Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Tác động của một vài yếu tố đến phân tích chính sách tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.31 KB, 9 trang )

HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
Khoa Đào tạo SĐH
Bộ mơn PTCSTC
Đề thi kiểm tra – Dành cho Cao học
Mơn: Phân tích chính sách tài chính
(Thời gian 60 phút- khơng kể chép để)
Câu 1: (5 điểm)
Phân tích ảnh hưởng của nhân tố quan hệ quốc tế và nhân tố pháp luật đến phân
tích chính sách tài chính? Cho ví dụ minh họa cho tác động 2 nhân tố này đến hoạch
định và phân tích chính sách ở Việt nam
Câu 3: (5 điểm)
Trong bối cảnh lạm phát có xu hướng giảm hiện nay, việc Chính phủ u cầu hạ
lãi suất có ảnh hưởng gì đến sản lượng của nền kinh tế hay không?
Anh (chị) hãy áp dụng lý thuyết IS LM_BP để giải thích ý kiến của mình?

Câu 1:
Quan hệ quốc tế có thể ảnh hưởng đáng kể đến chính sách tài chính của một quốc
gia. Dưới đây là một số cách quan hệ quốc tế có thể ảnh hưởng đến chính sách tài
chính:
Thương mại và đầu tư: Quan hệ thương mại và đầu tư giữa các quốc gia có thể
tạo ra tác động rõ rệt đến chính sách tài chính. Những thỏa thuận thương mại, hạn chế
xuất nhập khẩu, thuế quan và các biện pháp khác có thể ảnh hưởng đến cả ngân sách
và thu ngân sách của quốc gia.
Luồng vốn đầu tư: Chính sách tài chính của một quốc gia có thể phụ thuộc nhiều
vào việc thu hút đầu tư từ nước ngoài. Nếu quốc gia thu hút được nhiều vốn đầu tư từ
các quốc gia nước ngồi, thì nó có thể ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển kinh tế và
cân đối ngân sách.


Điều chỉnh tỷ giá hối đoái: Thị trường quốc tế và biến động tỷ giá hối đối cũng
có thể ảnh hưởng đến chính sách tài chính. Việc thay đổi tỷ giá hối đối có thể làm


thay đổi giá trị của đồng tiền trong quốc gia, làm ảnh hưởng đến lạm phát và sự cạnh
tranh xuất khẩu.
Tương tác với tổ chức quốc tế: Các quốc gia thường tham gia vào các tổ chức
quốc tế như Liên Hợp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) hay Diễn đàn Hợp
tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Các quyết định của những tổ chức này
có thể tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến chính sách tài chính của một quốc gia.
Sự ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và kinh tế tồn cầu: Khủng hoảng tài
chính và kinh tế tồn cầu như cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 có thể làm thay
đổi chính sách tài chính của nhiều quốc gia. Những biện pháp ứng phó với khủng
hoảng này có thể bao gồm điều chỉnh ngân sách, chính sách tiền tệ và các biện pháp
kích thích kinh tế.
Các thỏa thuận quốc tế về thuế và tài chính: Các quy định quốc tế về thuế và tài
chính, chẳng hạn như chống trốn thuế, cũng có thể ảnh hưởng đến cách quốc gia thiết
lập và điều hành chính sách tài chính của mình.
Tóm lại, quan hệ quốc tế có thể tạo ra những tác động sâu rộng đến chính sách tài
chính của một quốc gia, và các nhà lãnh đạo thường cần xem xét cẩn thận những yếu
tố này trong quá trình định hình và thực thi chính sách tài chính của họ.
Ví dụ:
Quan hệ quốc tế có vai trị quan trọng trong hoạch định và phân tích chính sách ở Việt Nam.
Dưới đây là một số ví dụ cụ thể về tác động của quan hệ quốc tế đối với việc hoạch định và phân tích
chính sách của nước này:
Kinh tế và thương mại:
Tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế như WTO (Tổ chức Thương mại Thế giới) và APEC (Hội nghị
Các quốc gia Châu Á - Thái Bình Dương) đã tạo cơ hội và thách thức cho Việt Nam trong việc định
hướng chính sách thương mại, giới hạn thuế quan, khuyến khích xuất khẩu và quản lý đầu tư nước
ngoài.
Các thỏa thuận thương mại và đầu tư hai chiều với các đối tác lớn như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Liên
minh Châu Âu... cũng tác động đến chính sách đối ngoại và kinh tế của Việt Nam.
An ninh và chính trị:



Quan hệ với các đối tác quốc tế và khu vực, như Mỹ, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc...
đều ảnh hưởng đến lựa chọn và hướng đi của chính sách an ninh và đối ngoại của Việt Nam. Việc
tăng cường quan hệ với một nước nào đó có thể tạo ra ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đối với an
ninh quốc gia.
Tham gia các cơ quan đa phương như ASEAN (Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á) và Liên hợp
quốc cũng đòi hỏi Việt Nam cân nhắc và điều chỉnh các quyết định chính trị và chính sách đối ngoại.
Vấn đề biển đảo:
Quan hệ quốc tế có vai trò quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp biển đảo và chủ quyền
lãnh thổ. Các vụ việc tranh chấp với các nước hàng xóm như Trung Quốc về quần đảo Trường Sa
(Spratlys) và quần đảo Hoàng Sa (Paracels) yêu cầu Việt Nam đưa ra các chính sách thích hợp và đàm
phán hiệu quả để bảo vệ lợi ích quốc gia.
Mơi trường và biến đổi khí hậu:
Hiện tượng biến đổi khí hậu và quản lý tài nguyên tự nhiên đang trở thành mối quan ngại quốc
tế. Việc tham gia các thỏa thuận quốc tế về môi trường và tham gia vào cuộc đối thoại với cộng đồng
quốc tế giúp Việt Nam xây dựng các chính sách bảo vệ mơi trường và tài nguyên biển đảo bền vững.
Tóm lại, quan hệ quốc tế ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạch định và phân tích chính sách ở Việt
Nam. Chính phủ và các cơ quan có trách nhiệm đưa ra các quyết định thông minh và hiệu quả, cân
nhắc các yếu tố quốc tế để đảm bảo lợi ích quốc gia và thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước.

Nhân tố pháp luật:
Nhân tố pháp luật đóng vai trị quan trọng trong việc ảnh hưởng đến chính sách
tài chính của một quốc gia. Dưới đây là một số cách mà pháp luật có thể ảnh hưởng
đến chính sách tài chính:
Thuế và hệ thống thuế: Pháp luật quy định hệ thống thuế của một quốc gia, bao
gồm mức thuế và các loại thuế khác nhau như thuế thu nhập cá nhân, thuế doanh
nghiệp, thuế giá trị gia tăng (VAT), thuế xuất nhập khẩu, và thuế bất động sản. Những
quy định về thuế này sẽ ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách của quốc gia và cách
quốc gia phân phối lại nguồn tài nguyên.
Ngân sách và cân đối ngân sách: Pháp luật cũng có thể quy định các quy tắc và

quy trình để xây dựng ngân sách quốc gia. Những quy định này giới hạn chi tiêu của
chính phủ và ảnh hưởng đến việc cân đối ngân sách, đảm bảo rằng ngân sách khơng bị
thâm hụt q mức.
Điều chỉnh tài chính cơng: Pháp luật quy định các quy tắc về việc tài chính cơng
quản lý và sử dụng nguồn tài ngun. Các quy định này có thể bao gồm việc cấm vượt


quá mức chi tiêu, xác định các nguồn tài nguyên tiềm năng để tài trợ cho ngân sách và
quy định về việc vay nợ cơng.
Quản lý tài chính cơng và định hướng chi tiêu: Pháp luật có thể quy định cách
chính phủ quản lý tài chính cơng và hướng dẫn việc chi tiêu cho các lĩnh vực khác
nhau như y tế, giáo dục, an ninh, hạ tầng và phát triển kinh tế.
Quản lý ngân hàng và tiền tệ: Pháp luật cũng quy định việc điều hành ngân hàng,
tổ chức tài chính và chính sách tiền tệ. Những quy định này có thể ảnh hưởng đến hoạt
động của ngân hàng, việc tạo lập và thực thi chính sách tiền tệ của ngân hàng trung
ương.
Quan hệ tài chính quốc tế: Pháp luật cũng có thể định rõ quy định và cam kết liên
quan đến tài chính quốc tế của quốc gia, bao gồm việc đàm phán và ký kết các thỏa
thuận với tổ chức tài chính quốc tế và các quốc gia khác.
Như vậy, nhân tố pháp luật đóng vai trị quan trọng trong việc xác định và thực
thi chính sách tài chính của một quốc gia. Các quy định và quy tắc pháp luật ảnh
hưởng trực tiếp đến cách chính phủ quản lý tài chính, sử dụng nguồn tài nguyên và
định hướng chi tiêu để đáp ứng các mục tiêu kinh tế và xã hội.
Ví dụ
Nhân tố pháp luật có thể ảnh hưởng đến chính sách tài chính của một quốc gia
qua nhiều cách. Dưới đây là một ví dụ giả định về cách nhân tố pháp luật có thể ảnh
hưởng đến chính sách tài chính:
Ví dụ: Pháp luật về thuế và cơ chế giải quyết tranh chấp thuế.
Tác động của thuế và hệ thống thuế đến hoạch định và phân tích chính sách ở
Việt Nam là một chủ đề phức tạp và đa chiều. Dưới đây là một ví dụ cụ thể về cách

thuế có thể ảnh hưởng đến hoạch định và phân tích chính sách tại Việt Nam:
Ví dụ: Thay đổi mức thuế nhập khẩu trên một loại hàng hóa nhất định.
Trong kinh tế, chính phủ có thể quyết định thay đổi mức thuế nhập khẩu trên một
số loại hàng hóa nhất định nhằm đạt được mục tiêu chính sách nhất định. Giả sử chính
phủ Việt Nam đang đối mặt với một tình hình mơi trường ngày càng trở nên ô nhiễm


do sự gia tăng về lượng rác thải nhựa. Để giải quyết vấn đề này, chính phủ muốn
khuyến khích sử dụng các vật liệu thân thiện hơn với môi trường, thay vì nhựa.
Bước đầu tiên của chính sách này là giảm mức thuế nhập khẩu trên các sản phẩm
thân thiện với mơi trường, chẳng hạn như hàng hóa tái chế, giấy, và các sản phẩm từ
sợi tự nhiên. Đồng thời, chính phủ quyết định tăng mức thuế nhập khẩu đối với sản
phẩm nhựa và các sản phẩm có chất lượng thân thiện với môi trường kém.
Tác động của việc thay đổi mức thuế này:
Khuyến khích sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm thân thiện với môi trường: Với
mức thuế nhập khẩu giảm đối với các sản phẩm thân thiện hơn với môi trường, các
doanh nghiệp trong nước sẽ được hỗ trợ, từ đó khuyến khích sản xuất và tiêu thụ các
sản phẩm này. Điều này có thể giúp giảm lượng rác thải nhựa và hạn chế tác động tiêu
cực đến môi trường.
Thay đổi trong cơ cấu sản xuất và nhập khẩu: Doanh nghiệp sẽ có động thái thay
đổi cơ cấu sản xuất để tận dụng lợi thế cạnh tranh từ các sản phẩm thân thiện hơn với
môi trường. Điều này có thể làm thay đổi cơ cấu nhập khẩu của Việt Nam và giúp
giảm độ phụ thuộc vào hàng hóa có khả năng gây hại cho mơi trường.
Tiềm năng ảnh hưởng tiêu cực đến ngành sản xuất nhựa: Ngược lại, việc tăng
mức thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhựa có thể tạo ra áp lực tiêu cực lên các doanh
nghiệp sản xuất nhựa và các ngành liên quan. Điều này có thể khiến cho một số doanh
nghiệp phải thay đổi chiến lược sản xuất và tìm cách cải thiện chất lượng sản phẩm để
cạnh tranh với các sản phẩm thân thiện hơn với môi trường.
Điều chỉnh thu ngân sách và chính sách phân bổ: Thay đổi mức thuế nhập khẩu
cũng có thể ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách của chính phủ từ hoạch định thuế và

cơ cấu thuế. Khi có sự thay đổi trong cơ cấu nhập khẩu và sản xuất, chính phủ cần điều
chỉnh phân bổ ngân sách để hỗ trợ các lĩnh vực ưu tiên và đảm bảo sự cân đối về ngân
sách quốc gia.
Trong ví dụ này, thay đổi mức thuế nhập khẩu đã tạo ra tác động lớn đến cơ cấu
sản xuất, tiêu thụ, cũng như cơ cấu nhập khẩu của Việt Nam, đồng thời ảnh hưởng đến
ngân sách quốc gia và chính sách phân bổ nguồn lực. Qua đó, chính phủ có thể đạt


được mục tiêu bảo vệ môi trường và hướng tới phát triển bền vững hơn trong lĩnh vực
kinh tế.
Câu 2: (5 điểm)
Trong bối cảnh lạm phát có xu hướng giảm hiện nay, việc Chính phủ u cầu hạ
lãi suất có ảnh hưởng gì đến sản lượng của nền kinh tế hay không?
Anh (chị) hãy áp dụng lý thuyết IS LM_BP để giải thích ý kiến của mình?
Lạm phát
Lạm phát là sự tăng mức giá chung một cách liên tục của hàng hóa và dịch vụ
theo thời gian và sự mất giá trị của một loại tiền tệ nào đó. Khi mức giá chung tăng
cao, một đơn vị tiền tệ sẽ mua được ít hàng hóa và dịch vụ hơn so với trước đây, do đó
lạm phát phản ánh sự suy giảm sức mua trên một đơn vị tiền tệ.
Lạm phát có 3 mức độ:
+ Lạm phát tự nhiên: 0 – dưới 10%
+ Lạm phát phi mã: 10% đến dưới 1000%
+ Siêu lạm phát: trên 1000%
Khái niệm lãi suất: Đây là tỷ lệ phần trăm được tính dựa trên số tiền gốc phải trả
trong khoảng thời gian được cam kết từ trước. Thơng thường, lãi suất được tính theo
năm.
Lạm phát và lãi suất có mối quan hệ tác động qua lại
Tại sao ngân hàng tăng lãi suất khi lạm phát? Khi ngân hàng nhà nước nới lỏng
tiền tệ, tức là cắt giảm lãi suất cơ bản, lãi suất trên các khoản vay giảm theo.
Điều này sẽ thu hút người dân quan tâm hơn đến các khoản vay. Nhờ đó, lượng

tiền lưu thông trên thị trường và mức tiêu dùng cũng tăng lên.
Tuy nhiên, mức cung tiền cao với giá rẻ sẽ làm giá trị đồng tiền của quốc gia so
với các đồng ngoại tệ khác bị thấp đi.
Điều này đồng nghĩa với việc tỷ lệ lạm phát có thể sẽ tăng theo. Tóm lại, khi
giảm lãi suất, tỷ lệ lạm phát sẽ tăng.


Ngược lại, khi ngân hàng nhà nước tiến hành thắt chặt tiền tệ, tức là tăng lãi suất
cơ bản, các ngân hàng thương mại cũng sẽ tăng lãi suất cho vay. Và đương nhiên, điều
này làm nhu cầu về tiền giảm xuống.
Thay vì đi vay hoặc dùng tiền, người dân có xu hướng gửi tiền vào ngân hàng để
được hưởng lãi suất cao.
Nhu cầu tiêu dùng trở nên thấp, dẫn đến việc giảm nguy cơ tăng giá hàng hóa.
Lượng tiền lưu thông trên thị trường cũng giảm theo, ảnh hưởng tích cực đến đồng tiền
của quốc gia đó.
Nhờ vậy mà tỉ lệ lạm phát sẽ thấp. Đây chính là lý do tại sao tăng lãi suất lại
giảm lạm phát.
Theo quy luật của thị trường, ta có thể nhận thấy:
Chỉ số lạm phát phải nhỏ hơn lãi suất tiền gửi.
Lãi suất tiền gửi phải nhỏ hơn lãi suất cho vay.
Như vậy, có thể thấy rằng hai chỉ số tài chính này có mối quan hệ chặt chẽ, tác
động qua lại và cũng vừa là nguyên nhân và hệ quả của nhau.
Lạm phát và lãi suất có mối quan hệ cùng chiều với nhau
Lý thuyết Fisher cho rằng, hai yếu tố này có mối quan hệ cùng chiều với nhau.
Trên giả thuyết cho thấy, mức lãi suất danh nghĩa sẽ bằng tổng kỳ vọng lạm phát
và lãi suất thực.
Để đảm bảo mức lãi suất thực, khi lạm phát tăng, lãi suất danh nghĩa cũng sẽ tăng
theo. Điều này sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động đầu tư và chỉ tiêu.
Ta có ví dụ thực tế về quy luật giữa lãi suất và lạm phát như sau:
Tại sao lạm phát tăng thì lãi suất tăng? Bởi, khi lạm phát gia tăng khiến cho đồng

tiền mất giá.
Nếu tỷ lệ gia tăng này quá lớn, Nhà nước sẽ thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ
để kiểm soát lạm phát. Cùng lúc đó, Ngân hàng Trung ương cũng sẽ tăng mức lãi suất
nhằm làm giảm cung tiền.


Điều này khiến doanh nghiệp hạn chế vay vốn tuy nhiên lại khuyến khích người
dân gửi tiền.
Cuối cùng dẫn đến lượng tiền trong lưu thông trên thị trường giảm, giá trị đồng
tiền tăng và lạm phát được kiềm hãm.
Ngược lại, khi tỷ lệ lạm phát giảm đến mức tiêu cực, khiến nền kinh tế trì trệ,
Nhà nước sẽ thực hiện chính sách mở rộng tiền tệ nhằm kích thích sự phát triển chung.
Lúc này, mức lãi suất sẽ giảm nhằm kích thích hoạt động vay vốn của các doanh
nghiệp, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.
Qua đó, ta có thể thấy rằng lạm phát và lãi suất có mối quan hệ cùng chiều vô
cùng chặt chẽ.
Bản chất lạm phát và lãi suất có sự tác động và ảnh hưởng qua lại rất lớn với
nhau. Mối quan hệ tương quan này ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động kinh doanh và
đầu tư.
Nếu chúng khơng được duy trì ở mức ổn định và cân bằng sẽ dễ gây ra những
hậu quả nghiêm trọng khó lường, như lạm phát tăng cao, hoặc kìm hãm kinh tế,…
Vì vậy, để có một nền kinh tế ổn định và phát triển, hai yếu tố này cần được duy
trì ở tỷ lệ tốt nhất. Hơn hết, mỗi người cần ý thức về các khoản chi tiêu và dành ra một
phần nhất định để gửi tiết kiệm và sinh lời tự động. Tư duy làm giàu này hồn tồn có
lợi và mất q nhiều thời gian.
*Trong bối cảnh lạm phát giảm, việc Chính phủ yêu cầu hạ lãi suất có thể có
ảnh hưởng đến sản lượng của nền kinh tế. Hạ lãi suất là một biện pháp chính
sách tiền tệ thường được sử dụng bởi các quốc gia để thúc đẩy hoạt động kinh tế
và giảm bớt gánh nặng của việc vay tiền.
Dưới đây là một số tác động chính mà việc hạ lãi suất có thể tạo ra:

Tác động đến đầu tư và tiêu dùng (IS - Tổng cầu):
Khi Chính phủ yêu cầu hạ lãi suất, chi phí vay giảm, làm cho vay vốn trở nên rẻ
hơn cho doanh nghiệp và người dân. Điều này khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư
và mở rộng hoạt động sản xuất, cũng như thúc đẩy người dân mua sắm lớn hơn và tiêu


dùng nhiều hơn. Điều này làm tăng tổng cầu (total demand) và đẩy lên đường IS trong
mơ hình.
Tác động đến thị trường tiền tệ (LM - Thị trường tiền tệ):
Hạ lãi suất làm giảm chi phí vay của ngân hàng thương mại và khuyến khích vay
vốn, làm tăng lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế. Mức lãi suất thấp cũng giảm cơ
hội lợi nhuận từ việc giữ tiền gửi, dẫn đến việc người dân và doanh nghiệp thúc đẩy
tiêu dùng và đầu tư hơn. Điều này dẫn đến sự dịch chuyển đường LM sang phải.
Tác động đến cân đối thanh toán quốc tế (BP - Cân đối thanh toán):
Mức lãi suất thấp trong nước có thể làm cho đồng tiền trong nước ít hấp dẫn hơn
với nhà đầu tư nước ngồi, khiến họ chuyển hướng tìm kiếm cơ hội đầu tư ở các nước
khác có lãi suất cao hơn. Điều này có thể làm giảm nhập khẩu đầu tư vào nước và
giảm số lượng tiền ngoại tệ đổ vào nền kinh tế. Đồng thời, lãi suất thấp trong nước
cũng làm tăng việc mua tài sản nước ngoài, khiến xu hướng đầu tư vào nước ngoài
tăng lên. Tổng cộng, điều này có thể tạo áp lực giảm cân đối thanh tốn quốc tế, đẩy
đường BP sang trái.
Tóm lại, theo lý thuyết IS-LM-BP, việc Chính phủ yêu cầu hạ lãi suất trong bối
cảnh lạm phát giảm có thể tăng tổng cầu (sản lượng của nền kinh tế) thơng qua việc
kích thích đầu tư và tiêu dùng. Tuy nhiên, việc hạ lãi suất cũng có thể tạo ra một số áp
lực tiêu cực đối với cân đối thanh toán quốc tế. Cần lưu ý rằng các tác động này còn
phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau và cần được cân nhắc kỹ lưỡng khi thực hiện
chính sách tiền tệ.




×