Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

Thực trạng và giải pháp thúc đẩy quan hệ thương mại việt nam hàn quốc trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.88 KB, 44 trang )

Nghiên cứu khoa học

Lời mở đầu
1. Lý do chọn đề tài: Hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang là nhu cầu cấp thiết
đỏi hỏi mỗi Quốc gia phải khơng ngừng hợp tác và giao lưu với nước ngồi.
Chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam là “làm bạn với tất cả các nước”,
tăng cường hợp tác thương mại với tất cả các Quốc gia ở mọi châu lục, đặc biệt
với các nước thuộc châu Á – Thái Bình Dương. So với các nước trong khu vực,
quan hệ thương mại Việt Nam - Hàn Quốc được phát triển nhanh hơn do nhận
được sự quan tâm đặc biệt của Chính phủ hai nước
Đặc biệt kể từ cuối năm 1992, khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao
chính thức – nền tảng cho sự phát triển quan hệ kinh tế và hợp tác khoa học kỹ
thuật sau đó. Đến nay, trải qua hơn một thập kỷ phát triển, Hàn Quốc đã và đang
chiếm một vị trí quan trọng trong quan hệ thương mại song phương với Việt
Nam. Hàn Quốc luôn đứng trong 10 thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam
và là đứng trong 5 thị trường mà Việt Nam nhập khẩu nhiều nhất.
Tuy nhiên, tiềm năng thương mại giữa hai nước vẫn cịn rất lớn, cần phải
có những biện pháp thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam - Hàn Quốc phát
triển hơn nữa. Việc lựa chọn và nghiên cứu đề tài “Thực trạng và giải pháp
thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam - Hàn Quốc trong điều kiện Hội nhập
kinh tế quốc tế” mong muốn tìm ra một hướng đi mới trong quan hệ thương mại
Việt Nam - Hàn Quốc nói riêng cũng như quan hệ thương mại song phương với
các đối tác khác nói chung.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài: Mục đích chủ yếu của bài nghiên cứu khoa
học là trên cơ sở phân tích thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam - Hàn Quốc
để đề xuất kiến nghị một số giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại song
phương giữa Việt Nam - Hàn Quốc ngày một tốt đẹp hơn trong tiến trình Hội
nhập kinh tế quốc tế.


Nghiên cứu khoa học


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
 Đối tượng nghiên cứu của đề tài: là nghiên cứu quan hệ thương mại
Việt Nam - Hàn Quốc trong điều kiện Hội nhập kinh tế quốc tế.
 Phạm vi nghiên cưư của đề tài: Bài nghiên cứu khoa học tập trung
nghiên cứu thực trạng trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hàn
Quốc trong điều kiện Hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài: Bài nghiên cứu khoa học được viết
bằng việc sử dụng tổng hợp các phương pháp và cơng cụ chủ yếu là thống kê,
phân tích, so sánh và tổng hợp nhằm làm sáng tỏ các vấn đề trong bài nghiên
cứu.
5. Kết cấu: Bài nghiên cứu khoa học được chia làm ba phần chính như sau
(ngồi lời mở đầu và kết luận):
Chương 1: Một số vấn đề chung về thương mại hàng hoá và tầm quan
trọng của việc phát triển quan hệ thương mại Việt Nam - Hàn Quốc.
Chương 2: Thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam - Hàn Quốc.
Chương 3: Đề xuất một số giải pháp thúc đẩy quan hệ thương mại Việt
Nam - Hàn Quốc.


Nghiên cứu khoa học

Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về thương mại hàng
hoá và tầm quan trọng của việc phát triển quan hệ thương
mại Việt Nam - Hàn Quốc
1.1.Lý luận chung về thương mại quốc tế
1.1.1.Khái niệm thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế là một trong những hình thức chủ yếu của hoạt động
kinh doanh quốc tế. Đó là hoạt động mua bán, hoặc trao đổi hàng hoá và dịch vụ
vượt qua biên giới các quốc gia. Thương mại quốc tế khác với nội thương - hoạt
động trao đổi diễn ra giữa các vùng, các địa phương, hoặc các thành phố trong

phạm vi một nước.
Chính sách thương mại quốc tế bao gồm một hệ thống các chính sách,
cơng cụ và biện pháp thích hợp mà Nhà nước áp dụng để điều chỉnh các hoạt
động thương mại quốc tế của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định nhằm đạt
được các mục đích đã định trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc
gia đó.
1.1.2.Một số lý thuyết về thương mại quốc tế
1.1.2.1.Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối của Adam Smith
Nhà kinh tế học người Scốtlen Adam Smith là người đưa ra lý thuyết
thương mại dựa trên lợi thế tuyệt đối vào năm 1776. Khả năng của một quốc gia
có thể sản xuất một mặt hàng với hiệu quả cao hơn bất kỳ quốc gia nào khác
được gọi là “lợi thế tuyệt đối” của quốc gia đó. Nói cách khác, với nguồn lực có
quy mơ như nhau (hoặc nhỏ hơn), một quốc gia có lợi thế tuyệt đối về một mặt
hàng nào đó có thể làm ra lượng sản phẩm nhiều hơn so với các quốc gia khác.
Adam Smith lập luận rằng một nước không nhất thiết phải sản xuất tất cả
các mặt hàng tiêu dùng trong nước, mà ngược lại mỗi nước có thể tập trung sản
xuất những mặt hàng mà mình có lợi thế tuyệt đối và sau đó bn bán với các
nước khác để đổi lấy những mặt hàng mà mình khơng sản xuất.


Nghiên cứu khoa học
Ví dụ dưới đây cho thấy thương mại tự do dựa trên lợi thế tuyệt đối sẽ giúp
gia tăng sản xuất và tiêu dùng ở các quốc gia tham gia buôn bán như thế nào.
Giả sử thế giới chỉ bao gồm hai quốc gia (Hàn Quốc và Việt Nam) và hai
mặt hàng (thép và gạo); chi phí vận tải bằng 0; lao động là yếu tố sản xuất duy
nhất và được di chuyển tự do giữa các ngành sản xuất trong nước, nhưng không
di chuyển được giữa các quốc gia; cạnh tranh hoàn hảo tồn tại trên tất cả các thị
trường.
Trong điều kiện tự cung tự cấp, mỗi nước tự sản xuất hai mặt hàng để tiêu
dùng trong nước. Số lượng lao động cần tới ở mỗi nước để sản xuất mỗi một

đơn vị thép và gạo được cho trong bảng 1
Bảng 1: Mơ hình giản đơn về lợi thế tuyệt đối
Quốc gia
Mặt hàng
Thép
Gạo

Hàn Quốc
2
5

Việt Nam
6
3

Có thể thấy rằng Hàn Quốc là nước có hiệu quả cao hơn (có lợi thế tuyệt
đối) trong sản xuất thép vì để làm ra một đơn vị thép nước này chỉ cần 2 lao
động, trong khi Việt Nam cần 6 lao động. Ngược lại Việt Nam có lợi thế tuyệt
đối về sản xuất gạo vì nước này chỉ cần 3 lao động để sản xuất một đơn vị gạo,
trong khi Hàn Quốc phải dùng tới 5 lao động. Khi đó Hàn Quốc sẽ tập trung
tồn bộ số lao động của mình để sản xuất thép, cịn Việt Nam thì thực hiện
chun mơn hố hồn tồn trong việc sản xuất gạo, và sau đó hai nước đem trao
đổi một lượng nhất định các mặt hàng này với nhau để đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng trong nước. Điều này sẽ dẫn tới gia tăng sản lượng thép và gạo của toàn
thế giới, và mỗi nước có khả năng tiêu dùng nhiều hơn so với tự cung tự cấp.
1.1.2.2.Lý thuyết về lợi thế so sánh của David Ricardo
Nhà kinh tế học người Anh David Ricardo đã xây dựng lý thuyết về lợi
thế so sánh vào năm 1817. Ông cho rằng nếu một nước (giả sử rằng thế giới chỉ
bao gồm hai quốc gia) có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất cả hai mặt hàng thì



Nghiên cứu khoa học
chun mơn hố sản xuất và thương mại vẫn có thể mang lại lợi ích cho cả hai
nước. Một nước có lợi thế so sánh khi nước đó khơng có được khả năng sản xuất
một mặt hàng có hiệu quả hơn các nước khác, nhưng có thể sản xuất mặt hàng
đó có hiệu quả hơn so với sản xuất các mặt hàng khác. Nói cách khác, thương
mại vẫn đem lại lợi ích ngay cả khi một nước tỏ ra kém hiệu quả hơn trong việc
sản xuất cả hai mặt hàng, nhưng vẫn có thể xác định được mặt hàng mà mức độ
kém hiệu quả sẽ nhỏ hơn so với mặt hàng kia.
Xét ví dụ sau, các giả thiết cơ bản của mơ hình vẫn được giữ ngun như
phần trên.
Bảng 2: Mơ hình đơn giản về lợi thế so sánh
Quốc gia
Mặt hàng
Thép
Gạo

Hàn Quốc
2
5

Việt Nam
12
6

Các số liệu cho thấy Hàn Quốc cần ít số lượng lao động hơn so với Việt
Nam để sản xuất ra cả hai mặt hàng, thế nhưng điều này sẽ khơng cản trở
thương mại có lợi giữa hai nước. Tuy Hàn Quốc có lợi thế tuyệt đối về cả hai
mặt hàng nhưng do mức lợi thế về sản xuất thép lớn hơn mức lợi thế về sản xuất
gạo (được thể hiện qua bất đẳng thức 2/12 < 5/6) cho nên nước này có lợi thế so

sánh về mặt hàng thép. Ngược lại, Việt Nam bất lợi tuyệt đối về cả hai mặt
hàng, nhưng do mức bất lợi về sản xuất gạo nhỏ hơn mức bất lợi về sản xuất
thép nên Việt Nam có lợi thế so sánh về gạo (6/5 < 12/2). Như vậy mặc dầu cả
thép và gạo ở Hàn Quốc được sản xuất với hiệu quả tuyệt đối cao hơn, nhưng
thép lại là mặt hàng mà nước này có mức bất lợi tương đối. Một cách khái quát,
Hàn Quốc có lợi thế so sánh về mặt hàng thép khi và chỉ khi:
Chi phí lao động để sản xuất một đơn vị thép ở Hàn Quốc
Trái với lợi thế tuyệt đối, lợi thế so sánh là một khái niệm có tính tương
đối: trong một thế giới bao gồm hai quốc gia, hai mặt hàng, khi đã xác định


Nghiên cứu khoa học
được một quốc gia có lợi thế so sánh về một mặt hàng nào đó thì có thể rút ra
kết luận là quốc gia thứ hai sẽ có lợi thế so sánh về mặt hàng kia.
1.1.2.3.Lý thuyết về lợi thế tương đối của Heckscher Ohlin
Thuyết này thực chất là sự phát triển học thuyết lợi thế so sánh do hai nhà
khoa học Thụy Điển là E.Heckscher và B.Ohlin đưa ra vào năm 1933. Về sau,
do có sự phát triển học thuyết của P.Samuelson (người Mỹ) nên thuyết này còn
được gọi là thuyết H-O-S.
Nội dung cơ bản của thuyết này được tóm tắt ở luận điểm: “Trong một nền
kinh tế mở, mỗi nước sẽ có lợi nhất nếu hướng đến việc chun mơn hóa và xuất
khẩu các hàng hoá mà việc sản xuất chúng sử dụng nhiều yếu tố có lợi thế (có
giá rẻ hơn và sẵn có hơn) đồng thời nhập khẩu các hàng hoá mà việc sản xuất
chúng cần nhiều yếu tố có giá đắt hơn và tương đối khan hiếm hơn”. Như vậy:
Nước nào có thuận lợi về vốn (chi phí vốn thấp) nên chuyên mơn hố
những mặt hàng có hàm lượng vốn cao;
Nước nào có lao động rẻ hơn nên chun mơn hố các ngành có hàm
lượng lao động cao;
Nước nào có đất đai, tài ngun phong phú nên chun mơn hố các ngành
sử dụng nhiều tài nguyên.

Để đánh giá lợi thế so sánh đối với một sản phẩm, người ta phải dựa vào
hai tiêu chí. Tiêu chí thứ nhất liên quan đến hàm lượng các yếu tố sản xuất được
coi là rẻ ở nước đó. Tiêu chí thứ hai là chỉ số lợi thế so sánh hiển thị RCA
(Coefficient of Revealed Comparative Advantage). Cơng thức tính RCA đối với
mặt hàng A của nước X như sau:
RCA =
Trong đó:

Ax/Xx
WA/W
Ax: xuất khẩu sản phẩm A của nướcX
Xx: tổng xuất khẩu của nước X
WA: xuất khẩu sản phẩm A của thế giới
W: tổng xuất khẩu của thế giới


Nghiên cứu khoa học
Nếu RAC

¿

Nếu 1 < RAC

1: Sản phẩm khơng có lợi thế so sánh;
¿

2,5: Sản phẩm có lợi thế;

Nếu RAC > 4,5: Sản phẩm có lợi thế đặc biệt cao;
Thuyết H-O đã góp phần lý giải nhiều hiện tượng phát triển quan hệ

thương mại giữa các quốc gia.
1.1.2.4.Lý thuyết chu kỳ sống quốc tế của sản phẩm
Thuyết này do Raymond Vernon đề xướng năm 1966 sau đó được nhiều
học giả phát triển và ứng dụng trong nhiều lĩnh vực của khoa học kinh tế.
Nội dung cơ bản của thuyết này: Rất nhiều sản phẩm phải trải qua một chu
kỳ sống bao gồm bốn giai đoạn - giới thiệu, phát triển, chín muồi và suy thối.
Để kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm, xét trên quy mô thị trường thế giới, các
hãng thường thay đổi địa điểm sản xuất sản phẩm hoặc mở rộng sản xuất sang
các khu vực thị trường tuỳ thuộc vào giai đoạn của chu kỳ sống. Kết quả là tạo
nên quan hệ thương mại giữa các quốc gia về sản phẩm đó và quan hệ này thay
đổi tuỳ theo các giai đoạn của chu kỳ:
Giai đoạn giới thiệu: vì là sản phẩm mới, cịn sản xuất độc quyền nên giá
cao, sản lượng tiêu thụ ít, thương mại diễn ra chủ yếu ở các nước công nghiệp
phát minh ra sản phẩm.
Giai đoạn phát triển: sản lượng sản xuất và tiêu thụ tăng mạnh, nhiều nhà
sản xuất cùng sản xuất sản phẩm tương tự, cạnh tranh tăng; nhà sản xuất lúc đầu
xuất khẩu sản phẩm, sau tìm cách di chuyển địa điểm sản xuất sang quốc gia có
cùng mức sống và gần gũi về văn hố.
Giai đoạn chín muồi: sản phẩm cạnh tranh mạnh, giá hạ, lãi giảm. Sau khi
cải tiến thay đổi về mẫu mã, kiểu dáng, nhà sản xuất tìm cách giới thiệu, phát
triển thị trường, sau di chuyển địa điểm sản xuất sang nước kém phát triển hơn.
Giai đoạn suy thoái: sản phẩm đã lão hố, chủ yếu chỉ cịn thị trường ở các
nước đang phát triển. Trong giai đoạn này có hiện tượng “xuất khẩu ngược” sản
phẩm từ các nước chậm phát triển về các nước công nghiệp phát triển, do một
bộ phận dân cư vẫn có nhu cầu về sản phẩm.


Nghiên cứu khoa học
Đồ thị 1: Chu kỳ sống quốc tế của sản phẩm
Xuất khẩu

thị trường nước đổi mới
thị trường nước phát triển khác

thời gian
thị trường các nước đang phát triển

Nhập khẩu

1.1.2.5.Lý thuyết về bảo hộ có điều kiện
Nội dung cơ bản của thuyết này cho rằng trong điều kiện phát triển không
đồng đều giữa các quốc gia, các quốc gia cơng nghiệp hố và hội nhập muộn
nếu tự do hoá thương mại sẽ bị thua thiệt nhiều, nhiều ngành sản xuất công
nghiệp non trẻ sẽ bị tiêu diệt, do đó ảnh hưởng đến tăng trưởng, việc làm và ổn
định xã hội. Chính sách hợp lý là phải lựa chọn một số ngành và có chính sách
bảo hộ chúng trong một giai đoạn nhất định nhằm vực những ngành này có thể
cạnh tranh quốc tế. Đồng thời tích cực phát triển quan hệ kinh tế quốc tế.
1.1.3.Các hình thức thương mại quốc tế
Khi xem xét thương mại quốc tế dưới góc độ Quốc gia hoặc cơng ty (hoạt
động xuất nhập khẩu), người ta thường phân thành hai luồng hàng hoá: xuất
khẩu, nhập khẩu.
Dưới góc độ tồn cầu, việc phân loại hoạt động thương mại thành hoạt
động xuất khẩu và nhập khẩu khơng cịn ý nghĩa nữa, vì xuất khẩu của nước này
là nhập khẩu của nước kia. Do đo thương mại quốc tế thường được phân loại
theo hình thức đối tượng bn bán theo các nhóm hàng sau:
 Thương mại hàng hố hữu hình: bao gồm tất cả các hoạt động bn bán quốc
tế liên quan đến các hàng hố truyền thống và thơng thường nhìn thấy được, đo


Nghiên cứu khoa học
đếm được, từ máy móc thiết bị tồn bộ đến nơng sản, thực phẩm ngun nhiên

liệu. Nhóm hàng này phân thành hai nhóm: hàng sơ chế (tỷ trọng giá trị gia công
công nghiệp không đáng kể) và hàng tinh chế (tỷ trọng giá trị gia công công
nghiệp cao).
 Thương mại hàng hố vơ hình: bao gồm các hàng hố khơng nhìn thấy được
như phát minh, sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng cơng nghiệp, quyền tác
giả, độc quyền nhãn hiệu, thương hiệu, phần mềm máy tính…
 Thương mại dịch vụ: bao gồm các hoạt động thương mại quốc tế cịn lại
khơng thuộc thương mại hàng hố. Thuộc nhóm này gồm có các dịch vụ: tài
chính, ngân hang, bảo hiểm, cho thuê dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ quản lý, du lịch,
vận tải, thông tin liên lạc, y tế, giáo dục, dịch vụ phân phối…
1.1.4.Các nhân tố ảnh hưởng đến thương mại quốc tế
1.2.Tầm quan trọng của việc thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam - Hàn
Quốc trong điều kiện Hội nhập kinh tế quốc tế
1.2.1.Mối quan hệ thương mại Việt Nam - Hàn Quốc
Ngày 22/12/1992, Việt Nam và Hàn Quốc chính thức thiết lập quan hệ
ngoại giao. Kể từ đó đến nay, quan hệ hợp tác hữu nghị giữa hai nước ngày càng
phát triển trên nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - giáo dục… đóng góp
xứng đáng vào cơng cuộc xây dựng và phát triển đất nước của cả hai nước, góp
phần vào xu thế hồ bình, ổn định, hợp tác và phát triển trong khu vực và trên
thế giới.
Mặc dù trong quan hệ hai nước còn tồn tại nhiều vấn đề, nhưng triển vọng
quan hệ hữu nghị và hợp tác Việt Nam - Hàn Quốc là sáng sủa bởi nó được xây
dựng trên những cơ sở vững chắc. Đó là sự gặp nhau giữa nhu cầu và lợi ích; ý
chí, quyết tâm của lãnh đạo hai nước và chính sách của hai bên. Trong thời gian
tới, hai nước cần thúc đẩy hơn nữa sự hợp tác kinh tế. Nếu tiềm lực của Việt
Nam được kết hợp một cách thích hợp với vốn và cơng nghệ của Hàn Quốc sẽ
góp phần đáng kể vào sự phát triển của hai nước nói riêng và kinh tế khu vực
nói chung trong những năm tiếp theo của thế kỷ XXI.



Nghiên cứu khoa học
 Quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc sau "chiến tranh lạnh"
Từ năm 1975 đến năm 1982, Việt Nam và Hàn Quốc bắt đầu có quan hệ
bn bán tư nhân qua trung gian; từ năm 1983 đến tháng 4-1992, giữa hai nước
có quan hệ bn bán trực tiếp và một số quan hệ phi chính phủ, ngày 20-4-1992
hai nước ký thoả thuận trao đổi Văn phòng liên lạc. Ngày 22-12-1992, Bộ
trưởng Ngoại giao Hàn Quốc Ly Sang Ốc thăm Việt Nam, ký Tuyên bố chung
lập quan hệ ngoại giao cấp đại sứ. Sự kiện đáng ghi nhớ này đã mở ra một
chương mới trong lịch sử quan hệ hai nước, là kết quả của chính sách đối ngoại
đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ của Việt Nam và chính sách tồn cầu hóa
của Hàn Quốc. Nó bắt nguồn từ những nét tương đồng giữa hai nước về địa lý,
lịch sử, văn hóa... Những nét tương đồng đó là cơ sở vững chắc để xây dựng
mối quan hệ hợp tác hữu nghị lâu dài giữa hai nước.
Trong lĩnh vực chính trị: Kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao, quan hệ
hợp tác hữu nghị giữa hai nước phát triển nhanh chóng trên mọi bình diện, ngày
càng có chất lượng và nhiều triển vọng tốt đẹp. Mối quan hệ chính trị mật thiết
thể hiện qua các chuyến thăm chính thức thường xuyên giữa các nhà lãnh đạo
cấp cao hai bên.
Về phía Việt Nam, ngay sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao, tháng 21993, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm đã thăm chính thức Hàn Quốc
để bàn về phương hướng và biện pháp phát triển quan hệ nhiều mặt giữa hai
nước. Tiếp theo là các chuyến thăm của Thủ tướng Võ Văn Kiệt (5-1993),
Tổng Bí thư Đỗ Mười (4-1995), Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh (3-1998),
Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên (8-2000), Chủ tịch nước Trần Đức
Lương (8-2001), Thủ tướng Phan Văn Khải (9-2003), Phó Chủ tịch nước
Trương Mỹ Hoa (6-2004) và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An (7-2004). Đặc
biệt, trong chuyến thăm của Chủ tịch Trần Đức Lương, hai bên đã ra Tuyên bố
chung thiết lập khuôn khổ quan hệ đối tác mới giữa hai nước là "Quan hệ đối
tác toàn diện trong thế kỷ XXI".



Nghiên cứu khoa học
Về phía Hàn Quốc, đáng chú ý là các chuyến thăm Việt Nam của Thủ
tướng Hàn Quốc Ly Yung Dac (8-1994), Bộ trưởng Ngoại giao Gông Rô Myong (7-1996), Chủ tịch Quốc hội Kim Su Han (8-1996), Tổng thống Kim Dâng
Sam (11-1996), Bộ trưởng Ngoại giao và Thương mại Pác Chung Su (7-1998),
Tổng thống Kim Tê Chung (12-1998), Bộ trưởng Ngoại giao và Thương mại
Hong Sung Yung (7-1999), Thủ tướng Ly Han Dong (4-2002), Chủ tịch Quốc
hội Pac Quan Yêng (10-2003) và Tổng thống Rô Mu Hiên thăm chính thức và
dự Hội nghị ASEM 5... Đặc biệt, chuyến thăm của Tổng thống Kim Tê Chung
được dư luận đánh giá là một sự kiện lịch sử bởi nó không chỉ là chuyến thăm
của một nguyên thủ quốc gia mà nó cịn mang ý nghĩa đánh dấu sự hịa giải
chính thức giữa hai nhà nước.
Từ khi ra Tuyên bố chung "Quan hệ đối tác toàn diện trong thế kỷ XXI"
(8-2001), hai bên đã dành nhiều nỗ lực nhằm thực hiện những bước cụ thể của
Tuyên bố chung thông qua giao lưu nhân sự và chương trình hợp tác giữa hai
nước. Qua các cuộc gặp cấp cao song phương, hai bên nhất trí cùng nhau tăng
cường trao đổi đồn các cấp, các ngành, các địa phương; tiếp tục khuyến khích,
hỗ trợ các ngành, địa phương và các doanh nghiệp hai nước trong việc đẩy
mạnh hợp tác trên các lĩnh vực như đầu tư, thương mại, lao động, thủy sản,
giáo dục, y tế, văn hóa, du lịch, khoa học - cơng nghệ, thơng tin, dầu khí, điện
lực, xây dựng, giao thơng - vận tải, luật pháp v.v... Những cuộc tiếp xúc, trao
đổi ý kiến của lãnh đạo cấp cao hai nước có tầm quan trọng to lớn và là động
lực mạnh mẽ thúc đẩy quan hệ hợp tác phát triển.
Bên cạnh quan hệ về mặt nhà nước, các mối quan hệ giữa hai đảng cầm
quyền, Quốc hội và các bộ, ngành, địa phương, đồn thể... cũng khơng ngừng
được mở rộng, tăng cường sự phối hợp, ủng hộ lẫn nhau trong khuôn khổ song
phương và đa phương. Việc thành lập hai Hội hữu nghị Việt - Hàn và Hàn Việt cùng với các chi hội hữu nghị ở các địa phương đã thúc đẩy mối quan hệ
hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân hai nước.


Nghiên cứu khoa học

Về đối ngoại, chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, là bạn với
tất cả các nước của Việt Nam và chính sách tồn cầu hóa của Hàn Quốc đều
góp phần vào xu thế hịa bình, ổn định, hợp tác và phát triển trong khu vực và
trên thế giới, là cơ sở để phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác đơi bên cùng có
lợi. Việc Việt Nam là thành viên của ASEAN, tham gia ASEM và Hàn Quốc là
một bên đối thoại của ASEAN, là thành viên của WTO và APEC, ủy viên
không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc... đã tạo cho hai nước thêm
nhiều cơ hội hợp tác trong khuôn khổ các thể chế đa phương ở khu vực và trên
thế giới.
Có thể nói, việc thường xuyên trao đổi các đoàn cấp cao và các cấp, các
ngành đã giúp tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, tạo ra những mốc phát triển
mới cho quan hệ hợp tác song phương, cũng như tăng cường sự phối hợp, ủng
hộ lẫn nhau trên trường quốc tế.
Trong lĩnh vực kinh tế: Hợp tác kinh tế song phương chiếm vị trí hết sức
quan trọng trong quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc. Hiện nay, hai nước đã trở
thành đối tác quan trọng của nhau. Hàn Quốc luôn là một trong mười đối tác
quan trọng của Việt Nam, cả về đầu tư và thương mại. Việt Nam cũng là đối
tác quan trọng của Hàn Quốc ở Đơng - Nam Á. Hai chính phủ đã ký nhiều hiệp
định quan trọng như: Hiệp định hợp tác kinh tế - khoa học - kỹ thuật (2-1993),
Hiệp định Thương mại (5-1993), Hiệp định tránh đánh thuế hai lần (5-1994),
Hiệp định văn hóa (8-1994), Hiệp định về việc sử dụng hịa bình năng lượng
hạt nhân, Hiệp định về miễn thị thực đối với hộ chiếu ngoại giao và công vụ và
nhiều thoả thuận hợp tác trên các lĩnh vực khác nhau giữa các bộ, ngành hai
nước.
Về thương mại, Hàn Quốc là một trong 10 thị trường xuất khẩu của Việt
Nam và là một trong 5 bạn hàng lớn của Việt Nam. Kim ngạch xuất nhập khẩu
giữa hai nước tăng khá nhanh, từ mức vài trăm triệu USD năm 1992 tăng lên
hơn một tỉ USD năm 1994 và từ năm 2000 trở lại đây, kim ngạch mậu dịch hai
chiều luôn vượt quá 2 tỉ USD; năm 2005 vào khoảng 4.356 tỉ USD.



Nghiên cứu khoa học
Tuy nhiên, Việt Nam nhập siêu của Hàn Quốc vẫn còn lớn và ngày càng
tăng (năm 2005 nhập siêu gần 3 tỷ USD), chủ yếu ở các mặt hàng như sắt thép,
phân bón, hóa chất, xăng dầu, ô tô, máy móc, thiết bị, tơ sợi, hàng điện tử...
Nguyên nhân chính trong việc mất cân bằng trong cán cân thương mại giữa hai
nước thể hiện trong quan hệ đầu tư. Hầu hết các công ty Hàn Quốc đều đang
xây dựng cơ sở sản xuất với mục tiêu không hướng vào thị trường Việt Nam,
mà hướng vào thị trường thứ ba, trong đó có thị trường Mỹ. Chính vì vậy, các
mặt hàng mà Việt Nam có nhu cầu như phụ tùng, thiết bị và nguyên liệu...
chiếm đa số trong các mặt hàng xuất khẩu của Hàn Quốc vào Việt Nam. Bởi
thế, chính phủ và các doanh nghiệp hai nước phải dựa vào sự cân bằng rộng mở
của thương mại song phương, nỗ lực hơn nữa để khắc phục sự mất cân bằng
này. Thêm nữa, việc tăng cường đầu tư vào Việt Nam của các doanh nghiệp
Hàn Quốc để đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng của Việt Nam sang thị trường
các nước thứ ba trong đó có Mỹ cũng là một phương thức gián tiếp góp phần
giải quyết sự mất cân bằng trong cán cân giao dịch thương mại giữa hai nước.
Trước triển vọng hình thành Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung
Quốc, Hàn Quốc cũng đang đề nghị thành lập Khu vực mậu dịch tự do Hàn
Quốc - ASEAN. Đây sẽ là những thuận lợi lớn cho hàng hóa Việt Nam tiến sâu
hơn vào thị trường Hàn Quốc. Các công ty Việt Nam muốn thâm nhập thị
trường Hàn Quốc phải tăng cường các hoạt động tiếp thị trực tiếp thông qua
tham dự triển lãm, mở các văn phòng thương mại tại Hàn Quốc như Cục xúc
tiến thương mại Việt Nam (Vietrade) để thực hiện khảo sát thị trường Hàn
Quốc một cách có hệ thống và xúc tiến những hoạt động khai thác thị trường,
cung cấp thông tin một cách tích cực tới tất cả các doanh nghiệp Việt Nam.

1.2.2.Quan điểm của cả hai Chính phủ Việt Nam - Hàn Quốc về phát triển
quan hệ thương mại hai nước
1.2.2.1.Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam



Nghiên cứu khoa học
1.2.2.2.Quan điểm của Chính phủ Hàn Quốc
1.2.3.Thời cơ và thách thức đối với Việt Nam trong việc phát triển quan hệ
thương mại với Hàn Quốc
1.2.3.1.Thời cơ
1.2.3.2.Thách thức
1.3. Kinh nghiệm phát triển quan hệ thương mại của ASEAN - Hàn Quốc


Nghiên cứu khoa học

Chương 2: Thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam
Hàn Quốc
2.1.Khái quát quan hệ thương mại Việt Nam - Hàn Quốc
Hàn Quốc từng được cả thế giới biết đến như một "kỳ tích sơng Hàn". Vốn
rất nghèo nàn về tài nguyên, thị trường trong nước hẹp (hiện khoảng 47 triệu
người), tổng thu nhập quốc dân (GNP) tính theo đầu người năm 1962 chỉ 82
USD, vậy mà qua gần 3 thập kỷ phát triển với tốc độ nhanh (bình quân
9%/năm), đến giữa những năm 80 Hàn Quốc đã trở thành một trong những nước
công nghiệp phát triển mới (NICS), GNP tính theo đầu người đạt trên 11.000
USD.
Năm 1997, Hàn Quốc rơi vào cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ nặng nề
chưa từng có trong lịch sử. Nhưng nhờ tiến hành cải cách mạnh mẽ và áp dụng
chính sách "thắt lưng buộc bụng", huy động quốc dân quyên góp tiền vàng ủng
hộ chính phủ, chỉ sau 3 năm (1998-2000) Hàn Quốc đã thành công trong việc
khắc phục khủng hoảng, trả xong nợ, có dự trữ ngoại tệ, dần hồi phục đà tăng
trưởng. Hiện nay, Hàn Quốc đang phấn đấu để thực hiện các mục tiêu lâu dài là
phát triển kinh tế dựa trên kỹ thuật cao, phát triển đồng đều, cải tổ cơ cấu, GDP

tính theo đầu người đạt 20.000 USD vào năm 2007 và xây dựng Hàn Quốc
thành trung tâm kinh doanh khu vực Đông Bắc Á.
Trong chuyến thăm Việt Nam tháng 4/2005, Thủ tướng Hàn Quốc Li He
Chan đã từng nói: "Việt Nam có thể làm nên một "Kỳ tích sơng Hồng" trong
thời gian tới và trở thành một cường quốc ở Đông Nam Á". Không ai có thể phủ
nhận: Sau "Kỳ tích sơng Hàn" sẽ là một "Kỳ tích sơng Hồng". Và như vậy,
những kinh nghiệm trong quá trình phát triển, nhất là phát triển các ngành công
nghiệp mũi nhọn của Hàn Quốc sẽ rất hữu ích đối với Việt Nam trong sự nghiệp
đổi mới hiện nay. Việc chia sẻ và học tập kinh nghiệm lẫn nhau khơng chỉ có lợi


Nghiên cứu khoa học
cho công cuộc xây dựng, phát triển của mỗi nước mà cịn góp phần phát triển
mối quan hệ ngày càng bền chặt giữa hai nước.
Cùng nằm trong khu vực châu Á, Việt Nam và Hàn Quốc có nhiều điểm
tương đồng về điều kiện tự nhiên, truyền thống văn hóa, đó là cơ sở, là nền tảng
cho sự phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa hai nước. Quan hệ Việt Nam Hàn Quốc vốn có từ lâu, nhưng chỉ thực sự phát triển mạnh mẽ từ sau khi hai
nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1992. Mối quan hệ đó liên tục
được củng cố, tăng cường qua các chuyến thăm thường xuyên của lãnh đạo cấp
cao hai nước. Thủ tướng Võ Văn Kiệt; Tổng Bí thư Đỗ Mười; Chủ tịch Quốc
hội Nơng Đức Mạnh; Chủ tịch nước Trần Đức Lương; Thủ tướng Phan Văn
Khải; Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An và nhiều vị lãnh đạo cấp cao của Việt
Nam đã sang thăm Hàn Quốc.
Các vị lãnh đạo cao nhất của Hàn Quốc cũng đã lần lượt đến thăm Việt
Nam, như Thủ tướng Lee Young Dug; Chủ tịch Quốc hội Kim Soo Han; Tổng
thống Kim Te Chung; Thủ tướng Ly Han Dong; Chủ tịch Quốc hội Pac Quan
Yêng; Tổng thống Rô Mu Hiên và Thủ tướng Li He Chan. Hai bên cũng đã ký
hiệp định hợp tác trên hầu khắp các lĩnh vực, tạo khung pháp lý cho quan hệ hợp
tác toàn diện giữa hai nước ngày càng phát triển.
Ngoài ra, hai nước thường xuyên trao đổi đoàn ở các cấp, thiết lập cơ chế

hợp tác trực tiếp giữa các bộ, ngành, qua đó tăng cường hiểu biết lẫn nhau, đồng
thời đưa quan hệ hợp tác đi vào chiều sâu.
Hiện nay, Hàn Quốc là nhà đầu tư, đối tác thương mại, đầu tư lớn của Việt
Nam, với trên 700 dự án có tổng số vốn xấp xỉ 5 tỷ USD và trao đổi thương mại
hai chiều đạt khoảng 4 tỷ USD(1).
Tiềm năng triển vọng hợp tác giữa hai nước còn rất lớn. Hai bên đã thỏa
thuận sẽ nâng kim ngạch thương mại hai chiều lên khoảng 8 tỷ USD vào năm
2010(1).
2.2.Chính sách thương mại của Việt Nam và Hàn Quốc trong thời gian qua
(1)(1)
(1)(1)

Theo , ngày 18/01/2006
VNECONOMY cập nhật 21/04/2005


Nghiên cứu khoa học
Từ cuối thập kỷ 80, cả Việt Nam và Hàn Quốc đều rất tích cực tham gia
vào q trình tự do hố thương mại trong khu vực và thế giới thông qua các hoạt
động của ASEAN, APEC, WTO. Cho nên chính sách thương mại của Việt Nam
và Hàn Quốc đã được cải thiện đáng kể, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở
rộng trao đổi thương mại giữa hai nước với nhau, cũng như với khu vực và thế
giới.
2.2.1.Chính sách Thương mại của Việt Nam
Việt Nam bắt đầu mở cửa nền kinh tế từ Đại hội Đảng lần thứ VI năm
1986, nhưng chính sách thương mại chỉ mới được cải thiện rõ rệt từ giữa những
năm 1990, đặc biệt là sau Đại hội lần thứ VII của Đảng. Xuất phát từ tầm quan
trọng của hội nhập kinh tế quốc tế đối với việc phát triển kinh tế và nhu cầu cần
thiết về khuôn khổ pháp lý điều tiết hoạt động thương mại, năm 1997, Việt Nam
đã ban hành Luật Thương mại. Điều 16 của luật này quy định: “Nhà nước thống

nhất quản lý ngoại thương, có chính sách mở rộng giao lưu hàng hố với nước
ngồi trên cơ sở tơn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi theo hướng
đa phương hố, đa dạng hố; khuyến khích các thành phần kinh tế sản xuất hàng
xuất khẩu và tham gia xuất khẩu theo quy định của pháp luật; có chính sách ưu
đãi để đẩy mạnh xuất khẩu, tạo các mặt hàng xuất khẩu có sức cạnh tranh, tăng
xuất khẩu dịch vụ thương mại”. Chủ trương này đã được thể hiện bằng một loạt
các quy định cụ thể được ban hành, sửa đổi, bổ sung sau đó. Bên cạnh đó Việt
Nam đã rất tích cực thực hiện các cam kết theo lộ trình tự do hố thương mại
theo cam kết của AFTA, APEC, đồng thời đáp ứng những yêu cầu cần thiết cho
việc đàm phán gia nhập WTO. Cho đến nay Việt Nam đã đạt được một số kết
quả đáng ghi nhận sau đây:
 Về thuế quan: Việt Nam đã có được những bước tiến dài trên con đường cải
cách hệ thống thuế quan nói chung và thuế xuất nhập khẩu nói riêng theo thướng
tự do hố. Độ tản mạn của thuế nhập khẩu đã giảm đáng kể, mức thuế suất cao
nhất đã có xu hướng giảm dần. Mức thuế trung bình gia quyền đã giảm được
chút ít, từ 19% khi bắt đầu thực hiện các cam kết theo AFTA, xuống còn 16%,


Nghiên cứu khoa học
do đa số các dòng thuế ở mức từ 0 – 5% và rất ít số dịng thuế ở mức trên 50%.
Việt Nam đã ban hành quy định về việc xác định giá tính thuế đối với hàng hoà
nhập khẩu theo nguyên tắc của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
(CVA) năm 2002, tích cực hoàn thiện việc chuyển đổi Danh mục Biểu thuế xuất
nhập khẩu cho phù hợp với Công ước HS và đặc biệt là đã quan tâm đến việc
cung cấp thông tin cần thiết lien quan đến hệ thống thuế quan cho các doanh
nghiệp.
 Về các biện pháp phi thuế quan: Cũng như ở các nước khác, hang rào phi
thuế quan được sử dụng khá phổ biến ở Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đang cải
cách theo hướng đáp ứng những yêu cầu của WTO và các tổ chức kinh tế khu
vực khác mà Việt Nam là thành viên. Cho đến nay, Việt Nam đã đạt được một

số kết quả khả quan trong lĩnh vực này, cụ thể là: Nghị định số 89/CP ngày
15/12/1995 đã quy định bãi bỏ thủ tục cấp giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu
chuyến; xoá bỏ hạn ngạch xuất khẩu gạo; giảm bớt số lượng các mặt hàng chịu
hạn chế định lượng (chỉ cịn xăng dầu, phân bón) và áp dụng phụ thu xuất nhập
khẩu; cơ chế xuất nhập khẩu theo đầu mối chỉ áp dụng đối với xăng dầu; số
lượng mặt hàng nhập khẩu chịu sự quản lý chuyên ngành cũng được giảm đi;
thu hẹp diện áp dụng giá tính thuế tối thiểu; việc quản lý ngoại hối đã được nới
lỏng đáng kể.
Những thay đổi trên đã góp phần đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam ra
nước ngồi nói chung và sang thị trường Hàn Quốc nói riêng. Năm 1995, khi
Việt Nam bãi bỏ cấp giấy phép xuất khẩu chuyến và Hàn Quốc chuyển từ chế độ
cấp phép nhập khẩu sang chế độ khai báo nhập khẩu, xuất khẩu của Việt Nam
sang Hàn Quốc trong hai năm sau đều tăng mạnh, tương ứng là 42,11% và
62,97%.
2.2.2.Chính sách Thương mại của Hàn Quốc
Hàn Quốc tham gia Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại
(GATT) vào ngày 14/07/1967 và trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO) vào ngày 01/01/1995 cùng với thời điểm Tổ chức Thương mại


Nghiên cứu khoa học
Thế giới được thành lập. Là một thành viên của GATT (WTO), Hàn Quốc tham
gia đầy đủ các cuộc đàm phán đa phương về tự do hoá thương mại kể từ vòng
đàm phán Tokyo đến vòng đàm phán Doha. Hàn Quốc cũng đã tích cực tham
gia vào các hoạt động của APEC. Do đó, chính sách thương mại của Hàn Quốc
được cải thiện đáng kể theo hướng tự do hoá.
 Về thuế quan: Hệ thống thuế quan của Hàn Quốc có thể có một số đặc điểm
cơ bản sau:
Các mức thuế trong phạm vi WTO có xu hướng cao hơn mức áp dụng thực
tế. Điều này tạo cơ hội cho cơ quan Hải quan có thể nâng mức thuế MFN khi

cần thiết, dẫn đến sự bất ổn trong mức thuế suất được áp dụng;
Có sự leo thang thuế quan, tức áp dụng mức thuế tăng dần theo mức độ chế
biến của sản phẩm, làm cho các nhà sản xuất nguyên liệu đầu vào được hưởng
lợi nhiều nhất. Nó được áp dụng đối với thực phẩm, đồ uống, thuốc lá, giấy,
máy móc;
Khoảng 61% số dịng thuế (hầu hết trong số này là hàng công nghiệp) chịu
mức thuế suất 8% (đối với những những than viên WTO chỉ còn 2 – 2,5%).
Thuế suất vẫn còn rất cao đối với mặt hàng nơng sản và thuỷ sản có giá trị cao,
thường từ 30 – 100% (nếu là thành viên của WTO, mức thuế suất có thể được
giảm xuống cịn 20 – 30%, một số mặt hàng còn 40%). Theo sáng kiến “0% đổi
lấy 0%” và thực hiện Hiệp định về cơng nghệ thơng tin của WTO, nhiều nhóm
hàng của Hàn Quốc đang trong tiến trình giảm thuế xuống 0% như giấy, đồ
chơi, thép, đồ nội thất, sản phẩm bán dẫn, thiết bị nông nghiệp và thiết bị thông
tin và viễn thông;
Hàn Quốc áp dụng “thuế suất điều chỉnh” theo HS 4 số với mức thuế suất
±40% để đối phó với việc gia tăng hàng nhập khẩu và hạn ngạch thuế quan với
khoảng 70 mặt hàng (trong đó có 20 mặt hàng nơng sản) để bình ổn thị trường
hàng hố trong nước;
Thực hiện rộng rãi chế độ ưu đãi thương mại và miễn giảm thuế quan đối
với nhiều đối tác nước ngoài, theo các thoả thuận như Hệ thống ưu đãi thương


Nghiên cứu khoa học
mại toàn cầu, Hiệp định Băng cốc, các ưu đãi thuế quan đối với các nước đang
phát triển và chậm phát triển, các dự án đầu tư vào Hàn Quốc.
 Về các biện pháp phi thuế quan: Các biện pháp phi thuế quan được áp dụng
phổ biến ở Hàn Quốc là giấy phép nhập khẩu, yêu cầu nhập khẩu đặc biệt, các
tiêu chuẩn và yêu cầu kỹ thuật, các biện pháp kiểm dịch vệ sinh động thực vật
và các yêu cầu về thủ tục Hải quan. Cho đến nay nhiều biện pháp đã được nới
lỏng, như:

Về giấy phép nhập khẩu và yêu cầu nhập khẩu đặc biệt: Sau khi Luật
Ngoại thương và Nghị định thi hành Luật Ngoại thương được sửa đổi, kể từ
01/01/1997, thủ tục nhập khẩu và các chứng từ cần thiết được đơn giản hố.
Hàng hố nhập khẩu vào Hàn Quốc khơng cần có giấy phép nhập khẩu do một
ngân hàng ngoại hối cấp. Chứng nhận riêng biệt về việc chấp thuận thanh toán
bằng ngoại tệ cũng khơng cịn cần thiết. Phần lớn hàng hoá được nhập khẩu tự
do. Riêng những hàng hoá nằm trong Danh mục Cấm bao gồm các hàng hóa bị
cấm hoặc hạn chế nhập khẩu, được các cơ quan chức năng của chính phủ hoặc
hiệp hội các nhà sản xuất xem xét và cấp giấy phép cho từng trường hợp cụ thể.
Tuy nhiên, một số mặt hàng như dược phẩm hoặc thiết bị y tế phải tuân theo các
yêu cầu đăng ký và chấp thuận nhập khẩu đặc biệt.
Hệ thống tiêu chuẩn và các yêu cầu kỹ thuật: Từ năm 1996, hàng năm Hàn
Quốc tiến hành rà soát và đối chiếu các tiêu chuẩn trong nước với các tiêu chuẩn
quốc tế, nhằm đáp ứng yêu cầu của WTO về quốc tế hố hệ thống tiêu chuẩn.
Chính phủ Hàn Quốc chấp nhận hệ thống tiểu chuẩn ISO 9000 là hệ thống tiêu
chuẩn chính thức và yêu cầu các doanh nghiệp tuân thủ theo hệ thống tiêu
chuẩn quản lý môi trường ISO 14000. Hàn Quốc đã tham gia diễn đàn công
nhận quốc tế - thoả thuận công nhận đa phương (IAF – MLA) và ký thoả thuận
công nhận lẫn nhau với Tổ chức hợp tác cơng nhận các phịng thí nghiệm quốc
tế (ILAC) nhằm công nhận chứng nhận về tiêu chuẩn giữa các nước thành viên.
Ngồi ra, chính phủ Hàn Quốc cam kết sẽ thông báo trước 60 ngày mỗi khi công
bố một tiêu chuẩn mới hoặc sửa đổi. Mặc dù có những tiến bộ như vậy, song



×