Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Lehman Brothers vụ phá sản ngân hàng khủng khiếp nhất lịch sử nước Mỹ UEH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.91 KB, 23 trang )

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐH KINH TẾ TP HCM
Khoa: Kế Toán Doanh Nghiệp

Đề tài: Lehman Brothers - Vụ Phá Sản Ngân Hàng
Khủng Khiếp Nhất Lịch Sử Nước Mỹ

Môn: Kế Toán Quốc Tế 2
Giảng viên hướng dẫn:
Lớp học phần:


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành bài tiểu luận này, nhóm chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành
đến UEH University đã tạo điều kiện tài liệu và môi trường thuận lợi cho cho
chúng em trong việc học tập, tìm hiểu và nghiên cứu môn học hiệu quả.

Và đặc biệt, chúng em muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Thầy/Cơ --- - người đã
giúp chúng em tìm hiểu bộ mơn Kế Tốn Quốc Tế 2. Chúng em đã nhận được
những sự quan tâm giúp đỡ, hướng dẫn tận tình và những kiến thức cơ bản tạo
nền tảng để chúng em hoàn thành được bài tiểu luận này

Do kiến thức còn giới hạn và khả năng lập luận còn hạn chế nên trong bài tiểu
luận chắc chắn sẽ có sai sót. Chính vì vậy nhóm chúng em mong Cơ và các bạn
trong lớp sẽ có những nhận xét đóng góp và phê bình để bài tiểu luận của
chúng em được hoàn thiện hơn.

Chúng em xin chân thành cảm ơn!
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM VÀ PHẦN TRĂM THAM GIA
STT
1


2
3
4
5

Họ và tên

MSSV

Mức độ tham gia


PHỤ LỤC
LỜI CẢM ƠN....................................................................................................2
A. GIỚI THIỆU CHUNG:.................................................................................4
I. Khủng hoảng tài chính 2007 - 2008:...............................................................4
1. Nguyên nhân khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008.......................................4
2. Tác động của khủng hoảng kinh tế 2008........................................................5
II. Lehman Brothers:..........................................................................................5
1. Lịch sử hình thành của Lehman Brothers.......................................................5
2. Lĩnh vực hoạt động.........................................................................................7
3. Thành tựu.......................................................................................................8
4. Thị trường......................................................................................................8
B. SỰ THẤT BẠI CỦA LEHMAN BROTHERS..............................................9
I. Bối cảnh..........................................................................................................9
II. Sự giúp đỡ từ chính phủ:..............................................................................11
III. Phá sản.......................................................................................................12
1. Tuyên bố phá sản..........................................................................................13
2. Nguyên nhân thất bại:...................................................................................14
3. Gian lận kế toán được phát hiện:..................................................................15

4. Ảnh hưởng của việc tuyên bố phá sản:.........................................................18
C. KẾT LUẬN.................................................................................................19
I. Hậu quả.........................................................................................................19
1. Kinh tế nước Mỹ..........................................................................................19
2. Kinh tế thế giới.............................................................................................20
II. Bài học rút ra rừ sai lầm của Lehman Brothers:...........................................21
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................23


A. GIỚI THIỆU CHUNG:
I. Khủng hoảng tài chính 2007 - 2008:
Năm 2008 là một năm khủng hoảng tài chính thế giới ảnh hưởng vơ cùng lớn
đến tồn bộ nền kinh tế trên tồn cầu. Cuộc khủng hoảng tài chính này đã dẫn
đến tình trạng thất nghiệp, suy thối kinh tế toàn cầu.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 (GFC) bắt nguồn từ sự khủng
hoảng trong lĩnh vực tài chính, bao gồm bảo hiểm, tín dụng, chứng khốn, diễn
ra từ năm 2007 cho tới năm 2008, nguồn gốc từ Mỹ.
1. Ngun nhân khủng hoảng tài chính tồn cầu 2008:
a) Nới lỏng tiêu chuẩn cho vay:
Bãi bỏ quy định tài chính là một đóng góp lớn cho cuộc khủng hoảng tài chính
năm 2008. Kỳ vọng rằng giá nhà sẽ tiếp tục tăng khiến các hộ gia đình, đặc biệt
là ở Hoa Kỳ, mắc nợ một cách liều lĩnh để mua và xây nhà. Những kỳ vọng
tương tự về giá bất động sản cũng khuyến khích các nhà phát triển và hộ gia
đình vay mượn quá mức. Nhiều khoản thế chấp, đặc biệt là ở Hoa Kỳ, gần bằng
hoặc thậm chí vượt q giá mua một ngơi nhà.
Vì vậy, sự kết hợp giữa nhu cầu điểm tín dụng miễn phí và tiền mặt có giá hợp
lý đã thúc đẩy sự bùng nổ nhà ở, thúc đẩy đầu cơ, đẩy giá nhà ở lên cao và tạo
ra bong bóng bất động sản thực tế. Kết quả là, trong khi chi phí mua nhà bắt
đầu giảm, các ngân hàng và người mua phải gánh chịu khoản lỗ lớn do họ đã
vay quá nhiều.

b) Cơng cụ tài chính:
Trong khi đó, sau năm 2001, các ngân hàng đầu tư tìm kiếm lợi nhuận dễ dàng
đã tạo ra các nghĩa vụ nợ thế chấp từ các khoản thế chấp được mua trên thị
trường thứ cấp. Bởi vì các khoản thế chấp dưới chuẩn được gộp chung với các
khoản thế chấp chính, các nhà đầu tư khơng có cách nào hiểu được những rủi
ro liên quan đến sản phẩm.
Bong bóng nhà đất đã hình thành trong nhiều năm cuối cùng đã vỡ khi thị
trường CDO bắt đầu ấm lên. Khi giá nhà giảm, những người vay dưới chuẩn
bắt đầu vỡ nợ đối với các khoản vay có giá trị cao hơn căn nhà, đẩy nhanh sự
sụt giảm giá nhà.
c) Lỗi chính sách và quy định:
Các quy định về cho vay dưới chuẩn và các sản phẩm MBS quá lỏng lẻo và
quản lý kém. Nhiều người vay cá nhân khơng chỉ cho vay q lớn đến mức khó


trả nợ mà còn đánh giá quá cao thu nhập của người vay và đưa ra những lời
hứa hẹn phóng đại của các nhà đầu tư về sự an toàn của các sản phẩm MBS
được sử dụng.
Cũng có sự gia tăng các hoạt động gian lận, chẳng hạn như chúng đã được bán.
Hơn nữa, khi cuộc khủng hoảng leo thang, nhiều ngân hàng trung ương và
chính phủ đã khơng đánh giá đầy đủ việc mở rộng các khoản nợ xấu trong thời
kỳ bùng nổ và bản chất nhiều mặt của các khoản lỗ thế chấp trên tồn hệ thống
tài chính.
2. Tác động của khủng hoảng kinh tế 2008:
Sau khi cuộc khủng hoảng tài chính nổ ra, chính phủ Hoa Kỳ đã lập tức triển
khai các khoản cứu trợ đối với các tổ chức tài chính cũng như áp dụng chính
sách tài khóa và chính sách tiền tệ để ngăn chặn sự sụp đổ của hệ thống tài
chính tồn cầu nhưng tất cả đã quá muộn.
Cuộc khủng hoảng kinh tế 2008 lan rộng ra các nước trên thế giới, đặc biệt là
Liên minh Châu Âu như Đức, Anh, Pháp cũng như các quốc gia khác. Cuộc

khủng hoảng này đã tác động khơng nhỏ đến nền kinh tế tồn cầu với hơn
10.000 tỷ USD đã bị cuốn trôi, hơn 30 triệu người thất nghiệp, gia tăng tỉ lệ vô
gia cư và tự tử.
Phải mất đến 10 năm nền kinh tế Mỹ mới có thể trở lại tình trạng bình thường
nhờ các gói kích thích kinh tế. Từ sau sự kiện Lehman Brothers phá sản, nhiều
nước đã đưa ra nhiều hàng rào kiểm sốt trong q trình giao dịch các sản
phẩm tài chính, đồng thời cũng nâng cao mức an toàn của các ngân hàng lên.
Hiện nay, vẫn chưa có một tổ chức nào được thành lập để thẩm định về mức độ
độc hại của các khoản nợ thối liên quan tới các sản phẩm tài chính mua đi bán
lại trên sàn giao dịch chứng khoán.
Năm 2008 - ngân hàng đầu tư 160 năm tuổi Lehman Brothers tuyên bố phá sản,
Bear Stearns ngân hàng đầu tư lớn nhất phố Wall bị mua với giá 30 tỷ đô la
Mỹ. 25 ngân hàng cho vay cầm cố khác cũng buộc phải tuyên bố phá sản. Cựu
chủ tịch FED gọi đây là “cơn sóng thần thế kỷ”.
II. Lehman Brothers:
1. Lịch sử hình thành của Lehman Brothers:
a) Dưới thời gia đình Lehman (1850–1969):
Dưới thời gia đình Lehman (1850-1969), Lehman Brothers là một cơng ty mơi
giới tài chính phát triển mạnh mẽ và có nhiều thành cơng. Các hoạt động của
công ty bao gồm các giao dịch chứng khốn, cổ phiếu, trái phiếu và hàng hóa.


Công ty đã trở thành một nhà môi giới tài chính hàng đầu và đã hỗ trợ nhiều
doanh nghiệp lớn tại Hoa Kỳ, chẳng hạn như Sears, Roebuck and Company.
Trong giai đoạn này, Lehman Brothers đã tham gia các hoạt động tài chính
quan trọng, bao gồm việc tài trợ cho chính phủ Hoa Kỳ trong Thế chiến thứ
nhất và Thế chiến thứ hai. Ngồi ra, cơng ty cũng đã hỗ trợ cho các công ty lớn
khác trong các giao dịch mua bán và tái cấu trúc doanh nghiệp.
Sau khi gia đình Lehman rời khỏi cơng ty vào năm 1969, Lehman Brothers đã
tiếp tục phát triển và mở rộng hoạt động sang các lĩnh vực khác nhau nhưng

vẫn giữ vững vị thế là một trong những ngân hàng đầu tư hàng đầu của thế
giới.
b) Quan hệ đối tác đang phát triển (1969–1984):
Khi gia đình Lehman rời khỏi cơng ty vào năm 1969, Lehman Brothers đã trở
thành một công ty độc lập và tiếp tục mở rộng hoạt động của mình. Trong giai
đoạn từ năm 1969 đến 1984, Lehman Brothers đã phát triển mối quan hệ đối
tác với các công ty khác và mở rộng hoạt động sang các lĩnh vực mới.
Vào những năm 1970, Lehman Brothers đã bắt đầu tham gia vào các giao dịch
tài chính quốc tế và mở rộng hoạt động sang châu Âu. Công ty đã mua lại một
số cơng ty tài chính khác, bao gồm Abraham & Co. và Shearson Loeb
Rhoades. Công ty cũng đã tham gia vào các hoạt động như cho vay thương mại
và dịch vụ tài chính cho khách hàng cá nhân.
Trong giai đoạn này, Lehman Brothers đã thiết lập mối quan hệ đối tác với
nhiều công ty lớn, bao gồm American Express, IBM, Chrysler và General
Electric. Công ty đã hỗ trợ cho các công ty này trong các giao dịch mua bán và
tái cấu trúc doanh nghiệp.
Tuy nhiên, vào những năm 1980, Lehman Brothers đã trải qua những thăng
trầm trong hoạt động của mình và đã bị phá sản vào năm 1984. Sau đó, cơng ty
đã được mua lại bởi American Express.
c) Sáp nhập với American Express (1984–1994):
Sau khi Lehman Brothers phá sản vào năm 1984, công ty đã được mua lại bởi
American Express và trở thành một phần của American Express Investment
Banking Group. Trong giai đoạn từ năm 1984 đến năm 1994, Lehman Brothers
tiếp tục hoạt động dưới sự quản lý của American Express và mở rộng hoạt
động của mình sang các lĩnh vực mới.
Dưới sự lãnh đạo của American Express, Lehman Brothers đã mở rộng hoạt
động của mình sang thị trường châu Á và châu Âu, và đã đưa ra các sản phẩm
tài chính mới như các sản phẩm tài chính cơ cấu và các sản phẩm tài chính dựa



trên quyền chọn. Công ty cũng đã tham gia vào các hoạt động như quản lý tài
sản và đầu tư.
Tuy nhiên, vào những năm 1990, American Express đã quyết định tách riêng
Lehman Brothers và bán công ty cho công ty đầu tư Shearson Lehman Hutton.
Sau khi Lehman Brothers trở lại công ty độc lập, công ty đã tiếp tục mở rộng
hoạt động của mình và phát triển nhanh chóng trong thị trường tài chính tồn
cầu.
d) Thối vốn và độc lập (1994–2008):
Sau khi bị American Express tách ra và bán cho Shearson Lehman Hutton vào
năm 1994, Lehman Brothers trở thành một công ty độc lập và tiếp tục mở rộng
hoạt động của mình trong lĩnh vực tài chính. Trong giai đoạn từ năm 1994 đến
năm 2008, Lehman Brothers đã tập trung vào các hoạt động tài chính đa dạng
và trở thành một trong những cơng ty tài chính hàng đầu trên thế giới.
Lehman Brothers đã trở thành một trong những công ty lớn nhất trong lĩnh vực
quản lý tài sản và đầu tư. Công ty đã mở rộng hoạt động của mình sang các lĩnh
vực mới như cho vay thương mại, đầu tư tài chính bất động sản và cả hoạt động
tài chính về năng lượng.
Tuy nhiên, vào năm 2008, Lehman Brothers đã trải qua một cuộc khủng hoảng
tài chính nghiêm trọng do tác động của thị trường tín dụng và thị trường bất
động sản. Công ty đã phải đối mặt với một số khoản nợ lớn và không thể trả
nợ, dẫn đến việc Lehman Brothers tuyên bố phá sản vào ngày 15 tháng 9 năm
2008. Sự phá sản của Lehman Brothers được coi là một trong những sự kiện
quan trọng của cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu năm 2008.
2. Lĩnh vực hoạt động:
Lehman Brothers hoạt động trong nhiều lĩnh vực tài chính, bao gồm:
- Quản lý tài sản: Lehman Brothers cung cấp dịch vụ quản lý tài sản cho khách
hàng cá nhân, các tổ chức tài chính và các quỹ đầu tư.
- Đầu tư tài chính: Cơng ty đã đầu tư vào các sản phẩm tài chính phức tạp như
trái phiếu, hợp đồng phái sinh, cổ phiếu và các sản phẩm tài chính khác.
- Thương mại: Lehman Brothers cung cấp dịch vụ cho vay thương mại và quản

lý rủi ro cho các khách hàng trong lĩnh vực thương mại.
Bất động sản: Công ty đã đầu tư vào các hoạt động bất động sản như phát
triển, mua bán và cho vay bất động sản.
- Năng lượng: Lehman Brothers cung cấp các dịch vụ tài chính cho ngành cơng
nghiệp năng lượng, bao gồm dầu khí và điện.


Tuy nhiên, hoạt động chính của Lehman Brothers tập trung vào các sản phẩm
tài chính phức tạp, đặc biệt là trong lĩnh vực tín dụng và bất động sản.
3. Thành tựu:
Trong suốt lịch sử hoạt động của mình, Lehman Brothers đã đạt được nhiều
thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, điểm nhấn lớn nhất trong sự nghiệp của họ là
sự thăng tiến mạnh mẽ trong lĩnh vực tín dụng và tài chính, đặc biệt là trong
giai đoạn từ năm 1997 đến 2006 khi họ đã trở thành một trong những công ty
cung cấp tài chính hàng đầu trên thế giới.
Trong giai đoạn này, Lehman Brothers đã tăng cường hoạt động cho vay và
đầu tư vào thị trường tín dụng, đặc biệt là trong lĩnh vực cho vay mua nhà và
tài sản địa ốc. Họ đã phát triển các sản phẩm tài chính phức tạp như các khoản
vay thế chấp có tính chất cấu trúc hóa (structured mortgage products), giúp cho
những người muốn mua nhà có thể vay một số tiền lớn hơn và trả trước ít hơn.
Lehman Brothers đã tận dụng cơ hội này để tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận
của mình.
Điểm đột phá lớn nhất của Lehman Brothers là việc họ đã trở thành một trong
những ngân hàng đầu tiên bắt đầu phát hành các cơng cụ tài chính phức tạp như
các sản phẩm thế chấp cấu trúc hóa cho các nhà đầu tư toàn cầu. Trong những
năm đầu thế kỷ 21, công ty này đã thu về hàng tỷ đô la Mỹ từ hoạt động này,
giúp tăng trưởng nhanh chóng và trở thành một trong những cơng ty tài chính
lớn nhất thế giới.
Tuy nhiên, vào năm 2008, Lehman Brothers đã phá sản và gây ra sự kiện
khủng hoảng tài chính lớn nhất trong lịch sử. Nó đã dẫn đến sự suy thối của

nền kinh tế tồn cầu và gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho hàng triệu
người trên toàn thế giới.
4. Thị trường:
Trong suốt lịch sử hoạt động của mình, Lehman Brothers hoạt động chủ yếu
trong lĩnh vực tài chính và đầu tư. Cụ thể, trong thập niên 1990 và đầu thập
niên 2000, công ty này đã tập trung mạnh mẽ vào thị trường tài sản địa ốc, đặc
biệt là cho vay thế chấp và sản xuất các sản phẩm tài chính liên quan đến thị
trường này.
Lehman Brothers đã phát triển các sản phẩm tài chính phức tạp như các khoản
vay thế chấp cấu trúc hóa (structured mortgage products), giúp cho những
người muốn mua nhà có thể vay một số tiền lớn hơn và trả trước ít hơn. Họ
cũng đã tham gia vào thị trường đầu tư bất động sản, bao gồm cả các khoản cho
vay thương mại và các khoản đầu tư vào tài sản địa ốc.


Ngoài ra, Lehman Brothers cũng hoạt động trong các lĩnh vực khác như giao
dịch trái phiếu, chứng khoán, đầu tư nguồn vốn và dịch vụ tư vấn tài chính.
Cơng ty này là một trong những cơng ty tài chính lớn nhất thế giới trước khi
phá sản vào năm 2008.
B. SỰ THẤT BẠI CỦA LEHMAN BROTHERS:
I. Bối cảnh:
Lehman Brothers là một trong các cơng ty tiên phong chuyển mình sang hoạt
động khởi tạo thế chấp. Năm 1997, Lehman đã mua lại công ty Aurora Loan
Services - công ty cho vay Alt-A - có trụ sở tại Colorado.
Các khoản vay loại Alt-A được hiểu là những khoản vay dành cho những
người muốn mua nhà mà không cần phải cung cấp nhiều, hoặc thậm chí là
khơng phải cung cấp một thơng tin nào hay một lại giấy tờ gì về các khoản thu
nhập hoặc tài sản ngồi ngơi nhà mà họ sẽ mua.
Năm 2000, nhằm đẩy nhanh cũng như mở rộng quá trình khởi tạo thế chấp,
Lehman đã mua công ty cho vay thế chấp dưới chuẩn BNC Mortgage LLC ở

Bờ Tây. Ngay sau đó Lehman nhanh chóng trở thành một thế lực trong lĩnh
vực cho vay dưới chuẩn. Đến năm 2003, Lehman đã cho vay 18,2 tỷ USD và
xếp thứ ba về cho vay. Đến năm 2004, con số đã lên tới 40 tỷ USD. Và đến
năm 2006, Aurora cùng BNC đã cho vay gần 50 tỷ đô la mỗi tháng.
Vào thời kỳ đầu, sự chuyển mình sang hoạt động kinh doanh bất động sản của
Lehman đã giúp doanh thu của công ty trên thị trường vốn tăng 56% từ năm
2004 đến năm 2006.
Công ty liên tục thông báo ra thị trường với lợi nhuận kỷ lục hàng năm từ năm
2005 đến năm 2007. Điển hình là năm 2007, họ đã cơng bố 4,2 tỷ USD thu
nhập ròng trên 19,3 tỷ USD doanh thu. Thậm chí, vào tháng 2 năm 2007, giá cổ
phiếu của Lehman đạt mức cao kỷ lục 86,18 USD / cổ phiếu, mang lại giá trị
vốn hóa thị trường gần 60 tỷ USD
Thấy được Lehman đang trên đà phát triển nhưng ngay sau đó đến hết quý đầu
tiên của năm 2007, những rạn nứt trên thị trường nhà ở Mỹ đã ngày trở nên rõ
ràng hơn và ảnh hưởng mạnh tới Lehman nói riêng và tồn bộ thị trường ngân
hàng Hoa Kỳ nói chung. Các khoản nợ thế chấp dưới chuẩn bắt đầu tăng lên
mức cao nhất trong bảy năm qua
Trong khi đó Lehman đã biến thành một quỹ phịng hộ bất động sản trá hình
dưới dạng một ngân hàng đầu tư. Trước tính hình đó, cổ phiếu của Lehman
giảm mạnh khi cuộc khủng hoảng tín dụng nổ ra vào tháng 8 năm 2007.


Với sự thất bại của hai quỹ đầu cơ Bear Stearns - một ngân hàng đầu tư nhỏ
nhất trên Phố Wall - đã từng đứng vững qua nhiều thời kỳ đen tối trong thời kỳ
phát triển của thị trường Hoa Kỳ như cuộc Đại Suy thoái, Ngày thứ Hai Đen tối
(Black Monday) và cả vụ tấn công khủng bố 11/09 cuối cùng vào tháng
3/2009,
các khách hàng cũng như đối tác giao dịch lại quay lưng bỏ rơi họ trên ván cờ
của thị trường vì họ đang đặt cược quá lớn vào các khoản thế chấp độc hại.
Sau sự sụp đổ của Bear Stearns cổ phiếu của Lehman giảm mạnh lên tới 48%

do các nhà đầu tư đã lo ngại rằng công ty sẽ là nạn nhân tiếp theo trong cuộc
khủng hoảng này. Tuy nhiên, các nhà đầu tư vẫn đặt sự tin tưởng vào công ty
thêm một lần nữa sau khi đã huy động được 4 tỷ USD thông qua cổ phiếu ưu
đãi. Tuy nhiên, cổ phiếu lại bị sụt giảm khi các nhà quản lý quỹ đầu cơ đã bắt
đầu đặt câu hỏi về việc định giá danh mục thế chấp của Lehman.
Vào ngày 9 tháng 6 năm 2008, Lehman tuyên bố lỗ 2,4 tỷ đô la trong quý II và
báo cáo rằng họ đã tăng thêm 6 tỷ đô la từ các nhà đầu tư. Công ty cũng cho
biết họ đã tăng mức thanh khoản của mình lên 45 tỷ USD, giảm tổng tài sản
xuống 147 tỷ USD, giảm tỷ lệ nợ xấu cho nhà ở và thương mại xuống 20% và
giảm đòn bẩy từ 32 xuống 25.
Lehman đã nỗ lực trong việc sử dụng sức mạnh của địn bẩy tài chính bằng
cách vay một số lượng tiền đáng kể để tài trợ cho khoản đầu tư của mình trong
những năm cuối cùng của doanh nghiệp thay vì sử dụng vốn chủ sở hữu. Phần
lớn những khoản đầu tư này là vào các tài sản liên quan đến bất động sản.
Bảng 1: Bảng phân tích tỷ số tài sản trên vốn chủ sở hữu
(vào ngày 30 tháng 11)
Đơn vị: triệu USD
2007

2006

2005

2004

2003

691.063

503.545


410.063

357.168

312.061

Vốn chủ sở
hữu
hữu 22.490
hình

19.191

16.794

14.920

13.174

Tỷ lệ tài sản
trên vốn chủ 30.73
sở hữu

26.24

24.42

23.94


23.69

Tổng tài sản

Thước đo tỷ lệ tài sản trên vốn chủ sở hữu trong năm 2007, 2006, 2005, 2004,
2003 là tương đương 30.73, 26.24, 24.42, 23.94, 23.69 . Tỷ số này cho chúng ta
cái nhìn chung về nguồn vốn của Lehman Brothers rằng chỉ cần giá trị tài sản
của nó giảm 3–4% thì giá trị sổ sách của vốn chủ sở hữu sẽ bị loại bỏ hoàn toàn
ra khỏi báo cáo tài chính.


Và cho tới tháng 8 năm 2007, Lehman đóng cửa công ty cho vay dưới chuẩn ,
BNC Mortgage, loại bỏ 1.200 vị thế ở 23 địa điểm, đồng thời chịu khoản phí
sau thuế 25 triệu đơ la và giảm 27 triệu đô la lợi thế thương mại . Công ty nói
rằng các điều kiện thị trường tồi tệ trong khơng gian thế chấp "đòi hỏi phải
giảm đáng kể các nguồn lực và năng lực của nó trong khơng gian dưới chuẩn
Theo tờ báo "Lehman đang gặp khó khăn có kế hoạch sa thải 1.500" của Thời
báo New York đã chỉ ra trong nửa đầu năm 2008, cổ phiếu Lehman đã mất
73% giá trị do thị trường tín dụng tiếp tục thắt chặt. Trước tình hình đó Lehman
Brothers đã khơng thể cứu vãn được tình hình tài chính của mình. Vào tháng 8
năm 2008, Lehman Brothers đã thông báo kế hoạch sa thải 1.500 nhân viên,
chiếm khoảng 6% lực lượng lao động của cơng ty, nhằm giảm chi phí và cải
thiện tình hình tài chính trước thời hạn báo cáo q ba vào tháng 9.
II. Sự giúp đỡ từ chính phủ:
Việc sụp đổ của ngân hàng 158 năm tuổi Lehman Brothers do nhiều nguyên
nhân gây ra. Bên cạnh việc là nạn nhân của cơn bão khủng hoảng thế chấp dưới
chuẩn tại Hoa Kỳ, thì cịn do Lehman đã có lẽ khơng đủ may mắn được bảo
lãnh bởi các cơ quan Chính phủ.
Trước đó khơng lâu vào Tháng 3 năm 2008, Chính phủ Mỹ đã tài trợ cứu một
ngân hàng đầu tư khác là Bear Stearns, đây như gửi đi một dấu hiệu rằng sẽ

giải cứu khi mà một định chế tài chính đang có nguy cơ vỡ nợ, điều này khiến
tơi suy nghĩ đến vấn đề là Lehman khi gặp khủng hoảng có lẽ đã dựa vào tiền
lệ này mà nghĩ “Nếu Chính phủ Mỹ đã có thể cứu trợ một ngân hàng nhỏ, thì
chắc chắn cũng sẽ cứu trợ tương tự với ngân hàng chúng tôi” Lehman Brothers
là một ngân hàng lớn hơn gấp nhiều lần so với Bear Stearns do đó đây khơng
hẳn là một giả định vơ lý.
Tuy nhiên, Lehman đứng trước bờ vực sụp đổ ngay lúc đỉnh điểm của cuộc
khủng hoảng, ngồi Lehman thì cịn rất nhiều ông lớn khác cũng đang gặp
nguy kịch tương tự như Merrill Lynch, Wamu và AIG. Vấn đề “ rủi ro đạo
đức” trở nên trầm trọng (bởi nếu Chính phủ cứu tất cả, sẽ tạo nên một tiền lệ
xấu dẫn đến nhiều cá nhân hay tổ chức tham gia vào hoạt động rủi ro với tâm lý
sẽ được bảo lãnh hơn) khiến cho xuất hiện nhiều giả thuyết cho rằng Chính phủ
khơng cứu nhằm “dạy” cho tất cả các người tham gia thị trường tài chính một
bài học, để họ có thể hiểu rằng phải tự giải quyết vấn đề của họ, ở đây sự hy
sinh là Lehman như để răn dạy thị trường. (Giả thuyết này đã bị Ben Bernanke
lên tiếng bác bỏ)
Vào thời điểm Lehman hay chính Dick Fuld phát ra tín hiệu “cầu cứu”, Bộ
trưởng Tài chính Mỹ ông Henry Paulson và Chủ tịch Ngân hàng Dự trữ Liên
bang New York FED lúc này - ông Timothy Geithner đã điều hành cuộc họp
với sự tham gia của các chủ ngân hàng tại diện tại Phố Wall để tìm ra giải pháp


để giải cứu Lehman nhưng đồng thời cũng khẳng định cứng rắn rằng Chính
phủ sẽ khơng đưa tay giúp đỡ đế chế Lehman đang “thoi thóp” này.
Theo những phân tích từ Chính phủ, có hai ngun nhân chủ yếu khiến Chính
phủ bấy giờ khơng thể cứu trợ Lehman:
- Đầu tiên là không đủ thẩm quyền pháp lý để đầu tư vốn trực tiếp vào Lehman.
- Thứ hai là bởi vì tài sản của Lehman không đủ để hỗ trợ một khoản vay đủ
lớn.
Đồng thời thời điểm này vô cùng nhạy cảm, bởi đang là lúc diễn ra cuộc bầu cử

Tổng thống tại Mỹ, cộng thêm đang trong thời kỳ khủng hoảng tài chính, các
đại diện Đảng Dân chủ hay Đảng Cộng hịa cũng khơng thể một cách tự ý và dễ
dàng huy động tiền từ tiền thuế của người dân để cứu trợ cho Lehman mà
khơng có minh chứng thuyết phục được.
Do vậy, quyết định tốt nhất cho Chính phủ vào thời điểm ấy chính là để các
khối tư nhân tự ra tay cứu Lehman, mà khơng hề có bất kỳ sự can dự nào từ
phía Chính phủ.
III. Phá sản:
Vào ngày 10 tháng 9 năm 2008, Lehman thông báo rằng họ dự kiến sẽ lỗ 3,9 tỷ
đô la trong quý 3 năm 2008. Mặc dù Lehman đã khám phá các lựa chọn trong
suốt mùa hè, nhưng nó khơng có người mua; kế hoạch tồn tại duy nhất được
công bố của nó là tách các tài sản gặp khó khăn thành một thực thể riêng biệt.
Dự đoán của Bộ trưởng Paulson hóa ra là đúng – vẫn chưa đủ.
Theo bảng 2, vào cuối phiên giao dịch ngày 12 tháng 9 năm 2008, giá cổ phiếu
của Lehman đã giảm xuống còn 3,65 đô la một cổ phiếu, giảm 94% so với mức
giá 62,19 đô la ngày 2 tháng 1 năm 2008.


Bảng 2: Bảng phân tích giá cổ phiếu của Lehman Brothers trong 2 quý đầu năm 2008 (Đơn vị: đô)
70
62.19
60

Giácổphiếu

50

40
31.75
30


27.5
20.96

20

7.79

10

7.25
3.65

0
02/01/2008

17/03/2008

10/06/2008

01/07/2008

09/09/2008

10/09/2008

12/09/2008

Vào thứ Bảy, ngày 13 tháng 9 năm 2008, Timothy F. Geithner , khi đó là chủ
tịch của Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York , đã triệu tập một cuộc họp về

tương lai của Lehman, trong đó có khả năng phải thanh lý khẩn cấp tài sản của
họ. Lehman báo cáo rằng họ đã đàm phán với Bank of America và Barclays về
khả năng bán công ty; tuy nhiên, cả hai cuối cùng đều từ chối mua tồn bộ
cơng ty, trong trường hợp trước là do chính phủ Anh (cụ thể là Bộ trưởng Tài
chính Alastair Darling và Giám đốc điều hành của Cơ quan Dịch vụ Tài chính
Hector Sants) đã từ chối cho phép giao dịch vào phút cuối, trích dẫn các quy
định về cổ đơng ở Vương quốc Anh, mặc dù một thỏa thuận rõ ràng đã được
hồn thành.
Ngày hơm sau, Chủ nhật, ngày 14 tháng 9, Hiệp hội Hoán đổi và Phái sinh
Quốc tế (ISDA) đưa ra một phiên giao dịch đặc biệt để cho phép những người
tham gia thị trường bù đắp các vị trí trong các công cụ phái sinh khác nhau với
điều kiện Lehman phá sản vào cuối ngày hơm đó. Mặc dù hồ sơ phá sản bị trễ
hạn, nhưng nhiều đại lý đã vinh danh các giao dịch mà họ đã thực hiện trong
phiên họp đặc biệt.
1. Tuyên bố phá sản:
Vào ngày 15 tháng 9 năm 2008, Lehman Brothers đã chính thức khai báo phá
sản và đệ đơn xin phá sản tại Tòa án Liên bang Hoa Kỳ theo Chương 11 với lý
do khoản nợ ngân hàng là 613 tỷ đô la, khoản nợ trái phiếu 155 tỷ đô la và tài
sản trị giá 639 tỷ đô la. Họ thông báo thêm rằng các cơng ty con của nó sẽ tiếp
tục hoạt động như bình thường.


Một nhóm các cơng ty ở Phố Wall đã đồng ý cung cấp vốn và hỗ trợ tài chính
để thanh lý ngân hàng một cách có trật tự và đến lượt Cục Dự trữ Liên bang,
đồng ý hoán đổi các tài sản có chất lượng thấp hơn để đổi lấy các khoản vay và
các hỗ trợ khác từ chính phủ. Buổi sáng chứng kiến cảnh các nhân viên của
Lehman dọn hồ sơ, vật phẩm có logo cơng ty và các đồ đạc khác khỏi trụ sở
chính trên thế giới tại 745 Đại lộ số 7. Cảnh tượng tiếp tục trong suốt cả ngày
và sang ngày hôm sau
2. Nguyên nhân thất bại:

a) Thiếu niềm tin:
Lehman thất bại vì khơng thể giữ được lòng tin của khách hàng, những người
cho vay và các đối tác của mình trong việc dịng tiền của cơng ty khơng có đủ
thanh khoản để đáp ứng các nghĩa vụ hiện tại của mình.
Lehman đã khơng thể duy trì niềm tin vì một loạt các quyết định kinh doanh đã
khiến nó tập trung nhiều tài sản kém thanh khoản với giá trị ngày càng giảm
như bất động sản nhà ở và thương mại vào thời điểm bấy giờ. Niềm tin càng bị
xói mịn khi người ta cơng khai rằng những nỗ lực hình thành quan hệ đối tác
chiến lược để củng cố sự ổn định của nó đã thất bại.
Và niềm tin đã giảm mạnh trong hai quý liên tiếp với những khoản lỗ khổng lồ
được báo cáo, 2,8 tỷ đô la trong quý hai năm 2008 và 3,9 tỷ đô la trong quý ba
năm 2008, mà không có tin tức về bất kỳ kế hoạch sống cịn nào.
Dẫn tới kể từ Từ tháng 9 năm 2008, các khách hàng của Lehman Brothers đã
lần lượt rút tiền khỏi tài khoản vì họ khơng cịn tin tưởng vào khả năng thanh
tốn cũng như trả lãi của cơng ty.
b) Khủng hoảng thế chấp dưới chuẩn:
Năm 2008, Lehman phải đối mặt với một tổn thất chưa từng có do cuộc khủng
hoảng thế chấp dưới chuẩn đang tiếp diễn. Khoản lỗ của Lehman là kết quả của
việc nắm giữ các vị thế lớn trong các khoản thế chấp dưới chuẩn và các khoản
thế chấp được xếp hạng thấp hơn khác khi chứng khốn hóa các khoản thế chấp
cơ bản; khơng rõ liệu Lehman chỉ đơn giản là không thể bán trái phiếu được
xếp hạng thấp hơn hay tự nguyện giữ chúng hay cũng là do niềm tin thấp của
khách hàng và đối tác kinh doanh tới hoạt động kinh doanh của công ty như đã
phân tích ở trên.
Trong bất kỳ trường hợp nào, các khoản lỗ lớn đã tích tụ trong các chứng
khoán bảo đảm bằng thế chấp được xếp hạng thấp hơn trong suốt năm 2008.
Trong quý tài chính thứ hai, Lehman đã báo cáo khoản lỗ 2,8 tỷ đô la và buộc
phải bán tài sản trị giá 6 tỷ đô la. Chỉ trong nửa đầu năm 2008, cổ phiếu
Lehman đã mất 73% giá trị do thị trường tín dụng tiếp tục thắt chặt.



c) Tự tin thái quá:
Công ty sử dụng các công cụ tài chính phức tạp dựa trên sự tăng trưởng nhanh
của bất động sản ngay khi thị trường bất động sản bắt đầu suy giảm. Từ năm
2000-2006, doanh thu của công ty đã tăng 130% nhờ những thành công ban
đầu với chứng khốn có thế chấp. Năm 2003- 2004, Lehman Brothers mua 5
công ty cho vay cầm cố, cho phép công ty này phát hành và bảo lãnh các khoản
vay dưới chuẩn, làm tăng khả năng sinh lời.
Trước sự thành công trong quá khứ, vào tháng 3/2006, Lehman đã mua rất
nhiều vào bất động sản thương mại và các khoản vay rủi ro và thay vì bán
chúng ngay lập tức, hãng vẫn giữ chúng trên sổ sách. Ban lãnh đạo mong đợi
rằng những bất động sản này sẽ mang lại lợi nhuận đáng để trong tương lai hay
nói cách khác việc sở hữu những tài sản này sẽ kiếm được nhiều tiền hơn
nhưng thay vì sự kiện diễn ra như mong đợi của Lehman thì sự kiện lại diễn ra
rất tồi tệ khi giá bất động sản đang giảm.
3. Gian lận kế toán được phát hiện:
Theo các cuộc điều tra sau này, đã được công bố bởi các cơ quan chức năng,
thì Lehman Brothers đã có những hành động gian lận trong kế toán để che giấu
đi những khoản nợ lớn và tăng lượng thu nhập của mình lên.
Một trong những thủ thuật gian lận đó là Repo 105
Repo 105 là một phương pháp giao dịch tài chính được sử dụng bởi Lehman
Brothers trước khi phá sản vào năm 2008. Phương pháp này cho phép Lehman
Brothers giấu các khoản nợ của mình khỏi báo cáo tài chính cơng khai.
Repo 105 là một giao dịch repo, nghĩa là Lehman Brothers đã bán các tài sản
như chứng khoán hoặc nợ đối với một nhà đầu tư khác với một cam kết mua lại
chúng với mức giá cao hơn trong tương lai.
Sau đó, Lehman Brothers sử dụng tiền thu được từ giao dịch này để trả các
khoản vay của mình. Tuy nhiên, thay vì báo cáo giao dịch như một khoản nợ,
Lehman Brothers đã ghi nhận nó như là một khoản bán trên báo cáo tài chính.
Điều này làm giảm tổng số nợ của Lehman Brothers và tạo ra một hình ảnh giả

mạo về sự khỏe mạnh tài chính của cơng ty.
Phương pháp Repo 105 đã được sử dụng để giúp Lehman Brothers có được các
chứng chỉ tín dụng từ các tổ chức đánh giá tín dụng, nhưng nó đã bị chỉ trích vì
là một hành động gian lận tài chính. Các quan chức Lehman Brothers đã thừa
nhận sử dụng phương pháp này và đã đồng ý trả 10 tỷ đô la để giải quyết các
vụ kiện liên quan đến Repo 105


Bảng 2: Bảng số liệu thể hiện tác động của Repo 105
Hệ số địn bẩy tài chính thuần

Thời gian

Repo 105
(tỷ USD)

Q4/2007

38,6

16,1

17,8

1,7

Q1/2008

49,1


15,4

17,3

1,9

Q2/2008

50,38

12,1

13,9

1,8

Sử
dụng Sử
dụng
Chênh lệch
Repo 105
Repo 105

Theo báo cáo điều tra, từ thời điểm giữa năm 2007 đến quí I năm 2008,
Lehman đã tăng cường sử dụng giao dịch Repo 105 trên hệ thống tồn cầu. Có
thời điểm giá trị tài sản mà Lehman đã “hô biến” khỏi bảng cân đối kế toán
nhằm giảm hệ số nợ lên đến gần 50 tỷ USD
Ngồi ra, Lehman Brothers cịn sử dụng thủ thuật khơng báo cáo các khoản tín
dụng đầu tư (CDO) và khối lượng rủi ro đang gánh chịu, cụ thể là Lehman
Brothers đã khơng báo cáo các khoản tín dụng đầu tư đắt đỏ và q tải, đặc biệt

là tín dụng đơ la Mỹ vì hầu hết các ngân hàng đã tránh loại tiền tệ này.
CDO (Collateralized Debt Obligation) là một loại chứng khoán phái sinh được
tạo ra từ việc kết hợp các khoản nợ khác nhau, chẳng hạn như khoản nợ thẻ tín
dụng, khoản nợ mua nhà và các khoản nợ khác. CDO đã được sử dụng rộng rãi
bởi Lehman Brothers trước khi phá sản vào năm 2008.
Lehman Brothers đã tạo ra các CDO bằng cách kết hợp các khoản vay thế chấp
thành các gói tài sản. Sau đó, cơng ty đã bán các CDO này cho các nhà đầu tư
khác, như các quỹ đầu tư và các ngân hàng đầu tư. Tuy nhiên, một số trong số
các khoản nợ được sử dụng để tạo ra các CDO của Lehman Brothers đã bị
thâm hụt hoặc không thể thu hồi được, khiến giá trị của các CDO giảm mạnh.
Sau khi Lehman Brothers phá sản vào năm 2008, giá trị của các CDO bị suy
giảm mạnh, gây ra những tác động lan rộng đến tồn bộ thị trường tài chính
tồn cầu. Các nhà đầu tư khác đã mất tiền và các ngân hàng và cơng ty tài
chính khác đã phải đối mặt với các khoản nợ và các vấn đề tài chính khác.
CDO của Lehman Brothers đã được xem là một trong những yếu tố dẫn đến
khủng hoảng tài chính tồn cầu năm 2008.
Đồng thời, Lehman Brothers cũng giấu tình trạng tài sản kém chất lượng của
mình khỏi các nhà đầu tư.
Làm giả tài sản thế chấp: Lehman Brothers đã đưa ra các khoản vay ảo hoặc
không giá trị được đảm bảo bởi các tài sản thế chấp. Điều này cho phép
Lehman Brothers "dành" danh mục tài sản thế chấp để báo cáo tài sản cao hơn


và ngược lại, thu hẹp khoản nợ để báo cáo tỷ lệ vốn để gây quỹ dự phòng thấp
hơn.
Lehman Brothers còn sử những thủ thuật khác để giấu nợ và tăng lợi nhuận
như:
Định giá (Valuation) : Lehman Brothers đã giảm giá trị các khoản đầu tư bất
động sản của mình vào cuối kỳ kế tốn để tạo ra hình ảnh rõ ràng hơn về rủi ro
với những khoản nợ này. Tuy nhiên, công ty này lại tăng giá trị của các khoản

đầu tư này vào đầu kỳ kế toán, để tăng lợi nhuận.
Cơ cấu tài chính (Structured Finance): Lehman Brothers cũng đã sử dụng các
cỗ máy tài chính phức tạp để giảm thiểu tác động của khoản nợ đối với các
bảng cân đối kế tốn của cơng ty. Cơng ty đã bán các khoản nợ cho các công ty
liên kết ngồi cơng ty và sau đó mua lại các khoản nợ này trong các giao dịch
trao đổi phức tạp. Mục đích của phương pháp này là để làm giảm khoản nợ báo
cáo, gây ra sự khác biệt lớn giữa báo cáo tài chính và giá trị thực tế của khoản
nợ.
Khơng thể thực hiện bán và chuyển nhượng: Lehman Brothers đã cho rằng một
số hợp đồng bán lại của công ty không thể được tái bán lại. Tuy nhiên, báo cáo
tài chính của cơng ty đã cho thấy rằng các khoản nợ này đã được bán và tái bán
nhiều lần, gây ra sự đánh giá sai lệch về giá trị.
Tóm lại, Lehman Brothers đã sử dụng nhiều thủ thuật gian lận kế toán để giảm
bớt sự ảnh hưởng của các khoản nợ trên các bảng cân đối kế tốn của cơng ty
và tạo ra sự khác biệt lớn giữa các báo cáo tài chính và giá trị thực tế của các
khoản nợ này. Kết quả là, những thủ thuật gian lận kế tốn đã góp phần gây ra
vụ phá sản Lehman Brothers và làm ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu. Vụ
việc đã khiến cho cơ quan chức năng đánh đổi và kết quả là một loạt quy định
mới trong ngành tài chính của Mỹ đã được ra đời.
Nhận xét: Qua vụ phá sản mang tính chất lịch sử của Lehman Brothers đã phơi
bày những lỗ hổng trong quản lý tài chính và giám sát của ngành ngân hàng.
Việc thực hiện gian lận kế toán để giảm bớt các khoản nợ đã gây ra thiệt hại vô
cùng lớn cho nền kinh tế tồn cầu và bóp méo hoạt động của ngành ngân hàng.
Điều này chỉ ra rằng cần phải có sự quản lý chặt chẽ và giám sát công bằng,
đặc biệt là trong ngành ngân hàng. Điều này sẽ đảm bảo rằng các hành vi lừa
đảo không được chấp nhận và không gây ra những thiệt hại nghiêm trọng cho
người tiêu dùng và nền kinh tế.

4. Ảnh hưởng của việc tuyên bố phá sản:



Cái chết đột ngột của “ ông lớn” Lehman gây ra nhiều ảnh hướng, nó làm cho
thị trường tài chính Mỹ nói riêng và thị trường tài chính tồn cầu nói chung
đang quay cuồng.
Vào thứ Hai ngày 15/9/2008, khi Lehman đệ đơn phá sản, thị trường chứng
khoán thế giới đồng loạt giảm giá do một làn sóng khủng hoảng niềm tin lan
rộng toàn cầu
Vào ngày 17/9/2008, sự sụp đổ lan rộng. Các nhà đầu tư đã rút kỷ lục 196 tỷ đô
la từ các tài khoản thị trường tiền tệ. Nếu tình trạng này tiếp tục diễn ra, các
doanh nghiệp sẽ không thể kiếm được tiền để tài trợ cho các hoạt động hàng
ngày. Chỉ trong vài tuần, nền kinh tế Mỹ sẽ sụp đổ. Ví dụ: người gửi hàng sẽ
khơng có tiền để giao thực phẩm cho các cửa hàng tạp hóa.
Vào ngày 18/9/2008, Bộ trưởng Paulson và Chủ tịch Fed Bernanke đã gặp các
nhà lãnh đạo quốc hộ Mỹ để giải thích rằng thị trường tín dụng chỉ còn vài
ngày nữa là sẽ xảy ra cuộc khủng hoảng. Họ yêu cầu khoản 700 tỷ đô la để bảo
lãnh các ngân hàng - điều này sẽ cho phép Bộ Tài chính mua cổ phần của các
ngân hàng gặp khó khăn. Bởi vì đó là cách nhanh nhất để bơm vốn vào hệ
thống tài chính bị đóng băng.

Vào ngày 29/9/2008, Quốc hội Mỹ đã bác bỏ đề xuất này. Điều đó đã khiến chỉ
số Dow giảm 777,68 điểm, mức giảm mạnh nhất trong lịch sử chứng khoán Mỹ
cho đến năm 2018
Sự sụt giảm tiếp tục cho đến ngày 5/3/2009, khi Dow đóng cửa ở mức 6.594,44
- mức giảm 53% so với mức đỉnh 14.164,53 vào ngày 10/10/2007.
Các nhà đầu tư chạy trốn đến khu vực tương đối an toàn là trái phiếu kho bạc
Hoa Kỳ, khiến nó tăng giá.. Đây cũng là là lúc chỉ số thị trường chứng khoán


của 30 công ty nổi bật được niêm yết trên các sàn giao dịch chứng khoán Hoa
Kỳ này giảm mạnh nhất kể từ khi thị trường mở cửa trở lại sau vụ khủng bố

911.
Bên cạnh đó một chỉ số thị trường phạm vị rộng hơn là S&P 500 cũng đã giảm
gần 5% vào cuối ngày này. Đặc biệt, khi Lehman thanh lý tài sản, tình hình
bán tháo chứng khốn khiến hàng loạt đối tác, nhà đầu tư nắm giữ trái phiếu và
cho vay hoặc các công cụ phái sinh với Lehman Brothers chịu tổn thất nặng nề.
Đơn cử cho sức ảnh hưởng này của ơng lớn trong ngành tài chính Lehman là cổ
phiếu của Tập đoàn Bảo hiểm American International Group (AIG) tuột dốc
không phanh với mức giảm lên đến 70%, còn 1,31 USD/cổ phiếu. Sự mất giá
liên tục này đã đẩy tập đoàn bảo hiểm khổng lồ AIG đến bờ vực sụp đổ. Chỉ
đến khi Chính phủ Mỹ đồng ý cứu AIG, các chỉ số chứng khoán Mỹ mới phục
hồi trở lại, thậm chí có lúc đạt mức tăng hơn 1%.
Tại Châu Âu, các thị trường chứng khoán đồng loạt giảm từ 3% đến 4,3%. Chỉ
số FTSE tại thị trường chứng khốn London - thị trường chính của Châu u
giảm gần 3%. Các thị trường chứng khoán của Pháp và Đức cũng giảm hơn
3%. Đặc biệt, hai thị trường chứng khốn chính của Nga đã phải tạm ngừng
hoạt động sau khi các chỉ số chứng khoán giảm lần lượt là 11% và 16%.
Các thị trường chứng khoán Châu Á cũng đều bị mất giá: chỉ số Nikkei-225
của Nhật Bản giảm 4,7% trong nửa giờ giao dịch đầu tiên, cổ phiếu của Hàn
Quốc giảm trung bình 5% chỉ trong 20 phút đầu, Hồng Kông, giá cổ phiếu lao
dốc đến 6,1%, Ấn Độ cũng giảm 5,6%,...
Tuy nhiên để mà nói Lehman Brothers sụp đổ chính là nguyên nhân chính gây
ra cuộc khủng hoảng, gây ra tất cả đau khổ sau đó thì khơng chính xác lắm.
C. KẾT LUẬN:
I. Hậu quả:
1. Kinh tế nước Mỹ:
Sự phá sản của Lehman Brothers vào tháng 9 năm 2008 được xem là sự kiện
kích hoạt cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu, gây ra hậu quả nghiêm trọng
đến nền kinh tế Hoa Kỳ và toàn cầu.
Cụ thể, phá sản của Lehman Brothers đã gây ra các vấn đề liên quan đến tài
chính và lưu thơng tiền tệ. Sự suy giảm đã làm sụt giảm các thị trường tài

chính, bao gồm cả thị trường chứng khốn và thị trường tiền tệ. Điều này dẫn
đến tình trạng mất giá của nhiều khoản đầu tư và giảm giá trị của các khoản tiết
kiệm., và dẫn đến những khó khăn cho các ngân hàng, tài chính và các doanh
nghiệp khác ở Hoa Kỳ và toàn cầu.


Sau đó, các quỹ đầu tư và ngân hàng đối phó với rủi ro tài chính cao, dẫn đến
những khoản thiệt hại lớn và sự suy giảm đáng kể của thị trường tài chính tồn
cầu.
Sự sụp đổ của Lehman Brothers cũng gây ra sự suy giảm của thị trường bất
động sản ở Hoa Kỳ, khiến cho giá trị của các tài sản bất động sản giảm mạnh
và các khoản vay liên quan đến bất động sản trở nên rủi ro hơn. Hậu quả là
nhiều người tiêu dùng và doanh nghiệp phải đối mặt với khoản nợ khó khăn và
cảnh báo phá sản.
Ngoài ra, phá sản của Lehman Brothers cũng gây ra mất việc làm, tạo khó khăn
tìm việc làm cho nhiều người dân Hoa Kỳ đặc biệt là ở các ngành liên quan đến
tài chính và bất động sản và suy giảm của hoạt động kinh tế. Nhiều doanh
nghiệp đã phải giảm thiểu nhân sự hoặc đóng cửa hồn tồn. Nền kinh tế Hoa
Kỳ cũng đã phải đối mặt với suy thoái kinh tế kéo dài trong nhiều năm, và cả
thế giới cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến tăng trưởng kinh tế và việc làm.
Và những hậu quả của vụ sụp đổ kinh hoàng 15 năm về trước vẫn còn tới tận
ngày nay.Chỉ riêng ở nước Mỹ, khoảng 1.400 tỷ USD sản lượng kinh tế đã mất
đi và mãi mãi không bao giờ lấy lại được – một mất mát mà đa phần là người
nghèo phải gánh chịu.
Tóm lại, sự phá sản của Lehman Brothers đã gây ra những hậu quả nghiêm
trọng đến nền kinh tế Hoa Kỳ và toàn cầu, và là một trong những sự kiện gây ra
cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu năm 2008.
2. Kinh tế thế giới:
sự kiện phá sản của lehman Brothers đã ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế
toàn cầu chỉ sau vài ngày họ tuyên bố phá sản.

Cụ thể, trong ngày 15 và 16-9, do ảnh hưởng dây chuyền, tất cả các sàn giao
dịch tại Châu Âu và những thị trường chứng khốn tại Châu Á khơng nghỉ Tết
Trung thu đều bị mất giá. Thị trường tài chính London giảm 3.37%, Paris giảm
4.47%, Đức giảm 3.18%,...
Các thị trường chứng khoán Nhật, Hồng Kơng, Hàn Quốc đóng cửa vì nghỉ lễ,
trong lúc đó Ấn Độ giảm 3.4%, Đài Loan giảm 4.1% và Singapore giảm 3.2%
Suy thối kinh tế tồn cầu: Sự phá sản Lehman Brothers đã kích hoạt cuộc
khủng hoảng tài chính tồn cầu, dẫn đến suy thối kinh tế lớn nhất từ đó đến
nay. Nhiều quốc gia trên thế giới đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng, với việc mất
việc làm, giảm sản xuất và tăng tỷ lệ thất thu của ngân sách. Trong đó, sự kiện
này đã làm giảm nghiêm trọng sự đầu tư trực tiếp vào Việt Nam từ các nhà đầu



×