Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Kinh nghiệm về công tác chủ nhiệm nhằm nâng cao chất lượng học lực và hạnh kiểm của học sinh lớp chủ nhiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.09 KB, 21 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài
Trường học là nơi đào tạo nhiều thế hệ học trò có đủ đức và tài để sau này
trở thành thế hệ tương lai cho đất nước. Người trực tiếp đào tạo những con
người như thế không ai khác là giáo viên, giáo viên bộ môn (GVBM) và giáo
viên chủ nhiệm (GVCN) lớp. Giáo viên là những người thầy được đào tạo về
kiến thức, về nghiệp vụ chuyên môn nhằm giáo dục học sinh (HS) phát triển
toàn diện, trở thành công dân tốt cho xã hội. Bên cạnh đó, ngoài công tác giảng
dạy, công tác chủ nhiệm còn là một công tác mà bất kì người giáo viên nào có
tâm huyết cũng không thể xem nhẹ được.
Thực tế ở trường trung học phổ thông (THPT), GVCN lớp có vai trò đặc
biệt quan trọng trong việc giáo dục nhân cách cho HS. Song trong những năm
gần đây, về lý luận cũng như trên thực tế chưa có sự nghiên cứu đầy đủ để tạo ra
sự định hướng thống nhất cho công tác GVCN ở trường phổ thông. Vì vậy hiệu
quả hoạt động của GVCN còn bị hạn chế. Cũng phải thừa nhận rằng dưới tác
động của quy luật kinh tế thị trường ngoài mặt tích cực thì ảnh hưởng tiêu cực
cũng đáng lo ngại như hệ thống giá trị có những thay đổi, tính phức tạp của cơ
chế mở tác động không nhỏ đến quá trình giáo dục ở nhà trường, gia đình và xã
hội (vì sự mưu sinh của gia đình nên không ít phụ huynh (PH) đã giao phó việc
giáo dục con cái cho nhà trường). Hay chưa có chế độ, chính sách thỏa đáng đối
với đội ngũ thầy cô giáo, đặc biệt đối với GVCN bởi vì thu nhập của giáo viên
còn thấp. Không những vậy công tác chủ nhiệm trong nhà trường hiện nay gặp
phải không ít khó khăn trong việc quản lý, giáo dục HS sa sút về đạo đức, thiếu
ý thức trong việc học tập, đặc biệt là những HS cá biệt, chậm tiến. Chính vì thế
mà ý thức, thái độ học tập của một bộ phận HS ngày càng đi xuống. Cho nên,
thầy cô giáo chưa toàn tâm toàn ý phục vụ sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ do còn
nhiều điều phải lo lắng (đặc biệt lo về cơm áo gạo tiền).
Trong khi đó Đảng ta luôn khẳng định “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”
và Luật giáo dục năm 2005 đã xác định: “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là
giúp cho học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và
các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực, tính năng động và sáng tạo, hình thành


nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách
nhiệm công dân; chuẩn bị cho HS tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao
động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Điều 27 - Mục 2 - Chương II Luật
giáo dục).[1]
Người ta thường nói con cái là hình ảnh của cha mẹ, một tập thể lớp là
những đứa con của giáo viên chủ nhiệm, nói như vậy cũng đúng phần nào vì rõ
ràng GVCN là người cha, người mẹ của các em. Người làm công tác chủ nhiệm
quyết định không nhỏ đến chất lượng học tập và rèn luyện của HS. Đồng thời
GVCN cũng là linh hồn của lớp. Làm tốt công tác chủ nhiệm tức là người giáo
viên đã hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Ban giám hiệu nhà trường giao. Đặc biệt
trong nhà trường, vai trò của người GVCN hết sức quan trọng. GVCN thay mặt
nhà trường quản lí điều hành lớp, trực tiếp giáo dục tư tưởng đạo đức, hình
thành nhân cách cho HS.
Ở mục 1.1: Đoạn “Trong khi … bảo vệ Tổ quốc” tác giả tham khảo nguyên văn từ TLTK số 3

1

1


Tôi là một giáo viên bộ môn Địa Lí, do đặc thù môn ít giờ, nên nhiều năm
nay tôi đều được Ban giám hiệu nhà trường phân công chủ nhiệm những lớp “có
số”. Năm học 2016 - 2017 này, tôi lại vinh dự được nhà trường phân công chủ
nhiệm lớp 12C10 (đây là lớp được coi là cá biệt đứng cuối cùng của trường, với
rất nhiều học sinh chậm tiến cả về hai mặt, GVBM thường phản ánh về nề nếp
và ý thức học tập không tốt của lớp này. Kết quả xếp loại nế nếp của lớp năm
hoc 2015 - 2016 là đứng thứ 29/29 lớp. Đặc biệt khi phân công chủ nhiệm đầu
năm không có một giáo viên nào trong trường dũng cảm nhận lớp, đều từ chối,
đặc biệt hơn nữa mới có hai năm học lớp 10, 11 mà phải thay tới 3 GVCN…).
Từ khi tiếp nhận lớp, tôi luôn tự hỏi tại sao lớp lại có kết quả kém như vậy, tại

sao giáo viên nào cũng lắc đầu ngao ngán phải chăng là do ảnh hưởng của việc
PH lo làm kinh tế mà ít quan tâm tới con em mình, do phương pháp chủ nhiệm
của giáo viên, do cách thức quản lí của giáo viên và gia đình … và đâu là
nguyên nhân chính? Vừa tìm hiểu, vừa tiến hành thực hiện từng bước theo kế
hoạch kèm theo đánh giá và bổ sung, tôi đã thành công với kết quả lớp xếp thứ
4/30 (năm học 2016 - 2017), kèm theo nhiều thành tích khác về học tập và
phong trào mà lớp và GVCN được nhà trường, đoàn trao thưởng. Với kết quả
đạt được, trong khuôn khổ sáng kiến này, tôi mạnh dạn trao đổi cùng quý đồng
nghiệp kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm đó là: “KINH NGHIỆM VỀ
CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HỌC
LỰC VÀ HẠNH KIỂM CỦA HỌC SINH LỚP CHỦ NHIỆM” để đồng
nghiệp cùng tham khảo, góp ý và chia sẻ kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục HS.
1.2 Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích:
+ Nâng cao ý thức về rèn luyện học tập và hạnh kiểm ở HS.
+ Giáo dục cho các em kỹ năng sống.
+ Khẳng định việc giáo dục được các HS cá biệt, chậm tiến thành HS ngoan
nếu phương pháp mình áp dụng là đúng và mình phải thực sự tâm huyết vì HS.
1.3 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài này nghiên cứu vấn đề về học tập và hạnh kiểm HS lớp chủ nhiệm mà
rất nhiều GVCN đã, đang và sẽ không thích nhận trách nhiệm làm công tác chủ
nhiệm.
1.4 Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
+ Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
+ Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
1.5 Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
Qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm, bản thân tôi luôn đặt ra mục tiêu là:
Làm thế nào để hoàn thành xuất sắc công tác chủ nhiệm mà lãnh đạo nhà trường

giao phó? Do đó, với vai trò là một giáo viên có nhiều năm làm công tác chủ
nhiệm ở trường THPT, tôi đã, đang và sẽ luôn vận dụng những kinh nghiệm mà
bản thân đã đúc kết được trong nhiều năm học qua. Mục đích của đề tài này là
giúp cho bản thân mình và đồng nghiệp có được những kinh nghiệm để hoàn
2


thành tốt công tác chủ nhiệm lớp, đưa lớp chủ nhiệm đạt được những thành tích
nhất định.
Bên cạnh đó, năm học 2016 - 2017 tôi áp dụng một số biện pháp mới hữu
hiệu, khả thi hơn về công tác chủ nhiệm. Tạo điều kiện cho phong trào thi đua
của lớp vào nề nếp, khuôn khổ, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
HS và tinh thần làm chủ tập thể, tự quản của HS. Cụ thể đó là:
+ Năm học này, biện pháp tôi kết hợp với hội cha mẹ lớp tốt hơn, hiệu quả hơn.
+ Tiếp xúc với HS của lớp chủ nhiệm tôi đã dành nhiều thời gian hơn.
+ Đặc biệt năm học này tôi đã đến hết được nhà 39 em HS trong lớp (năm học
trước tôi chỉ đến được nhà một số em cá biệt mà thôi).
+ Cũng trong năm học này một điểm mới nữa mà tôi áp dụng thành công đó là
đã xây dựng được một tập thể tự quản tốt, có trách nhiệm.

2. NỘI DUNG
3


2.1 Cơ sở lí luận
Công tác chủ nhiệm lớp là công tác tổ chức quản lí một lớp học sao cho
khi thầy cô có hoặc không có ở lớp thì mọi hoạt động vẫn được duy trì ổn định,
có tính tự giác cao và mọi việc vẫn hoàn thành tốt. Sự phát triển về nhận thức,
nhân cách của người GVCN, khả năng tiếp thu của HS chỉ thực sự hiệu quả khi
đó là một tập thể lớp vững mạnh và lớp học phải là ngôi nhà thứ hai của mỗi trò.

Trong lớp học cần phải tạo ra một bầu không khí sư phạm ấm cúng, những yêu
cầu về việc thực hiện nội quy lớp học cần phối hợp và duy trì đều đặn, GVCN
luôn khuyến khích, động viên những HS của mình phát huy hết khả năng, năng
lực học tập, năng lực công tác và khả năng làm các công việc khác, cần phát
hiện sớm để hạn chế những biểu hiện chưa tích cực của HS, luôn tạo không khí
vui vẻ, yêu thương, đoàn kết giữa HS trong lớp. Tất cả các em HS đều mong
muốn có một GVCN mẫu mực, đó là một đòi hỏi hết sức chính đáng để mỗi
người GVCN luôn phấn đấu.
Như tôi đã trình bày ở phần lí do chọn đề tài là cơ sở lí luận và thực tế chưa
có sự nghiên cứu, thống nhất cho công tác chủ nhiệm. Kể cả các tài liệu tìm hiểu
cũng rất hiếm gặp, chủ yếu là do kinh nghiệm và học hỏi lẫn nhau của giáo viên
mà thôi. Cho nên, theo tôi để làm công tác chủ nhiệm tốt, muốn đưa được thành
tích học tập, nề nếp của lớp đi lên thì người GVCN phải thực hiện tốt những
chức năng và nhiệm vụ của mình. Phải nắm được đường lối quan điểm lí luận
giáo dục, đồng thời giáo dục những phẩm chất đạo đức để giúp HS trở thành
những công dân tốt mai sau. Không những thế, người GVCN phải tham gia các
hoạt động chính trị xã hội tốt hơn, phải rèn luyện ở mức cao hơn. Đó là trách
nhiệm nghĩa vụ và cũng là vinh dự vì HS. Không những vậy GVCN cần phải
biết được chức năng, nhiệm vụ của GVCN lớp là gì.
Về chức năng:
Chức năng thứ nhất: Trước hết người GVCN là người quản lý giáo dục toàn
diện HS một lớp.
Muốn thực hiện chức năng quản lý giáo dục toàn diện, GVCN phải có những
tri thức cơ bản về tâm lý học, giáo dục học và phải có hàng loạt kĩ năng sư phạm
như: kĩ năng tiếp cận đối tượng HS, kĩ năng tâm lý lứa tuổi, kĩ năng đánh giá, kĩ
năng lập kế hoạch chủ nhiệm lớp… định hướng và giúp các em lường trước
những khó khăn, thuận lợi, vạch ra những dự định để HS tự hoàn thiện về mọi
mặt.
Chức năng thứ 2 của GVCN là tổ chức tập thể HS hoạt động tự quản nhằm
phát huy tiềm năng tích cực của mọi HS.

GVCN cần lưu ý xây dựng đội ngũ tự quản xuất phát từ đặc điểm, nhiệm vụ
từng năm học và tính chất phát triển của tập thể HS.
Chức năng thứ 3 của GVCN lớp là cầu nối giữa tập thể HS với các tổ chức xã
hội trong và ngoài nhà trường, là người tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục.
Chức năng thứ 4 của GVCN là người đánh giá khách quan kết quả rèn luyện
của mỗi HS và phong trào chung của lớp.
Chức năng này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với quá trình học tập, rèn
luyện, phát triển nhân cách của mỗi HS vì sự đánh giá khách quan, chính xác,
4


đúng mức là một điều kiện để giáo viên và HS điều chỉnh mục tiêu kế hoạch…
hoạt động cho cả lớp và mỗi thành viên.
Về nhiệm vụ:
Để thực hiện tốt các chức năng trên, GVCN cần có những nhiệm vụ cụ thể, có
những yêu cầu nhất định. Cần có chế độ chính sách hợp lí và những điều kiện tối
thiểu để GVCN thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Vậy đó là những nhiệm vụ gì?
Nhiệm vụ 1. Nắm vững mục tiêu giáo dục của cấp học, lớp học và chương
trình dạy học, giáo dục của trường.
Nhiệm vụ 2. Tìm hiểu để nắm vững cơ cấu tổ chức của nhà trường.
Nhiệm vụ 3. Tiếp nhận HS lớp chủ nhiệm, nghiên cứu và phân tích mọi đặc
điểm của đối tượng trong lớp và các yếu tố tác động đến các em bao gồm đặc
điểm tâm lý, nhân cách, năng lực của mỗi em, hoàn cảnh gia đình và sự quan
tâm của gia đình đối với con em.
Nhiệm vụ 4. Để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp, người GVCN phải tự hoàn
thiện phẩm chất nhân cách của mình.
Nhiệm vụ 5. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của GVCN lớp là không
ngừng học tập chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm nhằm đổi mới công tác tổ chức
giáo dục, dạy học góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở nhà trường
phổ thông.

Nhiệm vụ 6. GVCN phát huy công tác xã hội hóa giáo dục, khi đó GVCN phải
là người tham mưu, xây dựng kế hoạch, thực hiện, … để xây dựng môi trường
sư phạm lành mạnh, thống nhất hoạt động, thực hiện các mục tiêu, nội dung giáo
dục HS lớp chủ nhiệm.
2.2 Thực trạng vấn đề
Có thể nói trong những năm gần đây nền giáo dục của nước ta có nhiều
sự thay đổi và biến động không ngừng để nhằm mục đích giảm tải, hòa nhập vào
nền giáo dục Thế giới. Cho nên Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm đến sự
nghiệp giáo dục, đến vấn đề đảm bảo chất lượng dạy và học, đến kĩ năng sống
của các em. Chính vì thế, khi nhận công tác chủ nhiệm lớp tôi rất lo lắng không
biết làm thế nào để xây dựng một tập thể đoàn kết, vững mạnh, luôn cố gắng
vươn lên trong học tập và rèn luyện (trong khi điểm xuất phát của tôi khi nhận
lớp là quá thấp).
Trong thực tế, chủ nhiệm lớp là công tác vô cùng khó khăn, phức tạp, vui
ít, buồn nhiều, thành công cũng có, thất bại cũng không phải là hiếm. Bởi lẽ,
mỗi một tập thể lớp đều có những đặc thù riêng của lớp đó. Có lớp như thế này,
có lớp như thế khác: nào là HS cá biệt về học tập, về đạo đức, nào là HS có hoàn
cảnh gia đình khó khăn về kinh tế, con mồ côi, bố mẹ li thân, bố mẹ đi làm ăn
xa…Trong số đó, đối tượng HS làm cho thầy cô giáo trăn trở nhiều nhất là chưa
tích cực trong học tập, thiếu ý thức. Tuy nhiên, trong lớp vẫn có số ít những HS
ngoan, tự lo cho bản thân mình, xây dựng tập thể lớp để tập thể lớp tiến kịp với
các bạn, để đạt được những chỉ tiêu của trường đề ra.
Thực tiễn là như vậy, cho nên GVCN phải có phương pháp chủ nhiệm
như thế nào để có hiệu quả cao nhất. Công tác chủ nhiệm của một giáo viên
thành công, đồng nghĩa với việc giúp các em hoàn thiện mình hơn, xây dựng
được tập thể lớp vững mạnh, đưa nhà trường ngày càng tiến lên.
5


Lớp tôi, các em ở hầu hết các xã trường tuyển sinh mà gia đình 100% làm

nông nghiệp, thu nhập thấp nên hơn 70% PH đi làm ăn xa, thậm chí có tới 8 em
cả bố mẹ đi làm ăn xa để các em ở nhà với ông bà, thiếu đi sự quan tâm thường
xuyên của bố mẹ; còn một số PH chưa thật sự để tâm đến việc học và giáo dục
con cái, phó mặc cho nhà trường. Không những vậy tôi gặp phải 5 PH nói là bất
lực trong cách giáo dục con mình - đây là điều không có lợi cho tôi khi phối hợp
với gia đình để giáo dục HS - lúc nào cũng trăm sự nhờ cô. Điều này cũng là
một yếu tố khó khăn đối với tôi.
Các em HS lớp tôi về mặt học lực thì khoảng 80% các em là trung bình yếu, khoảng 30% hạnh kiểm trung bình - yếu, các em còn có tính ham chơi,
chưa xác định rõ nhiệm vụ học tập của mình, nhận thức về học tập của các em
còn có sự chênh lệch giữa các đối tượng HS, lớp thì thiếu tinh thần đoàn kết,
mạnh ai người đó sống, luôn vi phạm vào Điều lệ trường THPT như đánh nhau,
sử dụng điện thoại trong giờ, nghỉ học vô lí do… Điều đáng chú ý trong tất cả
phong trào thi đua lớp C10 đều đứng cuối, cụ thể: học kì II năm lớp 11 lớp có tới
13 tuần đứng cuối khối, không có tuần nào đứng thứ 1,2,3; vị trí cao nhất là thứ
6 khối; lớp xếp yếu học kì I, II và cả năm…(năm học 2015 - 2016). Trong khi đó
trường tôi xếp thi đua lớp đạt danh hiệu tiên tiến xuất sắc phải nằm trong tốp 5
của khối về điểm nề nếp, không vi phạm vào Điều lệ trường phổ thông. Áp lực
về lớp chủ nhiệm ngày càng đè nặng lên tôi bởi vì lớp chủ nhiệm ảnh hưởng đến
xếp loại thi đua của giáo viên cuối năm. Khó khăn chồng chất khó khăn. Vậy
làm thế nào để đưa thành tích học tập, nề nếp của lớp đi lên là câu hỏi luôn
“nung nấu” ở trong tôi.
2.3 Giải pháp
Được Ban Giám hiệu giao trọng trách chủ nhiệm lớp “nổi tiếng” này tôi
thấy trách nhiệm đè nặng lên đôi vai mình. Cho nên tôi xem HS lớp chủ nhiệm
là những người thân của mình, đó là em, là con trong gia đình. Xuất phát từ
nhận thức đó, tôi đã dồn hết tâm trí, tình cảm của mình vào công việc quan trọng
này.
Những giải pháp, việc làm cụ thể mà tôi đã áp dụng để làm tốt công tác
chủ nhiệm một lớp 12C10 là:
2.3.1. Tìm hiểu, phân loại học sinh lớp chủ nhiệm

Tuần đầu tiên nhận lớp tôi đề nghị mỗi em viết cho tôi một lá thư với những
nội dung sau:
+ Hoàn cảnh gia đình (giới thiệu về bố mẹ, anh chị em trong gia đình, em ở
với ai, thu nhập chính của gia đình từ đâu…)
+ Học lực, hạnh kiểm của em năm lớp 11.
+ Ước mơ của em là gì?
+ Em có những điểm mạnh, điểm yếu nào. Những môn học em yêu thích, vì
sao?
+ Em mong muốn gì ở GVCN mới.
+ Em mong muốn đội ngũ cán bộ lớp là những ai...
Tôi đã nhận đủ 39 lá thư của các em, phải mất hai tối tôi mới đọc hết thư của
các em. Có những bức thư viết dài, tâm huyết bày tỏ cả nỗi niềm, mong muốn sự
trân trọng đối với cô giáo chủ nhiệm. Có bức thư viết sơ sài. Tôi đọc tất cả với
6


sự chiêm nghiệm sâu sắc và có những bức thư của các em đã làm tôi khóc với
một ước mơ thật giản dị: “Em mong lớp 12 trôi đi thật nhanh, em đậu tốt nghiệp
để em đi làm công ty giày ở Định Liên kiếm tiền chữa bệnh cho mẹ em...” hay “
em ước Tết này mẹ em về ăn Tết với em vì đã 11 năm em chưa được gặp mẹ,
trong kí ức của em hình bóng mẹ không có cô ạ...”. Qua tìm hiểu có một điều tôi
thật sự ngạc nhiên là hơn 50% HS trong lớp thích học môn thể dục vì lí do
không phải học, thoải mái. Chính những bức thư này phần nào đã giúp tôi tìm
hiểu được hoàn cảnh gia đình các em từ đó tôi phân loại được HS, đồng thời
giúp tôi làm tốt công tác chủ nhiệm của mình.
2.3.2. Xây dựng Ban cán sự lớp và Ban chấp hành chi đoàn tự quản
Ban cán sự lớp là một yếu tố rất quan trọng đảm bảo duy trì tốt mọi hoạt
động của lớp vì vậy GVCN phải lựa chọn, phân công, giao nhiệm vụ cụ thể, hợp
lý cho mỗi em. GVCN phải kiểm tra thường xuyên, động viên, rút kinh nghiệm,
đưa ra một số giải pháp để ban cán sự lớp hoàn thành tốt nhiệm vụ. Ví dụ : Mỗi

em trong ban cán sự đều có sổ sách ghi chép công tác mình làm và hiểu được
nội dung của công việc mình phụ trách. Cuối tuần đến tiết sinh hoạt lớp, các em
tự giác xếp thi đua theo tổ, số liệu từng mảng công tác để trình bày trước lớp và
cô chủ nhiệm. Tiết sinh hoạt lớp, GVCN như người dự giờ buổi sinh hoạt của
các em, nghe các em báo cáo, chờ ý kiến chỉ đạo và triển khai công tác mới của
cô “cố vấn”. Tôi gắn các em vào các phong trào để các em cảm thấy tự tin hơn,
cảm thấy được thầy cô và bạn bè tín nhiệm nên sẽ cố gắng làm việc cho thật tốt.
Một điều cần quan tâm là GVCN phải linh động từng nội dung công tác,
phải kết hợp thật hài hòa việc thực hiện, giảm thời gian không đáng có để các
em tập trung vào việc học là chính. Ban đầu tôi vẫn để nguyên ban cán sự lớp cũ
do đây mới chỉ là đầu năm. Tôi mong muốn xây dựng lớp thành một tập thể
đoàn kết nhất trí, biết tự quản lý các công việc của tập thể. Cộng với các em
trong lớp mong muốn xây dựng một ban cán sự lớp nhiệt tình, năng động có
trách nhiệm. Cho nên dịp Đại hội chi đoàn - lớp đầu năm, tôi đã tư vấn và định
hướng cho các em bầu lại ban cán sự lớp như điều các em gửi gắm niềm tin vào
ban cán sự lớp mới. Sau đó tôi quy định rõ chức năng, nhiệm vụ cho Ban cán
sự và Ban chấp hành của lớp - chi đoàn:
+ Lớp trưởng: tổ chức, theo dõi hoạt động tự quản của lớp (dưới sự chỉ đạo,
cố vấn của GVCN) như các tiết sinh hoạt tập thể lớp hàng tuần (sinh hoạt dưới
cờ, sinh hoạt 15 phút...) các cuộc hội ý cán bộ cốt cán của lớp. Kết hợp với Ban
chấp hành chi đoàn để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Luôn có trách nhiệm quản lý
lớp trong mọi hoạt động tập thể của trường, nhận xét, đánh giá kết quả thi đua
các mặt của lớp hàng tuần, hàng tháng.
+ Lớp phó học tập: Xây dựng thành viên cốt cán từng môn, đặc biệt 3 bộ môn
Văn, Toán và Ngoại ngữ. Đôn đốc các thành viên đi học đầy đủ, đúng giờ, làm
bài tập trước khi đến lớp. Tổ chức các câu lạc bộ học tập theo chủ đề, kiểm tra
chéo vở bài tập lẫn nhau. Đề xuất với GVCN, giáo viên bộ môn (GVBM) về kế
hoạch, nội dung học tập. Có kế hoạch giúp đỡ các bạn học kém. Theo dõi, đánh
giá kết quả học tập của lớp hàng tuần, hàng tháng, học kỳ.


7


+ Lớp phó lao động: nhận nhiệm vụ, tổ chức phân công, điều khiển các buổi
lao động, vệ sinh của lớp. Nhận xét, đánh giá kết quả trước lớp và báo cáo cho
lớp trưởng.
+ Lớp phó văn nghệ: điều khiển và theo dõi các hoạt động văn nghệ của lớp.
Nhận xét, đánh giá kết quả trước lớp và báo cáo cho lớp trưởng.
+ Tổ trưởng: theo dõi và điều khiển các hoạt động của tổ, nắm được tình hình
cụ thể về học tập, kỷ luật của từng tổ viên. Tổng hợp kết quả từng tuần, nhắc
nhở động viên các thành viên của tổ và báo cáo kết quả với GVCN, lớp vào tiết
sinh hoạt cuối tuần. Về các tổ trưởng tôi phân công chứ không qua bầu cử.
+ Bí thư chi đoàn: tiếp thu những thông báo của Đoàn trường để triển khai
cho Đoàn viên trong chi đoàn thực hiện đầy đủ. Thực hiện các phong trào thi
đua, ủng hộ, ... do Đoàn trường phát động nhằm tạo không khí vui, là cơ hội
phát huy tính đoàn kết, gương mẫu trên cơ sở động viên là chính.
+ Phó bí thư chi đoàn, Ủy viên: nhận nhiệm vụ từ Bí thư chi đoàn cùng xây
dựng phương án hợp lí nhất để triển khai tới đoàn viên.
Sau khi xây dựng được Ban cán sự lớp và Ban chấp hành chi đoàn, tôi
trăn chở làm thế nào để xây dựng được một tập thể lớp tự quản theo đúng nghĩa
của nó. Tức là các em tự quản lý: hành vi, đạo đức, tác phong, nề nếp, hoạt động
của lớp khi không có giáo viên. Điều này GVCN phải tạo trước cho các em ý
thức tự giác và việc quản lý theo dõi hoạt động của đội ngũ cán bộ lớp phải được
thực hiện thường xuyên. Muốn vậy, ngay từ đầu năm học tôi cho tiến hành việc
theo dõi thi đua của các tổ. Các tổ trưởng tự quản lý thành viên của tổ mình,
phân công theo dõi trực chéo nhau giữa các tổ dưới sự giám sát của cán bộ lớp
tương ứng với nội dung từng hoạt động.
Bước đầu phải tập cho các em cách tự quản lớp trong buổi đầu giờ. Có thể
buổi đầu chưa quen, kết quả chưa đạt nhưng gắn nội dung sinh hoạt theo chủ đề
mà Đoàn trường đã đưa ra: cán sự bộ môn nên giải bài tập…Sau nhiều lần các

em sẽ thực hiện được. Từ đó việc tự quản sẽ đi vào nề nếp, trở thành thói quen.
Trong những buổi đầu duy trì phong trào này rất cần sự quan tâm, theo dõi, nhắc
nhở của GVCN.
Chẳng hạn truy bài phút đầu buổi, các tổ trưởng sẽ kiểm tra việc chuẩn bị
bài các bộ môn trong buổi hôm đó của các bạn trong tổ như thế nào. Cán sự các
môn và lớp phó học tập sẽ kiểm tra việc chuẩn bị của các tổ trưởng. Những sai
phạm của các tổ, thành viên trong lớp được ghi tên và nêu ra trong tiết sinh hoạt
cuối tuần.
Tiết sinh hoạt lớp là tiết quan trọng nhất trong một tuần thời lượng chỉ có
45 phút mà công việc lớp trong tuần có rất nhiều thì làm sao giải quyết truyền tải
hết. Vì vậy, tôi phải tập cho các em việc đánh giá, xếp thi đua trước. Mỗi bộ
phận có sẵn bản tổng hợp báo cáo. Đến tiết sinh hoạt các em tự thông báo kết
quả thi đua, các nội dung được thực hiện trong một tuần (những việc đã làm
được và không làm được với lý do cụ thể), tình hình lớp tromh tuần, số bạn vi
phạm học tập (không chuẩn bị bài, không thuộc bài…), vi phạm việc rèn luyện
đạo đức tác phong (không đồng phục, mất đoàn kết, mất trật tự…), vi phạm về
công tác văn thể, lao động, tự quản.
8


GVCN theo dõi, ghi sổ từng nội dung sinh hoạt trong tuần thông qua báo
cáo của từng bộ phận. Lần lượt giải quyết từng nhóm vụ việc, tìm lý do sai
phạm, đưa ra biện pháp xử lý. GVCN nhận xét kết quả thi đua tuyên dương tổ,
cá nhân tốt. Triển khai nội dung tuần tiếp theo và nhắc nhở các em thực hiện tốt
các nội dung của lớp trong tuần tiếp theo.
Một tập thể đoàn kết tham gia tốt các phong trào không phải tự dưng mà
có. Phải là kết quả của quá trình đầu tư làm công tác tư tưởng, vô hiệu hóa các
phần tử học sinh cá biệt thường gây rối phá vỡ tính đoàn kết trong tập thể.
Thường thường sự chia rẽ nội bộ hay xảy ra ở các bạn khác thôn, xóm hoặc giữa
các nhóm khác nhau về sở thích, sức học…Điều này tôi đã nắm bắt kịp thời để

có biện pháp dàn xếp, xử lý có hiệu quả.
Có thể nói tôi đã xây dựng được “bộ máy tự quản” của lớp làm việc rất có
trách nhiệm, tự giác và hiệu quả. Bởi các em bao giờ cũng phải gương mẫu
trước các bạn về mọi mặt. Với tôi, tôi làm tấm gương cho các em học tập, chẳng
hạn như tôi không sử dụng điện thoại khi đang có mặt tại lớp vì nếu sử dụng
trong giờ thì làm sao tôi giáo dục được các em. Hay xu thế bây giờ hầu như đều
nhuộm tóc nhưng tôi không nhuộm bới một lí do rất đơn giản cô nhuộm thì làm
sao nói được HS. Chỉ cần HS không nói trước mặt mình mà các em nói với nhau
là cô cũng sử dụng điện thoại mà bắt bọn mình, cô cũng nhuộm tóc tại sao cô
không cho các em nhuộm tóc khác màu đen thì mọi công sức sẽ trở thành vô
nghĩa.
2.3.3 Xây dựng thang điểm đánh giá thi đua của từng học sinh, của tổ
Thang điểm thi đua của lớp tôi xếp theo tiêu chí đánh giá của Thông tư 58 và
Đoàn trường, lưu ý thường xuyên các nội dung sau:[2]
Cá nhân:
+ Hạnh kiểm tốt: không vi phạm nội quy, quy định của trường lớp, Điều lệ
trường phổ thông.
+ Hạnh kiểm khá: vi phạm một trong những lỗi sau: bị điểm kém, không đồng
phục, không sơ vin, không phù hiệu, để tóc tốt, nghỉ học có phép, nói chuyện
riêng, bị nhắc nhở, vào lớp chậm sau giáo viên, đổi chỗ ngồi, đi học chậm.
+ Hạnh kiểm trung bình: Đi xe đạp trong trường, nghỉ học không có lí do, ngủ
trong giờ, bị ghi sổ đầu bài.
+ Hạnh kiểm yếu: Đánh nhau, hút thuốc, trèo tường, bỏ giờ, sử dụng điện
thoại, ăn cắp, ăn quà trong lớp, vi phạm vào Điều lệ trường THPT
Tổ:
+ Cứ 1 tháng (4 tuần) các tổ thi đua với nhau. Cụ thể tổ nào có nhiều em đạt
hạnh kiểm Tốt nhất thì được thưởng mỗi em 2 chiếc bút bi, nhì tháng được 1
chiếc bút (kinh phí lấy từ quỹ lớp). Với phần thưởng nhỏ này cũng đã tạo cho
các em một sức mạnh đoàn kết, giúp đỡ nhau rất tốt.
+ Khi đã có thang điểm đánh giá cụ thể, ở buổi Đại hội chi đoàn - lớp tôi đưa

ra cho các em thảo luận để đi đến thống nhất. Không những vậy, buổi họp PH
đầu năm tôi cũng thông qua cho PH năm bắt và được sự ủng hộ, nhất trí 100%
của PH.
+ Để theo dõi thi đua của lớp được tốt hơn, tôi xếp chéo theo dõi. Tổ trưởng tổ
1 theo dõi tổ 2, tổ 2 theo dõi tổ 3, tổ 3 theo dõi tổ 4, tổ 4 theo dõi tổ 1.
Ở mục 2.3.3: Đoạn “Cá nhân…giúp đỡ nhau cùng tiến bộ” tác giả tham khảo từ TLTK số 2

9


Hết 1 tháng tôi lại đổi nhẩy cóc lên. Tôi yêu cầu lớp trưởng theo dõi chung.
Một vài tiêu chí được đưa ra để đánh giá như:
Nếu 1 tuần xếp hạnh kiểm Khá, Trung bình thì làm bản tự kiểm điểm đọc
trước lớp và hứa cam kết không tái phạm.
Nếu các em bị xếp hạnh kiểm Yếu trong tuần, hoặc 2 tuần trong tháng đều có
hạnh kiểm Khá hay Trung bình thì viết bản tường trình đồng thời mời PH đến
trường để trao đổi, tìm giải pháp và cam kết với GVCN (thậm chí cam kết trước
khả năng HS đó tiếp tục vi phạm).
Nếu trong tuần em nào vi phạm 2 điều trở lên (trừ hạnh kiểm yếu) thì bị hạ
một bậc hạnh kiểm. Ví dụ cụ thể: em Đ thứ 2 đi học chậm nhưng đến thứ 5 bị
ghi sổ đầu bài thì hạnh kiểm tuần của em là Yếu.
+ Để khuyến khích động viên các em tôi cũng đưa ra điểm thưởng cho các
em. Ví dụ: tuần này HS B bị xếp hạnh kiểm Trung bình hoặc Khá, tuần sau được
1 con điểm tốt (9,10) thì hạnh kiểm của HS B được nâng lên một bậc. Khi đưa ra
tiêu chí này các em rất phấn khởi, một số em hay vi phạm lo học bài cũ để được
điểm tốt nhằm nâng cao thành tích học tập, lớp được cộng điểm, không bị trừ.
Đặc biệt tôi biết các em rất sợ tâm lí phải mời PH đến gặp GVCN nên biện pháp
này đã tạo động lực cho các em tự học rất tốt.
+ Không những vậy, tôi còn phô tô cho mỗi em văn bản quy định nhiệm vụ HS
THCS và THPT (Điều 38, 39, 40, 41, 42) và Thông tư 58 về cách xếp loại hạnh

kiểm. Thỉnh thoảng ở buổi sinh hoạt cuối tuần tôi kiểm tra các em về những điều
văn bản, thông tư quy định.
Có thể nói việc xây dựng thang điểm đánh giá thi đua cho từng học sinh, của
tổ tôi thấy rất có hiệu quả. Các em đã có mục tiêu phấn đấu, các tổ thi đua với
nhau và điều quan trọng nhất tôi thấy được ở các em đã có tinh thần đoàn kết,
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
2.3.4. Xây dựng kế hoạch lớp chủ nhiệm
Kế hoạch công tác của GVCN là chương trình hoạt động của GVCN trong
việc chỉ đạo lớp chủ nhiệm thực hiện các mục tiêu giáo dục HS.
Hiệu quả giáo dục HS của lớp phụ thuộc phần lớn vào tính khoa học của kế
hoạch giáo dục HS của GVCN. Cho nên tôi xác định để làm có hiệu quả thì
mình phải xây dựng một kế hoạch hoàn chỉnh và có sự điều chỉnh từng thời
điểm, từng học kì dựa trên cơ sở mục tiêu và nhiệm vụ năm học, đặc điểm tình
hình của lớp, những mặt mạnh và thuận lợi của lớp về mọi mặt, những mặt yếu
và hạn chế của lớp. Từ đó tôi lập kế hoạch thực hiện về những nội dung: hạnh
kiểm, học lực, giáo dục lao động hướng nghiệp, giáo dục thẩm mỹ. Tôi đã đưa
ra mục đích yêu cầu, các chỉ tiêu cụ thể và biện pháp chính (các biện pháp mà
tôi đã ứng dụng trong sáng kiến kinh nghiệm này).
2.3.5. Chỉ đạo lớp thực hiện các nội dung giáo dục toàn diện
Khác với GVBM, GVCN lớp phải tổ chức, quản lý, giáo dục HS trong tiết
sinh hoạt lớp hàng tuần, trong các buổi lao động hàng tháng và tham gia các
hoạt động chung của toàn trường. Nói đúng hơn là GVCN là người cố vấn, giúp
đội ngũ cán bộ tự quản của lớp tổ chức, điều khiển, quản lí các hoạt động nhằm
giáo dục đạo đức, nhân cách cho HS. Tôi luôn giáo dục các em cần phải đoàn
kết giúp đỡ lẫn nhau. Có như vậy mới nâng cao kết quả học tập, lao động và
10


hướng nghiệp, giáo dục thẩm mỹ, vui chơi giải trí và phòng chống các tệ nạn xã
hội.

Khi làm công tác chủ nhiệm lớp C10, tôi đặt hàng đầu về giáo dục đạo đức,
pháp luật, kĩ năng sống cho HS. Ý thức đạo đức là do chính các em quyết định.
Còn học giỏi hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Tôi vẫn hay nói với các
em, lớp ta học không phải là lớp đứng đầu nhưng về ý thức tôi cần các em phải
là tốt.
Chẳng hạn vào những ngày lễ lớp chỉ tặng quà cho GVBM dạy lớp mình. HS
tặng không có ý đôi khi làm cho nhiều giáo viên khác ngượng, chạnh lòng. Các
em gặp Thầy cô ở chỗ đông giáo viên để tặng hoa, chúc giáo viên dạy lớp mình
còn giáo viên không dạy lớp chẳng biết làm gì với tình huống đó. Song, với lớp
tôi đi chúc mừng Thầy cô bao giờ cũng có hai em đi cùng với lí do nếu gặp thầy
cô ở chỗ đông, một em đứng lại gần nói nhỏ với Thầy cô ra ngoài cho chúng em
gặp một chút. Làm điều này rất tế nhị mà Thầy cô thấy hài lòng. Đây chỉ là một
ví dụ nhỏ mà tôi đã dạy các em về kĩ năng giao tiếp.
Như tôi đã trình bày ở trên, lớp tôi là lớp có chất lượng đầu vào thấp về học
tập, năm học trước có tới 3 em thuộc dạng phải thi lại. Nên tôi đã đưa ra biện
pháp kích thích sự hứng thú trong học tập của các em bằng nhiều cách:
+ Tôi phân công kèm 1 - 1, có nghĩa là những em học trung bình, yếu được
một bạn học khá kèm.
Trước khi kèm bạn, tôi tìm hiểu nguyên nhân vì sao em đó học yếu, học yếu
những môn nào và em đó hợp với những bạn nào học khá. Làm được như vậy cả
hai bạn càng hiểu nhau hơn, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
+ Những buổi sinh hoạt quy định chữa bài tập, lớp phó học tập chữa bài, còn
các tổ trưởng kiểm tra đồ dùng, sách vở, vở bài tập của tổ mình theo dõi. Nếu
bạn nào chưa làm được, lớp trưởng, bí thư sẽ hỗ trợ giảng giải.
+ Còn với những em học lực khá trở lên, có nguyện vọng thi Đại học tôi đã
gặp GVBM trao đổi để nhờ GVBM hỗ trợ, kèm cặp, ra bài tập nâng cao về nhà.
+ Đặc biệt, HS lớp tôi học môn Tiếng Anh là yếu nhất nên tôi đã tạo hứng thú
cho các em bằng cách: ngoài GVBM Tiếng Anh kiểm tra nếu em nào mà thuộc
được 20 từ mới tương ứng với 1 điểm 10 để tính vào điểm thi đua.
+ Đối với cuộc thi viết về “tri ân Thầy cô”, mặc dù Đoàn trường phát động

mỗi lớp có ít nhất 2 bài viết về Thầy cô nhân ngày 20/11. Nhưng tôi yêu cầu cả
lớp viết với 2 mục đích: 1. các em tập viết văn và 2 là xem tình cảm các em
dành cho giáo viên như thế nào. Sau đó tôi nhờ GVBM Văn của lớp chấm và
chữa để chọn ra những bài viết tốt nhất. Thật bất ngờ trong tổng số 110 bài gửi
của toàn trường, số bài đoạt giải là 10 thì lớp C10 có tới 3 bài có giải và còn
được trao giải phụ lớp có số bài tham gia nhiều nhất.
+ Phương pháp giảng dạy mỗi giáo viên có sự khác nhau. Bên cạnh đó còn
tuỳ thuộc vào đặc trưng bộ môn. Qua tìm hiểu một số em HS lười học cho rằng
thầy cô dạy khó hiểu, yêu cầu cao…nên các em đạt kết quả học tập bộ môn thấp.
Tôi đã tìm cách phân tích cho các hiểu để các em có nhận thức đúng đắn, từ đó
xác định đúng trách nhiệm học tập của mình và tự giác hoàn thành yêu cầu do
GVBM đề ra.
11


+ Nhà trường phát động cuộc thi liên môn dành cho HS THPT, tôi cũng đã
khuyến khích lớp trưởng và lớp phó học tập tham gia viết. Các em trả lời là
không biết cách làm, nhưng sau đó tôi chỉ cho các em những công việc xung
quanh ở địa phương các em đang làm thì các em mới hiểu thế nào là làm bài liên
môn. Trong quá trình làm các em có khó khăn gì tôi sẵn sàng giúp đỡ.
Như vậy, việc tổ chức có kế hoạch các hoạt động học tập cho HS nhằm nâng
cao kết quả học tập là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của GVCN lớp. Vì
vậy, vấn đề đặt ra là GVCN cần nghiên cứu, tìm hiểu nắm vững tình hình cụ thể
của cả lớp nói chung, của từng cá nhân HS nói riêng để lựa chọn biện pháp giáo
dục phù hợp.
Nền kinh tế thị trường hiện nay có yêu cầu nguồn nhân lực rất đa dạng. Vấn đề
tư vấn hướng nghiệp cho HS là rất quan trọng. Tôi biết lực học của từng em nên
qua các buổi sinh hoạt tôi đã tư vấn cho các em không nhất thiết vào Đại học
mới là chìa khóa của sự thành công. Tôi đã làm công tác hướng nghiệp cho các
em thông qua các buổi sinh hoạt lớp, bài học bằng cách:

+ Giúp HS tìm hiểu (vị trí, vai trò, đặc điểm, yêu cầu, số lượng, trình độ văn
hóa, kĩ thuật, sức khỏe, hoàn cảnh gia đình...) về nhu cầu nghề nghiệp của xã hội
nói chung, địa phương nói riêng.
+ Tôi đã hướng dẫn, giúp đỡ các em lựa chọn nghề thích hợp, có hứng thú, khả
năng của các em và đáp ứng yêu cầu của xã hội.
+ Tôi vào các trang mạng [3] tìm hiểu về một số trường kỹ thuật như các
trường Cao đẳng nghề, trường Đại học Việt Hung... để cung cấp thêm cho các
em những thông tin cần thiết liên quan đến tuyển sinh...
Về hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao của lớp.
Vào đợt 20/11, Đoàn trường tổ chức thi văn nghệ, tôi xác định các em là năm
cuối tham gia cho có phong trào, không được bỏ cuộc để tập trung vào việc
tập. Sang đến kỳ 2 vào dịp 8/3, Đoàn trường phối hợp với Nữ công nhà trường
tổ chức thi cắm hoa, bắt buộc mỗi lớp phải tham gia. Lớp tôi hầu hết các em ở
nông thôn nên cắm hoa cũng không phải là thế mạnh của lớp. Tôi chỉ sợ cử em
em đi thi mà cắm xấu quá thì bản thân em đó bị ảnh hưởng tâm lí rất nhiều. Cô
và trò đã mày mò cắm rất nhiều mẫu nhưng vẫn không hài lòng. Cuối cùng chỉ
tập trung vào cắm mà không chú ý đến thuyết trình (vì cả cô trò nghĩ lớp mình
không thể vào vòng trong được). Đến khi thông báo lớp được vào vòng thuyết
trình cả cô và trò vỡ òa trong niềm sung sướng, thời gian chuẩn bị chỉ có 2 phút
và may lớp tôi thuyết trình thứ 3 nên tôi đã kịp vạch ra một số ý cơ bản cho em
tiếp thu. Qua đây, lại một lần nữa tôi động viên HS của mình hãy tin vào chính
mình, mình sẽ làm được.
Đợt thi tìm hiểu “Bác Hồ với Thanh Hóa - Thanh Hóa làm theo lời Bác Hồ dạy” nhân dịp
kỷ niệm 70 năm Ngày Bác Hồ lần đầu tiên về thăm Thanh Hóa (20/02/1947 20/02/2017) vừa rồi do Đoàn trường phát động HS cả trường tham gia. Riêng
khối 12 chỉ yêu cầu làm bài đại trà, không làm bài chất lượng mà để các em tập
trung vào học. Với lớp tôi thì khác, tôi đã tập hợp ban cán sự lớp họp, bàn cách
làm bài dự thi vì lớp có nằm trong tốp 5 của khối mới có cơ hội được xếp lớp
xuất sắc. Tôi đã vạch ra cách làm cho các em thống nhất. Đó là giờ Thể dục xin
Ở mục 2.3.5, tr12: Đoạn “Tôi vào…đến tuyển sinh” tác giả tham khảo từ TLTK số 3


12


thầy giáo bộ môn cho các em làm bài. Tôi đưa máy tính của mình cho các em
làm bài, còn công việc in ấn, đóng bìa cô sẽ giúp.
Dân ta có câu: “văn ôn võ luyện”, tôi là GVCN nữ nên hiểu biết về cách chơi
bóng chuyền rất hạn chế. Cho nên trước đó, tôi thấy một số em nam trong lớp
đam mê môn thể thao này nên tôi đã nhờ GVBM Thể dục tập cho các em. Dịp
26/3 vừa rồi, Đoàn trường tổ chức thi bóng chuyền và kéo co nữ, lớp tôi sĩ số ít
nhất trường, các em lại nhỏ con. Nhìn lực lượng thì lớp tôi thua ngay từ vòng
đầu. Nhưng tôi đã động viên các em hãy tự tin vào chính bản thân mình phần
thắng đã tới 90% rồi và hãy lấy bài học của hôm thi cắm hoa làm động lực cho
mình phấn đấu. Đồng thời tôi kể câu chuyện ngụ ngôn về voi và kiến cho cả lớp
nghe, tôi yêu cầu các em rút ra bài học. Rất may với sức mạnh đoàn kết của tập
thể, lớp tôi cả kéo co và bóng chuyền đều được khuyến khích.
2.3.6. Xây dựng công tác phối hợp với các lực lượng giáo dục trong và ngoài
trường để giáo dục học sinh.
+ Kết hợp và giúp đỡ của Đoàn thanh niên để thực hiện các mục tiêu giáo
dục. Tôi cũng thường xuyên phối hợp với Ban chấp hành Đoàn trường để
thường xuyên nắm bắt tình hình học sinh lớp mình. Ngoài việc học kiến thức
văn hóa, thì việc tham gia các hoạt động do Đoàn phát động là một điều không
thể thiếu. Thông qua đó, các em sẽ được rèn luyện thêm nhiều phẩm chất của
người HS cần có như là: tình đoàn kết, lòng nhân ái, tinh thần cầu tiến… Bản
thân tôi luôn phối hợp với Đoàn, hiểu biết về hoạt động đoàn của các em, luôn
động viên nhắc nhở các em tham gia đầy đú có chất lượng trong các hoạt động
do Đoàn tổ chức.
+ Phối hợp với các giáo viên dạy bộ môn lớp mình. Tôi chỉ dạy các em một
môn, lại môn ít giờ nên thời gian gần gũi các em hạn chế. Tôi thường xuyên hỏi
về HS lớp mình thông qua GVBM, đồng thời tôi phản ánh với GVBM về
nguyện vọng của HS và đề xuất với GVBM giúp lớp tổ chức trao đổi kinh

nghiệm học tập để HS học môn đó có kết quả cao. Mặt khác, tôi đề nghị giáo
viên tham gia các hoạt động tập thể của lớp có liên quan đến môn học nhằm kích
thích và tạo thuận lợi cho các em hoạt động có hiệu quả.
+ Tham mưu với Ban giám hiệu nhà trường. Mỗi tuần trường tôi đều họp
giao ban chủ nhiệm một lần vào tiết 4 thứ 7, thông qua buổi họp giao ban Đoàn
trường đánh giá thi đua từng lớp. Đồng thời cũng tại buổi họp định kì Ban giám
hiệu được nghe phản ánh từ GVCN về thuận lợi, khó khăn trong quả trình thực
hiện hoặc có ý kiến đề xuất. Tôi thường xuyên báo cáo tình hình lớp, kết quả
giáo dục, nguyện vọng của HS lớp mình với Ban giám hiệu. Tôi cũng đề xuất,
xin ý kiến về biện pháp giáo dục, ý kiến chỉ đạo từ phía Ban giám hiệu cùng
phối hợp và thống nhất để giáo dục HS được tốt hơn.
+ Không những vậy tôi còn liên kết với các lực lượng giáo dục ngoài nhà
trường mà điển hình là phụ huynh học sinh
Việc giáo dục HS trong nhà trường là sự kết hợp giữa nhà trường với đoàn
thể, địa phương, gia đình…Trong đó, mối quan hệ giữa gia đình và nhà trường
nhất là đối với GVCN là hết sức cần thiết. Chính vì vây, công tác chủ nhiệm của
một giáo viên thành công hay không đừng bao giờ quên gia đình HS là yếu tố
quan trọng.
13


GVCN phải là người huy động được tiềm năng, trí tuệ và khả năng của
các bậc PH vào việc giáo dục toàn diện HS đặc biệt là vấn đề tư tương đạo đức ý
thức học tập cũng như việc phòng chống các tệ nạn xã hội. Muốn có sự phối hợp
này cần nhận thức một cách đầy đủ trách nhiệm của chính PH HS và sự yêu
nghề mến trẻ của GVCN. Kết quả giáo dục HS của lớp chủ nhiệm không chỉ phụ
thuộc vào sự thống nhất tác động sư phạm của các lực lượng giáo dục trong nhà
trường mà còn phụ thuộc vào sự thống nhất của gia đình.
Gia đình là môi trường giáo dục, lực lượng giáo dục đầu tiên ảnh hưởng
đến HS. Vì vậy, giáo dục gia đình đã trở thành một bộ phận quan trọng trong sự

nghiệp giáo dục con trẻ. Song ngày nay, do cơ chế kinh tế thị trường, do miếng
cơm manh áo lúc nào cũng đè nặng lên đôi vai của người cha, người mẹ nên ít
nhiều cũng đã ảnh hưởng đến việc giáo dục con em mình. Cho nên, việc phối
hợp giữa PH và GVCN đã gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên không vì vậy mà
làm tôi nản lòng, tôi càng phải tâm huyết hơn nữa để tìm ra cách phối hợp với
PH làm sao hiệu quả nhất.
Với tôi việc đến thăm gia đình HS rất cần thiết. Trước khi đến thăm PH HS,
giáo viên cần phải phân loại đối tượng HS: Hạnh kiểm tốt, học tập tốt - hạnh
kiểm tốt, học tập trung bình, yếu - hạnh kiểm trung bình, yếu…để có kế hoạch
đi thăm. Tôi đi thăm trước đối với gia đình những em có hạnh kiểm trung bình,
yếu hoặc những trường hợp đặc biệt khác. Việc GVCN đến nhà thăm gia đình
HS là thể hiện sự quan tâm của cô dành cho trò. Vì có những HS gia đình lao
động nghèo, cha mẹ ít có thời gian quản lý, chỉ bảo chuyện học hành của con
cái, có thể nói là họ giao con mình cho thầy cô. Đến khi được GVCN báo cho
biết về tình hình học tập, rèn luyện đạo đức họ mới vỡ lẽ. Có gia đình thực sự
khổ tâm vì con, nhưng cũng có gia đình xem như chẳng có chuyện gì, thậm chí
chẳng cần thiết phải nghe thông tin từ giáo viên. Nhưng tôi không bao giờ nản
lòng, thậm chí phải tác động nhiều lần để cùng nhau bàn bạc về việc giáo dục
HS đến khi nào có kết quả. Và những lần trao đổi cùng PH HS, tôi làm việc phải
có mặt HS. Đến với gia đình những em chăm ngoan là nhằm để biết thêm về
hoàn cảnh gia đình, phương pháp học tập…của các em. Tôi báo cho gia đình
biết những ưu điểm về hạnh kiểm, học tập của các em…
Gặp PH có HS cá biệt, bản thân tôi nhận thấy, muốn có tác dụng tốt và
hữu ích thì chúng ta có thể thực hiện như sau: có thể lần đầu đến thăm gia đình
mà không bàn chuyện giáo dục HS. Hoặc nếu muốn bàn chuyện giáo dục các em
phải thật bình tĩnh, trao đổi ôn hoà, đừng để PH có cảm nhận là mình mắng
khéo. Việc đến thăm gia đình của các em sẽ giúp cho PH biết khá tường tận về
con em mình. Từ đó, họ chú ý hơn đến việc dạy bảo các em. Bản thân các em
cũng sợ việc làm này của GVCN nên cố gắng sửa chữa những sai sót của mình.
Đến thăm gia đình, cùng trao đổi việc giáo dục HS là việc làm thường xuyên,

tuy mất nhiều thời gian của GVCN. Sau mỗi lần được GVCN đến thăm tôi thấy
bản thân các em có sự tiến bộ rõ.
Kết quả giáo dục HS của lớp chủ nhiệm không chỉ phụ thuộc vào sự thống
nhất tác động sư phạm của các lực lượng giáo dục trong nhà trường mà còn phụ
thuộc vào sự thống nhất của gia đình.
14


Ngoài việc đến thăm gia đình PH HS, tôi đã liên kết với PH bằng nhiều cách
khác:
+ Đề nghị PH ký và ghi rõ họ tên của cha mẹ, người giám hộ, ghi số điện thoại
vào một tờ giấy. Mục đích này của tôi là để tránh hiện tượng các em nghỉ học ký
giả chữ ký của bố mẹ (lớp C10 năm học trước nghỉ học thêm và chính khóa rất
nhiều).
+ Tôi đề nghị PH nếu con nghỉ học buổi sáng thì gọi điện và viết giấy xin phép
cho GVCN. Còn đi học buổi chiều tôi yêu cầu PH gọi điện xin phép GVBM và
GVCN để tôi tiện quản lí.
+ Hàng tuần lớp tôi đều xếp hạnh kiểm, tôi đóng một khung cứng (với kích
thước 80cm x 120cm) kẻ danh sách và xếp loại hàng tuần, tháng, học kỳ và cả
năm. Tối thứ 7 hàng tuần tôi gửi vào trang vnedu.vn về hạnh kiểm của HS cho
PH được biết.
+ Tôi thường xuyên kiểm tra đột xuất việc theo dõi của ban cán sự lớp, các
thành viên trong lớp, nếu thấy các em chưa tích cực tôi gọi điện về cho PH.
+ Có rất nhiều PH phàn nàn với tôi không biết dạy con học như thế nào. Tôi đã
hướng dẫn PH kiểm tra xem con mình học như thế nào bằng cách nắm được
thời khóa biểu từng buổi. Tối kiểm tra con ghi bài đến chỗ nào, cứ như vậy, nếu
không ghi có nghĩa là ở lớp cháu không ghi bài, nếu cháu nói làm bài kiểm tra
thì hãy gọi điện cho GVBM hỏi (tôi đã xin phép các GVBM cho PH của lớp số
điện thoại). Tôi đã rút kinh nghiệm là để giáo dục được các em là phải chính
xác, không được có kiểu hình như là...

+ Với PH bênh con, chiều con và bất lực với con thì tôi lại áp dụng một kiểu
khác. Cụ thể: tôi phối hợp với hội cha mẹ của lớp để tìm biện pháp giáo dục cho
thích hợp,
Một trong những biện pháp nữa mà tôi đã áp dụng kết hợp với PH đó là kết
hợp với Ban chấp hành Hội cha mẹ HS của lớp. Rút kinh nghiệm năm ngoái
khi tôi chủ nhiệm lớp 12B6 hội cha mẹ của lớp có hoạt động nhưng thực sự
chưa hiệu quả. Đầu năm học này song song cùng tìm hiểu về HS tôi cũng tìm
hiểu về ban chấp hành hội cha mẹ lớp C10 thông qua GVCN cũ. Tôi nhận thấy
các bác chưa thật sự tâm huyết với con em mình. Vậy làm sao đây? Như tôi đã
trình bày ở trên gia đình là môi trường giáo dục, lực lượng giáo dục đầu tiên ảnh
hưởng đến con trẻ. Vì vậy, giáo dục gia đình đã trở thành một bộ phận quan
trọng trong sự nghiệp giáo dục con trẻ. Chính vì lẽ đó mà tôi đã thay chi hội
trưởng của lớp. Sau buổi họp PH đầu năm tôi mời hội cha mẹ của lớp trao đổi,
bàn bạc cách giáo dục con em PH hiệu quả, đó là:
- Trong một tháng sẽ có 2 buổi sinh hoạt cuối tuần các bác đến dự để năm bắt
kịp thời những hoạt động mà các em chưa làm được và động viên những em có
sự tiến bộ.
- Những em thuộc dạng cá biệt của lớp thì GVCN cùng hội cha mẹ phối hợp
để giải quyết.
- Hay tất cả các hoạt động ngoại khóa của lớp tôi đều thông báo cho hội biết
và gắn trách nhiệm của hội vào cùng tôi, điều này thể hiện sự quan tâm của cha
mẹ. Chẳng hạn, cuối tháng 2 có buổi hướng nghiệp tại trường THPT Yên Định
3, tôi được biết năm học trước mấy em nữ Yên Định 3 có xích mích và đánh
15


nhau với một số em nữ lớp C10. Giờ mà nữ C10 lại lên trên đó đây là cơ hội rất
cao cho các em giải quyết mâu thuẫn (vì ông cha ta đã nói: chó cạy gần nhà, gà
cạy gần chuồng). Nên tôi đã bàn với hội cha mẹ và đi đến thống nhất: thuê xe ô
tô cho các em đi, hội cha mẹ của lớp đi cùng...

2.3.7. Một số biện pháp hỗ trợ khác
Với lớp chủ nhiệm tôi muốn lấy thông tin của em nào đó chính xác hay
không tôi hay nói ngược lại hoàn toàn.
Ví dụ: Em A dạo này thực chất là tiến bộ rõ rệt nhưng ở buổi sinh hoạt cuối
tuần tôi nhận xét em dạo này học tập đi xuống. Ngay lập tức lớp phó học tập xin
có ý kiến ngược lại với tôi là bạn A đã cố gắng và tiến bộ trông thấy và lớp phó
học tập đã đưa ra các dẫn chứng cụ thể.
Cũng thông qua buổi sinh hoạt cuối tuần tôi hay giáo dục với các em về kĩ
năng sống, hãy biết thương yêu người thân, biết tiết kiệm, đoàn kết là sức mạnh
của thành công.
Tôi không giống như các giáo viên khác là hạn chế kết bạn với các em. Tôi
kết bạn với các em trên mạng xã hội nhiều. Qua mạng xã hội tôi biết được tâm
trạng của các em như thế nào sau đó vào trang cá nhân trò chuyện với các em,
phân tích cho các em thấy được không phải cái gì cũng có thể đưa lên mạng xã
hội được vì nó là con dao hai lưỡi. Một buổi tối tôi thường dành ra 30 phút đến
1 tiếng để trò chuyện cùng các em từ đó tôi đã giáo dục thêm được các em
nhiều hơn, các em cũng gần gũi với GVCN hơn.
Do các em năm cuối lớp 12 nên phải tổng kết sớm để làm hồ sơ dự thi tốt
nghiệp, Đại học.Vấn đề quản lí nề nếp, sĩ số cuối năm là cả một “nghệ thuật”
cho GVCN 12. Với tôi điều này quá nhẹ nhàng bởi vì khi tôi phê ký học bạ đến
phần nhận xét của GVCN tôi ký vào góc cuối cùng của ô. Tôi lấy học bạ ra đọc
nhận xét của một số em và nói “cô ai cùng trừ ra 1 - 2 dòng để phê tiếp nếu như
từ nay đến khi kết thúc năm học em nào vi phạm nội quy của trường lớp, làm
lớp bị trừ điểm”. Đồng thời tôi cũng phân tích cho các em thấy được ý nghĩa
một số từ bất lợi cho các em nếu như bị phê vào học bạ. Chính biện pháp này mà
lớp tôi cũng là lớp 12 duy nhất không có em nào nghỉ học sau khi đánh giá, xếp
loại học lực, hạnh kiểm học kì 2 và cả năm.
Có thể nói GVCN là người tiếp xúc thường xuyên với HS thì mới biết
được các em biết gì, cần gì, các em là người như thế nào. Có tiếp xúc với các em
mới kéo ngắn được khoảng cách giữa thầy và trò, các em không còn e ngại, rụt

rè, chắc chắn sẽ tự tin hơn và mạnh dạn bộc bạch những việc cuả lớp, những
thiếu sót của bản thân…Khi tiếp xúc với học sinh, đòi hỏi GVCN có cả một
nghệ thuật. Phải thật khéo léo hỏi thăm về gia cảnh để biết được đó có phải là
điều kiện khó khăn, hoặc thuận lợi ảnh hưởng đến học tập, đạo đức của các em.
Đối với HS có gia đình quan tâm, giáo viên nên phát huy thế mạnh này. Vì
thường HS được giáo dục tốt, được chăm lo việc học tập nên thường chăm
ngoan hơn, chính những em như thế này là nhân tố tích cực của lớp. Ngược lại,
HS gặp phải những khó khăn về gia đình như: kinh tế, bố mẹ chia tay, cha mẹ đi
làm ăn xa, bố mẹ thường xuyên ốm đau… do đó giáo viên và tập thể lớp luôn
quan tâm giúp đỡ các em. Các em này thường tự ti, mặc cảm nên cần phải khéo
léo tế nhị trong cách đối xử cũng như giúp đỡ các em.
16


Tiếp xúc với cán bộ lớp, cán sự bộ môn để biết được mọi hoạt động của
lớp là việc làm hết sức cần thiết. Những thông tin về lớp chủ nhiệm chủ yếu là
do các em cung cấp. Nhưng việc làm này còn là con dao hai lưỡi, nếu giáo viên
không khéo léo xử lý sẽ dễ dàng biến HS thành những kẻ mách lẻo, xoi mói
người khác, nói xấu người khác cho sướng miệng mình.
2.4. Hiệu quả
Qua một năm vận dụng linh hoạt các biện pháp nêu trên vào lớp chủ nhiệm tôi
thấy tình cảm của cô trò mật thiết hơn, hiểu về nhau hơn, các em đã có tinh thần
đoàn kết, tiến bộ lên nhiều (đặc biệt về học lực và hạnh kiểm) và kết quả thật
đáng tự hào.
Cụ thể lớp 12 C10 năm học 2016 - 2017 đạt được:
Hạnh kiểm (Đơn vị:%)
Học lực (Đơn vị: %)
Tốt Khá TB Yếu Giỏi Khá TB Yếu Kém
HK1 76,9 23,1 0
0

2,6 71,8 25,6
0
0
HK2 89.8 10.2
0
0
2,6 89.7 7.7
0
0
CN 89.8 10.2
0
0
2,6 89.7 7.7
0
0
Kết quả về Nề nếp:
Học kỳ 1:
+ 8 lần đứng nhất tuần (so với khối 12).
+ 3 lần đứng nhì tuần.
+ 4 lần đứng thứ ba tuần.
+ Điểm trung bình nề nếp học kỳ 1 là 110,4 điểm đứng thứ 3 của khối 12 và
đứng 14 của trường (trường có 30 lớp).
+ Lớp đạt danh hiệu lớp tiên tiến xuất sắc.
Học kỳ 2:
+ 10 lần đứng nhất tuần (lớp có số tuần đứng nhất nhiều nhất trường).
+ 4 lần đứng nhì tuần
+ 3 lần đứng thứ ba tuần
+ Điểm trung bình nề nếp: 126,4 điểm (đứng đầu khối 12, đứng thứ 5 của
trường).
+ Lớp đạt danh hiệu lớp tiên tiến xuất sắc.

Cả năm:
+ Điểm trung bình 121,1điểm (đứng đầu khối 12, đứng thứ 4 toàn trường).
+ Lớp đạt danh hiệu lớp tiên tiến xuất sắc.
Các thành tích khác:
+ Giải nhất, nhì bài dự thi tìm hiểu “Bác Hồ với Thanh Hóa, Thanh Hóa làm
theo lời Bác”
+ Giải nhì thi cắm hoa vào dịp 8/3 cấp Trường.
+ Tháng thi đua 20/11, là lớp 12 duy nhất của khối 12 đạt danh hiệu “Lớp học
kiểu mẫu”.
+ Bài viết về “Tri ân thầy cô” nhân ngày 20/11 lớp có 1 bài đạt giải B, 2 bài
giải C và còn được nhận danh hiệu lớp có bài dự thi nhiều nhất trường.
+ Tháng thi đua 26/3, là lớp đứng đầu khối 12 và đứng thứ 2 toàn trường về
phong trào “Hoa điểm 10”.
+ Bài dự thi liên môn được giải khuyến khích cấp tỉnh.
17


+ Cuộc thi kéo co nữ và bóng chuyền lớp đều đạt giải khuyến khích.
Về cá nhân tôi, tôi rất vinh dự được nhận danh hiệu “Giáo viên chủ nhiệm
giỏi” đợt thi đua 20/11 và 26/3.
Trong khi đó năm học 2015 - 2016, xếp loại hai mặt học lực, hạnh kiểm và nề
nếp của lớp C10 như sau:
Hạnh kiểm(Đơn vị:%)
Học lực (Đơn vị: %)
Nề nếp và
Tốt Khá TB Yếu Giỏi Khá TB Yếu Kém thành tích
HK1 30,7 25,6 33,4 10,3
0
12,8 71,8 15,4
0

- Lớp Yếu
HK2 38,5 33,3 25,6 2,6
0
23,1 64,1 12,8
0
- Lớp Yếu
CN 38,5 33,3 25,6 2,6
0
20,5 71,8 7,7
0
- Lớp Yếu
Có thể nói rằng các biện pháp mà tôi đã áp dụng vào để giáo dục các em cả về
hai mặt học lực và hạnh kiểm trong năm học vừa qua là rất thành công. Tôi cũng
rất tự hào và cảm ơn GVBM, các em đã hợp tác với tôi trong năm học 2016
-2017. Những buổi họp giao ban chủ nhiệm tôi cảm thấy hãnh diện, vui mừng vì
lớp C10 đã thay da đổi thịt, thực sự đã hồi sinh, đã khoác cho mình một chiếc áo
mới mà thầy cô nào cũng phải khen và nể phục. Điều làm tôi hãnh diện là lớp
không bao giờ bị Ban giám hiệu phê bình (năm ngoái tuần nào cũng bị nhắc
nhở) mà còn đề nghị các đồng chí GVCN học hỏi kinh nghiệm của tôi để áp
dụng vào thực hiện vì kết quả nề nếp của lớp tôi lại luôn đứng tốp đầu ở khối
12.
Để đạt được kết quả nêu trên tôi thấy có nhiều nguyên nhân và yếu tố tác động
đến kết quả của công tác chủ nhiệm, có nguyên nhân là chủ quan như điều kiện
kinh tế của gia đình HS; địa bàn sinh sống của HS. Cũng có những nguyên nhân
là khách quan như: nhận thức của gia đình HS đối với việc học của con cái; tính
cách ham chơi và nhận thức chậm của các đối tượng HS, địa bàn sinh sống của
HS luôn tiềm ẩn nhiều trò chơi, lôi kéo, cám dỗ các em (các quán internet, bi-a )
…tất cả là những yếu tố có tác động lớn đến công tác chủ nhiệm.
Tuy nhiên, đó chỉ là những nguyên nhân từ phía HS, còn để làm tốt công tác
chủ nhiệm thì chính người giáo viên làm công tác chủ nhiệm ấy mới thật sự là

yếu tố có tính tác động quyết định nhất đến sự thành công hay thất bại của công
tác chủ nhiệm lớp. Vì thế, người làm công tác chủ nhiệm phải là những người
luôn nhiệt huyết, làm vì cái tâm, xem trò như những người thân yêu của mình,
đồng thời nên năng động, chuyên cần và luôn có những thay đổi trong quá trình
chủ nhiệm để có thể đạt được những kết quả tốt, hoàn thành xuất sắc công tác
chủ nhiệm lớp.
Với giới hạn eo hẹp của một sáng kiến kinh nghiệm tôi không thể trình
bày hết những biện pháp mà tôi đã làm song tôi xin khẳng định rằng làm công
tác chủ nhiệm lớp mặc dù chịu nhiều vất vả, áp lực. Nhưng không phải là không
có niềm vui, dù chỉ là mặt tinh thần. Để có được niềm vui dù nhỏ bé đó, đòi hỏi
người GVCN lớp ngoài kĩ năng được đào tạo thì phải có tâm, nhiệt tình với HS
lớp mình phụ trách. Có như vậy mới tạo ra được những tình cảm tốt đẹp về tình
thầy trò. Mà đây chính là điều đọng mãi trong lòng bao thế hệ học trò, dù mai
này có đi muôn phương thì các em vẫn luôn nhớ: ngày xưa cô Hoàng Lan đã chủ
nhiệm mình.
18


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Có thể nói làm công tác chủ nhiệm quá nhiều áp lực đè nặng lên người
GVCN. Vậy muốn làm tốt vai trò GVCN lớp, mỗi thầy cô giáo không chỉ vững
vàng về chuyên môn nghiệp vụ, có kinh nghiệm, tinh tường trong việc nắm bắt
tâm lý HS và khéo léo trong xử lý tình huống sư phạm. Ngoài ra, GVCN phải
biết tổ chức, hướng dẫn cho tập thể lớp hoạt động, biết phát huy năng lực tự
quản của HS thông qua việc tạo ra “bộ máy” cán bộ lớp do chính HS đảm
nhiệm. GVCN lớp là một nhà quản lí, lãnh đạo tài ba, có tâm, có tầm thì sẽ có
những kế hoạch nội dung, biện pháp cụ thể, biết sử dụng đúng đắn các hình thức
và phương pháp giáo dục khác nhau và có lòng vị tha nhưng nghiêm khắc.
Trong suốt quá trình giảng dạy cũng như trong nhiều năm làm công tác chủ

nhiệm, bản thân tôi đã từng gặp phải những khó khăn rất lớn khi làm chủ nhiệm
lớp. Những khó khăn ấy cũng xuất phát từ nguyên nhân chủ quan về phía năng
lực, nhận thức của tôi; cũng có những nguyên nhân từ phía nhà trường, gia đình
HS hay các đối tượng HS. Tuy nhiên, đó chỉ là những khó khăn khi những năm
đầu mới được phân công làm công tác chủ nhiệm. Nhưng, sau một thời gian làm
chủ nhiệm lớp, bản thân tôi tự nhận ra rằng chính mình sẽ làm thay đổi cách
thức chủ nhiệm của mình, làm tốt được công tác chủ nhiệm.
Chính vì lí do đó, bản thân tôi đã từng trăn trở, suy nghĩ để tìm ra những
giải pháp có thể áp dụng được cho công tác chủ nhiệm đối với bất kì môi trường
nào, đối tượng HS nào. Sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi và học hỏi, bản thân
đã tìm ra được một số giải pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm, đã áp dụng
những kinh nghiệm đó vào công tác chủ nhiệm của mình và đã đạt được rất
nhiều những thành công. Những thành công ấy không chỉ cho chính bản thân
mình mà còn cho cả đồng nghiệp của mình học hỏi kinh nghiệm. Đặc biệt khi đề
tài của tôi được hội đồng khoa học của Sở Giáo dục đánh giá xếp loại C cấp tỉnh
thì đề tài này được đưa ra cho đồng nghiệp tham khảo, học hỏi ở những buổi họp
giao ban chủ nhiệm.
Điều quan trọng hơn nữa là, trong quá trình chủ nhiệm, để làm tốt công
tác chủ nhiệm của mình, tôi đã không nôn nóng, vội vàng mà luôn điềm tĩnh,
vạch định kế hoạch rõ ràng về thời gian, về nội dung công việc và hình thức
thực hiện công việc. Đồng thời luôn tranh thủ được sự giúp đỡ của những nguồn
lực khác trong nhà trường, từ phía gia đình HS và từ chính sự tích cực của các
đối tượng HS.
3.2 Kiến nghị
Với mong muốn góp phần vào thực hiện mục tiêu giáo dục phổ thông, giáo
dục nhân cách và học lực của HS ngày càng hoàn thiện thì cá nhân tôi có một số
kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục HS như sau:
Với giáo viên được Nhà trường phân công làm công tác chủ nhiệm lớp:
phải thật sự mẫu mực, phải là tấm gương sáng từ nhận thức đến hành động, từ
lời nói, cử chỉ, điệu bộ đến thái độ ứng xử hàng ngày…để HS noi theo. GVCN

cần có lí tưởng nghề nghiệp đúng đắn, phải thật sự am hiểu, nắm chắc chủ
trương giáo dục của Đảng và nhà nước trong thời kì đổi mới. Chính lí tưởng và
lòng yêu nghề sẽ là nghị lực niềm tin để người giáo viên vững bước trong sự
19


nghiệp mình đã chọn. Để làm tốt công tác chủ nhiệm, đòi hỏi người GVCN
không chỉ là một giáo viên dạy tốt văn hóa mà còn phải quan tâm đến sự phát
triển ở HS cả những giá trị đạo đức, thể chất, thẩm mĩ… Vì vậy, theo tôi, hai yếu
tố cốt lõi không thể thiếu đối với GVCN là cái tài của một nhà tâm lí và cái tâm
của một nhà giáo dục. Khi làm tốt hai yếu tố này thì người giáo viên nói chung
và người GVCN nói riêng đều có thể làm tốt trách nhiệm của mình trong thời
đại mới ngày nay và luôn để lại ấn tượng tốt trong lòng mỗi thế hệ học trò yêu
dấu.
Với nhà trường: Giáo viên được phân công chủ nhiệm lớp một tuần được tính
bốn tiết trong khi đó mất ba tiết là phải thực hiện (giờ chào cờ, họp giao ban chủ
nhiệm, sinh hoạt cuối tuần), ngoài ra còn phải lên lớp sinh hoạt 15 phút, sổ sách
chủ nhiệm, trao đổi với PH, HS ngoài giờ ... Từ thực tế đó tôi mong muốn Ban
giám hiệu Nhà trường cần quan tâm, động viên kịp thời hơn nữa đối với GVCN.
Với Sở GD & ĐT: Cần tổ chức hàng năm chương trình bồi dưỡng kĩ năng cho
GVCN, cần biên soạn tài liệu về công tác chủ nhiệm.
Đề tài này tôi đã thực hiện ở lớp 12C10 trường THPT Yên Định 2 mới chỉ ở
phạm vi trong trường nên chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp làm công tác chủ
nhiệm nói riêng và bạn bè đồng nghiệp nói chung để đề tài của tôi được hoàn
thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Xác nhận của Thủ trưởng đơn vị.


Yên Định, ngày 14/5/2017
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến
kinh nghiệm do tôi viết, không sao
chép của người khác.
Người viết

Lê Thị Hoàng Lan

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Luật giáo dục 2005
2. Thông tư 58 của Bộ GD&ĐT
3. Tham khảo một số tài liệu trên mạng internet
- Nguồn:
- Nguồn: www.quoctehanoi.edu.vn
- Nguồn:
- Nguồn: vanlang.edu.vn
- Nguồn: gdvnedu.com
- Nguồn: www.cdviethanhanoi.edu.vn

21



×