Tải bản đầy đủ (.pptx) (18 trang)

Tiểu Luận - Cở Sở Văn Hóa Việt Nam - Chủ Đề - Âm Nhạc Truyền Thống Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (743 KB, 18 trang )

CHỦ ĐỀ
ÂM NHẠC TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM


Đi từ Bắc vào Nam ta có một số thể loại như:

1.Chèo
2.Xẩm
3.Quan họ
4.Hát chầu văn
5.Ca trù
6.Hị
7. Nhạc cung đình


PHẦN GIỚI THIỆU CHUNG
Âm nhạc truyền thống Việt Nam (nhạc dân gian,
dân ca) được ra đời từ rất sớm. Từ thuở xa xưa,
người dân Việt Nam đã dùng âm nhạc, lời ca
tiếng hát để bộc lộ tâm tư tình cảm, để tiếp thêm
sức mạnh, tinh thần làm việc hay là để thoát khỏi
trạng thái vướng bận trong cuộc sống hằng ngày.


CHÈO
- Chèo có lịch sử hình thành từ thế kỷ 10, dưới thời nhà Đinh
Chèo gắn liền với sinh hoạt đời sống, hội hè của người Việt
- Hát Chèo là lối hát sân khấu, có thể một người, có thể nhiều người hát đồng
ca. .
- Hát Chèo được hình thành bắt nguồn từ các làn điệu dân ca, lời hát Chèo lấy
trong các sáng tác văn học dân gian ở vùng đồng bằng Bắc Bộ là chủ yếu.


- Ngoài ra các làn điệu Chèo còn chịu những ảnh hưởng từ hát Văn, hát Xẩm,
hát Ca trù, hát Xoan, hát Quan họ...
- Hát Chèo là loại hình nghệ thuật dân tộc có sức sống lâu bền, độc đáo và phổ
biến. Nó đáp ứng được nhu cầu thẩm mỹ, giáo dục và phục vụ đắc lực cho đời
sống tinh thần của nhân dân nên Chèo ln được nhân dân u mến, gìn giữ.
- Ca tụng hành động anh hùng của các giới quyền quý, miêu tả cuộc sống bình
dị của người dân nông thôn, ca ngợi những phẩm chất cao cả của con người.



XẨM
- Xẩm là một loại hình dân ca của Việt Nam, phổ biến ở đồng bằng và trung du
Bắc Bộ.
- "Xẩm" còn được dùng để gọi những người hát xẩm đi hát rong kiếm sống và
hành nghề hát xẩm.
- Hát Xẩm xưa thường là một hình thức mưu sinh của những người dân nghèo
khổ, người khiếm thị, nay được sân khấu hóa và đưa vào phục vụ khách du lịch.
- Xẩm đa số được biểu diễn ở chợ, đường phố, nơi đơng người qua lại.
- Hát xẩm có tính ngẫu hứng và người biểu diễn có thể bật ra câu hát ngay khi thể
hiện.
- Bộ nhạc cụ đơn giản nhất để hát xẩm chỉ gồm đàn nhị và Sênh tiền.
- Xẩm có hai làn điệu chính là xẩm chợ và xẩm cô đào.
- Hát xẩm chợ: điệu hát mạnh, những tiếng đệm, tiếng đưa hơi đều hát nổi tiếng
bằng lời hát chính và đệm đàn bầu hay nhị với sênh phách.
- Hát xẩm cơ đào: thì điệu hát dịu dàng hơn, những tiếng đệm và tiếng đưa hơi
lẫn vào lời chính, cốt giúp cho có nhiều dư âm và bắt khúc được dễ dàng.



QUAN HỌ


- Dân ca Quan họ là một trong những làn điệu dân ca tiêu biểu của vùng châu
thổ sông Hồng ở miền Bắc Việt Nam
- Ngày 30 tháng 9 năm 2009, tại kỳ họp lần thứ tư của Ủy ban liên chính phủ
Cơng ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (từ ngày 28 tháng 9 tới
ngày 2 tháng 10 năm 2009), Dân ca quan họ đã được ghi danh là di sản văn hóa
phi vật thể đại diện của nhân loại
- Quan họ là thể loại dân ca phong phú nhất về mặt giai điệu trong kho tàng
dân ca Việt Nam[9]. Mỗi một bài quan họ đều có giai điệu riêng.
- Cho đến nay, đã có ít nhất 300 bài quan họ đã được ký âm.
- Văn hố quan họ cịn là cách ứng xử thật khéo léo, tế nhị, kín đáo và mang
đầy ý nghĩa như các làn điệu mời nước, mời trầu thật chân tình, nồng thắm
mỗi khi có khách đến chơi nhà đơi tay nâng chén rượu đào, đổ đi thì tiếc, uống
vào thì say"



HÁT CHẦU VĂN
- Hát văn, còn gọi là chầu văn hay hát hầu đồng, là một loại hình nghệ thuật ca
hát cổ truyền của Việt Nam.
- Bằng cách sử dụng âm nhạc mang tính tâm linh với các lời văn trau chuốt
nghiêm trang, chầu văn được coi là hình thức ca hát mang ý nghĩa chầu thánh.
Hát văn có xuất xứ ở vùng đồng bằng Bắc Bộ và hát cung đình ở Huế.
- Nghệ thuật chầu văn đang được quan tâm bảo tồn và đã được UNESCO công
nhận là di sản văn hóa phi vật thể.
- Hát văn có nhiều hình thức biểu diễn bao gồm là hát thờ, hát thi, hát hầu (hát
phục vụ hầu đồng, lên đồng), và hát văn nơi cửa đền
- Chầu văn sử dụng nhiều thể thơ khác nhau như thơ thất ngôn, song thất lục bát,
lục bát, nhất bát song thất (có thể gọi là song thất nhất bát gồm có một câu tám
và hai câu bảy chữ), hát nói…

- Các nhạc cụ chính gồm đàn nguyệt, guitar phím lõm, trống ban (trống con),
trống đế, phách, cảnh, thanh la, ngồi ra cịn sử dụng nhiều nhạc cụ khác như:
trống cái, sáo, đàn nhị, kèn bầu, chuông, mõ, đàn bầu.




- Là một thể loại diễn xướng nhạc điệu phổ biến trong đời sống Việt

Nam từ cổ đại, khởi nguồn từ tập quán sinh hoạt vùng chiêm trũng,
diễn tả tâm trạng của người lao động
-Một người hò cho đại diện một tập thể đông người cho cùng một
việc hay một mình tự sự, sâu lắng, dàn trải
Diệu hị giao dun giữ hai bên đối đáp lại nhau, người con gái hay
một nhóm sẽ hị đáp trả lại khi đó.
-Một số tác phẩm: hị kéo lưới, hị ba lí, hị giã gạo,….



NHẠC CUNG ĐÌNH

- Là thể loại nhạc của cung đình thời phong kiến, được biểu diễn vào các dịp lễ
hội (vua đăng quang, băng hà, các lễ hội tôn nghiêm khác) trong năm của các
triều đại nhà Nguyễn của Việt Nam.
- Nhã Nhạc cung đình có từ thế kỷ 13, các triều đại quân chủ Việt Nam hết sức
coi trọng, phát triển Nhã Nhạc như một biểu tượng cho vương quyền về sự
trường tồn, hưng thịnh của triều đại.
- Cách thức diễn xướng của Nhã Nhạc rất chặt chẽ, mang tính thẩm mỹ rất cao,
có thể phản ánh tư tưởng, quan niệm triết lý của chế độ quân chủ đương thời.
- Nhã nhạc cung đình Huế đã được UNESCO cơng nhận là kiệt tác truyền khẩu và

phi vật thể nhân loại vào năm 2003



ĐỜN CA TÀI TỬ

- Đờn ca tài tử Nam bộ là dòng nhạc dân tộc của Việt Nam đã được UNESCO
ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể và là một danh hiệu UNESCO ở Việt Nam
có vùng ảnh hưởng lớn, với phạm vi 21 tỉnh thành phía Nam. Đờn ca tài tử
hình thành và phát triển từ cuối thế kỷ 19
- Loại âm nhạc này đúng ra là loại nhạc thính phịng thường trình diễn trong
phạm vi khơng gian tương đối nhỏ như trong gia đình, tại đám cưới, đám giỗ,
sinh nhật, trong các lễ hội, sau khi thu hoạch mùa vụ, thường được biểu diễn
vào những đêm trăng sáng ở xóm làng.
- Nhạc cụ trong "Đờn ca tài tử" gồm đàn tranh, đàn tỳ bà, đàn kìm, đàn cị,
đàn tam, sáo thường là sáo bảy lỗ.





×