng, hắn nắm tóc Huyền, tiếp
tục sỉ vả, hằn học và rồi tiếp tục đánh đập. Huyền cũng chẳng biết làm sao cho
thỏa, thầy me ở nhà chưa báo hiếu được, giờ “bơi tro trát trấu” thì cũng khổ thầy,
khổ me. Huyền cũng khơng thể ra tịa ly dị được, chuyện bị vạch trần ngoại tình
thì nhục nhã biết bao, khốn nạn với cái xã hội này biết bao. Vì vậy, Huyền chấp
nhận lời đề nghị của Kim, xuống làm phận tơi địi, con sen trong nhà,... khơng cịn
quyền hành gì của một người vợ.
Trong mười ngày sau đó, Huyền dằn vặt, khóc lóc với chiếc chăn bơng,...
Huyền ân hận cho những việc mình đã làm, những nỗi sợ cứ thế ập đến khiến tinh
thần mỏi và mệt, bứt rứt hơn là bị thương xác thịt. “Than ôi, sau một cuộc ngoại
tình, cái nợ phải trả sao mà quá đắt!” [6.529].
Bi kịch chưa dừng lại ở đó, Huyền trốn chồng mình đến gặp Tân để mong
chàng cho mình một chốn dung thân, nơi để nương tựa. Nhưng phũ phàng thay,
Tân là một kẻ khốn nạn hơn cả Kim, “Ồ! Té ra em vẫn chưa hiểu anh! Cái gì nhỉ?
Em muốn ly dị chồng à? Để lấy Tân à? Ồ Không? Không đời nào? Tất em đã phải
rõ là anh thù ghét hôn sự! [...] Lúc nào anh cũng dăm bẩy cơ nhân tình” [6.542].
Với những lý lẽ đểu giả, vơ ln lý, hắn đổ cho rằng việc ngoại tình là xã hội đã
12
văn minh rồi. Hắn giả công cho Huyền sau những cuộc ân ái vụng trộm là hai
chiếc nhẫn kim cương. Giờ Huyền mới rõ những lời mật ngọt Tân rót vào tai chỉ
là giả dối, đối với Tân, Huyền cũng chỉ như là bao cô gái làng chơi khác. Huyền
nén chiếc nhẫn vào mặt Tân như việc chấm dứt chuyện tình này, cũng là cách cuối
cùng Huyền giữ lại cho mình chút danh dự của một người đàn bà.
Cuộc sống của Huyền lại quay chậm nhịp, nhưng giờ khơng cịn là bà tướng
nữa, Huyền sống lầm lũi trong xó bếp với danh phận là vợ của chủ nhà. Hầu hạ
chồng rửa chân dọn giường, ăn cơm chung với bọn tôi tớ, … Đáng sợ hơn là sự
im lặng dửng dưng của chồng, Huyền không được phép hỏi, được phép hé răng.
Cứ thà rằng mắng chửi đi, còn hơn cái sự im lặng chết chóc gieo vào trong lịng
Huyền sự sợ hãi, cô quạnh,... Dần dà, Huyền mới vỡ lẽ ra bi kịch về người chồng
âm mưu lấy mình làm quân bài lót đường cho mình. Hai người đàn ơng Tân và
Kim là hai kẻ khốn nạn đến cùng cực, đẩy một cô gái từng là con nhà gia giáo,
ngoan hiền đến chỗ một con đĩ làng chơi sành sỏi.
3.3 Trụy lạc
Huyền viết thư để lại cho chồng, lên đường liều mình một lần nữa trong đời
để giết Tân - kẻ mà Huyền cho rằng là nguồn cơn đẩy Huyền đến khốn cảnh như
ngày hôm nay. Huyền bán hết nữ trang đi, lên một chuyến tàu đến Nam Kỳ để tìm
Tân, để đâm cho Tân một nhát ở giữa tim. Nhưng cuộc rượt đuổi như mò kim đáy
bể, đến khi cạn tiền rồi Huyền vẫn chưa gặp được Tân. Giữa đất khách quê người,
buộc phải kiếm tiền nuôi thân, Huyền đành chịu “chuyện trò” với một khách làng
chơi Bạc Liêu được ông chủ giới thiệu cho. Khi nhìn thấy tấm giấy bạc dưới gối,
Huyền nức nở lên “như một đứa trẻ thơ mồ cơi mẹ, có dì ghẻ ác mà đã trót tay
đánh vỡ mất cái lọ quý nhất trong nhà” [6.591]. Nhưng lo ngày hôm nay, rồi cũng
cũng phải lo ngày mai, Huyền một ngày rồi lại một ngày, đến khi ngoảnh lại đã
được một tháng tròn.
Tại thời điểm này, Vũ Trọng Phụng để cho nhân vật của mình day dứt, đối
diện với lựa chọn có dấn thân vào con đường gái bán hoa nguyệt hay không. Từ
những lời tự sự của Huyền, ta thấy được nhân vật đã bứt rứt với lương tâm thế
13
nào, nhưng rồi cô gái ấy cũng tự an ủi mình trước lựa chọn “làm đĩ”. Để thốt
được đất Sài Thành, có lẽ khơng cịn con đường nào khác nữa. “Nếu khơng liều
thì cịn cách nào khác?... Vả lại như mình thì nào có trong sạch nỗi gì, vậy giá có
nhơ bẩn thêm chút nữa, tưởng cũng “vơ hại” [...]” [6.593].
Tuy nhiên khi đã về đến Hà thành, Huyền lại khơng có can đảm để trở về với
chồng hay về với thầy me. Có lẽ, chính cái định kiến của xã hội thời kì ấy đã ngăn
cản Huyền hồn lương mà đẩy Huyền vào con đường “làm đĩ” chính thức. Từ
thân phận luân lý là người phụ nữ Việt Nam đang chảy trong mạch máu của
Huyền. Cô tin rằng chuyện mình quay trở lại gia đình sẽ chẳng có ai có thể chấp
nhận cơ. Huyền đã ngoại tình, đã bỏ nhà đi trong một thời gian khá lâu. Đối với
tư tưởng phụ nữ công dung ngôn hạnh, thủy chung son sắt của người Việt, Huyền
khơng cịn tư cách nào để trở về cả. Chính cơ tự thấy mình đã vi phạm tất cả,
Huyền chẳng còn một chút liêm sỉ nào, dù gia đình cơ có chấp nhận thì chính
lương tâm của Huyền sẽ dằn vặt Huyền cho đến khi chết.
“Nhưng về đến Hà thành, không hiểu một sức mạnh ghê gớm gì đã dun dủi
cho em khơng thể nào có đủ can đảm về với chồng hay về nhà bố mẹ đẻ nữa, [...]
thật thế, liệu còn mặt mũi nào? Liệu ăn nói sao bây giờ! [...] khơng đủ cam tâm
tưởng đến sự quay về nhìn mặt những người thân yêu, dẫu là chỉ thử đánh một
canh bạc về liêm sỉ một lần cuối mà thôi” [6.595].
Từ những lựa chọn vi phạm luân lý của Huyền trước đó, đẩy cuộc đời của
Huyền đến chỗ bi kịch khơng lối thốt. Đã dấn thân vào nghề “làm đĩ” này thì
mong gì một ánh sáng vớt lấy cuộc đời Huyền. Cuộc đời lên voi xuống chó, có
những phút sướng đến ứa ra nước mắt hay những phút khổ sở mà phải treo nụ
cười giả tạo qua ngày trên môi. Một cuộc đời như vậy khơng cho phép Huyền
nghĩ tới tương lai, vì vốn dĩ, cuộc đời này ngày qua ngày lặp lại những cuộc vui ơ
trọc, kết thúc chuỗi ngày đó là cái chết. Huyền sống mà bị tước đi cái quyền được
sống, bi kịch đau khổ nhất của đời người.
Kết thúc thiên chuyện, người ta chẳng biết Huyền đi đâu, làm gì. Chỉ rõ rằng
cô ấy muốn công bố những ký sự của mình lên báo để muốn thanh minh cho cả
14
cuộc đời của mình, để cảnh tỉnh cho những gia đình và những cơ gái mới lớn.
4. Ngun nhân lựa chọn luân lý
“ Làm đĩ”- cụm từ khiến người ta ghê tởm, khinh bạc mỗi khi nhắc đến. Họ
coi đó như một cụm từ chỉ những thứ bẩn thỉu, chỉ những kẻ hư thân mất nết, họ
ném cái nhìn sắc lạnh tới những người vướng vào vòng luẩn quẩn ấy. Nhưng, liệu
có mấy ai hiểu đằng sau cái chữ “ làm đĩ” ấy chứa đựng những thứ gì? Nguyên
nhân gì khiến số phận một con người phải đi đến bước đường ấy? Điều gì đã khiến
một cơ tiểu thư đài các như Huyền phải đi đến bước đường làm nên chuyện “ hư
thân mất nết” như vậy? “Thế nào là hư, tại sao mà hư? Nhưng mà vì sao nó hư?”
Trước tiên, nó nằm ở ngay xã hội mà Huyền sống. Cái hay của Vũ Trọng
Phụng nằm ở chỗ, ông đặt tác phẩm vào trong không gian của buổi giao thời, với
một bên là văn hóa phương Tây mới lạ đang trong quá trình du nhập vào nước ta,
và một bên là văn hóa truyền thống đã ăn sâu vào máu người Việt. Đó là thế giới
chứa đựng những điều mới lạ khiến người ta cuốn theo và dần học cách thay đổi,
chính là sự xuất hiện của những tiệm chụp ảnh chạy theo các cơ gái đẹp, là những
trị chơi mới lạ như khiêu vũ, mạt chược,...khiến phụ nữ dần thốt khỏi những
khn mẫu ngàn đời trói buộc. Đặc biệt hơn chính là những tiệm may mang phong
cách của buổi giao thời, cái gọi là những tiệm may “ Âu hóa” giúp các chị em
khoe trọn vẻ đẹp của bản thân và từ đây dần mất đi cái gọi là sự giản dị của truyền
thống. Mới mẻ là thế nhưng những khn mẫu từ xa xưa vẫn cịn, chính điều này
đã khiến con người ta có thể cởi mở trong mọi vấn đề ngoại trừ chuyện ân ái, “…
cái xã hội, mỗi khi đả động đến vấn đề nam nữ giao hợp, đã vô tâm khiêu dâm
hơn là giảng dạy khoa học và ái tình giáo dục”. Xã hội với một bên là những trào
lưu cởi mở, phóng khống, ln đi theo tơn chỉ “ văn minh giải phóng phụ nữ”,
đối lập hoàn toàn với một bên truyền thống bảo thủ, giấu diếm những chuyện liên
quan đến trinh tiết, ân ái, giường chiếu,..đã phần nào đẩy Huyền đến con đường
đi làm đĩ. Và rồi, một câu hỏi được đặt ra rằng: “ Tại sao cũng trong cùng một xã
hội mà những cơ gái khác, thậm chí là chị gái Huyền khơng phải lâm vào cảnh
khốn cùng, hay chính xác hơn là khơng đi làm đĩ như Huyền?”. Có lẽ, xã hội chỉ
15
là một phần dẫn đến sự lựa chọn ấy của cô, chỉ là một trong nhiều tác nhân khác
mà thôi.
Gia đình là một trong những nguyên nhân đẩy Huyền đến con đường của lạc
lối. Sống trong một gia đình quyền cao, có tiếng trong giới thượng lưu, là một cơ
tiểu thư đài các, nhưng xung quanh Huyền chỉ toàn những lời nói dối. Câu hỏi trẻ
thơ khi bước vào tuổi dậy thì chứa đựng nhiều điều tị mị về giới tính đã bị che
lấp đi bởi những lời lấp liếm từ người lớn:
“Em bé từ đâu chui ra, như thế nào để có em bé và tại sao lại có em
bé,…?”
“Đẻ đường nách, đẻ đường bụng.”
Sự che dấu từ người chị, bản tính cáu gắt của người cha đã đẩy Huyền vào
sâu vũng bùn lầy mà chỉ có thằng Ngơn mới có thể cho cơ câu trả lời. Ngơn có
gì? Ngơn có tri thức về những gì mà Huyền đang cịn thắc mắc, là người duy nhất
có thể giải đáp nỗi băn khoăn trong lịng cơ. Và chính bởi lẽ đó, “ trị trẻ con” giữa
cơ bé mới bước vào tuổi dậy thì với một thằng nhóc hơn một tuổi đã xảy ra. Có
lẽ, câu hỏi về sự ra đời của em bé chỉ đơn giản là vấn đề hồn nhiên và ngây thơ,
nhưng thực chất đó lại là những tín hiệu báo hiệu sự phát dục của Huyền. Một ông
bố đạo mạo nhưng ngày đêm đi gái, mang vợ bé về nhà, làm những chuyện cấm
kỵ ngay sát bên giường con gái nhưng lúc nào cũng răn dạy, áp đặt con phải trở
thành một tiểu thư khuê các, đoan chính nhất cái giới thượng lưu lúc bấy giờ. Một
người mẹ nhu nhược, yếu đuối lúc nào cũng chỉ biết ôm con khóc, đến khi không
thể chịu đựng được nữa thì bỏ về q. Cịn một người anh trai thì lúc nào cũng
giữ những tấm ảnh khỏa thân của phụ nữ bên mình, giao lưu với những người hư
hỏng, “Em cịn nhớ buổi tối hơm ấy - ơi, mỉa mai - bên ngồi trời rả rích mưa, mẹ
em ngồi ơm em bé mà xì xụt khóc, chị em thì cãi nhau với đầy tớ dưới bếp, anh
em vừa khoác áo lấy mũ ra đi theo bọn con giai mất dạy mà bỏ cả sách đèn, thầy
em vừa lên xe với mấy ông bạn già phá gia chi tử, em ngồi cặm cụi viết một bài
luận pháp văn tả cảnh hạnh phúc gia đình, trong đó có bố ngồi đọc báo, anh ngồi
học, em bé chơi ngoan, mẹ đan áo, mình làm văn, vân vân…” Một gia đình như
16
vậy khiến Huyền dần trở nên đổi khác, bước chân dần đi chệch hướng, những bi
kịch cứ thể xuất hiện: bắt đầu từ trị trẻ con với Ngơn, đến mối quan hệ trái lẽ
thường với Lưu - người anh họ của Huyền, làm vợ Kim, gian díu với Tân, và cuối
cùng là trở thành một con đĩ thượng lưu. Thử hỏi, với một gia đình đã thối nát
tồn bộ như vậy, liệu có ai đủ mạnh mẽ để bản thân khơng nhúng chàm hay
khơng?
Cuộc đời Huyền sa ngã có lẽ khơng thể khơng có một chút giúp sức từ Kim
- tên chồng đểu cáng đến tột cùng của cô. Là một tham tá trong thời Pháp thuộc,
Kim ngỏ ý kết hôn với Huyền. Thử hỏi với danh phận Kim như thế, với đạo lý
“ cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” đã ăn sâu vào máu người bố cổ hủ của Huyền, với
sự yếu đuối từ người mẹ thì cơ có con đường tự do nào khác sao? Từ bỏ mối tình
đầy sai trái cùng Lưu, Huyền về nhà chồng. Nhưng chính cơ cũng khơng ngờ
được, tương lai sau này của mình sẽ thê thảm đến thế từ ngày nên duyên với Kim.
Một thằng đàn ông mắc bệnh giang mai nhưng lúc nào cũng bắt vợ mình phải Âu
hóa ở cái nơi “mà một con đĩ cũng được bắc ngang hàng một thiên vị kim tiểu thư,
mà một thiếu nữ đức hạnh, trong chốc lát, cũng có những cái khao khát của gái
đĩ…”. Một người tự xưng là chồng nhưng vì lợi ích cá nhân mà bán vợ cho bạn,
đẩy lên đầu Huyền danh xưng của kẻ ngoại tình, đẩy cô đến bước đường sa ngã
không cách nào quay đầu. Chính cái ích kỷ của bản thân Kim đã đẩy đến việc
Huyền và Tân ngoại tình, và chính từ đó, cái ác của con người này bộc lộ. Huyền
từ một bà thám Kim tiền tiêu khơng hết, Âu hóa, trẻ trung đến một con đĩ thượng
lưu cũng do chính tay Kim. Hắn chính là đại diện của “thế kỷ đắc thắng cho chủ
nghĩa cá nhân”.
Tân đóng vai trị gì trong cuộc đời của Huyền? Với tư cách là bạn của Kim,
Tân cũng chính là một trong những tác nhân khiến Huyền lạc lối. Tân là thần
tượng của Kim, một kẻ sở hữu cả ngoại hình lẫn sự giàu có, những thứ có thể
khiến ai cũng ao ước. Kim đẩy Huyền vào vòng tay của Tân, khiến hai người họ
dần dà trở thành mối quan hệ mà người ta gọi là “ ngoại tình”. Nhưng sau tất cả,
hắn ta để lại cho Huyền cái gì? Đó chính là sự sỉ nhục không hơn không kém, là
17
hai chiếc nhẫn kim cương đánh thẳng vào lòng tự trọng của cơ, là cái quan niệm
tình u của những kẻ bội bạc “Tơi cho mục đích của ái tình không phải là hôn
sự... Tôi sợ hôn nhân lắm... Tôi tin hơn nhân làm hại ái tình cũng như kẻ mộ đạo
tin có Thượng đế vậy... Em muốn li dị chồng à? Để lấy Tân à? Ồ! Không! Không
đời nào! Tất em đã rõ là anh thù ghét hôn sự!.. Yêu nhau thì phải lấy nhau, ấy
những cái “gai” của ái tình chính là hơn sự. Cho nên ở những nước văn minh,
cái lý tưởng của người đàn ông là có một người vợ chung tình để mà lừa vợ với
một số nhân tình khác, cũng như cái lý tưởng của người đàn bà là có một người
chồng mù lịa để cho mình san sẻ cái tinh hoa của ái tình cho một người nhân
ngãi... ”. Với Tân, phụ nữ chỉ là những món đồ chơi tạm bợ, và Huyền không
ngoại lệ. Sự rẻ rúng, bội bạc của Tân cũng đã góp một phần khiến Huyền dần dà
bước chân với xã hội làng chơi, xã hội của những người phụ nữ bán thân mình để
mua lấy tiếng cười của lũ đàn ơng giả dối, vơ nhân tính.
Ngun nhân quan trọng nhất quyết định đến hành động ln lí có lẽ nằm ở
chính bản thân Huyền, chính là khát vọng để khẳng định cái tơi của bản thân. Hay
nói một cách khác chính là một cuộc chiến đấu của hai thứ gọi là “ cái tôi” và
“ cái siêu tôi”trong Huyền. Nhu cầu tình dục ln là một khía cạnh mà văn học
hạn chế, thậm chí, khơng muốn nhắc đến, trở thành cấm kị mặc dù đó là thứ mà
con người ta thực hiện hằng ngày. Nhu cầu tình dục chính là “ cái tôi” nằm ở trong
Huyền, là cái để cô chống lại với những khuôn phép của “ cái siêu tôi”. Nhưng
xét đến cùng, “ cái tôi” luôn bị bỏ lại phía sau, bị trừng phạt đau đớn đến cùng
cực bởi chính “ cái siêu tơi”. Bố đe dọa, mẹ yếu mềm, anh hư hỏng, người lớn dối
trá đã khiến Huyền trở nên tự ti hơn bao giờ hết, “ cái tôi” dần trở nên nhỏ nhoi
và không giá trị.
Khơng ai trong chúng ta có thể đánh giá hành vi tình dục là thanh hay tục.
Như một bản năng, tình dục là là nhu cầu tự nhiên của tất cả mọi sinh thể, đặc biệt
con người chính là động vật cấp cao nhất thì vấn đề này lại càng như một lẽ thường
tình. Thản nhiên hành động hoặc che dấu, đắp điếm đều là hành vi mà con người
ta thể hiện. Nếu đã như thế, làm gì có cái gọi là thanh, gọi là tục đây? “ Trong
18
sạch hay dâm uế chỉ là những thước đo đạo đức và luân lý được áp đặt từ bên
ngoài chứ khơng hề nằm trong bản chất của quan hệ tình dục”.
Nếu như chính bản thân Huyền có những kiến thức đúng đắn về cái gọi là
ràng buộc luân lý, về danh dự gia đình thì chắc chắn sẽ khơng bao giờ xảy xa cái
gọi là trò trẻ con nực cười vào năm 9 tuổi ấy. Cái tôi trong Huyền trỗi dậy, nó
khao khát chống lại cái siêu tơi, nó muốn khẳng định mình. Gia đình, xã hội,
những lời nói dối, che đậy khiến Huyền nhỏ bé, cái tôi bị giam cầm ln muốn
thốt ra để thể hiện mình. Và tất nhiên, con đường nào thì cũng như nhau nếu xét
về mặt giá trị. Huyền dấn thân vào con đường làm đĩ như một cách để khẳng định
bản thân, Huyền làm điều ấy bằng hết thảy tất cả sức mạnh nội tại của mình. Điều
này khơng sai, nó hồn tồn phù hợp với logic của nội tâm nhân vật. Khơng có gì
là đẹp, mà cũng chẳng có gì là xấu, “lồi người chẳng thanh cũng chẳng tục; sự
giao hợp đã là điều ai cũng coi là nhơ bẩn mà ai cũng phải thực hành, thì em chỉ
nên coi nó cũng là hợp với lẽ tự nhiên (... ) giao hợp là mục đích cuối cùng của ái
tình…”. Cái tơi khiến Huyền hành động như vậy, những luân lý đạo đức, những
mặc cảm xã hội chỉ như sợi dây mỏng manh không đủ sức đưa cô trở về với thế
giới của những khn mẫu truyền thống, “nào em có phải em đã quyết định cứ
giữ mãi cái nghề nguyệt hoa! Em vẫn muốn làm lại cuộc đời”. Dưới con mắt
Huyền, mọi thứ đều trở nên nhố nhăng, lố bịch, kể cả gia đình. Và chính từ đó,
việc đi theo con đường sa đọa chính là điều tất yếu. Từ một cơ gái có đầy đủ tất
cả những thứ mà người thời bấy giờ ao ước: nhà lầu, xe sang, bố quan lớn đến
bước phải lấy một người chồng mắc bệnh giang mai nhưng ln muốn người vợ
của mình mới mẻ, Âu hóa. Huyền đi theo tiếng gọi của ái tình, đi theo cái tôi để
rồi sa đọa, trở thành một con đĩ thượng lưu. Nhưng trên hết, đó chính là “sự khẳng
định của cái tôi trước những mặc cảm bị tội lỗi và bị trừng phạt của cái siêu tôi
thông qua sự ràng buộc của các chuẩn mực đạo đức xã hội đương thời”.
5. Vũ Trọng Phụng - tiểu thuyết “Làm đĩ” những giá trị luân lý còn đến
ngày nay
5.1 Từ Vũ Trọng Phụng tới tiểu thuyết “Làm đĩ”
19
Vũ Trọng Phụng nổi tiếng là nhà văn “tả chân”, các tác phẩm của ông đều
khái quát được hiện thực một cách bao quát. Các tiểu thuyết “Số đỏ”, “Giông tố”
bày ra trước mắt bạn đọc một xã hội nhơ nhớp, nhân tính con người bị vùi dập
trước sức mạnh của đồng tiền. Tuy nhiên, khi đem so sánh giữa các tiểu thuyết
trên với “Làm đĩ”, ta mới nhận thấy, Vũ Trọng Phụng viết thiên tiểu thuyết này
xuất phát từ một ý thức trách nhiệm, cảnh tỉnh con người trong việc giáo dục giới
tính. Tiểu thuyết “Làm đĩ” kể lại cuộc đời của Huyền, kể lại tường tận những
nguyên nhân dẫn Huyền tới con đường trụy lạc. Để người đọc thấy được rõ những
ngun nhân tha hóa của một cơ gái ngoan hiền.
Sinh thời, Vũ Trọng Phụng để lại gần chục cuốn tiểu thuyết, chưa kể các
phóng sự và truyện ngắn, nhưng chưa có cuốn nào Vũ Trọng Phụng thấy cần thiết
phải viết lời tựa đầu. Nhưng riêng với tiểu thuyết “Làm đĩ”, Vũ Trọng Phụng viết
lời tựa gần 4 trang trước khi vào những thiên tả chân của cuốn sách. Trong lời tựa,
ông viết rõ ràng:
“Xã hội Việt Nam này, thật vậy, đã bắt đầu loạn dâm.
“Sự làm giàu đùng đùng của các thầy lang chữa bệnh hoa liễu, sự phát đạt
của những tiệm khiêu vũ, tăng số của bọn giang hồ, nạn hoang thai, những vụ án
mạng vì tình mà hàng ngày các báo đăng lên mục tin đặc biệt, sự chán đời đến tự
tử của một số nam nữ thiếu niên nạn hiếp dâm, vân vân, đã đủ dẫn chứng cho lời
than ấy.”
“Tìm một nền luân lý cho sự dâm giáo hóa cho thiếu niên. Biết rõ tình dục
là những gì, đó là những việc phải làm ngay vậy.”7
Và Vũ Trọng Phụng khẳng định: “Vì những lẽ ấy mà truyện Làm đĩ ra đời”.
Một tác phẩm xuất phát từ một tấm lòng, một ý thức giúp xã hội này thức
tỉnh trước những giá trị luân lý lẫn lộn. Thời ấy, Vũ Trọng Phụng mới học hết bậc
sơ học (tương đương tiểu học Pháp Việt), nhưng xét về tính khoa học phải thấy
rằng Vũ Trọng Phụng đã quan niệm về vấn đề sinh lý học đúng hơn những ông
7
Vũ Trọng Phụng (2005), Tiểu thuyết Làm đĩ, NXB Văn học, Hà Nội.
20
nghè, ông Tây học hay nhà sinh vật học nhiều. Cái sự dâm chẳng xấu, chẳng ô uế
hay nhơ bẩn như tư tưởng của Nho gia. Sự dâm là sự thiêng liêng, sự cần thiết cho
sự duy trì giống nịi của lồi người. Chỉ vì những tư tưởng phong kiến cổ hủ đã
bám rễ vào suy nghĩ dân ta từ xưa đến nay mà những bậc làm cha mẹ trốn tránh
không đề cập đến giảng giải cho con trẻ biết. Một nền giáo dục đã khiếm khuyết,
không thể nào chống chọi lại với phong trào Âu hóa nửa mùa tràn vào như lũ,
đang ồ ạt, đảo lộn đi những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp.
“Nam nữ thiếu niên vào lúc dậy thì, vào lúc xác thịt rạo rực lên vì sự biến
đổi âm thầm và sự phát triển của những cơ quan sinh dục, là rất dễ lầm lỗi, rất
dễ hư hỏng, nếu không được bậc cha mẹ chỉ bảo những điều cần biết và đề phịng
mọi hồn cảnh xấu xa họ cho…”
Vì vậy, điều cần phải làm ngay đó là giáo dục giới tính cho họ. Nhân vật
Huyền như tấm gương soi chiếu, cuộc đời từ người con gái nhà gia giáo phải lâm
vào con đường trụy lạc, có lẽ từ đầu nếu em được giải đáp những thắc mắc, được
giáo dục giới tính thì có lẽ sẽ làm chệch đi con đường mà Huyền bước phải. Một
xã hội thực sự được thức tỉnh, người cha ý thức được đứa con mình đã lớn mà
khơng hành sự những chuyện tục bên cạnh giường con, thằng anh trai thì rõ hơn
trách nhiệm của mình.
Trong lời tựa, Vũ Trọng Phụng đã bày tỏ sự mong đợi của mình vào một lớp
độc giả sáng suốt, đọc tiểu thuyết này rồi nhận ra lời cảnh tỉnh của ông chứ không
phải phán xét đó là sự ơ uế. Đó là lời nhắn gửi đến bạn đọc, hãy đọc và suy nghĩ
thật kỹ trước những điều này.
“Nhưng tác giả còn hy vọng ở những người biết nghĩ…”
5.2 Từ tiểu thuyết “Làm đĩ” tới bài học giáo dục giới tính
Văn chương ln chứa đựng những điều cao đẹp để hướng tới thanh lọc tâm
hồn con người. Nói đến văn chương ta nói đến cái gì đẹp đẽ, những điều u tối, xấu
xí được coi là “ trái cấm” không nên để lộ. Và “ Làm đĩ” của Vũ Trọng Phụng là
một trái cấm như vậy. Từ chính cái tên của nó, ta đã phần nào thấy được cái u tối,
nhem nhuốc, dơ bẩn của cuộc đời một con người. Vậy thực sự, “Làm đĩ” tục đến
21
thế sao? Hay chính quan niệm cá nhân đã định giá giá trị của một tác phẩm? Cho
đến ngày hôm nay, người đọc chúng ta cũng nên nhìn nhận lại bản thân truyện
ngắn “ Làm đĩ”, hãy nhìn chúng như những bông hoa sen trong đầm lầy đen tối
kia, dù gần bùn nhưng không bị lấm lem mùi bùn mà vẫn ln tỏa hương thơm
ngát.
Huyền sa ngã liệu có chính bởi do cơ? Do cơ tự tìm đến con đường này hay
sao? Hay là chính do Kim và Tân đã đưa cơ lạc lối? Chỉ nhìn vào “ Làm đĩ” thì
hai tên này chính là thủ phạm đứng sau tất cả, một người đưa cô bước chân vào
thế giới mang danh thượng lưu nhưng thực chất lại bỉ ổi và xấu xa, ngược lại, một
kẻ đem đến cho Huyền hy vọng và rồi trở mặt lật lọng làm cô không cịn đường
lui.
Nhưng, nếu chúng ta nhìn một cách tổng thể, có lẽ chính ngơi nhà của Huyền
đã khiến cơ trở thành một cô gái đi làm đĩ như vậy. Cái sai từ chính ngưỡng cửa
nhà chính là nguồn cơn kéo đến mọi sai lầm và bi kịch sau này. Một người cha
khơng làm trịn đạo đức, một người mẹ yếu đuối nhu nhược đến cùng cực, cái sai
liệu có nằm ở bản thân Huyền? “Tại nó hư… nó hư thì nó thế”, nó hư do chính
bản chất nó sinh ra đã hư hay do cách dạy sai lầm của những ông bố bà mẹ khiến
con trẻ hư? Một câu hỏi đặt ra khiến tất cả chúng ta cùng nhìn lại. Nếu ngày ấy
khi Huyền mới 9 tuổi, bố mẹ chăm chút, lý giải trung thực những tị mị của cơ,
u thương, răn dạy đúng cách; nếu bố mẹ thằng Ngôn có trách nhiệm hơn thì liệu
chúng có xảy ra những chuyện đáng tiếc vào năm tháng đang còn trẻ người non
dạ như thế không? Nếu bố Huyền không đẩy cô cho Kim liệu những bi kịch sau
này có xảy ra trên người cô hay không? Và rồi, liệu với cái tên “ Làm đĩ” có đủ
để che mờ đi giá trị mà tác phẩm này thể hiện hay không? Tất cả mỗi chúng ta
đều cần phải suy ngẫm lại.
Rốt cuộc, tại sao chúng ta lại né tránh vấn đề về giới tính đối với con trẻ?
Chúng tị mị và rất cần những lời giải đáp của người lớn ở lứa tuổi đang phát triển
cả tâm sinh lý như vậy. Thế nhưng, người lớn đã làm gì? Né tránh, lừa dối, thiếu
trách nhiệm khiến chúng bắt buộc phải tự tìm hiểu, từ đây, những ý nghĩa sai lầm
22
đã nảy sinh. Không phải đến ngày nay chúng ta mới đẩy mạnh những câu chuyện
về vấn đề giới tính. Thời nào cũng vậy, việc giáo dục con trẻ là điều quan trọng
hàng đầu, bởi chúng chính là những mầm non tương lai của đất nước. Cái chúng
ta cần làm là phải đưa ra được những biện pháp để ngăn chặn các cơ Huyền ngồi
kia lầm đường lạc lối, để giáo dục con trẻ một cách đúng nhất với những phương
pháp được lan truyền rộng rãi.
Vũ Trọng Phụng không né tránh ngịi bút của mình khi chạm đến một vấn
đề nhạy cảm, trái lại, ông sắc bén vạch ra sự thối nát của xã hội đương thời. Cũng
giống như “Số đỏ”, “ Trúng số độc đắc”, “Làm đĩ” chính là bức tranh của góc tối
trong xã hội, một hiện thực thối nát, lố lăng của cái gọi là Âu hóa khi văn hóa dần
suy đồi. Vậy có cái gì là xấu ở đây sao? Thực chất, chúng chính là bộ mặt của xã
hội thượng lưu lúc bấy giờ, giả dối và không kém dơ bẩn. Vũ Trọng Phụng sâu
sắc trong từng chi tiết, ông vẽ nên bức tranh xã hội đương thời bằng chính những
cái mà người ta gọi là “ dâm uế”. Đấy chính là cái hay của người mang danh “ Ơng
vua phóng sự đất Bắc” này. Cái tài nằm ở chỗ, ông “chôn” giá trị tác phẩm của
mình dưới những dịng chữ hơi tanh như những ngọn giáo vơ tình đâm thẳng vào
bọn thượng lưu. Ấy chính là cái đẹp mọc lên từ vùng đất hôi tanh, sẽ mang danh
lâu bền với thời gian, sáng mãi muôn thuở.
6. Kết luận
Cuốn tiểu thuyết ghi lại quá trình tha hóa của nhân vật Huyền, hành trình lựa
chọn ln lý của Huyền đã nói lên cái xã hội Âu hóa nửa mùa đẩy con người ta
vào con đường trụy lạc, bắt buộc phải lựa chọn. Bằng những sai lầm khi lựa chọn
luân lý của Huyền, Vũ Trọng Phụng đã đánh lên hồi chuông cảnh tỉnh về giáo dục
đạo đức cho trẻ thơ ngay từ sớm. Cần phải làm ngay, nhất là trong thời đại mọi
giá trị luân lý có thể bị đảo lộn, lật lọng bất cứ lúc nào. Tiểu thuyết “Làm đĩ” đã
thực hiện được đúng thiên mệnh mà nhà văn Vũ Trọng Phụng giao cho nó, trở
thành lời cảnh báo, một bài học giáo dục luân lý cho mọi người. Qua đây, mỗi
chúng ta cần phải nhìn nhận lại sự dâm vẫn lâu ngày bén rễ trong tư tưởng mỗi
người là sư nhơ nhuốc, ô nhục. Đúng như Vũ Trọng Phụng nói, bản thân nó khơng
23