Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

skkn nâng cao chất lượng môn ngữ văn bằng phương pháp sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (582.03 KB, 23 trang )

Trường THCS Thọ Nghiệp
THÔNG TIN VỀ SÁNG KIẾN
1.Tên sáng kiến:
Nâng cao chất lượng môn Ngữ văn bằng phương pháp sử dụng
Bản đồ tư duy trong dạy học.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn học Ngữ văn trong nhà trường
THCS.
3. Thời gian áp dụng sáng kiến:
Từ ngày 20 tháng 9 năm 2011 đến ngày 15 tháng 3 năm 2013.
4. Tác giả:
Họ và tên: Trần Văn Quang
Năm sinh: 1977
Nơi thường trú: Thọ Nghiệp - Xuân Trường - Nam Định.
Trình độ chuyên môn: Cử nhân cao đẳng.
Chức vụ công tác: Giáo viên
Nơi làm việc: Trường THCS Thọ Nghiệp - Xuân Trường - Nam
Định.
Địa chỉ liên hệ: Trường THCS Thọ Nghiệp - Xuân Trường - Nam
Định.
Điện thoại: 03503750331
5. Đồng tác giả: Tham khảo tài liệu về phương pháp dạy học bằng
bản đồ tư duy, thư vện violet và tư liệu của đồng nghiệp.
Họ và tên:
Năm sinh:
Nơi thường trú:
Trình độ chuyên môn:
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn Giáo viên: Trần Văn Quang
1
Trường THCS Thọ Nghiệp
Chức vụ công tác:
Nơi làm việc:


Địa chỉ liên hệ:
Điện thoại:
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Tên đơn vị: Trường THCS Thọ Nghiệp - Xuân Trường - Nam Định.
Địa chỉ: Xóm 10 xã Thọ Nghiệp, huyện Xuân Trương, tỉnh Nam
Định.
Điện thoại: 03503886382
ĐẶT VẤN ĐỀ
Dạy học nói chung, dạy Ngữ văn nói riêng, điều quan trong nhất là
làm thức dậy được tình yêu, niềm say mê đối với môn học. Hiện nay,
tri thức trong các môn học ở hầu hết các cấp học đang trở lên quá tải
với cả giáo viên và học sinh, điều này đã tạo ra hàng loạt những áp
lực và nghịch lý: Thời gian có hạn mà kiến thức thì vô cùng; môn học
thì quá tải mà sức học của học sinh có hạn. Những nghịch lý trên là
những rào cản làm người dạy và người học đều thấy nản lòng. Vậy
làm thế nào để có thể hạn chế được các rào cản trên? Trong giờ giảng
Ngữ văn, vấn đề không chỉ là ngôn ngữ, lời bình của người thầy mà
còn đòi hỏi phương pháp dạy học của người thầy. Phương pháp dạy
học là một trong những yêu cầu quan trọng đối với sự thành công
trong giờ giảng dạy của giáo viên, học tập của học sinh. BĐTD ( Bản
đồ tư duy) là một trong những phương pháp dạy học tương đối hiệu
quả. Phương pháp dạy học bằng BĐTD không chỉ giải quyết được
vấn đề quá tải đối với kiến thức, đơn giản hóa kiến thức của môn học
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn Giáo viên: Trần Văn Quang
2
Trường THCS Thọ Nghiệp
mà nó còn giúp học sinh có khả năng nhớ kiến thức lâu hơn, tránh sự
nhàm chán đối với môn học, đặc biệt là bộ môn Ngữ văn.
I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM:

1. Cơ sở lí luận:
Ngữ văn là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội. Đây là môn
học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư
duy của con người. Đồng thời môn học này có tầm quan trọng trong
việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Mặt khác
nó cũng là môn học thuộc nhóm công cụ, môn văn còn thể hiện rõ
mối quan hệ với rất nhiều các môn học khác trong các nhà trường phổ
thông. Học tốt môn văn sẽ tác động tích cực tới các môn học khác và
ngược lại, các môn học khác cũng góp phần học tốt môn Ngữ văn.
Điều đó đặt ra yêu cầu tăng cường tính thực hành, giảm lí thuyết, gắn
học với hành, gắn kiến thức với thực tiễn hết sức phong phú, sinh
động của cuộc sống. Thế hệ học sinh ngày nay rất ít em có thiện chí,
hứng thú trong việc học môn Ngữ văn, chưa nắm được vai trò quan
trọng của môn Ngữ văn đối với đời sống và trong sự phát triển tư duy
của con người. Vì thế đổi mới phương pháp, cách thức tổ chức vừa
hiệu quả vừa tạo được hứng thú cho học sinh đối với môn Ngữ văn là
rất cần thiết.
2. Cơ sở thực tiễn:
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn Giáo viên: Trần Văn Quang
3
Trường THCS Thọ Nghiệp
Năm học 2011 - 2012 là năm học Bộ giáo dục và đào tạo tiếp tục
đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học
ngữ văn trong các nhà trường phổ thông. Một trong những phương
pháp dạy học mới và hiện đại nhất được đưa vào là phương pháp dạy
học bằng bản đồ tư duy (BĐTD) - một phương pháp dạy học mới
đang được rất nhiều nước trên thế giới áp dụng. Qua việc tìm hiểu và
vận dụng phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy, tôi nhận thấy
phương pháp dạy học này rất có hiệu quả trong công tác giảng dạy và
học tập của học sinh. Bước đầu đã giảm bớt được tâm lý ngại học văn,

khơi gợi trong học sinh tình yêu đối với môn học, đồng thời đem đến
cho các em cái nhìn mới, tư duy mới về môn học Ngữ văn. Vậy thế
nào là phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy? Cần sử dụng bản đồ
tư duy như thế nào để nâng cao chất lượng trong các giờ học văn? Đó
là những vấn đề tôi muốn cùng được chia sẻ với các đồng nghiệp
trong sáng kiến kinh nghiệm này .
Bản đồ tư duy là hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để
mở rộng và đào sâu các ý tưởng. BĐTD một công cụ tổ chức tư duy
nền tảng, có thể miêu tả nó là một kĩ thuật hình họa với sự kết hợp
giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt
động và chức năng của bộ não, giúp con người khai thác tiềm năng
vô tận của bộ não.
BĐTD giúp học sinh có được phương pháp học hiệu quả hơn:
Việc rèn luyện phương pháp học tập cho HS không chỉ là một biện
pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Thực tế
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn Giáo viên: Trần Văn Quang
4
Trường THCS Thọ Nghiệp
cho thấy một số học sinh học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém, các
em thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên phần trước
và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng
kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Phần lớn số học sinh
khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép
để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Sử
dụng thành thạo BĐTD trong dạy học sẽ gúp học sinh có được
phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển
tư duy.
BĐTD - giúp học sinh học tập một cách tích cực. Một số kết quả
nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in
đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ

của mình vì vậy việc sử dụng BĐTD giúp học sinh học tập một cách
tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não.
II. THỰC TRẠNG:
1. Thực trạng của việc học văn hiên nay:
Nhà văn hoá lớn của nhân loại Lê-nin từng nói:"Văn học là nhân
học" vậy mà một thực trạng đáng lo ngại là học sinh bây giờ không
còn thích học văn. Thực trạng này lâu nay đã được báo động. Ban đầu
chỉ đơn thuần là những lời than thở với nhau của những người trực
tiếp giảng dạy môn Ngữ văn và nay đã trở thành vấn đề của báo chí
và dư luận. Ai đã trực tiếp dạy và chấm bài làm văn của học sinh
trong những năm gần đây mới thấy cần thiết phải có những thay đổi
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn Giáo viên: Trần Văn Quang
5
Trường THCS Thọ Nghiệp
về phương pháp dạy văn và học văn hiện nay. Qua công tác giảng dạy
cũng như chấm trả các bài kiểm tra Ngữ văn, tôi nhận thấy có rất
nhiều những biểu hiện thể hiện tâm lý chán học văn của học sinh, cụ
thể là:
- Học sinh thờ ơ với Văn: Những năm gần đây, nhiều người quan
tâm đến công tác giáo dục không khỏi lo ngại trước một thực trạng,
đó là tâm lý thờ ơ với việc học văn ở các trường phổ thông. Điều đáng
buồn nhất cho các giáo viên dạy văn là nhiều học sinh có năng khiếu
văn cũng không muốn tham gia đội tuyển văn. Các em còn phải dành
thời gian học các môn khác. Phần lớn phụ huynh khi đã định hướng
cho con mình sẽ thi khối A thì chỉ chủ yếu chú trọng ba môn: Toán,
Lý, Hóa. Điều đáng lo ngại hơn nữa, là có không ít phụ huynh đã
chọn hướng cho con thi khối A từ khi học tiểu học. Một bậc học mà
học sinh còn đang được rèn nói, viết, mới bắt đầu làm quen với những
khái niệm về từ ngữ mà đã định hướng khối A thì thật là nguy hại.
- Kỹ năng trình bày: Khi HS tạo lập một văn bản giáo viên có thể

dễ dàng nhận ra những lỗi sai cơ bản của học sinh như: dùng từ sai,
viết câu sai, viết chính tả sai, bố cục và lời văn hết sức lủng củng,
thiếu logic. Đặc biệt có những bài văn diễn đạt ngô nghê, tối nghĩa,
lủng củng Đây là một tình trạng đã trở nên phổ biến và thậm chí là
đáng báo động trong xã hội ta.
Mục tiêu của bậc học phổ thông là đào tạo con người toàn diện,
nhưng thực tế hiện nay cho thấy, các bộ môn khoa học xã hội thường
bị học sinh xem nhẹ, mặc dù kiến thức của các bộ môn này vô cùng
quan trọng cho tất cả mọi người. Muốn khôi phục sự quan tâm của xã
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn Giáo viên: Trần Văn Quang
6
Trường THCS Thọ Nghiệp
hội đối với các bộ môn khoa học xã hội, không thể chỉ bằng biện pháp
kêu gọi mà chúng ta phải tích cực đổi mới phương pháp dạy học văn,
khơi gợi lại hứng thú học văn của học sinh, hình thành cho các em
phương pháp học văn hiệu quả nhất.
2. Nguyên nhân:
a. Đối với người dạy: Đa số giáo viên đều có tình yêu nghề, mến trẻ,
tận tụy với công tác giảng dạy, chăm lo quan tâm đến học sinh. Tuy
nhiên, vẫn còn những mặt hạn chế sau :
- Phương pháp giảng dạy chưa thực sự phù hợp với một bộ phận
không nhỏ học sinh yếu kém dẫn đến chất lượng chưa cao.
- Do điều kiện khách quan nên việc sử dụng đồ dùng dạy học, phương
pháp trực quan vào tiết học hạn chế, nội dung kiến thức SGK nhiều
ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy của giáo viên, việc tiếp thu bài
học của học sinh cũng bị hạn chế.
- Một số giáo viên chưa thực sự tâm huyết với nghề, chưa khơi gợi
được mạch nguồn cảm xúc ẩn sau mỗi trái tim người học.
- Đời sống giáo viên còn nhiều khó khăn, đầu tư ngân sách cho các
hoạt động giáo dục của nhà trường còn hạn chế, các tiêu chí thi đua đề

ra quá cao, không có tính thực thi vì thế không phát huy hết được nội
lực của giáo viên.
b. Đối với học sinh:
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn Giáo viên: Trần Văn Quang
7
Trường THCS Thọ Nghiệp
- Một số học sinh vì lười học, chán học mải chơi, không tập trung
nghe giảng, lười suy nghĩ, hổng kiến thức nên không chủ động, tích
cực và có tâm thế tốt cho giờ học Ngữ văn.
- Địa phương xã Thọ Nghiệp thuộc vùng kinh tế còn khó khăn, hầu
hết phụ huynh đều đi làm ăn xa, con cái đông, ít có thời gian quan tâm
kèm cặp con em mình. Bản thân các em còn phải phụ giúp gia đình
ngoài giờ lên lớp, không có thời gian học.
- Đời sống văn hóa tinh thần ngày một nâng cao, một số nhu cầu giải
trí như xem ti vi, chơi game, chat, học sinh tụ tập chơi bời… ngày
càng nhiều làm cho một số em chưa có ý thức học bị lôi cuốn, sao
nhãng việc học tập.
III. CÁC GIẢI PHÁP
A. Bản chất phương pháp dạy học bằng BĐTD:
BĐTD là kĩ thuật dạy học tổ chức và phát triển tư duy giúp người
học chuyển tải thông tin vào bộ não rồi được thông tin ra ngoài bộ não
một cách dễ dàng, đồng thời là phương tiện ghi chép sáng tạo và hiệu
quả, mở rộng, đào sâu và kết nối các ý tưởng, bao quát được các ý
tưởng trên phạm vi sâu rộng. Dạy học bằng Bản đồ tư duy - một giải
pháp góp phần đổi mới cơ bản giáo dục.
1. BĐTD tận dụng được các nguyên tắc của trí nhớ siêu đẳng:
a. Sự hình dung: BĐTD có rất nhiều hình ảnh để bạn hình dung về
kiến thức cần nhớ. Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn Giáo viên: Trần Văn Quang
8

Trường THCS Thọ Nghiệp
nhất của trí nhớ siêu đẳng. Đối với não bộ, BĐTD giống như một
bức tranh lớn đầy hình ảnh màu sắc phong phú hơn là một bài học
khô khan, nhàm chán.
b. Sự liên tưởng, tưởng tượng: BĐTD hiển thị sự liên kết giữa các ý
tưởng một cách rất rõ ràng. Đặc biệt là khả năng khái quát và hệ
thống hóa kiến thức.
c. Làm nổi bật sự việc: Thay cho những từ ngữ tẻ nhạt đơn điệu, Sơ
BĐTD cho phép giáo viên và học sinh làm nổi bật các ý tưởng trọng
tâm bằng việc sử dụng những màu sắc, kích cỡ, hình ảnh đa dạng.
Hơn nữa, việc BĐTD dùng rất nhiều màu sắc khiến giáo viên và học
sinh phải vận dụng trí tưởng tượng sáng tạo đầy phong phú của mình.
Nhưng đây không chỉ là một bức tranh đầy màu sắc sặc sỡ thông
thường, BĐTD giúp tạo ra một bức tranh mang tính lý luận, liên kết
chặt chẽ về những gì được học.
2. BĐTD sử dụng cả hai bán cầu não cùng một lúc: BĐTD thật sự
giúp bạn tận dụng các chức năng của não trái lẫn não phải khi học.
Đây chính là công cụ học tập vận dụng được sức mạnh của cả bộ não.
Nếu vận dụng đúng cách, nó sẽ hoàn toàn giải phóng những năng lực
tiềm ẩn trong bạn, đưa bạn lên một đẳng cấp mới, đẳng cấp của một
tài năng thực thụ hay thậm chí của một thiên tài.
B. Vận dụng BĐTD trong quá trình dạy học Ngữ văn:
1. Giáo viên sử dụng BĐTD để hỗ trợ quá trình dạy học:
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn Giáo viên: Trần Văn Quang
9
Trường THCS Thọ Nghiệp
- Dùng BĐTD để dạy bài mới: Giáo viên đưa ra một từ khoá để nêu
kiến thức của bài mới rồi yêu cầu học sinh vẽ BĐTD bằng cách đặt
câu hỏi, gợi ý cho các em để các em tìm ra các tự liên quan đến từ
khoá đó và hoàn thiện BĐTD. Qua BĐTD đó học sinh sẽ nắm được

kiến thức bài học một cách dễ dàng.
- Ví dụ 1: Với văn bản: “Thầy bói xem voi” (Môn Ngữ văn lớp 6), sau
phần đọc và tìm hiểu chung, giáo viên có thể vẽ mô hình BĐTD lên
bảng. BĐTD gồm 5 nhánh chính, ở mỗi nhánh có thể phân thành
nhiều nhánh nhỏ tuỳ thuộc vào nội dung, kiến thức của bài học.
Để có thể hoàn thiện được mô hình BĐTD của bài học, giáo viên sử
dụng hệ thồng câu hỏi định hướng để khai thác kiến thức:
+ Bố cục của văn bản: Học sinh sẽ dựa vào văn bản để xác định các ý
chính (Hoàn cảnh các thầy bói xem voi, cách xem voi, các thầy nhận
xét về con voi, hậu quả.)
+ Tiếp tục hoàn thành các nhánh của BĐTD bằng hệ thống câu hỏi
nhỏ có tính gợi mở (các thầy xem voi trong hoàn cảnh nào, cách xem
voi của các thầy ra sao, ) từ đó rút ra nhận xé về kết quả của cách
xem voi phiếm diện để khái quát thành bài học về cách nhìn nhận
đánh giá sự vật, hiện tượng…
Sơ đồ minh hoạ
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn Giáo viên: Trần Văn Quang
10
Trường THCS Thọ Nghiệp

Bản đồ tư duy văn bản: Thầy bói xem voi - Ngữ
văn 6
- Ví dụ 2: Khi học bài “So sánh” (Môn Ngữ văn lớp 6), đầu tiết
học, giáo viên có thể kiểm tra sự chuẩn bị bài ở nhà của học sinh, sau
đó dẫn dắt vào bài học. Giáo viên ghi nhan đề bài học lên bảng, khái
quát lại các phương diện kiến thức cần tìm về các phép tu từ đã học ở
tiết học trước.
- Ở tiết học So sánh này ta cũng tìm hiểu kiến thức qua các
phương diện: Khái niệm, cấu tạo, tác dụng và các kiểu so sánh.
- Từ việc khái quát kiến thức cơ bản về So sánh, Giáo viên lần

lượt hoàn thiện BĐTD trên bảng thông qua ngữ liệu mẫu SGK. Việc
hoàn thiện BĐTD phải có sự phối hợp giữa giáo viên và học sinh.
Giáo viên đưa ra các tình huống bằng hệ thống câu hỏi phát hiện, gợi
mở, khái quát… Học sinh tham gia tích cực vào các hoạt động dạy
học do giáo viên tổ chức: cá nhân, nhóm, thảo luận…
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn Giáo viên: Trần Văn Quang
11
Trường THCS Thọ Nghiệp
- Cùng với giáo viên, học sinh cũng lần lượt hoàn thành BĐTD
vào vở ghi. Để kiến thức bài học được chi tiết, dễ hiểu, giáo viên có
thể hướng dẫn học sinh tiếp tục trẻ nhỏ thêm các nhánh trên BĐTD.
Sơ đồ minh hoạ
Bản đồ tư duy bài “So sánh” - Ngữ Văn 6
- Có thể dùng BĐTD để củng cố kiến thức sau mỗi tiết học và hệ
thống kiến thức sau mỗi chương, phần…: Sau mỗi bài học, giáo
viên hướng dẫn, gợi ý để học sinh tự hệ thống kiến thức trọng tâm,
kiến thức cần nhớ của bài học bằng cách vẽ BĐTD. Mỗi bài học được
vẽ kiến thức trên một trang giấy rời rồi kẹp lại thành tập. Việc làm
này sẽ giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần một cách
nhanh chóng, dễ dàng.
- Ví dụ 1: Ở lớp 9, trong bài “ Tổng Kết ngữ pháp”, học sinh có thể dễ
dàng tổng hợp kiến thức về từ loại tiếng Việt bằng BĐTD dựa vào
tập BĐTD đã có về từ loại đã học ở lớp dưới. Đặc trưng của tiết học
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn Giáo viên: Trần Văn Quang
12
Trường THCS Thọ Nghiệp
này là ôn tập, khái quát lại kiến thức đã học vì vậy BĐTD sẽ giúp các
em có cái nhìn tổng quát hơn về từ ngữ tiếng Việt. Việc sử dụng
BĐTD trong tiết tổng kết văn học nói chung, trong phân môn tiếng
Việt nói riêng không chỉ có tác dụng khái quát hóa kiến thức mà còn

giúp củng cố kỹ năng nhận biết và kỹ năng thực hành. Tổng kết ngữ
pháp ở lớp 9 được coi là giờ thực hành. Vì vậy giáo viên cần linh hoạt
trong việc tổ chức các hình thức học tập. Với kiểu bài này, giáo viên
nên tạo ra các nhóm học tập thực hiện việc vẽ BĐTD, sau đó đại diện
các nhóm trình bày bài làm của nhóm mình, các nhóm khác nhận xét,
góp ý, bổ sung thêm cho bài làm. Cuối cùng giáo viên chốt lại kiến
thức.
Sơ đồ minh hoạ
Bản đồ tư duy bài “Tổng kết ngữ pháp”- Ngữ văn 9
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn Giáo viên: Trần Văn Quang
13
Trường THCS Thọ Nghiệp
- Ví dụ 2: BĐTD khi tìm hiểu tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn
Du:
Giáo viên định hướng để học sinh khai thác kiến thức của bài học
bằng hệ thống câu hỏi gợi mở. Trên cơ sở đó hình thành và củng cố
kiến thức cho học sinh bằng BĐTD. Hệ thống kiến thức của bài học
bao gồm:
a. Tác giả bao gồm: Tiểu sử (thân thế, gia đình), cuộc đời, sự nghiệp
sáng tác
b. Tác phẩm:
+ Các tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Du ở cả hai thành phần chữ
(chữ Hán và chữ Nôm gồm cả thơ và truyện)
+ Thời gian và hoàn cảnh sáng tác, nguồn gốc của tác phẩm; đồng
thời giáo viên gúp học sinh hiểu được vì sao Truyện Kiều có nguồn
gốc từ Trung Quốc mà vẫn được coi là tác phẩm văn học Việt Nam;
tại sao Truyện Kiều được viết bằng những câu thơ lục bát mà vẫn
được coi là một tác phầm truyện…
+ Tóm tắt Truyện Kiều: Bố cục của Truyện Kiều (Gặp gỡ và đính
ước; gia biến và lưu lạc. đoàn tụ)

+ Giá trị của Truyện Kiều: Giá trị nội dung (gái trị hiện thực, giá trị
nhân đạo); giá trị nghệ thuật của truyện.
Sơ đồ minh hoạ
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn Giáo viên: Trần Văn Quang
14
Trường THCS Thọ Nghiệp

Đây là những hình ảnh được vẽ bằng phần mềm Mindmap mà tôi
tham khảo từ đồng nghiệp trên thư viện violet. Việc sử dụng phần
mềm Mindmap không dễ, tuy nhiên chúng ta có thể đơn giản hóa
phương pháp trên qua sơ đồ hình nan quạt, xương cá, mô hình…Việc
sơ đồ hóa kiến thức trong tiết dạy Ngữ văn chắc chắn sẽ gúp học sinh
nhớ kiến thức lâu hơn, hệ thống hơn. Đối với phân môn Tập làm văn
BĐTD hay sơ đồ có thể coi là một dàn ý sơ lược của một đề bài cụ
thể.
2. Học sinh học tập độc lập, sử dụng BĐTD để hỗ trợ học tập,
phát triển tư duy lôgic.
- Học sinh tự có thể sử dụng BĐTD để hỗ trợ việc tự học ở nhà: Tìm
hiểu trước bài mới, củng cố, ôn tập kiến thức bằng cách vẽ BĐTD
trên giấy, bìa… hoặc để tư duy một vấn đề mới. qua đó phát triển khả
năng tư duy lôgic, củng cố khắc sâu kiến thức, kĩ năng ghi chép.
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn Giáo viên: Trần Văn Quang
15
Trường THCS Thọ Nghiệp
3. Một số biện pháp ứng dụng BĐTD trong đổi mới phương pháp
dạy học môn Ngữ văn
* BĐTD giúp HS học được phương pháp học: Việc rèn luyện
phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng
cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy
một số học sinh học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém, nhất là môn

toán, các em này thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã
quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không
biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Phần
lớn số học sinh này khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết
cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ
của mình. Sử dụng thành thạo BĐTD trong dạy học học sinh sẽ học
được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát
triển tư duy.
* BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực:
- Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu
sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ
ra theo ngôn ngữ của mình vì vậy việc sử dụng BĐTD giúp học sinh
học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não.
- Việc học sinh tự vẽ BĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng
tạo của học sinh, phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của học sinh,
các em tự do chọn màu sắc (xanh, đỏ, vàng, tím,…), đường nét (đậm,
nhạt, thẳng, cong…), các em tự “sáng tác” nên trên mỗi BĐTD thể
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn Giáo viên: Trần Văn Quang
16
Trường THCS Thọ Nghiệp
hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng học sinh và
BĐTD do các em tự thiết kế nên các em yêu quí, trân trọng “tác
phẩm” của mình.
IV. HIỆU QUẢ DO SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐEM LẠI:
1 - Hiệu quả kinh tế:
- BĐTD rất hữu hiệu cho người học khi lập kế hoạch, dự án, có thói
quen tính toán tỉ mỉ trước khi bắt tay vào công việc. Nó cho người học
một cái nhìn tổng thể, cách đánh giá khách quan. Nếu một người nào
đó đang một dự án kinh doanh thì đừng quên sử dụng BĐTD khi làm
việc.

- Khi chúng ta chưa định hướng được kế hoạch rõ ràng, vẫn chỉ là
những ý tưởng, sử dụng phương pháp BĐTD chắc chắn sẽ thành
công.
- Khi ta bắt đầu cho một dự án kinh doanh khởi nghiệp, ta phải lo quá
nhiều việc một lúc. Có khi nào ta nản trí vì đuối sức? BĐTD sẽ giúp
bạn tư duy thông suốt và biết sắp xếp công việc theo một trật tự ngay
từ đầu.
2 - Hiệu quả về mặt xã hội:
- Việc sử dụng BĐTD giúp giáo viên đổi mới phương pháp dạy học,
giúp học sinh học tập tích cực đó chính là một trong những cách làm
thiết thực triển khai nội dung dạy học có hiệu quả - nội dung quan
trọng nhất trong năm nội dung của phong trào thi đua “Xây dựng
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn Giáo viên: Trần Văn Quang
17
Trường THCS Thọ Nghiệp
Trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ Giáo dục và Đào tạo
phát động.
- Sử dụng thành thạo và hiệu quả Bản đồ Tư duy trong dạy học sẽ
mang lại nhiều kết quả tốt và đáng khích lệ trong phương thức học tập
của học sinh và phương pháp giảng dạy của giáo viên. Học sinh sẽ
học được phương pháp học tập, tăng tính chủ động, sáng tạo và phát
triển tư duy. Giáo viên sẽ tiết kiệm được thời gian, tăng sự linh hoạt
trong bài giảng, và quan trọng nhất sẽ giúp học sinh nắm được kiến
thức thông qua một “bản đồ” thể hiện các liên kết chặt chẽ của tri
thức.
- Sau một thời gian ứng dụng BĐTD trong đổi mới phương pháp dạy
học nói chung và đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói
riêng, tôi thấy bước đầu có những kết quả khả quan. Tôi đã nhận thức
được vai trò tích cực của ứng dụng BĐTD trong hỗ trợ đổi mới
phương pháp dạy học. Biết sử dụng BĐTĐ để dạy bài mới, củng cố

kiến thức bài học, tổng hợp kiến thức chương, phần. Học sinh hiểu
bài nhanh hơn, hiệu quả hơn. Đa số các em học sinh khá, giỏi đã biết
sử dụng BĐTD để ghi chép bài, tổng hợp kiến thức môn học. Một số
học sinh trung bình đã biết dùng BĐTD để củng cố kiến thức bài học
ở mức đơn giản. Đối với môn Ngữ văn, học sinh rất hào hứng trong
việc ứng dụng BĐTD để ghi chép bài nhanh, hiệu quả, đặc biệt là
trong học tiếng Việt.
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn Giáo viên: Trần Văn Quang
18
Trường THCS Thọ Nghiệp
* Thực tế kết quả kiểm tra hết học kỳ I năm học 2011 - 2012 cho thấy
môn Ngữ văn khối 8 nói riêng và chất lượng môn văn của nhà trường
nói chung đã có nhiều chuyển biến tích cực. Cụ thể là:
- Môn Ngữ văn 6 đạt 80 % xếp thứ 8/21 đơn vị
- Môn Ngữ văn 7 đạt 89% xếp thứ 5/21 đơn vị trường.
- Môn Ngữ văn 8 đạt 95 % xếp thứ 4/ 21 đơn vị trường.
- Môn Ngữ văn 9 đạt 82 % xếp thứ 7/21 đơn vị trường. Riêng phòng
chấm chéo huyện đạt 86 % xếp thư 4/21 đơn vị trường. Đó là những
kết quả rất khả thi nhờ áp dụng phương pháp dạy học bằng BĐTD
trong dạy học Ngữ văn.
* Năm học 2012 – 2013, chất lượng môn Ngữ văn của nhà trường
tiếp tục được nâng lên. Đặc biệt là đối với bộ môn Ngữ văn 9, cụ thể
là:
+ Giữa học kỳ I xếp chung thứ 1/21 đơn vị, trong đó lớp 9A xếp thứ
3/72 lớp, 9B xếp thứ 5/72 lớp, 9C xếp thứ 32/72 lớp, 9D xếp thứ
22/72 lớp
+ Học kỳ I xếp chung thứ 6/21 đơn vị, trong đó lớp 9A: 3/72, 9B:
34/72, 9C: 46/72
+ Giữa học kỳ II xếp chung thứ 1/21 đơn vị, trong đó lớp 9A: 4/68,
9B: 25/68, 9C: 34/68, 9D: 21/68.

Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn Giáo viên: Trần Văn Quang
19
Trường THCS Thọ Nghiệp
* Chất lượng môn Ngữ văn của nhà trường trong những năm qua
tương đối ổn định và có chuyển biến theo chiều hướng tích cực.
V. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ:
- Đối với phụ huynh
Quan tâm hơn đến việc học hành của con em mình, đầu tư nhiều
về thời gian cho con cái học tập, thường xuyên động viên nhắc nhở
con em mình ý thức tự giác học tập rèn luyện.
Hướng dẫn và tạo cho con thói quen đọc sách; chia sẻ tư vấn, định
hướng, bồi dưỡng tâm hồn cho con em mình thông qua những câu
chuyện, bộ phim hay hoặc những phóng sự, bài viết… Dần hình thành
cho các em thói quen tư duy logic.
Phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với giáo viên bộ môn và giáo
viên chủ nhiệm để tìm hiểu, nắm bắt kịp thời tình hình học tập của
con em mình.
- Đối với các cấp quản lí giáo dục
Tổ chức hội thảo chuyên đề cho giáo viên bộ môn Ngữ văn trong
từng học kỳ, từng năm để giáo viên có cơ hội được học tập, trao đổi
kinh nghiệm, bàn luận tìm ra phương pháp dạy học hiệu quả, góp
phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn Ngữ văn.
Có kế hoạch tham mưu với cấp trên về chế độ đãi ngộ hợp lí đối
với giáo viên có chất lượng cao, phương pháp dạy học tốt.
Có kế hoạch bổ sung đồ dùng thiết bị dạy học, đặc biệt là đầu tư
công nghệ thông tin để hỗ trợ cho giáo viên giảng dạy.
- Đối với địa phương
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn Giáo viên: Trần Văn Quang
20
Trường THCS Thọ Nghiệp

Tích cực tuyên truyền về vai trò của giáo dục đối với bản thân và
sự phát triển đất nước. Động viên phong trào khuyến học, khuyến
tài… Quan tâm nhiều hơn đến phong trào giáo dục, chất lượng giáo
dục ở địa phương .
Tôi hy vọng rằng, trong những năm học tới phòng giáo dục đào
tạo sẽ tiếp tục tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn hiệu quả hơn,
tổ chức kiểm tra đánh giá nghiêm túc, chặt chẽ hơn nữa để đưa
phong trào giáo dục của huyện nhà có được những kết quả tốt nhất,
xứng đáng với miền đất học Xuân Trường.
Xin trân trọng cảm ơn!
Thọ Nghiệp ngày 15 tháng 4 năm 2013
Người viết
sáng kiến:
Trần Văn
Quang
CƠ QUAN ĐƠN VỊ
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
(xác nhận, đánh giá, xếp loại)
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn Giáo viên: Trần Văn Quang
21
Trường THCS Thọ Nghiệp
(ký tên, đóng dấu)
PHÒNG GIÁO DỤC ĐÀO - TẠO
(xác nhận, đánh giá, xếp loại)
Tài liệu tham khảo
1. Trần Đình Châu, Sử dụng bản đồ tư duy – một biện pháp hiệu quả
hỗ trợ học sinh học tập môn toán- Tạp chí Giáo dục, kì 2- tháng
9/2009.
2. Trần Đình Châu, Đặng Thị Thu Thủy, Sử dụng bản đồ tư duy góp
phần TCH HĐ học tập của HS, Tạp chí Khoa học giáo dục, số chuyên

đề TBDH năm 2009.
3. Tony Buzan - Bản đồ Tư duy trong công việc – NXB Lao động –
Xã hội.
4. Stella Cottrell (2003), The study skills handbook (2
nd
edition),
PalGrave Macmillian.
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn Giáo viên: Trần Văn Quang
22
Trường THCS Thọ Nghiệp
5. www.mind-map.com (trang web chính thức của Tony Buzan).
6. Tài liệu tập huấn chuyên môm do phòng giáo dục đào tạo tổ chức.
7. Tham khảo nhóm Ngữ văn 9 trường THCS Thọ Nghiệp - Xuân
Trường - Nam Định.
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn Giáo viên: Trần Văn Quang
23

×