TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA SAU ĐẠI HỌC
o0o
TIỂU LUẬN
MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
Đề tài
:
Khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp và bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam
Giáo viên hướng dẫn : TS. Mai Thu Hiền
Lớp : TCNH 19A
Sinh viên thực hiện
: Trần Thị Quỳnh Chi (STT 10)
Trần Kim Chung (STT 12)
Phạm Thu Giang (STT 18)
Phạm Thu Hòa (STT 28)
Đặng Thị Thu Hương (STT 32)
Nguyễn Huyền Linh (STT 41)
Nguyễn Thị Thùy Linh (STT 42)
Hà Nội, tháng 6-2013
Tiểu luận môn học tài chính quốc tế GVHD: TS. Mai Thu Hiền
1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 4
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NỢ CÔNG VÀ KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG
5
1.1 TỔNG QUAN VỀ NỢ CÔNG
5
1.1.1 Khái niệm nợ công 5
1.1.2 Bản chất kinh tế của nợ công 6
1.2 KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG
9
1.2.1 Khái niệm 9
1.2.2 Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng nợ công 10
1.2.3 Hậu quả của khủng hoảng nợ công 11
CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG TẠI HY LẠP 14
2.1 DIỄN BIẾN KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG TẠI HY LẠP 14
2.1.1 Giai đoạn trước khi khủng hoảng bùng nổ 14
2.1.2 Diễn biến khủng hoảng nợ công Hy Lạp 16
2.2 NGUYÊN NHÂN CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ 20
2.2.1 Các nhân tố trong nước 20
2.2.2 Các nhân tố quốc tế 22
2.2.3 Các nhân tố khác 24
2.3 TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG HY LẠP 26
2.3.1 Đối với chính Hy Lạp 26
2.3.2 Đối với ệ thống ngân hàng khu vực Châu Âu và thế giới 27
CHƯƠNG III: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM 32
3.1 THỰC TRẠNG NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM 32
Tiểu luận môn học tài chính quốc tế GVHD: TS. Mai Thu Hiền
2
3.1.1 Thu và chi ngân sách nhà nước 32
3.1.2 Thâm hụt ngân sách và nợ công 37
3.2 GIẢI PHÁP CHO CÔNG TÁC Q UẢN LÝ NỢ CÔNG 41
3.2.1 Công khai minh bạch thông tin về ngân sách nhà nước và nợ công 41
3.2.2 Tăng nguồn thu ngân sách và cắt giảm chi tiêu công 44
3.2.3 Nâng cao hiệu quả kinh tế 45
3.2.4 Phát triển thị trường nợ trong nước 47
KẾT LUẬN 49
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 50
Tiểu luận môn học tài chính quốc tế GVHD: TS. Mai Thu Hiền
3
MỤC LỤC BẢNG BIỂU HÌNH VẼ
Hình 1: Biểu đồ về tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm của Hy Lạp (1999-2009) 14
Hình 2: Tỷ lệ thất nghiệp của Hy Lạp (2002-2010) 15
Hình 3: Tổng nợ chính phủ so với GDP (%) 16
Hình 4: Thâm hụt ngân sách và tỷ lệ nợ của một số quốc gia Châu Âu 2009 17
Hình 5: Lợi suất trái phiếu 10 năm của Hy Lạp so với trái phiếu cùng loại của Đức.
18
Hình 6: Lãi suất trái phiếu Chính phủ Hy Lạp từ tháng 9/2009 đến 2/2010 19
Hình 7: Ước tính những khoản vay của một số nước tới Hy Lạp (đến 12/2010) 28
Hình 8: Các nguồn thu trong NSNN của Việt Nam (2003 – 2012) 33
Hình 9: Doanh thu thuế tại Việt Nam và một số quốc gia châu Á (%GDP) 34
Hình 10: Cơ cấu nguồn thu NSNN 2003-2012 phân theo từng khu vực (% tổng thu)
35
Hình 11: Cơ cấu chi cân đối NSNN 2003-2012 (% GDP)) 36
Hình 12: Chi tiêu công tại Việt Nam và một số quốc gia châu Á 2001-2011 (% GDP)
37
Bảng 2: Thâm hụt ngân sách Việt Nam 2001-2011 (% GDP) 38
Bảng 3: Cơ cấu nguồn bù đắp bội chi NSNN 2003-2011 (tỉ đồng) 39
Hình 12: Cấu trúc nợ Việt Nam tính đến cuối năm 2011 (% GDP) 39
Bảng 4: Nợ công Việt Nam theo định nghĩa Việt Nam và định nghĩa quốc tế (số liệu
gần nhất) 40
Hình 13: Tổng nợ công Việt Nam từ năm 2001 đến nay (% GDP) 40
Tiểu luận môn học tài chính quốc tế GVHD: TS. Mai Thu Hiền
4
LỜI MỞ ĐẦU
Khủng hoảng tài chính đang diễn ra ngày càng liên tục với cường độ
mạnh và diễn biến phức tạp gây ra những hậu quả nặng nề đối với các quốc gia
công nghiệp phát triển lẫn các nước đang phát triển. Bên cạnh khủng hoảng tài
chính, ngày nay chúng ta còn đề cập nhiều và nghiên cứu một cách nghiêm túc
hơn đến “Khủng hoảng nợ công”. Gần đây nhất, cuộc khủng hoảng nợ công
Châu Âu xuất phát từ Hy Lạp đã tốn khá nhiều giấy mực của các nhà phân tích.
Sự hiện hữu của “bóng ma” khủng hoảng nợ đã và đang làm đau đầu các
nhà lãnh đạo Liên minh Châu Âu. Chính điều đó đã đánh lên hồi chuông báo
động cho tất cả các nước trên thế giới phải suy nghĩ chin chắn về tình trạng nợ
công của chính quốc gia mình. Thiết nghĩ, việc nghiên cứu “Khủng hoảng nợ
công tại Hy Lạp và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam” là việc hết sức cần thiết
và cấp bách hiện nay không chỉ ở Việt Nam mà còn trong khu vực và trên thế
giới.
Đây là đề tài khá rộng và có tính bao quát, trong giới hạn tiểu luận này,
nhóm học viên lớp Cao học 19A Tài chính Ngân hàng chỉ xin trình bày hiểu biết
khái quát về các vấn đề sau:
Chương I: Tổng quan về nợ công và khủng hoảng nợ công - Tóm tắt cơ
sở lý thuyết cho việc nghiên cứu về khủng hoảng nợ công
Chương II: Phân tích khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp – phân tích diễn
biến cuộc khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp và tác động của nó đến nền kinh tế
Chương III: Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam – Trình bày thực trạng
nợ công tại Việt Nam và rút ra các giải pháp hoàn thiện
Bài nghiên cứu còn nhiều thiếu sót, mong nhận được sự góp ý.
Tiểu luận môn học tài chính quốc tế GVHD: TS. Mai Thu Hiền
5
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NỢ CÔNG VÀ KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG
1.1 TỔNG QUAN VỀ NỢ CÔNG
1.1.1 Khái niệm nợ công
Khái niệm nợ công được đề cập khá đa dạng trong hoạt động quản lý nợ
của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, việc thống nhất để đưa ra một khái niệm chuẩn về
nợ công còn tùy thuộc vào thực tiễn hoạt động quản lý nợ của mỗi nước. Do
vậy, hiện nay có khá nhiều cách hiểu và nhiều định nghĩa khác nhau về nợ công.
Cụ thể:
Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)
Nợ công theo nghĩa rộng là nghĩa vụ nợ của khu vực công, bao gồm các
nghĩa vụ của chính phủ trung ương, các cấp chính quyền địa phương, ngân hàng
trung ương và các tổ chức độc lập (nguồn vốn hoạt động do ngân sách nhà nước
quyết định hay trên 50% vốn thuộc sở hữu nhà nước và trong trường hợp vỡ nợ,
nhà nước phải trả nợ thay). Theo nghĩa hẹp, nợ công bao gồm nghĩa vụ trả nợ
của chính quyền trung ương, các cấp chính quyền địa phương và nợ của các tổ
chức độc lập được chính phủ bảo lãnh thanh toán.
Qua khái niệm trên, IMF đã chia khu vực công ra thành khu vực công tài
chính và khu vực công phi tài chính. Tuy nhiên, đôi lúc trên thực tế chỉ có số
liệu nợ của khu vực công phi tài chính và nợ của khu vực công tài chính mà
được chính phủ bảo lãnh mới được tính vào nợ công. Điều này làm cho tổng số
nợ của khu vực công như định nghĩa của IMF sẽ không đầy đủ do loại trừ nợ
của ngân hàng trung ương và những khoản nợ không được bảo lãnh của các định
chế tài chính tiền gửi và phi tiền gửi thuộc khu vực công.
Theo Ngân hàng thế giới (WB)
Nợ công là nợ của khu vực công bao gồm các nghĩa vụ nợ của: (1) Chính
phủ trung ương và các bộ; (2) Các cấp chính quyền địa phương; (3) Các thể chế
độc lập nhưng nguồn vốn hoạt động của nó do Ngân sách nhà nước quyết định
Tiểu luận môn học tài chính quốc tế GVHD: TS. Mai Thu Hiền
6
(trên 50% vốn thuộc sở hữu nhà nước) và trong trượng hợp vỡ nợ nhà nước phải
trả nợ thay cho thể chế đó; (4) Nợ của Ngân hàng trung ương. Khái niệm nợ
công theo định nghĩa của WB được coi là thước đo toàn diện nhất
Khái niệm theo Luật quản lý nợ công Chính phủ ban hành tháng 2 năm
2009
“Nợ công được hiểu bao gồm nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và
nợ chính quyền địa phương”. Trong đó:
- Nợ Chính phủ: Là các khoản nợ được ký kết, phát hành nhân danh Nhà
nước hoặc Chính phủ, các khoản nợ do Bộ Tài chính ký kết, phát hành hoặc ủy
quyền phát hành; nhưng không bao gồm các khoản nợ do NHNN Việt Nam phát
hành nhằm thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
- Nợ được Chính phủ bảo lãnh: Là các khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức
kinh tế vay trong nước và nước ngoài được Nhà nước, Chính phủ đứng ra bảo
lãnh.
- Nợ của chính quyền địa phương: Là các khoản nợ do Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ký kết phát hành hoặc ủy quyền phát hành.
Vì vậy, theo Luật quản lý nợ công của Việt Nam phạm vi nợ công của nước
ta hiện nay hẹp hơn so với các tổ chức quốc tế. Nợ công không bao gồm nợ của
doanh nghiệp nhà nước, nợ của NHTW. Chính vì vậy, các số liệu thống kê về nợ
công do Chính phủ Việt Nam công bố thường có sự khác biệt so với số liệu
thông kê của các tổ chức quốc tế.
1.1.2 Bản chất kinh tế của nợ công
Nợ công xuất phát từ thâm hụt ngân sách
Xét về bản chất kinh tế, nợ công xuất phát từ thâm hụt ngân sách, hay tổng chi tiêu
của chính phủ nhiều hơn tổng các nguồn thu của mình. Để làm giảm mức thâm hụt
ngày, chính phủ phải tăng nguồn thu ngân sách, hoặc cắt giảm chi tiêu. Cắt giảm chi
tiêu không phải là một việc dễ dàng trong ngắn hạn, khi những kế hoạch chi tiêu
Tiểu luận môn học tài chính quốc tế GVHD: TS. Mai Thu Hiền
7
của chính phủ đã được hoạch định cụ thể. Chính vì thế, chính phủ chỉ có thể tìm
cách gia tăng nguồn thu của mình.
Có hai cách để gia tăng nguồn thu chính phủ. Thứ nhất, chính phủ có thể tăng
thuế, vốn là nguồn thu trực tiếp và lớn nhất của mình. Tuy nhiên, tăng thuế có thể
có ảnh hưởng tiêu cực, đó là làm giảm tiêu dùng, giảm động lực lao động và sản
xuất dẫn đến suy thoái kinh tế. Thứ hai, chính phủ có thể tăng nguồn thu thông qua
vay nợ, cả vay trong nước và vay quốc tế. Để làm được việc này, chính phủ sẽ yêu
cầu Ngân hàng trung ương bán cổ phiếu cho giới đầu tư tư nhân trong nước và quốc
tế. Các khoản vay này sẽ làm gia tăng nợ công. Như vậy có thể thấy nợ công là hệ
quả trực tiếp của thâm hụt ngân sách
Tác động của nợ công với nền kinh tế
Để phân tích nợ công cần phải xem xét tác động của nó đối với quốc gia trên cả hai
khía cạnh: tác động tích cực và tác động tiêu cực.
Tác động tích cực
Thứ nhất, nợ công đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư, đảm bảo an sinh xã hội. Những
khoản vay nước ngoài sẽ là nguồn tài trợ bổ sung chủ yếu cho đầu tư phát triển kinh
tế - xã hội của các nước trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển mà không làm
thoái lui đầu tư tư nhân khi chính phủ đầu tư lớn.
Thứ hai, nợ công góp phần huy động vốn cho bù đắp bội chi NSNN. Trong khi việc
tăng thuế và giảm chi tiêu đòi hỏi khoảng thời gian dài, cũng như phải thực hiện
đồng bộ nhiều chính sách, in tiền sẽ gây ảnh hưởng lớn đối với nền kinh tế, việc vay
nợ sẽ góp phần bù đắp kịp thời bội chi NSNN trong khi các nguồn khác chưa kịp đáp
ứng.
Thứ ba, Thông qua vay nợ tạo ra công cụ để điều hành chính sách tiền tệ và điều tiết
thị trường tài chính. Chính phủ các nước sử dụng nhiều hình thức vay mượn khác
nhau, trong đó việc phát hành trái phiếu Chính phủ đã góp phần quan trọng tạo thêm
công cụ để ổn định và điều hòa lưu thông tiền tệ.
Tiểu luận môn học tài chính quốc tế GVHD: TS. Mai Thu Hiền
8
Thứ tư, nợ công góp phần tích cực thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế. Đối với
những khoản nợ nước ngoài sẽ tạo điều kiện cho các quốc gia vay nợ tiếp cận được
nguồn vốn mà không làm giảm đầu tư hay tiêu dùng trong nước. Hơn nữa, khi tiếp
cận với các nguồn vốn bên ngoài đòi hỏi sự nỗ lực trong việc cải cách về thể chế,
môi trường kinh doanh, cơ sở hạ tầng… của các nước vay nợ. Ngoài ra, các nước
vay nợ có thể tiếp cận đối với máy móc, thiết bị, chuyển giao công nghệ và các kỹ
năng quản lý mới. Điều này tạo điều kiện thuận lợi và cơ hội nhiều hơn để hội nhập
sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.
Tác động tiêu cực
Nợ công tác động đến sự tăng trưởng kinh tế và ổn định môi trường kinh tế vĩ mô
Nếu nợ công được thực hiện bằng nguồn vay nợ trong nước sẽ đẩy mặt bằng lãi suất
lên cao, kết quả làm tăng chi phí đầu tư, giảm nhu cầu đầu tư của nền kinh tế và có
thể dẫn đến “hiệu ứng thoái lui đầu tư”. Vay nước ngoài, tác động thoái lui đầu tư có
thể được hạn chế do giảm bớt căng thẳng về lãi suất nhưng lại có thể gây ra sự bất ổn
về tỷ giá, từ đó, khiến cho hoạt động đầu tư bị sụt giảm, điều này tác động làm suy
giảm kinh tế cùng với sự gia tăng lãi suất trong nước. Bên cạnh đó, việc lệ thuộc quá
nhiều vào các khoản nợ nước ngoài cũng sẽ làm giảm vị thế chính trị của quốc gia,
ảnh hưởng đến ổn định môi trường kinh tế vĩ mô.
Nợ công tác động làm tăng lãi suất, tạo áp lực gây ra lạm phát.
Lạm phát được tạo ra bởi hai nguyên nhân chính: do tổng cầu tăng hoặc do chi phí
đẩy. Chính phủ tăng vay nợ bằng phát hành trái phiếu, một mặt làm tiêu dùng của
chính phủ tăng lên, một mặt sẽ tạo áp lực đẩy lãi suất lên cao. Khi tăng vay nợ trong
nước, lãi suất tăng làm tăng chi phí đầu tư, tăng giá thành và giá bán sản phẩm. Khi
chính phủ tăng vay nợ nước ngoài, một dòng ngoại tệ lớn sẽ chảy vào trong nước có
thể giảm sức ép cân đối ngoại tệ trong ngắn hạn. Về mặt dài hạn, áp lực trả nợ cả gốc
và lãi bằng ngoại tệ sẽ đẩy cầu ngoại tệ tăng lên, đồng nội tệ giảm giá làm tăng chi
phí đầu vào khi nhập khẩu nguyên liệu, máy móc, thiết bị… dẫn đến nguy cơ lạm
phát.
Tiểu luận môn học tài chính quốc tế GVHD: TS. Mai Thu Hiền
9
Nợ công tác động đến tỷ giá và thâm hụt thương mại.
Trong ngắn hạn, khi vay nợ nước ngoài khiến dòng ngoại tệ chảy vào trong nước sẽ
gây tăng giá đồng nội tệ.Khi nội tệ tăng giá so với ngoại tệ sẽ khuyến khích nhập
khẩu và có nguy cơ làm giảm xuất khẩu ròng. Trong trung và dài hạn, việc Chính
phủ phải cân đối nguồn ngoại tệ trả nợ gốc và lãi sẽ đẩy nhu cầu ngoại tệ tăng cao.
Do đó, chi phí thanh toán nợ trở nên đắt đỏ hơn, càng làm tăng nguy cơ vỡ nợ nếu
như quy mô nợ vượt quá sức chịu đựng của NSNN. Việc tăng chi tiêu chính phủ dẫn
tới thâm hụt NSNN và nhập siêu cùng một lúc được coi là tình trạng “thâm hụt kép”.
Nợ công quá lớn tiềm ẩn gây ra cuộc khủng hoảng nợ.
Khi nợ công quá cao tức là chính phủ đi vay nhiều hơn khiến mặt bằng lãi suất có
xu hướng tăng lên. Chính phủ càng vay nhiều thì lãi suất trái phiếu càng tăng mạnh.
Mặt khác, khi nguồn dự trữ ngoại tệ cạn kiệt, các khoản vay nợ sẽ rơi vào tình trạng
mất khả năng thanh toán, chính phủ dần mất lòng tin của các chủ nợ. Như vậy khủng
hoảng nợ xảy ra đi kèm với những hậu quả khó lường. Khủng hoảng nợ công xảy ra
sẽ tác động mạnh và rất xấu đến hệ thống tiền tệ quốc gia và liên minh tiền tệ của
khu vực. Nếu không có những giải pháp hữu hiệu để trợ giúp sẽ dẫn đến khủng
hoảng tiền tệ và khủng hoảng kinh tế.
Tóm lại, nợ công, ở một mức độ vừa phải là cần thiết trong sự phát triển của một
quốc gia. Thông qua việc sử dụng ngân sách đúng chỗ và hiệu quả nhằm thúc đẩy
kinh tế và ổn định xã hội. Ngược lại, việc quản lý và sử dụng ngân sách không hiệu
quả sẽ làm nợ công ngày càng tăng, ảnh hưởng lớn đến các mục tiêu vĩ mô, gây bất
ổn định chính trị - xã hội.
1.2 KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG
1.2.1 Khái niệm
Khủng hoảng nợ công là tình trạng nợ công tăng cao (vỡ nợ), làm chao đảo nền kinh
tế do sự mất cân đối giữa thu và chi ngân sách quốc gia. Nhu cầu chi quá nhiều,
trong khi thu không đáp ứng nổi, chính phủ đi vay tiền thông qua nhiều hình thức
như phát hành công trái, trái phiếu, hiệp định tín dụng,… để chi, từ đó dẫn đến tình
Tiểu luận môn học tài chính quốc tế GVHD: TS. Mai Thu Hiền
10
trạng nợ không có khả năng hoàn trả. Thâm hụt ngân sách kéo dài làm cho nợ công
gia tăng. Nợ không trả sớm, để lâu thành "lãi mẹ đẻ lãi con" và ngày càng chồng chất
thêm.
1.2.2 Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng nợ công
Nợ chồng lên nợ và sự tham nhũng của chính quyền
Một trong những nguyên nhân của khủng hoảng nợ là do sự cộng dồn của các
món nợ. Lãi chồng lên lãi, cộng vào gốc và lại tiếp tục bị tính lãi cho khoản gốc mới.
Không có biện pháp nào với thời gian ân hạn dài hơn, lãi suất thấp hơn hoặc các
khoản trả dần lâu hơn thực sự đem lại thành công giúp các nước nghèo thoát khỏi
khối nợ nần chồng chất.
Một lý do khác cho những món nợ khổng lồ là sự tham nhũng và tham ô tiền bạc
của một nhóm người ở các nước đang phát triển. Rất nhiều khoản cho vay đi kèm
cùng các điều kiện bao gồm ưu tiên xuất khẩu…Hệ lụy là nhiều tiền hơn chảy ra
khỏi các nước đang phát triển thay vì được về. Hầu hết các quốc gia có hệ số nợ cao
đều là các nuớc nghèo, trình độ dân trí thấp, chính quyền quan liêu, tham nhũng…
Nợ trong quá khứ
Lịch sử hình thành nên các món nợ của các nước thế giới thứ ba là lịch sử của
những nguồn tài chính quốc tế khổng lồ được chuyển dịch từ những dân tộc nghèo
đói nhất. Quy trình này là một vòng xoáy dai dẳng của những khoản nợ phát sinh và
cứ thế được nhân lên với qui mô lớn hơn từ món gốc ban đầu và nó chỉ thực sự chấm
dứt nếu như khoản nợ thực sự được hủy bỏ. Theo như tài liệu nghiên cứu “Effects of
debt on human rights” của Mr. El Hadji Guissé for current UN Sub Commission on
Human Rights (E/CN.4/Sub.2/2004/27)”, nợ công của các nước đang phát triển một
phần là do việc luân chuyển một cách thiếu công bằng những món nợ công từ các
nước chính quốc khi các nước này còn là thuộc địa.
Vay nợ cho mục đích không chính đáng
Tiểu luận môn học tài chính quốc tế GVHD: TS. Mai Thu Hiền
11
Là những khoản nợ do một chính phủ mắc phải mà không được sự đồng thuận
của dân chúng hoặc không vì một mục đích chính đáng mà các chính phủ kế tục phải
trang trải. Rất nhiều nước kém phát triển ngày nay phải bắt đầu nền độc lập của họ
với gánh nặng nợ nần để lại từ chính quyền thuộc địa trước đó.
Quản lý kém các khoản cho vay
Đây là trường hợp ở các nước phương tây trong giai đoạn 1960-1970 khi quản lý
tồi các khoản cho vay và chi tiêu công, đồng thời cũng là một trong những nguyên
nhân của nhiều cuộc khủng hoảng tại các nước hiện nay.
Toàn cầu hóa
Các quyết định kinh tế và sự ảnh hưởng ở các hợp đồng, hiệp ước và tổ chức
quốc tế của các nước giàu giúp hình thành nên xương sống của quá trình toàn cầu
hóa ngày nay. Sự giàu có và tài sản của khổng lồ của một vài nước đến trong khi hầu
hết các nước khác đang ngập chìm trong nghèo đói và nợ nần không phải là sự trùng
hợp ngẫu nhiên. Chính sách của các nước giàu thành công trong việc giúp tăng tiêu
chuẩn sống nhưng trả với các giá kinh khủng. Các nước giàu cũng như nước nghèo
mắc nợ nhưng thường thì cá nước giàu có thể sử dụng nhiều phương tiện khác nhau
để tránh tình trạng nguy kịch như các nước nghèo mắc phải.
1.2.3 Hậu quả của khủng hoảng nợ công
Hậu quả của những cuộc khủng hoảng nợ là vô cùng to lớn, không chỉ riêng với
những nước đi vay - “con nợ” mà với cả nước cho vay“chủ nợ”.
Đối với các nước vay nợ:
Khủng hoảng nợ ảnh hưởng nghiêm trọng đến toàn bộ nền kinh tế, chính trị, xã
hội, y tế, giáo dục… Nền kinh tế bị suy giảm nghiêm trọng: GDP giảm mạnh, sản
xuất đình trệ, thất nghiệp trầm trọng, (tỷ lệ thất nghiệp tại Chi lê năm 1984 là
18,4%), lạm phát cao chưa từng thấy. Tỷ lệ lạm phát trung bình của các nước Mỹ
Latin năm 1982 là 86%; 1984 là 175%, thậm chí mức lạm phát của Bolivia năm này
lên tới 2300%.
Tiểu luận môn học tài chính quốc tế GVHD: TS. Mai Thu Hiền
12
Khủng hoảng nợ làm cho tình hình chính trị bất ổn. Trong cuộc khủng hoảng nợ
những năm 1980, có rất nhiều các chính thể cầm quyền bất lực ở một số nước Mỹ La
Tinh đã bị lật đổ trước sức ép của kinh tế trong cuộc khủng hoảng nợ ví dụ như Chi
Lê, Bra- xin…
Khủng hoảng nợ đẩy các nước đang phát triển vào tình thế lệ thuộc càng sâu sắc
hơn về mặt kinh tế và chính trị vào thế giới tư bản. Các nước giàu càng có dịp mở
rộng hơn nữa quyền bóc lột và cơ hội can thiệp và chính sách đối nội của các nước
đang phát triển, làm xói mòn sự tự chủ về kinh tế và tiến bộ xã hội. Điển hình trong
cuộc khủng hoảng nợ những năm 1980, Mỹ có ý định biến Mỹ La Tinh trở thành
“sân sau” của mình.
Khủng hoảng nợ khiến cho người dân ngày càng nghèo đói. Vào những năm
1970 , những nước nghèo nhất thế giới (khoảng 60 nước có thu nhập thấp nhất theo
WB) gánh chịu một khoản nợ 25 triệu USD. Đến năm 2002, con số này là 523 triệu
USD, trong đó nợ IMF và WB khoảng 153 triệu USD.
Đối với các nước chủ nợ
Nền kinh tế của các nước tư bản chủ nợ trong thời kỳ diễn ra khủng hoảng nợ
cũng thường khá u ám. Theo tính toán của các nhà kinh tế, nếu trong một năm Bra-
xin không trả nợ thì GDP của Mỹ sẽ giảm 2.5 tỷ USD. Cuộc khủng hoảng nợ những
năm 1980 đã làm cho hơn 1 triệu người Mỹ thất nghiệp do Mỹ La Tinh giảm nhập
khẩu các mặt hàng từ Mỹ, tương đương với việc mất 150 000 chỗ làm ở Mỹ. Thêm
vào đó để có nguồn tài chính giúp các nước khủng hoảng, Mỹ đã tăng thuế thu nhập
ở trong nước. Kinh tế, xã hội các nước chủ nợ cũng bị ảnh hưởng từ khủng hoảng
nợ.
Khi các nước con nợ lớn như Brazil hay Mexico tuyên bố ngừng trả nợ thì có
khả năng dẫn đến nhiều NHTM chủ nợ của các nước tư bản cũng phá sản theo, hệ
thống tài chính ngân hàng quốc tế bị lung lay.
Tiểu luận môn học tài chính quốc tế GVHD: TS. Mai Thu Hiền
13
Do các nước con nợ rơi vào khủng hoảng, đồng nghĩa với việc khả năng thanh
toán giảm đi nên quan hệ buôn bán trao đổi hàng hóa với các nước và các khu vực
khác trên thế giới cũng phần nào bị đóng băng.
Tiểu luận môn học tài chính quốc tế GVHD: TS. Mai Thu Hiền
14
CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG TẠI HY LẠP
2.1 DIỄN BIẾN KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG TẠI HY LẠP
2.1.1 Giai đoạn trước khi khủng hoảng bùng nổ
Hy Lạp là một quốc gia nhỏ ở Nam Âu là thành viên của khu vực đồng tiền
chung (eurozone hay EU-16). Dân số Hy Lạp khoảng 11 triệu người chiếm 2,2%
EU, đóng góp 2,8% GDP của EU. Hy Lạp có thu nhập bình quân đầu người khoảng
17.440 đô la Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp trung bình là 10,2% (trong khi tỷ lệ này của EU là
10%) nhưng lại duy trì được tốc độ tăng trưởng cao so với các nước trong EU-16.
Hy Lạp có nền kinh tế phát triển với khu vực kinh tế quốc doanh chiếm khoảng 40%
GDP. Cơ cấu kinh tế của Hy Lạp năm 2009 như sau: dịch vụ 76%, công nghiệp
20,6%, nông nghiệp 3,4% . Trong đó du lịch là ngành thế mạnh của Hy Lạp, là
nguồn thu ngoại tế chủ yếu đóng góp 15% GDP. Bên cạnh đó các ngành khác như
tài chính, ngân hàng, viễn thông, sản xuất thiết bị công nghệ cao cũng phát triển
mạnh.
Những chính cải cách kinh tế hợp lý cùng với việc gia nhập Liên minh Châu
Âu đã giúp nền kinh tế Hy Lạp phát triển mạnh mẽ đồng thời nâng cao mức sống
cho người Hy Lạp. Chỉ số phát triển con người xếp thứ 22 thế giới, tốc độ tăng
trưởng thường xuyên nằm ở mức cao nhất so với các nước trong Eurozone. Bình
quân giai đoạn 2000-2009, GDP của Hy Lạp tăng khoảng 3,1%. GDP năm 2009 đạt
khoảng 333 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 15360 USD/năm
(khoảng 29000 USD/năm theo PPP).
Hình 1: Biểu đồ về tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm của Hy Lạp (1999-2009)
Tiểu luận môn học tài chính quốc tế GVHD: TS. Mai Thu Hiền
15
Nguồn: TradingEconomics.com; NSS
Kinh tế Hy Lạp tăng trưởng hàng năm từ 2004-2007 khoảng 4% do một phần
là chi tiêu cho Thế vận hội Athens 2004 và phần còn lại là sự gia tăng của tín dụng
mà đóng góp đáng kể là sự gia tăng của tín dụng tiêu dung. Năm 2008, tốc độ tăng
trưởng của Hy Lạp chỉ còn là 0,7%. Năm 2009 GDP tăng trưởng âm đạt mức -2,5%
là kết quả của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, các biện pháp tín dụng và thất bại
của Athens để giải quyết thâm hụt ngân sách ngày càng tăng, gây ra do các nguồn
thu của nhà nước không kịp với nhu cầu chi tiêu của chính phủ, thậm chí một số loại
thuế còn phải chịu áp lực cắt giảm do nhiều nguyên nhân khác nhau.
Nợ công, lạm phát, thất nghiệp của Hy Lạp luôn ở mức cao so với khu vực
Eurozone. Năm 2009, tình trạng thất nghiệp tăng cao lên đến 9,4% là do những tác
động của khủng hoảng tài chính.
Hình 2: Tỷ lệ thất nghiệp của Hy Lạp (2002-2010)
Nguồn: TradingEconomics.com; European Commission
Đến tháng 2/2009 thủ tướng Hi Lạp thừa nhận rằng nền kinh tế Hi Lạp đang
trong tình trạng cần đặc biệt quan tâm khi bộ trưởng tài chính Châu Âu nhấn mạnh
mối lo ngại về qui mô khoản nợ công rất lớn của đất nước này.
Tiểu luận môn học tài chính quốc tế GVHD: TS. Mai Thu Hiền
16
Hình 3: Tổng nợ chính phủ so với GDP (%)
Có thể thấy trong cuốt thập kỷ trước khi khủng hoảng tài chính bắt đầu vào
năm 2008 chính phủ Hy Lạp đã vay mượn rất nhiều từ nước ngoài để bù đắp cho
thâm hụt ngân sách và tài khoản vãng lai. Giữa năm 2001 và năm 2008 báo cáo
thâm hụt ngân sách trung bình của nước này là 5% /năm so với mức 2% trung bình
của khu vực châu Âu và thâm hụt tài khoản vãng lai vào khoảng trung bình 9%/năm
so với trung bình chung 1% của khu vực theo như thống kê của IMF (World
Economic Outlook, October 2009).Vào năm 2009, thâm hụt ngân sách ước đoán hơn
13% GDP. Nguyên do chủ yếu cho tình trạng này là do chi tiêu quá nhiều chính phủ.
Cũng trong năm 2009 tình trạng thâm hụt gấp đôi của nước này tiếp tục được tài trợ
khiến tỷ lệ nợ nước ngoài tăng lên khoảng 115% GDP. Cả thâm hụt ngân sách lẫn nợ
nước ngoài đều trên mức cho phép theo qui định của liên minh tiền tệ và kinh tế EU.
Niềm tin của Hy Lạp đối với các khoản tài trợ nước ngoài cho việc bù đắp
thâm hụt ngân sách và cán cân vãng lai khiến cho nền kinh tế bị tổn thương nghiêm
trọng và giảm niềm tin của các nhà đầu tư.
2.1.2 Diễn biến khủng hoảng nợ công Hy Lạp
Và thực sự khi cơn bão khủng hoảng kinh tế thế giới 2008-2009 tạo nên cuộc
khủng hoảng thanh khoản ở nhiều nước tràn qua quốc gia Nam Âu này khiến việc
chi tiêu gia tăng và nguồn thu từ thuế giảm đi. Cuối tháng 9/2009, chỉ vài tuần trước
khi bị đánh bại trong cuộc tổng tuyển cử ngày 4/10/2009, chính quyền của Thủ
tướng Costas Karamanlis cho biết thâm hụt ngân sách năm 2009 của nước này ở
mức 6-8% so với GDP.
Tiểu luận môn học tài chính quốc tế GVHD: TS. Mai Thu Hiền
17
Sau khi dành chiến thắng vào ngày 20/10/2009,tân thủ tướng George
Papandreou của Đảng Dân chủ cánh hữu khẳng định thâm hụt ngân sách trong tài
khóa 2009 phải ở mức 12,7%, gấp hơn 4 lần giới hạn cho phép của một quốc gia sử
dụng đồng Euro. Mức thâm hụt này cùng với khoản nợ trị giá 300 tỷ Euro đã thực sự
cho thấy tính nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng tại Hy Lạp. Nguy hiểm hơn, nền
kinh tế lớn thứ 27 thế giới này rất có thể chỉ là kíp nổ của toàn bộ hệ thống tài chính,
tiền tệ châu Âu.
So sánh thâm hụt ngân sách (thanh màu đỏ) và nợ (thanh màu vàng) của Hy
Lạp với một số quốc gia châu Âu trong năm 2009.
Hình 4: Thâm hụt ngân sách và tỷ lệ nợ của một số quốc gia Châu Âu 2009
Nguồn: EC
Chúng ta có thể thấy thâm hụt ngân sách và tỷ lệ nợ so với GDP của Hi Lạp
rất lớn và đứng đầu so với các nước. Các tỷ lệ này cho thấy các tiêu chí của thành
viên EU ở ngay cả Đức cũng không được thực hiện đúng (nợ lớn hơn 60% GDP và
thâm hụt ngân sách 3.5% GDP)
Kể từ cuối năm 2009, niềm tin của các nhà đầu tư vào chính phủ Hiy Lạp trở
nên lung lay. Sau khi công bố tỷ lệ thâm hụt ngân sách quá lớn ở ngưỡng 12,7%
GDP, trái phiếu của Hy Lạp đã bị đánh tụt hạng bởi ba nhà xếp hạng tín dụng hàng
đầu. Các nước có nợ nước ngoài lớn như Hy Lạp là mối quan tâm hàng đầu của các
nhà đầu tư. Nhiều luận điệu về việc chính phủ Hy Lạp đã làm giả các số liệu thống
kê và không minh bạch mức độ nợ thông qua các công cụ tài chính phức tạp cũng
Tiểu luận môn học tài chính quốc tế GVHD: TS. Mai Thu Hiền
18
góp phần làm mất lòng tin cho các nhà đầu tư. Trước khủng hoảng nợ, lợi tức trái
phiếu 10 năm của Hy Lạp là 10 đến 40 điểm cơ bản , lớn hơn trái phiếu 10 năm của
Đức. Chênh lệch điểm mua bán cao thể hiện sự mất lòng tin của các nhà đầu tư vào
nền kinh tế Hy Lạp.
Hình 5: Lợi suất trái phiếu 10 năm của Hy Lạp so với trái phiếu cùng loại của Đức.
Ngày 3/11/2009, Ủy ban Châu Âu (EC) dự báo mức thâm hụt ngân sách của
Hy Lạp là 12,7% trong năm 2009 và 12,2% trong 2010. Ngày 8/12/2009 khủng
hoảng leo thang khi trái phiếu của quốc gia này sụt giảm nhanh chóng sau khi bị tổ
chức Fitch hạ bậc tín nhiệm về nợ dài hạn từ A- xuống BBB+. Lần đầu tiên trong
thập kỷ khi Hi Lạp bị xếp hạng dưới mức A- và đẩy chi phí vay nợ của nước này
tăng lên. Trước những diễn biến xấu, ngày 14/12/2009, Thủ tướng Papandreou tuyên
bố sẽ thẳng tay với nạn tham nhũng, thắt chặt chi tiêu hơn nữa, trong đó đánh thuế
90% lên các khoản thưởng của giới “cá mập” ngân hàng cũng như ra lệnh cấm toàn
bộ việc thưởng tiền cho các quan chức điều hành trong khu vực công. Mười ngày
sau, Quốc hội Hy Lạp thông qua dự thảo ngân sách nỗ lực để cắt giảm thâm hụt ngân
sách 4% và dự báo mức thâm hụt ngân sách của năm 2010 là 9,1%. Trước tình hình
đó hàng nghìn công nhân đã đổ xuống đường phản đối chính sách cắt giảm ngân
sách của thủ tướng Papandreou, tiếp đó tổ chức Standard & Poor’s tiếp nối Fitch
giảm hạng mức tín dụng của Hy Lạp ngày17/12/2009 . Tuy nhiên, cộng đồng quốc
tế, đặc biệt là các quốc gia trong khối sử dụng đồng tiền chung euro vẫn tỏ ra chưa
Tiểu luận môn học tài chính quốc tế GVHD: TS. Mai Thu Hiền
19
thật hài lòng với kế hoạch nói trên vì cho rằng tình trạng ngân sách thâm hụt và bất
ổn của Hy Lạp có thể ảnh hưởng tới toàn khối. Vào 11/2/2010, Đức lên tiếng phản
đối gói cựu trợ nhanh cho Hy Lạp và cho rằng quốc gia này cần phải tự mình giải
quyết vấn đề.
Do chênh lệch lãi suất giữa Hy Lạp và Đức lên tới 4% khi các nhà đầu tư lo
ngại về việc mất khả năng chi trả nợ của Hy Lạp. Trước tình hình đó vào tháng
2/2010 chính phủ Hy Lạp thông báo gói ngân sách eo hẹp hà khắc hơn bao gồm của
việc đóng băng việc chi trả cho khu vực công và đánh thuế cao hơn đối với nhà cho
thu nhập trung bình và thấp.
Hình 6: Lãi suất trái phiếu Chính phủ Hy Lạp từ tháng 9/2009 đến 2/2010
Nguồn: Thomson Reuters
Tuy nhiên, dù những lo ngại xung quay nền kinh tế Hy Lạp, chính phủ vẫn
bán được thành công 8 tỷ euro tương đương khoảng 10.6 tỷ usd trái phiếu vào cuối
tháng 1/2010; 5 tỷ euro (tương đương 7 tỷ usd) cuối tháng 3/2010 và 1.56 tỷ euro
(tương đương 2.07 tỷ usd) vào giữa tháng 4/2010 dù ở mức lãi suất khá cao. Tuy
nhiên, Hy Lạp vẫn cần phải vay thêm 54 tỷ euro (tương đương 71.8 tỷ USD) để trả
các món nợ đến hạn và trả lãi vào năm 2010, do đó vẫn tồn tại những lo ngại về khả
năng của chính phủ.
Cuối tháng 3/2010, các thành viên của liên minh châu Âu thông qua cam kết
tài trợ tài chính cho Hy Lạp phối hợp cùng với IMF nếu cần thiết và nếu chính phủ
Hy Lạp yêu cầu. Vào giữa tháng 4/2010, chi tiết gói cứu trợ trong năm được thông
qua: 1/3 khoản vay trong năm trị giá 30 tỷ euro (40 tỷ usd) với mức lãi suất 5%, cao
hơn so với các nước nam Âu vay, nhưng thấp hơn tỷ suất từ các nhà đầu tư tư nhân
đối với trái phiếu Hy Lạp. Người ta kỳ vọng rằng với sự dàn xếp của IMF, các khoản
Tiểu luận môn học tài chính quốc tế GVHD: TS. Mai Thu Hiền
20
vay theo chuẩn IMF nhằm mục đích giúp các nước giải quyết những khó khăn trong
cán cân thanh toán trị giá 15 tỷ euro (khoảng 20 tỷ usd) trong năm sẽ được rót trước
cho Hy Lạp bởi các thành viên EU.Tuy nhiên các nhà đầu tư lại một lần nữa lo ngại
khi Eurostat đưa ra ước tính về thâm hụt ngân sách của Hy Lạp ở mức 13.6% GDP,
cao hơn báo cáo của chính phủ Hy Lạp đưa ra vào tháng 10/2009. Điều này lại dẫn
đến lo ngại về khả năng thanh toán nợ của Hy Lạp, với 8.5 tỷ euro (khoảng 11.1 tỷ
usd) đến hạn vào giữa tháng 5/2010. Ngày 23/4/2010, chính phủ Hi Lạp đã trịnh
trọng yêu cầu các gói cứu trợ tài chính từ IMF và các nước khác của khu vực châu
Âu. Cộng đồng châu Âu loại trừ Đức đã yêu cầu việc cắt giảm ngân sách của Hy Lạp
cho các năm 2010, 2011 và 2012 phải được thông qua trước khi đưa ra các gói cứu
trợ.
2.2 NGUYÊN NHÂN CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ
Tác nhân bên ngoài và rõ nét nhất thường được các nhà lãnh đạo EU đề cập là
tác động của cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Để cứu vãn nền kinh tế khỏi cơn
suy thoái, chính phủ Hy Lạp đã tung ra những gói hỗ trợ khổng lồ nhằm kích thích
kinh tế phát triển. Gói hỗ trợ này làm gia tăng chi ngân sách và nợ công một cách
đáng kể. Tuy nhiên thực trạng này diễn ra ở hầu hết các nước trên thế giới không chỉ
có ở Hy Lạp và EU. Do vậy ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu chỉ
là tác nhân thêm vào những vấn đề sẵn có trong nội tại nền kinh tế Hy Lạp.
Tiếp cận vấn đề nguyên nhân khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp có rất nhiều
luồng ý kiến và nhiều cách phân tích vấn đề khác nhau. Bài tiểu luận này, chúng tôi
phân tích nguyên nhân của cuộc khủng hoảng nợ Hy Lạp theo quan điểm của tổ
chức Nghiên cứu cho quốc hội Hoa Kỳ (CRS).
2.2.1 Các nhân tố trong nước
Chi tiêu chính phủ quá lớn trong khi nguồn thu hạn chế
Vào giai đoạn 2001-2007, GDP của Hy Lạp tăng ở mức trung bình 4.3%, so
với mức trung bình của khu vực châu Âu là 3.1%. Tốc độ phát triển kinh tế cao là
nhờ có sự gia tăng nhanh của tiêu dụng ở khu vực tư nhân (được cung cấp bở các gói
Tiểu luận môn học tài chính quốc tế GVHD: TS. Mai Thu Hiền
21
tín dụng dễ dãi) và đầu tư công được chính phủ và EU tài trợ. Tuy nhiên trong sáu
năm đó trong khi chi tiêu chính phủ tăng lên 87% thì khoản thu chỉ tăng có 31% dẫn
tới thâm hụt ngân sách trên mức cho phép theo quy định của EU. Các nhà quan sát
đã chỉ ra một việc quản lý công thiếu hiệu quả và cồng kềnh của Hy Lạp, hệ thống y
tế và trợ cấp lương hưu tốn kém, trốn thuế và việc thiếu ý thức duy trì kỷ cương tài
chính là những nhân tố chính phía sau thâm hụt ngân sách của Hy Lạp.
Theo như OECD, trong năm 2004, chi tiêu cho quản lý công trong tổng chi
tiêu công của Hy Lạp cao hơn bất kỳ nước nào của OECD và không có gì chứng
minh rằng số lượng và chất lượng của các dịch vụ công ích này là vượt trội. Năm
2009, chi tiêu công của chính phủ chiếm 50% GDP. Chính phủ kế tiếp tiếp tục muốn
hiện đại hóa và củng cố vấn đề quản lý công, tuy nhiên những gì thấy được chỉ là
việc bố trí quá đông nhân viên và năng suất làm việc thấp ở khu vực công lại là
chướng ngại vật để tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó độ tuổi của dân số Hy Lạp
trung bình trên 64 dự đoán gia tăng từ 19% vào năm 2007 lên 32% vào 2060, điều
này có thể đặt thêm gánh nặng lên các khoản chi công cộng và hệ thống trợ cấp
lương hưu thuộc hàng tốt nhất châu Âu. Theo như OECD, việc tăng tỷ lệ lương từ
70% lên 80% là khá cao và tương tự là quyền được hưởng toàn bộ trợ cấp lương hưu
chỉ đòi hỏi 35 năm đóng góp so với 40 như nhiều nước khác. Hơn thế nữa, tổng các
khoản thanh toán cho trợ cấp công cộng của Hy Lạp dự đoán là sẽ tăng từ
11.5%GDP năm 2005 lên 24% GDP vào 2050.
Ngược lại với khoản chi, các khoản thu sụt giảm cũng góp phần vào thâm hụt
ngân sách Hy Lạp. Nhiều nhà kinh tế chỉ ra rằng vấn nạn trốn thuế và nền kinh tế
không được ghi chép của nước này là nhân tố chính cho việc mất khả năng thanh
toán. Họ cho rằng Hy Lạp phải giải quyết vấn đề này nếu muốn tăng thu cần thiết để
nâng cao vị thế tài chính. Một vài nghiên cứu đã ước lượng nền kinh tế ngầm ở Hi
Lạp chiếm 25-30% GDP.
Vấn đề chính sách và năng lực cạnh tranh
Tiểu luận môn học tài chính quốc tế GVHD: TS. Mai Thu Hiền
22
Nền công nghiệp của Hy Lạp đang trải qua sự sự giảm sút về cạnh tranh quốc
tế. Các nhà kinh tế cho rằng vấn đề tiền lương và năng suất lao động thấp cũng là
những tác nhân chính. Theo bảng bên dưới, chúng ta có thể thấy rằng mức độ cạnh
tranh của Hy Lạp rất thấp chỉ xếp thứ 109 về những quốc gia thuận lợi kinh doanh
năm 2009 bị bỏ xa so với các nước trong khu vực và đặc biệt là Ai Len.
Bảng 1: Mức độ cạnh tranh của một số nước châu Âu năm 2009
Country Ranking
Greece 109
Ireland 7
Italy 78
Potugal 48
Spain 62
Nguồn: WB (theo Anne Sibert, Birbeck, University of London and CEPR - The Greek
sovereign debt crisis and the Eurosystem)
Theo một nghiên cứu, mức độ chi tiền công của Hy Lạp đã tăng khoảng 5%
hàng năm từ khi nước này ra sử dụng đồng euro là đồng tiền quốc gia tăng gấp hai
lần tốc độ trung bình của khu vực. Cùng lúc, xuất khẩu từ Hy Lạp đến các bạn hàng
chính chỉ tăng 3.8% /năm, bằng một nửa tốc độ tăng nhập khẩu của các nước này từ
các bạn hàng khác. Hy Lạp muốn thúc đẩy khả năng cạnh tranh và giảm việc thâm
hụt cán cân vãng lai cần tăng năng suất lao động, cắt giảm mức lương, và tăng việc
tích lũy. Theo một số nghiên cứu, chính phủ Papandreou đã bắt đầu hạn chế mức tiền
lương ở khu vực công và hi vọng tăng xuất khẩu thông qua việc đầu tư ở các những
lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh. Trong quá khứ, ngành công nghiệp du lịch và vận tải
biển của nước này là những ngành thế mạnh.
2.2.2 Các nhân tố quốc tế
Tiếp cận các nguồn vốn có mức lãi suất thấp tăng lên
Tiểu luận môn học tài chính quốc tế GVHD: TS. Mai Thu Hiền
23
Việc sử dụng đồng euro làm đồng tiền quốc gia năm 2001 dường như là một
tác nhân góp phần tạo nên cuộc khủng hoảng nợ Hy Lạp. Khi hệ thống tiền tệ được
neo vào những nền kinh tế mạnh như Đức và Pháp và một chính sách tiền tệ chung
được quản lý bởi Ngân hàng trung ương Châu Âu, các nhà đầu tư có xu hướng tin
tưởng hơn vào các nước thành viên của đồng euro. Nhận thức được tính ổn định của
đồng euro khiến Hy Lạp cũng như các thành viên khác của khối EU được vay mượn
ở mức lãi suất ưu đãi hơn so với các nước ngoài khu vực sử dụng đồng tiền chung
châu Âu. Điều này cũng đồng thời tạo điều kiện cho việc tài trợ ngân sách và trả các
khoản nợ đang tồn tại. Và chính những lợi ích này đã góp phần nên vấn đề nợ công
của Hy Lạp. Tiếp cận dễ dàng với các khoản tín dụng với lãi suất thấp làm cho Hy
Lạp nhanh chóng đạt mức độ nợ cao. Và nếu như thị trường gây khó dễ cho các
khoản vay bằng cách khiến các khoản tài trợ tài chính cho nợ công trở nên quá đắt
đỏ, Hy Lạp óỏ thể sẽ phải thực hiện các điều khoản nhằm tái cơ cấu và chính sách
thắt lưng buộc bụng.
Vấn đề về thi hành các qui định của EU
Việc không tuân theo đúng “hiệp ước về tính ổn định và phát triển” được coi
là nhân tố góp phần vào mức độ nợ cao của Hy Lạp. Năm 1997, các thành viên EU
đã thông qua hiệp ước này nhằm nâng cao mức độ giám sát và tuân theo các qui tắc
tài chính được tạo lập trong hiệp định Maastricht 1992. Theo như qui định thì thâm
hụt ngân sách không được vượt quá 3% GDP và nợ không được quá 60% GDP.
Hiệp ước cũng chỉ rõ qui trình thâm hụt quá mức được phép của các thành viên. Nếu
như các nước thành viên không thể áp dụng được theo phương pháp của ủy ban châu
Âu trong giai đoạn thâm hụt quá mức, thì mức tốt nhất được đưa ra là 0.5%GDP.
Tuy nhiên khi số lượng thành viên gia tăng việc tuân thủ theo những giới hạn
được đặt ra theo hiệp định trở nên khó khăn. Từ năm 2003, có hơn 30 trường hợp
thâm hụt quá mức và những thành viên bị khiển trách đã buộc phải hứa hẹn sẽ thắt
chặt tài chính, nhưng EU chưa bao giờ can thiệp bằng những biện pháp tài chính vào
các thành viên để xảy ra tình trạng phá bỏ những giới hạn cho phép về thâm hụt ngân
sách. Việc thiếu tính tuân thủ vào hiệp định về sự phát triển và ổn định đã giới hạn
Tiểu luận môn học tài chính quốc tế GVHD: TS. Mai Thu Hiền
24
vai trò của nó trong việc ngăn ngừa các nước khỏi tình trạng nợ công quá cao như Hi
Lạp.
Ủy ban châu Âu đã bắt đầu những thẩm định về thâm hụt ngân sách đối với
Hy Lạp vào 2004 khi Hy Lạp báo cáo về tình hình thâm hụt ngân sách của nước này
vào năm 2003 là 3.2% GDP. Trong báo cáo của mình ủy ban đã chỉ ra rằng “chất
lượng của các số liệu công là không thỏa đáng”, không chỉ có phòng thống kê của
EU mà của Eurostat cũng không công nhận hay là có những yêu cầu sửa đổi số liệu
do cục thống kê quốc gia của Hy Lạp đưa ra từ năm 2000. Xem xét lại các báo cáo
thống kê từ 2004 đến 2007 cho thấy Hy Lạp đã vượt quá 3% giới hạn mỗi năm kể từ
2000, đạt mức cao nhất là 7.9% GDP năm 2004 . Ủy ban cũng thông báo rằng nợ
công của Hy Lạp trên mức 100% GDP từ khi Hy Lạp ra nhập các nước sử dụng
đồng euro, những con số này đã đẩy mức nợ công lên cao vọt. EU đóng thẩm định
về thâm hụt nợ vào năm 2007 với thông báo thỏa đáng rằng Hy Lạp thâm hụt ngân
sách là 2.6% GDP năm 2006 và 2.4% năm 2007.
Ủy ban kết luận rằng các nhà chức trách về thống kê của Hy Lạp đã nâng cao
thủ tục của mình dẫn đến việc chất lượng của số liệu cao hơn. Hội đồng cũng mở ra
cuộc thẩm tra về thâm hụt quá mức năm 2009 khi thâm hụt năm 2007 của Hy Lạp
được báo cáo là 3.5% GDP và tiến trình này vẫn tiếp tục cho đến nay. Như vậy vấn
đề từ bên ngoài là liên minh tiền tệ nhưng không liên minh tài chính.
2.2.3 Các nhân tố khác
Tác động của khủng hoảng tài chính 2008
Khi khủng hoảng tài chính 2008 diễn ra, các nhà lãnh đạo EU đã tung ra
những gói hỗ trợ khổng lồ nhằm kích thích phát triển kinh tế để vượt qua cơn khủng
hoảng. Chính những gói tài trợ này đã góp phần quan trọng làm cho tăng chi ngân
sách và nợ công đáng kể.
Mối quan hệ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài chính