Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Một số giải pháp tư vấn tâm lý nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục cho học sinh lớp chủ nhiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.74 MB, 64 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT……………………………………………………………………………………………..
Phần I. ĐẶT VẤN ĐỀ ...............................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu .........................................................................................................1
3. Nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................................................2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .....................................................................................2
5. Phương pháp nghiên cứu...................................................................................................2
6. Tính mới của đề tài ...........................................................................................................2
7. Những đóng góp của đề tài ...............................................................................................3
Phần II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ........................................................................................3
1.Cơ sở lý luận ......................................................................................................................3
1.1. Một số khái niệm cơ bản ...........................................................................................3
1.2. Vai trò của tư vấn học đường. ...................................................................................5
1.3. Các nội dung của tư vấn học đường. .........................................................................5
1.4. Đối tượng cần tư vấn học đường. ..............................................................................6
1.5. Giáo viên chủ nhiệm với công tác tư vấn tâm lý cho học sinh. .................................6
2. Cơ sở thực tiễn ..................................................................................................................8
2.1. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm .............................8
2.2. Những thuận lợi và khó khăn trong việc tư vân tâm lý lứa tuổi học sinh THPT ....11
2.3. Khảo sát thực trạng học sinh cần được tư vấn tâm lý tại trường THPT Đô Lương 2
........................................................................................................................................12
3. Giải pháp tư vấn tâm lý nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục ............................................12
3.1. Giải pháp 1: Tìm hiểu tâm sinh lý, điều kiện học tập và mong muốn của học sinh.
........................................................................................................................................12
3.2. Giải pháp 2: Phân loại và tổ chức tư vấn tâm lý theo nhóm học sinh .....................16
3.3. Giải pháp 3: Tổ chức các hoạt động giáo dục xây dựng tập thể lớp gắn bó và chia sẻ.
........................................................................................................................................32
3.4. Giải pháp 4: Công tác phối hợp. ..............................................................................42
4. Thực nghiệm sư phạm .....................................................................................................43
4.1. Khảo sát tính cấp thiết và khả thi. ...........................................................................43


4.2. Kết quả đạt được ......................................................................................................46
Phần III. KẾT LUẬN ..............................................................................................................48
1. Ý nghĩa của đề tài............................................................................................................48
2. Kiến nghị, đề xuất. ..........................................................................................................48
3. Kết luận khoa học. ..........................................................................................................49
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................................49


1
Phần I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
Alfred Adler – Bác sĩ, nhà tâm thần học người áo đã nói “ Nhiệm vụ quan
trọng nhất của nhà giáo dục, có thể nói là nhiệm vụ thiêng liêng, là đảm bảo khơng
đứa trẻ nào nản lịng ở trường học, và rằng một đứa trẻ đã nản lòng khi bước vào
trường học sẽ lấy lại được sự tự tin qua mái trường và người thầy. Điều này song
hành với nghề nghiệp của nhà giáo dục, vì giáo dục chỉ thành cơng đối với những
đứa trẻ nhìn về tương lai tràn đầy hi vọng và vui tươi”.
Xã hội ngày nay đã và đang trên đà phát triển kéo theo nhiều vấn đề nảy sinh
ngày càng phức tạp hơn, điều đó đã ảnh hưởng đến tâm lý và hệ thống giá trị của
nhiều tầng lớp, trong đó có lứa tuổi học sinh. Đặc biệt, ở độ tuổi học sinh THPT các
em chưa phải người lớn nhưng cũng khơng cịn là trẻ con, các em đã có khả năng tự
nhận thức nhưng lại chưa thực sự chín chắn và có thể sai lệch nếu khơng được định
hướng. Với nhiệm vụ chính là học tập, nhưng các em thường phải đối mặt với rất
nhiều áp lực, từ nhiều phía: gia đình, nhà trường, xã hội. Do đó, nhiều học sinh gặp
khó khăn trong cuộc sống, trong học tập, định hướng giá trị sống, nghề nghiệp và
ứng xử….để đáp ứng được các kỳ vọng của bản thân, yêu cầu của gia đình và xã
hội. Trong số đó, nhiều học sinh rơi vào tình trạng căng thẳng dồn nén lo âu, thậm
chí có biểu hiện rối loạn tâm lý hay nặng hơn là trầm cảm và có thể tạo ra những
hành vi khơng tốt.
Mặc dù tư vấn tâm lý học đường đã xuất hiện từ 2017 cho đến nay nhưng vẫn

chưa được sự quan tâm đúng mức và hiệu quả chưa cao.
Là những giáo viên làm công tác giảng dạy và chủ nhiệm lớp, đặc biệt là
những lớp có học sinh bị ảnh hưởng tâm lý, chúng tôi đã nhận thức sâu sắc về ý
nghĩa và vai trị quan trọng của cơng tác tư vấn tâm lý. Kết quả từ nhiều cuộc nghiên
cứu cho thấy những học sinh được tư vấn tâm lý tự tin hơn và có kết quả học tập tốt
hơn trước khi tư vấn. Có thể nói giáo viên chủ nhiệm giống như chiếc cầu nối vững
chắc để gắn kết học sinh trong nhiều mối quan hệ gia đình, xã hội và được các trị
tin u, có tầm ảnh hưởng đến nhiều mặt trong cuộc sống của học sinh.
Xuất phát từ những thực trạng nêu trên, qua nhiều năm tìm hiểu, chúng tơi
chọn đề tài “Một số giải pháp tư vấn tâm lý nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục
cho học sinh lớp chủ nhiệm” với mong muốn các em có những cái nhìn khách quan
và tồn diện về bản thân, hiểu và làm chủ được suy nghĩ hành động của mình. Khi
bản thân đã thoát khỏi ám ảnh tâm lý, những áp lực, căng thẳng, mệt mỏi đeo bám
thì việc học cũng sẽ tự nhiên mà tiến bộ, có kết quả tích cực hơn. Các mối quan hệ
giữa thầy trị, gia đình, bố mẹ - con cái cũng được cải thiện rõ rệt.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về hoạt động tư vấn tâm lý cho học
sinh ở trường THPT Đô Lương 2, đề tài tập trung nghiên cứu về tác động của căng
thẳng tâm lý dến chất lượng học tập cũng như chất lượng sống của học sinh. Từ đó


2
tìm ra các biện pháp giáo dục phù hợp giúp học sinh ứng phó với những căng thẳng
và kiểm sốt cảm xúc nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục một cách toàn diện nhất.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ đặt ra khi nghiên cứu đề tài gồm:
- Nghiên cứu lý luận thực tiễn và kinh nghiệm của bản thân trong quá trình
tư vấn tâm lý cho học sinh.
- Trao đổi, học hỏi kinh nghiệm của tổ tư vấn tâm lý nhà trường từ đó có
những điều chỉnh và bổ sung hợp lý áp dụng trực tiếp cho học sinh lớp chủ nhiệm.

- Đề xuất một số biện pháp cụ thể trong quá trình tư vấn tâm lý nhằm nâng
cao hiệu quả giáo dục.
- Khảo sát tính cấp thiết và khả thi của các giải pháp đề xuất trong đề tài, từ
đó để phân tích và áp dụng kết quả vào thực nghiệm.
- Những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Học sinh THPT.
- Học sinh tại các lớp 11C4, 11B3 và của Trường THPT Đô Lương 2.
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 9/2021 đến tháng 4/2022.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Tìm đọc, nghiên cứu,
phân tích các tài liệu liên quan. Rút kinh nghiệm trong thực tiễn giáo dục. Từ đó xây
dựng cơ sở lý luận của đề tài.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Sử dụng phiếu
điều tra tính cách học sinh lớp chủ nhiệm từ đó nắm bắt rõ tâm lý học sinh để có
những giải pháp phù hợp.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu: Sử dụng phương pháp thống kê để xử
lý số liệu, so sánh kết quả thu thập trước và sau khi tác động.
6. Tính mới của đề tài
Đề tài là sự tìm tịi, nghiên cứu, thử nghiệm và chắt lọc về các biện pháp tư
vấn tâm lý học đường bằng nhiều hình thức khác nhau, cùng với các hoạt động từ
thực tiễn nhằm đúc kết thành một số kinh nghiệm trong giáo dục học sinh để đạt
hiệu quả giáo dục mong muốn. Các giải pháp đề cập cụ thể, rõ ràng, dễ áp dụng vào
thực tiễn.
Về mặt thực tiễn, đề tài đã khảo sát, đánh giá được thực trạng về tâm lý của
học sinh trong thời kỳ 4.0 tại trường THPT Đô Lương 2. Việc căng thẳng về tâm lý
ngày càng gia tăng và ảnh hưởng trực tiếp đến các vấn đề về đời sống tinh thần, kết
quả học tập, hoạt động phát triển thể chất, thẩm mĩ… từ đó làm hạn chế rất nhiều
cho sự phát triển toàn diện cho học sinh. Áp dụng các phương pháp tư vấn tâm lý
trong quá trình chủ nhiệm sẽ giúp học sinh kịp thời tháo gỡ được những vướng mắc

trong cuộc sống.


3
7. Những đóng góp của đề tài
Đề tài khẳng định vai trò của nhà trường, giáo viên, nhất là giáo viên chủ
nhiệm trong công tác tư vấn hỗ trợ tâm lý học sinh. Tạo môi trường lớp học chia sẻ,
cảm thông, nhằm giải tỏa tâm lý cho học sinh để nâng cao chất lượng giáo dục. Đề
tài có thể áp dụng rộng rãi ở các trường phổ thông khác.
Phần II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1.Cơ sở lý luận
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm tư vấn
1.1.1.1. Khái niệm tư vấn
Tư vấn còn được hiểu là việc đưa ra lời khun, lời lẽ có tính chất một chiều.
Tư vấn chính là góp ý kiến cho ai đó về vấn đề được hỏi và nhằm giúp đối tượng
cần tư vấn giải quyết những tình huống khó khăn trong cuộc sống.
1.1.1.2. Khái niệm tư vấn học đường
Thuật ngữ tư vấn học đường được sử dụng trong nhà trường hiện nay bao gồm
cả chức năng tư vấn và tham vấn. Đó là một lĩnh vực khoa học ứng dụng tâm lý và
giáo dục, bao gồm những cách thức hỗ trợ và tác động mang tính định hướng giáo
dục tới học sinh cần giúp đỡ. Qua tư vấn học sinh học được các cách vượt qua được
những khó khăn lựa chọn được cách giải quyết phù hợp. Giáo viên chủ nhiệm đồng
thời là nhà tư vấn, chuyên gia trong lĩnh vực giáo dục con người.
Hiểu một cách đơn giản thì tư vấn tâm lý học đường cũng giống với hình thức
tư vấn tâm lý bình thường, tuy nhiên phạm vi hoạt động sẽ được thu lại trong trường
học. Đây là một hoạt động hữu ích dựa trên các cơ sở lý thuyết để có thể giúp cho
học sinh có định hướng đúng đắn hơn về vấn đề riêng tư, gia đình, xã hội hoặc giúp
xác định cụ thể về nghề nghiệp của bản thân trong tương lai.
1.1.1.3. Tham vấn

Có nhiều cách hiểu về tham vấn. Trong công tác chủ nhiệm, tham vấn là kỹ
năng trợ giúp về mặt tâm lý của giáo viên đối với học sinh lớp mình đang gặp khó
khăn về tâm lý, nhằm giúp các em tự nhận thức, đối mặt với những vấn đề của bản
thân và sẵn sàng vượt qua. Tham vấn có nhiều loại như: tham vấn tâm lý, tham vấn
hướng nghiệp, tham vấn học tập.
1.1.2. Khái niệm và nguyên nhân gây nên căng thẳng tâm lý ở học sinh
1.1.2.1. Khái niệm căng thẳng tâm lý
Căng thẳng tâm lý là những gì mà con người cảm thấy họ đang chịu áp lực về
tinh thần, thể chất hoặc tình cảm. Những người trải qua mức độ căng thẳng tâm lý


4
hoặc trải qua nhiều lần trong một thời gian dài có thể phát triển các vấn đề về sức
khoẻ (tinh thần hoặc thể chất).
1.1.2.2. Nguyên nhân gây nên gây nên căng thẳng tâm lý ở học sinh
* Nguyên nhân chủ quan:
Các nhà khoa học chỉ ra rằng, căng thẳng không chỉ do từ yếu tố bên ngoài
khách quan tác động, mà cịn có ngun nhân từ nội tại bên trong của mỗi cá nhân.
Có những tình huống gây căng thẳng đối với người này nhưng lại không gây căng
thẳng đối với người kia. Ví dụ đối với lứa tuổi học sinh, khi đối mặt với thất bại
trong thi cử, có những em biết chấp nhận thất bại và quyết tâm nỗ lực để làm lại từ
đầu, nhưng cũng có những em học sinh tự giày vị, ốn trách bản thân, thậm chí có
em đã tự tử để giải thốt. Hay có những em gia đình bỗng chốc bị phân ly, có em sẽ
lấy đó làm động lực để cố gắng nhưng có em lại làm lý do để biện minh cho những
sai lầm của bản thân.
* Nguyên nhân từ gia đình:
Dù trẻ có khơn lớn và trưởng thành đến độ tuổi nào thì gia đình và sự yêu
thương của cha mẹ cũng là điều mà bất kỳ đứa trẻ nào cũng muốn nhận được. Nhịp
sống kinh tế thị trường đã cuốn nhiều bậc phụ huynh vào vịng xốy cơng việc khiến
họ khơng đủ thời gian để chăm sóc, quan tâm con cái. Ngoài ra, việc bố mẹ thường

xuyên so sánh con với những học sinh học giỏi, đạt kết quả cao trong thi cử để chỉ
trích, phê bình hay đặt ra chỉ tiêu cho con mình phấn đấu đã gián tiếp tạo áp lực cho
con cái dẫn đến sự lo lắng, căng thẳng. Khá nhiều bậc phụ huynh chỉ chăm chú đầu
tư cho con cái hết học chính đến học thêm để vượt qua các kỳ thi, mà quên đi sự chia
sẻ và hỗ trợ các em vượt qua những khó khăn tâm lý trong học tập và hướng nghiệp,
cũng như chưa thực sự hiểu con mình muốn gì, cần gì từ cha mẹ. Bên cạnh đó, những
đứa trẻ thiếu vắng tình cảm gia đình từ thuở bé như là mất đi người thân, sống xa
cha mẹ, cha mẹ không hạnh phúc… cũng là những nguyên nhân khiến các em hình
thành tâm lý mặc cảm, tổn thương tâm lý dẫn đến trầm cảm.
* Nguyên nhân từ nhà trường:
Mặc dù trong thời gian gần đây vấn đề tâm lý của học sinh được quan tâm và
lưu ý nhiều hơn. Tuy nhiên nó chưa thực sự phổ biến nhiều trong các trường học.
Những cơ hội trao đổi về tâm lý giữa các em học sinh với thầy cô và cha mẹ không
nhiều. Việc quan tâm sao sát để phát hiện và ngăn chặn kịp thời vẫn cịn hạn chế.
Tình trạng “bạo lực học đường”, nạn kỳ thị, xa lánh bạn cùng lớp vẫn còn diễn ra
thường xuyên. Một số giáo viên quá nghiêm khắc, xử lý tình huống cứng nhắc, tạo
nhiều áp lực cho các em, hoặc cư xử một cách thiên vị, ứng xử thiếu tính sư phạm
với các học sinh trong lớp cũng có thể làm cho các em bị căng thẳng.
* Nguyên nhân từ xã hội:
Kinh tế phát triển kéo theo các tệ nạn xã hội cũng theo đó mà xuất hiện ngày
càng nhiều. Cùng với mạng xã hội phát triển mạnh mẽ đã tác động tiêu cực tới nhận
thức của các em dẫn tới lối sống ích kỷ, bng thả, đua địi, thích hưởng thụ tạo ra
những hiện tượng lệch lạc trong suy nghĩ và hành động của các em. Giới trẻ được tự


5
do, thỏa sức thể hiện những gì mình muốn, nhưng khi tự giam mình quá lâu trong
thế giới ảo, một bộ phận học sinh sẽ có lối sống bất thường, ngại tiếp xúc dẫn tới
trầm cảm. Đã có những vụ tự tử do quá áp lực trong học tập hay giết người do mắc
chứng rối loạn tinh thần, hậu quả của việc nghiện game bạo lực ở lứa tuổi học sinh.

Công nghệ thông tin phát triển, hầu hết các em đều có điện thoại thơng minh với
nhiều chức năng, ở tuổi đang phát triển các em dễ bị nghiện, lôi kéo với những điều
tiêu cực.
Mấy năm gần đây, đại dịch Covid-19 hồnh hành khiến hàng triệu trẻ em, học
sinh khơng được đến trường, các em không được gặp gỡ, vui chơi, học tập và trò
chuyện trực tiếp với nhau khiến nhiều em có cảm giác tù túng, thiếu vận động, nặng
hơn là mắc các vấn đề về thể chất lẫn căng thẳng tâm lý. Mặt khác việc học online
khiến các em gặp nhiều vấn đề khó giải quyết được, dần dần dẫn tới trạng thái căng
thẳng, lo âu.
1.2. Vai trò của tư vấn học đường
Những năm qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo cho các trường thực hiện
nhiệm vụ tư vấn học đường. Tư vấn học đường có vai trị quan trọng trong nhà
trường, nó tạo ra những tác động mang tính định hướng giáo dục tới học sinh,
nhằm giúp học sinh biết cách định hướng và giải quyết vấn đề của bản thân, tạo ra
sự phát triển phù hợp với yêu cầu, mong muốn của xã hội. Như vậy, tư vấn học
đường tác động vào nhận thức, giúp các em tự nhận thức, tự giải quyết vấn đề qua
đó hình thành tính tự lập, biết tự chịu trách nhiệm.
Tư vấn học đường trợ giúp và là người bạn đồng hành của các em trong quá
trình học tập, rèn luyện và phát triển. Tư vấn học đường có vai trị tham vấn giúp
các em lựa chọn cách xử lý đúng, góp phần ổn định đời sống tâm hồn, tình cảm và
giúp học sinh thực hiện được nguyện vọng của mình. Tư vấn học đường tạo ra mơi
trường thuận lợi, tích cực, thân thiện cho sự phát triển nhân cách của trẻ đúng theo
định hướng, mục tiêu mà xã hội mong muốn. Đó là hạnh phúc của mỗi cá nhân dựa
trên hạnh phúc của toàn xã hội.
1.3. Các nội dung của tư vấn học đường
Dựa trên một số kết quả nghiên cứu từ năm 2015 đến năm 2022, những khó
khăn trong đời sống học đường, những “trục trặc” mà HS THPT có thể gặp phải
trong các mối quan hệ của mình, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quy định rõ sáu nội
dung của tư vấn học đường ở trường phổ thông, tập trung vào các vấn đề sau:
+ Hướng nghiệp, chọn nghề và thông tin tuyển sinh.

+ Tình u, giới tính và quan hệ với bạn khác giới.
+ Quan hệ, giao tiếp, ứng xử với gia đình, bạn bè và giáo viên.
+ Phương pháp học tập.
+ Tham gia các hoạt động xã hội.
+ Mạng xã hội internet.
+ Thẩm mỹ.


6
1.4. Đối tượng cần tư vấn học đường
Trong tư vấn học đường, một trong những vấn đề cần xác định rõ là đối tượng
cần tư vấn. Đối với GV làm cơng tác chủ nhiệm, có hai đối tượng cần tư vấn:
Thứ nhất: là những học sinh gặp khó khăn chủ quan, khơng tìm thấy phương
hướng sống, hoặc những khó khăn mà bản thân em khơng tìm ra cách giải quyết.
Đó là những khó khăn trong đời sống học đường, trong các mối quan hệ của học
sinh. Đây là kiểu tư vấn trực tiếp.
Thứ hai: là những tác nhân gây ra khó khăn cho các em, gây tổn thương hoặc
khơng biết làm việc với các em. Nếu không tư vấn, can thiệp vào nhóm đối tượng
này thì vấn đề của học sinh khơng được giải quyết. Vì vậy, khi làm việc với nhóm
thứ hai, mục tiêu là hỗ trợ để họ hiểu, thay đổi thái độ, cách ứng xử với học sinh cần
tư vấn. Đây là kiểu tư vấn gián tiếp. Dù là tư vấn trực tiếp hay tư vấn gián tiếp, mục
tiêu cuối cùng vẫn là lợi ích của học sinh đang được tư vấn.
1.5. Giáo viên chủ nhiệm với công tác tư vấn tâm lý cho học sinh
1.5.1. Chức năng của giáo viên chủ nhiệm ở trường THPT
Trong nhà trường, giáo viên chủ nhiệm là thành viên của tập thể sư phạm và
hội đồng sư phạm, là người thay mặt hiệu trưởng, hội đồng nhà trường và cha mẹ
học sinh quản lí và chịu trách nhiệm về chất lượng giáo dục tồn diện học sinh lớp
mình phụ trách, tổ chức thực hiện chủ trương, kế hoạch của nhà trường ở lớp. Đối
với học sinh và tập thể lớp, giáo viên chủ nhiệm là nhà giáo dục và là người gần gũi
nhất, người lãnh đạo, tổ chức, điều khiển, kiểm tra toàn diện mọi hoạt động và các

mối quan hệ ứng xử thuộc phạm vi lớp mình phụ trách dựa trên đội ngũ tự quản là
cán bộ lớp, cán bộ Đồn và tính tự giác của mọi học sinh trong lớp. Ngoài ra, giáo
viên chủ nhiệm là người cố vấn cơng tác Đồn ở lớp chủ nhiệm. Trong quan hệ với
các lực lượng giáo dục khác trong và ngoài nhà trường, giáo viên chủ nhiệm là nhân
vật trung tâm để hình thành và phát triển nhân cách học sinh và là cầu nối giữa gia
đình, nhà trường và ngồi xã hội. Chức năng của người giáo viên chủ nhiệm lớp là
lãnh đạo, tổ chức, quản lí, giáo dục tập thể lớp trên cơ sở tổ chức các hoạt động giáo
dục, các mối quan hệ giáo dục của học sinh theo mục tiêu giáo dục nhân cách học
sinh toàn diện trong tập thể phát triển và môi trường học tập thân thiện. Một vấn đề
mà thường gặp trong quá trình chủ nhiệm là bắt gặp nhiều học sinh đang bị ảnh
hưởng tâm lý ở nhiều mặt khác nhau. Vậy nên giáo viên chủ nhiệm lớp, ngồi những
cơng việc của một giáo viên bộ mơn giảng dạy trong lớp thì việc nắm bắt kịp thời
về những khó khăn tâm lý của học sinh nhằm giúp các em tháo gỡ để tiếp tục học
tập là vô cùng quan trọng.
Với tư cách là nhà giáo dục, công tác giáo dục HS của GVCN bao gồm những
hoạt động sau: Phát triển tập thể HS thành môi trường lớp học thân thiện; Triển
khai các nội dung giáo dục toàn diện trong lớp chủ nhiệm; Tổ chức các hoạt động
và giao lưu tập thể; Giáo dục giới tính và giáo dục kĩ năng sống cho HS ; Thực hiện
giáo dục kỉ luật tích cực; Giải quyết những tình huống bất ngờ; Tư vấn, tham vấn


7
cho HS trong việc đưa ra phương án giải quyết các vấn đề gặp phải trong cuộc sống.
Với vai trò, chức năng, nhiệm vụ quan trọng như vậy GVCN có nhiều cơ hội
tiếp xúc với gần gũi để am hiểu tường tận về HS lớp chủ nhiệm. Có nhiều điều
kiện thuận lợi hơn những lực lượng xã hội khác trong việc chia sẻ, đồng cảm và
thuyết phục HS lớp chủ nhiệm ủng hộ cái tốt, loại trừ cái sai, cái chưa phù hợp
trong cuộc sống, lao động và học tập của các em.
1.5.2. Nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm trong việc tư vấn tâm lý
Trong phạm vi công tác chủ nhiệm lớp nhiệm vụ tư vấn được xác định cụ thể

như sau:
+ Tham vấn cho những HS có khó khăn về tâm lý hoặc tham vấn nhóm.
Quan sát phát hiện những biểu hiện của HS có nguy cơ rối nhiễu tâm lý, hoặc những
hiện tượng tâm lý bất thường trong đời sống học đường. Tư vấn, hỗ trợ tìm kiếm các
nguồn lực trợ giúp cho HS trong và ngoài nhà trường.
+ Tư vấn giáo dục cho cha mẹ HS, các thầy cơ giáo, bạn bè hoặc những người
có tác động không thuận lợi đến sự phát triển của trẻ em.
+ Tổ chức các hoạt động tập thể, vui chơi, hoạt động giáo dục trong phạm vi
lớp mình nhằm xây dựng môi trường tâm lý lớp học thuận lợi cho sự phát triển của
các HS trong lớp.
Để làm tốt việc giáo dục toàn diện học sinh, người giáo viên chủ nhiệm cần
đặt ra những yêu cầu cụ thể cho học sinh như: yêu cầu về giáo dục đạo đức, yêu cầu
về phát triển trí lực, yêu cầu về phát triển tài năng và thẩm mĩ, yêu cầu về giáo dục
kĩ năng sống...
1.5.3. Nguyên tắc trong tư vấn tâm lý cho học sinh THPT
Tư vấn, dù là nghề nghiệp hay chỉ là một chức năng đều phải tuân theo yêu
cầu đạo đức nghề nghiệp. Các yêu cầu đạo đức nghề nghiệp giúp người tư vấn định
hướng đúng nghề nghiệp, đảm bảo cho các cuộc tư vấn đúng hướng và hiệu quả.
Mặt khác các yêu cầu khi tham gia tư vấn còn tăng cường trách nhiệm nghề nghiệp,
đảm bảo người tư vấn có thể thực hiện mục đích vì lợi ích của người cần tư vấn.
Những phẩm chất đạo đức nghề nghiệp cần tuân thủ khi tư vấn cho học sinh gồm:
* Nguyên tắc số một mà chúng tôi đưa ra là lắng nghe và tôn trọng học sinh
Lắng nghe, tôn trọng là học sinh sẽ được chia sẻ bất cứ điều gì mình muốn, là
một GVCN tơi khơng đánh giá đúng hay sai và hồn tồn chấp nhận và tơn trọng
quan điểm cũng như chính con người của các em trong q trình tư vấn.
*Ngun tắc thứ hai đó chính là bảo mật thơng tin
Trong q trình tư vấn tâm lý tơi ln tơn trọng sự riêng tư của HS vì vậy mọi
vấn đề mà học sinh chia sẻ với tôi sẽ được giữ bí mật. Trong trường hợp đặc biệt chỉ
tiết lộ thông tin của học sinh với những người có trách nhiệm (phụ huynh học sinh,
tổ tư vấn…) trong các trường hợp sau:

Học sinh đang có ý định gây hại cho bản thân hoặc gây nguy hiểm cho người
khác; Học sinh đồng ý chia sẻ thông tin với những người liên quan để được hỗ trợ


8
tốt hơn; Học sinh báo cáo về việc đang bị đe dọa hoặc trong trường hợp học sinh
được chuyển tới phịng tư vấn bởi cha mẹ, thầy cơ, tổ tư vấn sẽ trao đổi với người
đại diện này và những người có liên quan những thơng tin khái qt về quá trình tư
vấn nhằm phối hợp trợ giúp học sinh tốt hơn.
* Nguyên tắc thứ ba tôn trọng học sinh vơ điều kiện
Ln giữ thái độ nhiệt tình đối với học sinh, chấp nhận các em như một con
người có giá trị bất kể địa vị, hành vi, tình cảm tích cực hay tiêu cực. Kính trọng học
trị về mặt nhân phẩm với cốt cách riêng của họ, tôn trọng sự đối thoại khơng phê
phán đánh giá, phịng vệ, là sự thẳng thắn ở cả GVCN và HS.
* Nguyên tắc thứ tư tin tưởng vào khả năng giải quyết của HS
Xuất phát từ quan điểm cho rằng “HS là chuyên gia giỏi nhất về lĩnh vực của
mình” nên trong quá trình tư vấn GVCN phải tin tưởng hồn tồn vào học sinh,
vào khả năng giải quyết vấn đề ở các em. GV chỉ giúp đỡ các em bằng cách đặt ra
những câu hỏi về cảm nghĩ của HS trong việc giải quyết vấn đề. Cách hỏi này đặt
HS vào hoàn cảnh cụ thể bắt buộc các em tự lập trong cách hành động giải quyết
vấn đề. Trong trường hợp HS bị rối loạn tâm lý, suy nhược…thì GV khi thực hiện
tư vấn có thể chủ động đưa ra một vài hướng giải quyết cùng với HS.
* Nguyên tắc thứ năm lấy HS làm trọng tâm
Đây là nguyên tắc đặt lên hàng đầu trong giáo dục nói chung và trong tư vấn
nói riêng, việc lấy HS làm trọng tâm cịn thể hiện GVCN không thể đồng nhất vấn
đề của bất cứ HS nào. Khơng thể có một cách thức chung, kỹ thuật chung cho các
con người khi đến làm tư vấn vì mỗi em HS là một trường hợp đặc biệt.
* Nguyên tắc thứ sáu mềm dẻo thích nghi cùng HS
Vấn đề của HS nhanh hay chậm phụ thuộc vào tiến trình nhanh hay chậm trong
cơng việc thay đổi HS. Địi hỏi GVCN phải có thời gian dành cho các em, phải biết

lắng nghe, biết khuyến khích, trấn an để HS nói ra vấn đề của mình, biết phản hồi
đề biết ý nghĩa chính xác của thơng tin, biết cảm thơng để thấu hiểu những gì HS
nói ra, biết kết hợp quan sát hành vi và cử chỉ ngôn ngữ với lời nói của học trị để
đưa từ những cảm xúc tiêu cực đến những tình cảm, lí trí tích cực và làm chủ được
hành vi của bản thân.
* Nguyên tắc thứ bảy cung cấp giải pháp tối ưu nhất cho HS
Khi HS có nhu cầu tư vấn tâm lý các em không chỉ được lắng nghe, thấu hiểu,
chia sẻ mà cịn được cung cấp những thơng tin mới cập nhật cũng như trao đổi để
tìm ra các giải pháp cho những vấn đề đang gặp phải trong cuộc sống của các em.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.1.1. Thực trạng chung
Hiện nay, tâm lý học đường tại nước ta đang là vấn đề vô cùng nhạy cảm và
cũng là áp lực rất lớn đối với phía nhà trường, các nhà chức trách, giáo viên chủ
nhiệm cùng hội phụ huynh học sinh.


9
Nguy cơ khủng hoảng tâm lý ở giới trẻ ngày càng tăng cao. Kết quả nghiên
cứu của các chuyên gia đã chỉ ra rằng giai đoạn từ 2019-2022 do ảnh hưởng của
Covid-19 tác động tới nhiều mặt của đời sống học đường, nhất là học sinh phải học
online kéo dài.
Mới đây tại hội thảo khoa học quốc gia “Ứng dụng tâm lý học đường học
trong bối cảnh đổi mới giáo dục”. Thầy Hoàng Trung Học – Trưởng khoa tâm lý
giáo dục (Học viện quản lý giáo dục) chia sẻ về sự tác động đa chiều, nhiều học sinh
gặp phải những vấn đề liên quan đến sức khoẻ tâm thần. Ông đã tiến hành nghiên
cứu gần 20.000 học sinh phổ thông thuộc ba miền của đất nước. Kết quả cho thấy:
60,5% học sinh có biểu hiện trầm cảm ở mức độ khác nhau, trong đó có 17% ở mức
nặng và rất nặng; 38,1% trẻ có biểu hiện rối loạn lo âu ở các mức độ khác nhau.
Thực tế thời gian qua, có đến 5 vụ tử tự ở lứa tuổi THCS và THPT với nhiều

nguyên nhân trong đó có liên quan đến tâm lý. Vào cuối tháng 3/2022, nữ sinh lớp
9 đã tử vong sau khi rơi từ tầng 26 chung cư ở Hà Nội; một nữ sinh lớp 8 ở Bắc Ninh
cũng đã tìm đến cái chết bằng cách treo cổ tại nhà. Nguyên nhân tự tử của các em
đều liên quan đến học hành. Mới đây nhất là một nam sinh tên L.N.N.N học sinh
lớp 11 tại trường THPT chuyên Hà Nội- Amterdam. Theo những dòng cuối của nam
sinh để lại, cậu đã chịu nhiều áp lực từ việc học tập cũng như không nhận được sự
động viên, cảm thơng đúng mực từ phía cha mẹ, nhiều hơm cậu đã phải học tới tận
3 đến 4 giờ sáng.
Theo thông kê của tổ chức y tế thế giới (WHO) về bệnh trầm cảm tại khu vực
Đông Nam Á, chỉ riêng Việt Nam có tới gần 800.000 người chết vì tự tử hằng năm.
Trong đó nhóm tuổi gây tử vong hàng đầu nằm trong khoảng 15-29 tuổi. Chính vì
lẽ đó, là những người thầy, người giáo viên chủ nhiệm chúng tôi cảm thấy việc tìm
hiểu và tư vấn tâm lý cho học sinh của mình là vơ cùng quan trọng và cấp thiết.
2.1.2. Một số đặc điểm tình hình giáo dục của trường THPT Đô Lương 2
Trước yêu cầu đổi mới GD, trong những năm qua trường THPT tôi công tác
đã có nhiều nỗ lực để tập trung nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục. Nghị quyết
hội nghị công chức, viên chức hàng năm nhà trường đã ban hành nhiều quyết sách,
giải pháp quan trọng, trong đó biện pháp ở trường THPT Đô Lương 2 là một trong
những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng GD toàn diện của nhà trường. Đứng
chân trên một vùng quê nổi tiếng khoa bảng, nhân văn, cách mạng và anh hùng của
đất học Bạch Ngọc, trong những năm qua chất lượng GD nhà trường có nhiều chuyển
biến tích cực, nề nếp dạy và học ln được duy trì, phát triển.
Nhà trường ln nhận được sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của Huyện uỷ, UBND
huyện, sự hỗ trợ nhiệt tình của các ban ngành đoàn thể địa phương, sự quan tâm chỉ
đạo kịp thời của Sở Giáo dục và Đào tạo Nghệ an. Đội ngũ cán bộ GV của Trường
được trẻ hóa, có trình độ chun mơn ngày càng cao nên thuận lợi cho các hoạt động
giảng dạy của nhà trường. Chất lượng GD ngày càng phát triển, mơi trường GD an
tồn thân thiện. Tuyển sinh đầu vào đảm bảo chỉ tiêu trong nhà trường từ đầu năm
để ổn định quy mô.



10
Bên cạnh những thuận lợi, cịn tồn tại khơng ít những khó khăn: Chất lượng
tuyển sinh đầu vào thấp nên khó tạo đột biến chất lượng mũi nhọn, chất lượng đại
trà; Học sinh của Trường thuộc 13 xã - đây là những xã cịn gặp nhiều khó khăn
trong phát triển kinh tế, đời sống người dân phụ thuộc vào sản xuất nơng nghiệp.
Nhiều gia đình vì q khó khăn phải vào Nam ra Bắc để làm thuê, đi xuất khẩu lao
động... để lại con cái sống ở nhà một mình, hay có bạn sống với ơng bà tuổi đã cao
ở q nhà. Chính vì thế, con cái của họ ít nhiều thiếu thốn tình cảm của cha mẹ, cộng
thêm điều kiện kinh tế vất vả dẫn tới cách nhìn nhận cuộc sống, nhìn nhận tương lai
của một bộ phận phụ huynh và học sinh về vấn đề học tập và giáo dục đạo đức chưa
cao.
2.1.3. Thực trạng của học sinh hai lớp 11C4 và 11B1 trường THPT Đô
Lương 2
Lớp 11C4 và 11B3 trường THPT Đơ Lương 2 hiện có tổng 75 học sinh, trong
đó gồm 40 nam và 35 nữ. Trong đó lớp 11C4 là lớp khối Tốn Hố Sinh nhưng lực
học của các em vẫn con chưa cao và chưa có mục tiêu phấn đấu cho bản thân. Lớp
11B3 là lớp thường cơ bản, hầu hết các em đều có đầu vào thấp nhất khối, năng lực
học đuối dẫn đấn các em ngại học và ham chơi.
Là những GVCN các em ngay từ khi các em mới bắt đầu vào với mơi trường
THPT chúng tơi ln tìm hiểu, nắm bắt tâm lý và hoàn cảnh từng em trong lớp. Thiết
nghĩ giáo dục học sinh không phải chỉ là dạy cho các em về kiến thức, mà còn phải
giúp các em hình thành nhân cách, khơng chỉ là dạy chữ mà cịn phải dạy người. Vì
lẽ đó mà sự nghiệp giáo dục dược mệnh danh là "trồng người". Việc trồng người này
địi hỏi phải có sự chung tay góp sức của các lực lượng xã hội, mà quan trọng nhất
là sự phối hợp ăn ý, chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường. Thế nhưng các bậc cha
mẹ đôi khi cũng bế tắc trong việc giáo dục con ở tuổi thanh thiếu niên.
Q trình học tập ở trường THPT địi hỏi các em phải có tính tích cực và tính
tự lập cao hơn và đến cuối cấp học, các em có thái độ nghiêm túc và có ý thức hơn
nhiều với việc học tập và chuẩn bị cho việc thi vào các trường đại học và chuyên

nghiệp. Do tính phức tạp của hoạt động học tập cũng như những yêu cầu ngày càng
cao của gia đình và xã hội, nhiều học sinh rơi vào trạng thái căng thẳng, áp lực trong
học tập, ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả học tập và cuộc sống.
Do đó, kết quả học tập và rèn luyện của các em sẽ khó được cải thiện nếu nhà
trường chỉ tập trung vào việc phát triển những phương tiện giảng dạy và cơ sở vật
chất, tăng cường quản lý về mặt kỷ luật, mà chưa quan tâm đến nhu cầu tâm lý của
học sinh, tâm tư nguyện vọng, các khó khăn, áp lực mà các em đang gặp phải. Đồng
thời, nếu nhà trường chỉ quan tâm đến kết quả học tập, thi cử, bố mẹ chỉ biết quan
tâm đến điểm số của con ở môn này hay mơn khác thì chưa đủ và khó tránh khỏi
những rối nhiễu tâm lý đang xuất hiện ngày càng nhiều ở học sinh lứa tuổi này. Thực
tế, các em cần được giúp đỡ thêm về các mặt như phương pháp học tập, giải quyết
khó khăn trong các mối quan hệ phức tạp trong quá trình học tập và rèn luyện ở nhà
trường và ngoài xã hội.


11
2.2. Những thuận lợi và khó khăn trong việc tư vấn tâm lý lứa tuổi học
sinh THPT
Khoảng vài năm trở lại đây, trước nhu cầu về hỗ trợ, tư vấn tâm lý cho học
sinh thì cơng tác này mới được ngành giáo dục thật sự đưa vào như một hoạt động
bổ trợ giáo dục và định hướng cho học sinh. Đây thật sự là một việc làm thiết thực
và nhân văn của ngành trước những rủi ro bên ngoài cuộc sống mà các em có thể
gặp phải. Bằng sự nỗ lực của chính mình, đến nay hầu hết các trường nhất là bậc
THPT đã thành lập được phòng tư vấn tâm lý cho học sinh trong trường và đi vào
hoạt động. Với thực tế hiện nay, việc tư vấn tâm lý cho học sinh có những thuận lợi
bước đầu tuy nhiên vẫn cịn đó những khó khăn.
2.2.1.Thuận lợi
Việc tư vấn tâm lý học đường là xuất phát từ nhu cầu của học sinh, cho nên
rất được sự đón nhận, hợp tác từ phía các em. Trong q trình học tập và rèn luyện,
các em học sinh THPT - những người đang bước vào giai đoạn tuổi mới lớn, cịn

gặp khơng ít bỡ ngỡ, có những rắc rối mà các em chưa thể tự mình gỡ bỏ, nên các
em rất cần đến những chuyên viên tư vấn, giúp các em định hướng, xử lý các vấn
đề một cách tốt nhất.
Lãnh đạo các cấp đã hiểu được tầm quan trọng của vấn đề tư vấn tâm lý, nên
đã có chỉ đạo thành lập các ban tư vấn tâm lý trong trường học, có văn phịng riêng,
có lịch làm việc, có lịch tư vấn học sinh, có số điện thoại đường dây nóng và phân
cơng các giáo viên có kinh nghiệm, có nhiệt huyết để sẵn sàng lắng nghe và giúp các
em giải quyết các vấn đề.
Điều đáng vui mừng là công tác này cũng nhận được sự đồng thuận của các
cán bộ, giáo viên, nhân viên trong trường. Hơn nữa, trong thời đại công nghệ 4.0,
công tác tư vấn tăng thêm phần hiệu quả, kịp thời nhờ có các điều kiện hỗ trợ của
cơng nghệ thơng tin.
2.2.2. Khó khăn
Trong cơng tác tư vấn, các tư vấn viên cần có một số kỹ năng, năng lực nhất
định. Tuy nhiên, hiện nay, cán bộ tư vấn tâm lý chuyên trách còn thiếu về số lượng
và hạn chế về chất lượng. Chúng ta chưa có đủ cán bộ được đào tạo đúng chuyên
ngành, phải sử dụng những cán bộ, giáo viên khơng có nghiệp vụ hoặc mới chỉ được
đào tạo ngắn ngày.
Đội ngũ tư vấn thường không phải là giáo viên dạy nên nhiều lúc các em học
sinh ngại và không dám bộc lộ hết cảm xúc muốn nói. Điều đó cũng gây khó khăn
ít nhiều cho tổ tư vấn tâm lý.
Trường THPT Đô Lương 2 thuộc mảnh đất Bạch Ngọc, xã Lam Sơn, huyện
Đô Lương thuộc địa bàn miền núi, điều kiện KT-XH còn nhiều khó khăn, cho nên
việc tiếp cận với gia đình và bản thân các em để biết rõ hoàn cảnh sống cũng như
nếp sống thường ngày là rất cần thiết. Hầu hết các gia đình đều là thuần nơng nhận
thức cịn có sự hạn chế nên khơng quan tâm đên tâm sinh lý lứa tuổi cũng như việc
học của con em mình.


12

2.3. Khảo sát thực trạng học sinh cần được tư vấn tâm lý tại trường THPT
Đô Lương 2
Khảo sát 56 em học sinh lớp 11C4, 11B3 trường THPT Đô Lương 2, Khảo
sát bằng phần mềm Goodgle fom kết quả cho thấy các em gặp các vấn đề sau:
TT
Vấn đề ảnh hưởng
Số lượng
Tỷ lệ (%)
1
Áp lực trong học tập, thi cử
35
62,5
2
Vấn đề về gia đình
8
14,3
3
Lo lắng cho nghề nghiệp tương lai
36
64
4
Mối quan hệ về tình yêu học đường
5
9
5
Áp lực từ thầy cô, bạn bè
8
14,2
6
Sử dụng nhiều internet

14
25
7
Các vấn đề khác
20
35,7
Mẫu phiếu và kết quả khảo sát và biểu đồ kết quả ở phần phụ lục 1 (Trang 51)
Link khảo sát: />Qua bảng kết quả khảo sát cho thấy, phần lớn HS ở hai lớp chịu tác động rất
lớn bởi các hiện tượng tiêu cực của đời sống xã hội như tình trạng thất nghiệp, thiếu
việc làm, lối sống coi trọng đồng tiền, chạy theo vật chất dẫn dến lo lắng việc làm
cho tương lai 36 em (62,5%).
Một vấn đề khác ảnh hưởng đến tâm lý HS ở trường THPT đó là chịu áp lực
trong học tập thi cử (35 em, chiếm 62,5%), mối quan hệ tình yêu học đường (5 em,
chiếm 9%), áp lực từ thầy cô bạn bè (8 em, chiếm 14,2%)…
Do đặc điểm về nhận thức, tâm lý còn hạn chế nên các em HS dễ bị cuốn hút
vào những điều lệch chuẩn mà quên đi nhiệm vụ học tập của mình, dẫn đến kết quả
kém trong học tập.
Như vậy, qua những phân tích trên, có thể nhận thấy, có rất nhiều vấn đề ảnh
hưởng đến tâm lý của học sinh. Để giải quyết các vướng mắc cho các em chúng tôi
mạnh dạn đưa ra các giải pháp tư vấn cho HS lớp chủ nhiệm.
3. Giải pháp tư vấn tâm lý nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục
3.1. Giải pháp 1: Tìm hiểu tâm sinh lý, điều kiện học tập và mong muốn
của học sinh
3.1.1. Tìm hiểu, nắm vững hồn cảnh, tình hình học sinh trong lớp
Nhà giáo dục vĩ đại Nga Uxinxki nói rằng “Muốn giáo dục con người về mọi
mặt thì phải hiểu con người về mọi mặt’’. Đó là một trong những nguyên tắc quan
trọng của giáo dục, một nhiệm vụ rất cần thiết của giáo viên chủ nhiệm góp phần
đưa cơng tác giáo dục học sinh phát triển toàn diện về mọi mặt từ học tập, tâm sinh
lý... Bởi vậy ngay từ đầu năm học khi nhận lớp chủ nhiệm chúng tơi đã tìm hiểu đặc
điểm học sinh về đặc điểm tâm lý, tính cách, năng lực, sức khỏe, tinh thần, tâm tư,



13
nguyện vọng... Qua đó thấy được những điểm mạnh, điểm yếu của từng học sinh,
của tập thể lớp để đưa ra biện pháp giáo dục phù hợp nhằm mang lại hiệu quả cao
trong cơng tác giáo dục của mình. Tìm hiểu đặc điểm, tình hình học sinh trong lớp
bằng nhiều cách như qua bản sơ yếu lí lịch, bạn bè, giáo viên chủ nhiệm cũ, trao đổi
phụ huynh, nói chuyện tâm sự với học sinh...
Bản sơ yếu lí lịch chúng tôi xây dựng tại tài liệu minh chứng phụ lục 2 (Trang
52)
Qua việc điều tra sơ yếu lí lịch học sinh giúp giáo viên chủ nhiệm hiểu rõ học
sinh của mình về năng lực học tập, hạnh kiểm, năng khiếu, sở thích, hồn cảnh gia
đình...Từ đó theo dõi những em có hồn cảnh khó khăn, phát hiện ra các em có vấn
đề tâm lý để đưa ra biện pháp tư vấn phù hợp giúp các em hoà nhập được vào tập
thể lớp nhanh chóng và phát triển tồn diện nhất.
3.1.2. Giáo viên biết quan tâm đến hoàn cảnh sống, biết lắng nghe những
cảm xúc của các em, trở thành người bạn lớn và chuyên gia tư vấn tâm lý cho học
sinh THPT
Cuối tuần GVCN cùng một số học sinh trong lớp đến thăm gia đình của học
sinh để hiểu rõ hơn về hoàn cảnh của các em. Đa số học sinh trong lớp đi học xa,
đường sá thì ghồ ghề, phải trải qua những con đường vắng vẻ, hai bên đều là các
vườn tràm cao vút, ngày mưa đường đi thì rất bẩn và trơn trượt. Những căn nhà cấp
bốn cũ kỹ, ở cùng mấy thế hệ, bố mẹ đi làm xa,… Đến đây mới thực sự cảm thấy
thương và đồng cảm với các em, các em đi học được đã là một sự cố gắng và nỗ lực
rât nhiều. Có những bạn cách trường hơn 15 km buổi trưa phải mang cơm và ở lại
nghỉ ở trường.


14


Hình ảnh: học sinh đi học trên con đường vắng vẻ tại xã miền núi của huyện


15

Hình ảnh: những em HS ở nhà xa ở lại ăn cơm trưa tại trường
Từ đó GVCN cần phải nói những lời khích lệ các em, tìm hiểu và lắng nghe
các em trước khi kết luận một điều gì. Giáo viên mở lịng, học sinh sẽ cảm thấy an
tồn và được yêu thương, biết ơn,…từ đó sẽ cảm hóa và được học sinh tin u. Có
thể khơng phải ngay lúc đó học sinh cảm nhận được và thay đổi. Có những học sinh
ra trường mới nhận ra tấm lòng thầy cô, cố gắng thay đổi bản thân, sống tốt và tích
cực hơn. Sự chân thành, tình u thương của thầy cơ bây giờ có thể tạo ra niềm tin
và động lực mở cánh cổng tương lai cho các em, đó là ý nghĩa thực sự của giáo dục.
Học sinh THPT đang là thời kì phát triển tâm sinh lý rất mạnh, tập trở thành
người lớn, thích thể hiện cái tơi của mình, tâm tính và nhận thức chưa ổn định, chín
chắn nên rất cần sự quan tâm và tư vấn đúng hướng của GVCN. GVCN có thể tìm
hiểu, tâm sự với học sinh trực tiếp, qua bạn bè và người thân, qua điện thoại hay
zalo, facebook…để kịp thời tác động tích cực đến học sinh đang gặp khó khăn.
Giáo viên gần gũi, cởi mở và quan tâm đến học sinh nhưng khơng được “cào
bằng” mối quan hệ, học trị ln phải tôn trọng và cư xử lễ phép với thầy cơ. Chúng
tơi tin rằng cái gì xuất phát từ trái tim của người thầy sẽ đến được với trái tim của
học trị. Tuyệt đối giáo viên khơng được lạm dụng hay sử dụng không đúng cách các
yếu tố hài hước trong các giờ dạy hay trong các buổi sinh hoạt bởi nó sẽ gây ra một
hiệu ứng ngược đó là học sinh mất tập trung học, lớp ồn ào, khiến giáo viên khó


16
quay lại với mục tiêu của mình. Thành cơng lớn nhất của nhà giáo dục khơng phải
về kiến thức trị lĩnh hội được, hay những thành tích thi đua mà là sự tiến bộ dù rất
nhỏ, sự cố gắng của các em, giá trị tinh thần mà các em cảm nhận được. Học sinh

được tôn trọng, được yêu thương, được thể hiện bản thân, được thấu hiểu, được vui
vẻ và sẽ được hạnh phúc.
Kết quả: Với việc biết quan tâm đến hoàn cảnh, lắng nghe và tư vấn tâm lý
cho các em, tôi nhận thấy các em cởi mở, gần gũi hơn với thầy cô giáo. Các em coi
tôi như một người bạn, một người thân của các em để có thể chia sẻ tâm sự những
khó khăn. Đến thăm gia đình học sinh giúp tơi biết chính xác hồn cảnh gia đình
từng em, các em đang gặp vấn đề khó khăn như thế nào. Từ đó, tơi sẽ có những
phương pháp nắm bắt và tư vấn tâm lý phù hợp. Bên cạnh đó, tơi liên hệ với nhà
trường, tổ chức khuyến học để có những hỗ trợ về tài chính động viên các em có
hồn cảnh khó khăn để giúp các em giảm bớt khó khăn trong q trình học tập.
3.2. Giải pháp 2: Phân loại và tổ chức tư vấn tâm lý theo nhóm học sinh
3.2.1. Tư vấn tâm lý học đường cho những học sinh gặp khó khăn trong
học tập
3.2.1.1. Phương án 1: Phân loại nhóm học sinh về năng lực học tập theo từng
môn học để có những giải pháp tư vấn tâm lý phù hợp
Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất trong nhà trường đó là vấn đề
mang lại chuẩn kiến thức, kỹ năng cho học sinh. Tuy nhiên, đặc thù ở hai lớp chúng
tôi đang chủ nhiệm chủ yếu các em đầu vào cịn thấp, yếu hẳn ở hầu hết các mơn.
Kết quả học tập năm học lớp 10 cho thấy, lớp 11B3 các e hầu hết có học lực trung
bình, yếu. Cịn lớp 11C4 là lớp chọn B nên cũng có một vài em học lực tốt nhưng
lại khơng có mục tiêu trong học tập, cịn lại là học sinh có học lực trung bình. Từ đó
chúng tơi đã phân loại học sinh theo các nhóm như sau:
+ Nhóm học sinh lực học tốt nhưng lại không muốn học lên đại học do hồn
cảnh gia đình.
+ Nhóm học sinh có lực học yếu các mơn thuộc ban khoa học tự nhiên.
+ Nhóm học sinh có lực học yếu các mơn thuộc ban khoa học xã hội.
+ Nhóm học sinh học yếu mơn tiếng anh.
+ Nhóm học sinh học yếu tất cả các mơn.
+ Nhóm các em HS học tốt để bồi dưỡng năng lực.
Sau khi đã xác định được các đối tượng HS thuộc các nhóm ảnh hưởng tâm

lý trong học tập GV cần liệt kê ra các nguyên nhân, cần phải ghi chép rõ ràng để làm
cơ sở cho việc xây dựng các biện pháp giáo dục. Qua quá trình tìm hiểu nguyên nhân
của từng đối tượng HS chúng tôi đã đề ra các giải pháp sau:


17
+ Sau mỗi buổi học, tôi lần lượt quan sát trên sổ đầu bài và sổ điểm xem điểm
kiểm tra của các em ở các môn học. Đặc biệt là sau mỗi đợt lên điểm thường xuyên
định kỳ theo kế hoạch, tơi thường vào xem các em có tiến bộ hay không để kịp thời
nhắc nhở động viên các em cố gắng. Nhiều giáo viên sẽ quát hoặc la mắng khi các
em bị điểm kém làm ảnh hưởng đến thi đua của lớp, nhưng tôi không làm như vậy.
Một học sinh bị điểm kém mơn học nào đó, tơi sẽ tìm hiểu nguyên nhân vì sao em
bị điểm kém từ đó ra bài tập phù hợp cho từng em theo từng mức độ. Với những em
học tập tốt là sự tuyên dương, khen thưởng kịp thời.
+ Phân công các bạn học khá hơn kèm cặp, cùng làm các bài tập ở nhà. Đổi
chỗ ngồi trong lớp sao cho những em học khá hơn có thể hướng dẫn những bạn yếu
hơn. Hàng ngày cần giúp đỡ các bạn trong học tập, giảng lại những bài mà các bạn
chưa hiểu, giúp các bạn hoàn thành các bài tập bằng tự lực bản thân. Tôi quan niệm,
khi HS hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau thì HS yếu hơn sẽ tiếp thu được kiến thức, còn HS
khá hơn sẽ được củng cố lại kiến thức cơ bản tốt hơn. Đúng như câu nói của dân
gian “Học thầy không tày học bạn”.
+ Đối với những HS trong nhóm phân loại, GV cần có sổ điểm riêng chi tiết
để ghi lại sự tiến bộ của HS bằng điểm cộng, còn những HS ý thức chưa tốt bằng
điểm trừ trong từng ngày, từng tiết lên lớp. Tôi thông báo đến HS sẽ lấy con điểm
cộng, điểm trừ tổng hợp lại để lấy con điểm thường xuyên hoặc cộng điểm thêm nếu
các em có sự cố gắng. Tổng hợp và có sự động viên, khích lệ HS sau mỗi tháng thi
đua để các em có được động lực phấn đấu nhiều hơn.
+ Phối hợp với các giáo viên bộ môn trong việc cùng nhau xây dựng các giải
pháp giúp đỡ các em học tập theo từng trình độ. Bởi lẽ, một số mơn có sự liên kết,
tương hỗ lẫn nhau (ví dụ các mơn xã hội, hay mơn Tốn là cơng cụ giúp học tập tốt

các mơn học khác, đặc biệt các môn khoa học tự nhiên hay Tin học). Từ đó, GVCN
và GV bộ mơn cùng nhau phân tích đặc điểm các em HS, tạo tiền đề để có thể giúp
đỡ các em định hướng cho tương lai sau này.
Ví dụ 1: Thời gian đầu năm học, mấy tuần liên tiếp em Lê Tuấn Anh lớp 11B3
thường xun bị điểm 1 và 2 mơn Vật lý, Hố học. Qua việc phân nhóm, tơi biết em
Tuấn Anh thuộc nhóm các em học sinh có lực học yếu các môn thuộc Ban khoa học
tự nhiên. Bản thân là GV dạy Tốn, tơi cũng nhận thấy đối với mơn Tốn em cũng
học chưa tốt, chưa nắm chắc các kiến thức cơ bản. Tôi đã gặp riêng em, nhẹ nhàng
trao đổi cởi mở, ban đầu em rụt rè, sợ hãi không dám nói suy nghĩ của mình. Sau đó
khi được tơi khích lệ động viên, em Tuấn Anh tâm sự: “ Em khơng hiểu các phép
tốn và các cơng thức sau mỗi lần thầy dạy, vì thầy dạy khá nhanh. Em chưa kịp suy
nghĩ thì các bạn đã hiểu rồi, về nhà em không làm được bài tập. Cứ vậy em cảm
thấy chán và ngại học mơn Vật Lý và Hố.”
Ngay sau đó, tơi gặp riêng tất cả các em học yếu các môn thuộc Ban khoa học
tự nhiên để cùng tìm ngun nhân: Do gốc kiến thức Tốn của các em cịn chưa
vững nên cản trở việc học các mơn khoa học tự nhiên, thêm nữa các em cũng không


18
chịu học kiến thức cũ nên gây khó khăn cho việc tiếp thu kiến thức mới; từ đó tìm
ra phương án giải quyết một cách tốt nhất. Bản thân tôi lại là giáo viên mơn Tốn
của em nên đã tự rút ra bài học cho mình lúc giảng dạy. Tơi sẽ quan tâm thật nhiều
đến các em học yếu và cố gắng phụ đạo thêm cho các em vào các buổi chiều để nắm
được kiến thức cơ bản nhất, để từ đó làm nền tảng giúp em tiếp thu được kiến thức
mơn Vật Lý và Hố học. Và tơi cũng trao đổi với các giáo viên môn Ban khoa học
tự nhiên nhờ các thầy cô quan tâm thêm đến các em trong mỗi tiết học chính khóa
và bồi dưỡng. Tơi giao nhiệm vụ cho các em học tốt hơn môn toán trong lớp như em
Huyền; em Huy kèm cặp thêm cho em Tuấn Anh và các bạn học yếu môn Tốn. Đầu
các tiết học, tơi dành thời gian để hỏi han em và các em học yếu xem các em có hiểu
bài hơn khơng? Có làm bài tập về nhà chưa? Các bạn Huyền và Huy có hỗ trợ em

nhiệt tình khơng?...Và ln động viên khích lệ đồng thời nhắc nhở em tập trung hơn
cho việc học tập. Không những thế, tơi trao đổi với các phụ huynh có con học yếu
mơn Tốn để cùng phối hợp trong việc giúp con học tập ở nhà. Tơi cịn giao nhiệm
vụ cho các bạn kèm cặp phải kiểm tra các bạn học yếu việc nắm bài cũ trước khi lên
lớp, bởi đó là nền tảng cho các bạn nắm được bài mới; báo cáo lại với giáo viên bộ
mơn nếu bạn đó có sự tiến bộ để khích lệ tinh thần kịp thời cho các bạn.
Sau một thời gian, tôi thấy lực học của em Tuấn Anh và một số em có sự thay
đổi trong mơn Tốn và các mơn tự nhiên, các em dần hiểu vấn đề, nắm được các
kiến thức cơ bản và khơng cịn ngại học nữa. Từ đó kết quả học tập đã có nhiều
chuyển biến tốt.
Ví dụ 2: Em Nguyễn Thị Tuyên là một học sinh có tư chất trong lớp 11C4.
Trong các nhiệm vụ mà giáo viên đưa ra hầu hết em là HS hoàn thành nhiệm vụ sớm
nhất, là một trong những con ong chăm chỉ đi đầu hoạt động của lớp. Tuy nhiên,
trong một buổi tư vấn hướng nghiệp về định hướng nghề nghiệp trong tương lai, tôi
rất bất ngờ khi em đăng ký nguyện vọng không học lên Đại học. Tôi bắt đầu tìm
hiểu nguyên nhân từ bạn bè, người thân của em. Được biết, mẹ em là người phụ nữ
tần tảo, làm nghề nơng bình thường. Gia đình thuộc hộ nghèo của xã, nhà chỉ có hai
mẹ con sống nương tựa, đùm bọc lẫn nhau. Cũng chính vì hồn cảnh gia đình khó
khăn, sợ mẹ vất vả khơng đủ sức ni mình nên em đã không dám ước mơ học xa
hơn. Biết vậy, nhưng tiếc một tài năng, một HS đầy đủ sự thông minh, cần cù, tôi đã
động viên em bằng cách kể một ví dụ gần nhà cơ có hai mẹ con, người mẹ đã bỏ
ruộng đồng đi theo con lên thành phố làm giúp việc, vừa được gần con vừa nuôi
được con đi học, và rồi người con đã học hành và xin được việc làm ổn định, đủ sức
để lo cho mẹ. Nghe vậy, em ngồi suy nghĩ lâu và nói e sẽ suy nghĩ lại cơ ạ. Vì tơi
biết trong em có một khát khao lớn hơn như vậy. Và rồi kết quả thi học sinh giỏi cấp
trường vừa qua em Tuyên đã đạt học sinh giỏi trường mơn Sinh học. Em đã nói với
tơi rằng, mẹ em vui lắm cơ ạ và nói hai mẹ con sẽ cùng cố gắng. Từ động lực của
bạn Tuyên đã thúc đẩy nhiều bạn trong lớp cùng cố gắng, là tấm gương sáng cho các
bạn noi theo, vượt qua mọi hồn cảnh để có được ước mơ và tương lai tốt hơn.



19
Kết quả: Hầu hết các em đều có sự tiến bộ rõ nét. Điển hình là các bạn học
tốt hơn giúp các bạn học yếu hơn để cả lớp cùng tiến bộ, xây dựng được phong trào
học tập trong lớp. Lớp 11B3 đầu năm có rất nhiều học sinh thiếu tự tin trong học
tập, nhưng sau một thời gian thực hiện giải pháp nêu trên thì 100% học sinh đều tự
tin tham gia đợt khảo sát chất lượng cuối kỳ do nhà trường tổ chức. Lớp 11C4, tuy
chỉ là lớp chọn sau của khối, nhưng vẫn có em HS được khen thưởng điểm cao trong
kỳ thi khảo sát cuối học kỳ (là một trong ba em duy nhất của cả khối được khen
thưởng) và nhiều em đậu trong kỳ thi HSG cấp trường khối 11, được tham gia vào
đội tuyển thi HSG cấp tỉnh sắp tới.

Hình ảnh: học sinh giúp đỡ nhau học tập tại trường

Hình ảnh: học sinh giúp đỡ nhau học tập tại nhà


20
3.2.1.2. Phương án 2: Thông qua những lời khen ngợi, động viên để khích lệ
tinh thần cho học sinh
Hạnh phúc là trạng thái tâm lý mà ai cũng mong muốn đạt được. Nó là kết
quả của sự hài lịng và tình yêu đối với bản thân cũng như trong cuộc sống. Tuy
nhiên đối với một số người cảm thấy mình không thể chạm tới hạnh phúc. Học sinh
khi đạt kết quả học tập thấp bị bố mẹ la mắng, trách móc dần dần khiến các em tự ti,
khơng dám đối diện với chính đấng sinh thành ra mình. Bị so sánh với bạn khác
khiến các em không dám thông báo điểm cho bố mẹ, hay là xảy ra mâu thuẫn với
bạn bè với những tình huống vơ cùng đơn giản... Vì vậy, khi đến trường các thầy cơ
giáo thay vì những lời phê bình hãy khéo léo ngợi khen và khích lệ các em, tạo niềm
vui, sự hứng khởi và động lực để các em học tập tốt hơn.
Đặc biệt mỗi khi đến lớp, người giáo viên phải luôn giữ thái độ hoà nhã, cởi

mở với học sinh. Mỗi khi có bất kì một điều gì mà học sinh làm tốt, ngay lập tức
phải khen ngợi các em. Còn mỗi khi học sinh mắc lỗi hay làm điều gì chưa tốt, tôi
sẽ không chê các em ở nơi đông người mà chỉ góp ý khi chỉ có hai cơ trị. Tôi nêu ra
những tiến bộ của học sinh để ghi nhận, khích lệ, sau đó nhẹ nhàng chỉ ra cái sai, cái
chưa đúng cần rút ra cho học sinh. Dần dần giúp học sinh lấy lại động lực trong học
tập và hạnh phúc khi đến trường.
+ Giáo viên nên cười nhiều hơn với học sinh để tạo một bầu không khí thân
thiện, vui vẻ trong giờ học.
Đúng như cha ơng ta đã có câu “Một nụ cười bằng 10 thang thuốc bổ”, lợi
ích của nụ cười đối với sức khỏe đã được khoa học chứng minh. Việc này tưởng đơn
giản nhưng khơng phải giáo viên nào cũng làm được vì giáo viên chưa biết cách làm
chủ cảm xúc của mình, khơng có tính hài hước, nhưng chúng ta sẽ làm được nếu
chúng ta có tâm với nghề, thương yêu học sinh như những đứa con của mình.
Trong mỗi buổi học, hãy khởi động giờ học bằng một số việc làm đơn giản, có
thể khơng liên quan đến nội dung dạy như một câu đố, một vài động tác thể dục, một
bài hát… Có như vậy, học sinh mới được kích thích những cảm xúc tích cực, và từ
đó thu nhận kiến thức dễ dàng hơn.
Hay là lồng ghép sự hài hước vào trong lớp học bằng lời nói, biểu cảm, hành
động của giáo viên. Tạo một môi trường học tập thoải mái, tránh hết sức sự gị bó
căng thẳng để HS tiếp thu bài một cách tốt nhất.
Ví dụ: Khi các học sinh mắc lỗi khi đang nói, thay vì cắt ngang hay sửa lại, tôi
thường làm gương mặt khôi hài (gương mặt cực kì sốc đối với những lỗi lớn như sử
dụng sai những lỗi cơ bản), điều đó giúp các học sinh nhìn ra được lỗi của mình
nhưng sẽ giảm bớt áp lực để các em “sửa sai”. Có thể là những lời nói đùa thú vị có
thể diễn ra tự phát qua các tình huống xảy ra trong giờ học, hay thỉnh thoảng bng
những câu bình luận, nhận xét vui vẻ khi học sinh làm bài tập hoặc trả lời câu hỏi sẽ
giúp cho các em thoải mái, không che dấu những lỗ hổng kiến thức của mình nữa.


21

+ Giáo viên hướng dẫn nhẹ nhàng khi học sinh làm bài sai, giữ bình tĩnh khi
học sinh mắc lỗi và khơng phê bình q nặng lời, gay gắt trước mặt người khác;
khích lệ, khen thưởng các em nhiều hơn.
Giáo viên học cách lắng nghe học sinh, đặc biệt là những học sinh chưa ngoan,
GV cần quan tâm, động viên, giáo dục nhẹ nhàng tránh việc làm tổn hại đến thân thể
và nhân phẩm học sinh. Khơng qúa cầu tồn, cho phép học sinh được phạm lỗi và
có quyền sửa lỗi.
Mặt bằng chung của học sinh trong trường là khả năng tiếp thu kiến thức chậm
nên ln có tâm lý lo lắng mỗi khi giáo viên đặt câu hỏi, không dám phát biểu ý kiến
vì sợ sai, đơi khi cịn có học sinh hỏi “Làm sai có bị làm sao khơng cơ?. Nắm bắt
được tâm lý đó tơi ln động viên và khích lệ học sinh trả lời và nói vui rằng “Sai à!
Không sao. Cô cảm ơn”. Cảm ơn ở đây là cảm ơn các em đã dũng cảm, sửa lỗi sai
cũng là một bài học sâu sắc cho mỗi học sinh khác trong lớp nữa.
GV nhận xét, góp ý một cách khéo léo về những điều mà các em chưa làm được
hoặc làm chưa tốt, không nên chê bai, chỉ trích vì điều đó sẽ làm thui chột đi sự tích
cực chủ động ở các em. Ngược lại nhận được sự khích lệ, động viên và khen ngợi
đúng lúc của thầy cô giáo sẽ là nguồn động lực lớn để các em thay đổi theo hướng
tích cực. Hãy để HS cảm nhận được sự tin tưởng của thầy cơ dành cho mình. Mỗi
lời nói, mỗi hành động, tác phong cũng như cách cư xử của thầy, cô trên lớp sẽ có
tác động khơng nhỏ đến nhận thức và tình cảm của học trị. GV sẽ khơng thuyết phục
được HS nghe theo sự chỉ dạy của mình nếu như bản thân không chuẩn mực và thiếu
đi sự chân thành. Cho nên, mỗi GV phải là một tấm gương sáng về nhân cách để HS
noi theo.
Ví dụ: Trong nhóm HS nam ham chơi lớp 11B3 có em Tăng Văn Lực, bình
thường trong giờ học em thường xun nói chuyện, khơng chú ý bài giảng dẫn đến
kết quả học tập kém và bị nhiều thầy cô phản ánh. Tuy nhiên, khi phân công lao
động em lại là người xung phong đưa dụng cụ nhiều nhất lớp và tham gia rất nhiệt
tình. Ngay ngày mai trong tiết sinh hoạt lớp tôi đã tuyên dương em là học sinh nhiệt
tình nhất lớp trong buổi lao động hôm qua và được cộng 10 điểm vào bảng mục tiêu
phấn đấu. Từ khuôn mặt em tôi thấy em rất vui mừng, có lẽ lần đầu em được khen

ngợi. Rất ngạc nhiên trong một tiết Toán do tôi giảng dạy, em xung phong trả lời
bài. Tôi liền gọi em lên bảng, mặc dù câu trả lời chưa thực sự tốt, xong nếu giáo viên
khác sẽ cho em ngồi xuống và nói câu trả lời chưa chính xác, nếu giáo viên làm như
vậy, em Lực lần sau sẽ ngại suy nghĩ và không xung phong trả lời bài nữa. Tơi thì
khác, sau khi nghe câu trả lời của em, tôi nhẹ nhàng đi xuống chỗ em ngồi vỗ nhẹ
vai em và nói: “Em đã rất tự tin và trả lời rất tốt, cô mong em sẽ suy nghĩ thêm chút
nữa để câu trả lời hoàn thiện hơn nhé. Cố gắng phát huy tinh thần xung phong cho
các câu trả lời sau và với các môn học khác nữa nhé. Cô tin tưởng và chờ đợi em”.
Tôi tiếp tục quan sát và theo dõi em Lực, tôi thấy em dần thay đổi, với những thay
đổi dù nhỏ của em tơi kịp thời khích lệ động viên để em cảm thấy mình ln được


22
quan tâm, và tự tin cố gắng. Từ đó thấy kết quả học tập của em ngày càng tiến bộ.
Ở giải pháp này, đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm phải có sự quan sát tinh tế, ai
cũng muốn được ngợi khen, khích lệ. Ngay cả những em học sinh hay vi phạm nội
quy, nếu giáo viên chủ nhiệm chỉ phạt và phạt mà khơng tìm được ưu điểm dù nhỏ
của các em để khích lệ ngợi khen thì các em sẽ thấy mình vơ dụng và khơng cần cố
gắng nữa. Càng ngày các em lại vi phạm lặp lại và khơng sửa đổi được.
Kết quả: Trong q trình giảng dạy ta nói rằng khơng có một học sinh nào
yếu kém, chỉ là chúng ta chưa biết khai thác hết điểm mạnh và khả năng của các em
mà thôi. Trong quá trình đó nếu thầy cơ để ý quan sát và động viên khích lệ kịp thời,
uốn nắn những sai sót chỉ bảo cho các em chân tình thì các em sẽ có nhiều chuyển
biến đáng khích lệ. Rất nhiều em học sinh trong lớp 11C4 đã có mục tiêu phấn đấu
cho mình lâu dài, cịn các em lớp 11B3 đã tự tin và cố gắng hơn trong học tập.
3.2.1.3. Phương án 3: Giúp học sinh giảm bớt căng thẳng trước kỳ thi
Kỳ vọng của giáo viên và gia đình khiến nhiều HS ngộp thở trước kỳ thi, một
số trường hợp phải nhập viện vì quá căng thẳng.
Học sinh tâm sự: “Càng đến gần ngày thi em càng căng thẳng, cảm giác như
khơng muốn ăn được nữa, chóng mặt, buồn nơn.”. Để giúp các em giảm bớt áp lực

tôi đã đưa ra các lời khuyên:
+ Cần phân chia thời gian rõ ràng: Hãy lập danh sách những môn cần học rồi
cách phân bổ thời gian hợp lý và thực hiện theo thứ tự ưu tiên. Xen kẽ các khoảng
học là giờ nghỉ lao, thư giãn, ăn uống, vui chơi nhẹ nhàng….
+ Đặt mục tiêu vừa sức: Biết hi vọng, biết ước mơ sẽ khiến chúng ta biết phấn
đấu và sống tốt hơn. Nhưng chúng ta hãy mơ và hy vọng về những điều có khả năng
có thể thực hiện để khi chúng ta cố gắng hết sức, cẩn thận hết mức vẫn có thể vươn
tới điều ta mong muốn.
+ Tăng cường hoạt động thể chất: Hoạt động thể chất là một trong số những
cách giúp các em rèn luyện sức khoẻ cũng như tinh thần. Khi sức khoẻ tốt, cơ thể
khoẻ mạnh thì tâm lý mới có thể khoẻ mạnh được. Khi các em vận động thì trí não
được thư giãn, khơng cịn suy nghĩ lo lắng về cơng việc học tập.
+ Cần chia sẻ với gia đình về áp lực bản thân đang đối mặt: Gia đình có tầm
quan trọng to lớn và ý nghĩa thiêng liêng trong đời sống cá nhân cả về mặt thể chất
và tinh thần. Tuy nhiên, nhiều bậc phụ huynh đặt mục tiêu quá lớn, luôn so sánh với
bạn khiến các con ngày càng khoảng cách với cha mẹ. Vì vậy em cần bày tỏ quan
điểm của bản thân rõ ràng cho cha mẹ biết để được thấu hiểu và quan tâm đến tâm
lý của con mình hơn.
Ví dụ: Là giáo viên chủ nhiệm đồng thời là GV bộ mơn tốn của HS Phạm
Văn Bách. Tôi cảm thấy em là một bạn rất chăm chỉ, quan tâm đến việc học hành.
Em là học sinh có học lực khá, ln cố gắng hồn thành nhiệm vụ mà giáo viên giao.


23
Tuy nhiên, em thường xuyên cáu gắt khi các bạn hỏi bài, làm bài xong cũng không
hướng dẫn các bạn yếu hơn mặc dù cô đã gợi ý. Trong lớp có bạn Nguyễn Bá Huy
lực học xem như tốt nhất lớp. Trong các tiết học em Bách thường tỏ ý khơng thích
mỗi khi bạn Huy làm được bài trước mình. Gia đình hai em ở khá gần nhau nhưng
rất hiếm khi thấy các em chơi cùng hoặc đến trường cùng nhau. Trong kỳ thi khảo
sát cuối năm lớp 10 tổng điểm trung bình lại các mơn học, kết quả em Huy xếp thứ

nhất lớp còn Bách xếp thứ 2. Là GVCN nên tơi đã chúc mừng và có lời khen đến hai
em. Tuy nhiên, tôi cảm thấy Bách khuôn mặt buồn và ln nhìn về Huy. Qua tìm
hiểu các bạn trong lớp bằng cách hỏi riêng tôi mới biết là cha mẹ Bách luôn so sánh
em với Huy về mọi mặt. Vì thế trong một buổi chiều tan học, tơi đã nói rằng Bách ở
lại cơ nhờ chút việc, tơi tâm sự với em: “Em đã báo kết quả cho cha mẹ biết điểm
thi mình cao thứ 2 lớp chưa?”. Em cúi đầu và bảo: “Dạ, chưa cô ạ! Em sợ…”. Tôi
đã biết nguyên nhân nhưng chưa vội hỏi. Sau đó lại hỏi: “Vậy sau này ước mơ của
em là gì?”. Em ngồi lâu và hình như chưa có câu trả lời, chắc bây giờ mục tiêu duy
nhất của em là vượt qua bạn Huy. Tôi biết em là một học sinh rất có năng khiếu về
thể thao, tơi đã động viên em tham gia thể thao cho lớp, trường và đã cùng đội bóng
đạt được giải nhất giải bóng đá thanh thiếu niên huyện nhà tổ chức nhân dịp kỷ niệm
92 năm thành lập Đồn TNCS Hồ Chí Minh. Tơi thấy em rất vui và nói chuyện với
tâm sự với cơ rằng em đã tìm được mục tiêu của bản thân rồi ạ.
Kết quả: Sau khi tôi phát hiện và khuyên giải thì các em đã dần lấy lại được
sự tự tin hơn và tìm được mục tiêu cho bản thân thay vì ln quan tâm đến kết quả
thi cử. Học sinh được tư vấn kịp thời nên hiện nay đã năng nổ, nhiệt tình với các bạn
trong lớp và thành tích học tập ngày càng vượt trội. Như Plato đã có câu “Đừng ép
trẻ học bằng sự bắt buộc hay hà khắc, mà hãy hướng trẻ học bằng điều thu hút tâm
trí trẻ, để bạn có thể phát hiện tốt hơn năng khiếu đặc biệt của trẻ.”.
3.2.1.4. Phương án 4: Giúp học sinh định hướng nghề nghiệp theo năng lực
sở thích bản thân
Qua kết quả khảo sát thực trạng HS tại hai lớp, chúng tôi nhận thấy việc định
hướng nghề nghiệp cho học sinh là rất cần thiết. Tuy nhà trường đã tổ chức nhiều
buổi hướng nghiệp cho HS theo từng giai đoạn nhưng đến gần cuối lớp 11 các em
vẫn lo lắng về nghề nghiệp tương lai cho bản thân. Việc định hướng nghề nghiệp
cho HS đúng lúc, đúng thời điểm giúp các em co lộ trình học tập đúng đắn và tự tin
vào lựa chọn của mình.
Khi định hướng nghề nghiệp, HS cần xác định được một số yếu tố quan trọng
sau:
+ Tính cách, năng lực.

+ Sở thích, đam mê (điểm mạnh, điểm yếu của bản thân).
+ Nhu cầu thị trường.
+ Điều kiện, hoàn cảnh của gia đình.


24
Có em HS tâm sự rằng: Em rất muốn đi học năng khiếu âm nhạc nhưng cha
mẹ lại bắt em đi học Sư phạm. Đến giờ em vẫn chưa biết sau này em làm nghề gì.
Cứ mỗi lần nhắc đến chọn nghề là em với gia đình lại nói nhau và chưa giải quyết
được. Em không muốn làm cha mẹ buồn nhưng em sợ nếu học Sư phạm sau này em
khơng làm được việc.
Có thể thấy, hiện nay khơng ít phụ huynh vẫn đang áp đặt con cái chọn ngành
học đại học theo ý của mình. Tơi đã gọi điện cho phụ huynh và tâm sự rằng con cái
là tài sản quý giá nhất của cha mẹ, chúng ta luôn muốn điều tốt đẹp nhất cho các
con. Tuy nhiên, nhiều lúc phụ huynh nên đừng áp đặt cho các con quá nhiều thứ,
khiến các con áp lực và không định hướng được tương lai cho bản thân. Tơi lấy một
ví dụ của một người bạn cùng học ngành đại học, nghe theo cha mẹ anh đã theo học
sư phạm nhưng nghề yêu thích của anh là bách khoa. Sau khi theo học một thời gian,
anh đó thường xuyên bỏ học và kết quả cuối kỳ đã không đạt, nên đã phải dừng lại
việc học. Vì thế, phụ huynh cần hiểu rõ con mình muốn gì, hãy cho con một định
hướng đúng đắn, thích hợp với năng khiếu, sở thích của các con.
Thực tế, nhiều HS tuy vẫn đang lo lắng cho nghề nghiệp tương lai nhưng vẫn
đang mất phương hướng, không biết nên làm thế nào để đạt được mục tiêu hoặc chưa
tìm được nghề nghiệp phù hợp cho bản thân. Đó cũng là điều khiến cảm xúc các em
lo lắng, trăn trở, băn khoăn.
Vì thế, trong các buổi sinh hoạt lớp chúng tôi thường lồng vào nội dung định
hướng nghề nghiệp cho HS các câu hỏi cụ thể để các em trả lời, dần dần tạo được
cho HS biết được nghề yêu thích, phù hợp với năng lực của mình cũng như nhu cầu
của xã hội. Giúp các em có thêm nhiều động lực, niềm tin, sự cố gắng để lên kế
hoạch cụ thể trong học tập với mục tiêu cuối cùng là để đạt được ước mơ của mình.

Hi vọng đến năm cuối cấp THPT cùng với sự động viên, khích lệ, quan tâm, nỗ lực
của nhà trường, giáo viên, gia đình, bản thân HS thì tất cả các em đều định hướng
đúng nghề nghiệp cho tương lai của bản thân. Khơng có gì q giá hơn của nhà giáo
là nhìn những thế hệ học trị của mình trưởng thành, khi quay về gặp lại trường lớp,
ban bè, thầy cơ thì các em ln sẵn sàng và hạnh phúc.

Hình ảnh: Sinh hoạt chủ đề định hướng nghề nghiệp


×