SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
RÈN KĨ NĂNG LÀM VĂN DẠNG ĐỀ
PHÂN TÍCH NHÂN VẬT QUA MỘT
ĐOẠN TRÍCH TRONG TÁC PHẨM VĂN
XI (CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12)
THEO CẤU TRÚC ĐỀ THAM KHẢO
1
.
MỤC LỤC
Nội dung
1. TÊN SÁNG KIẾN
2. GIẢI PHÁP CŨ THƯỜNG LÀM
3. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP MỚI
3.1. Áp dụng hiệu quả những cách ôn tập truyền thống
Trang
4
5
5
6
3.2 Rèn kĩ năng ôn tập dạng đề phân tích nhân vật qua một đoạn trích
trong tác phẩm văn xi theo cấu trúc đề minh họa năm 2021 - 2022.
6
3.2.1 Phân loại nhân vật trong TP văn xi trong chương trình Ngữ
văn 12.
7
3.2.2 Những lưu ý khi làm bài phân tích nhân vật trong một đoạn
trích văn xi.
3.2.3 Các dạng đề và dàn ý chi tiết cho kiểu bài phân tích nhân vật
trong đoạn trích thuộc tác phẩm văn xi (chương trình Ngữ văn 12)
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ qua đoạn trích (TP Vợ nhặt - Kim Lân)
Phân tích nhân vật Tràng qua đoạn trích (TP Vợ nhặt - Kim Lân)
Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài qua đoạn trích (Tp
Chiếc thuyền ngồi xa - Nguyễn Minh Châu)
Phân tích nhân vật Trương Ba trong qua trích (TP Hồn Trương Ba
da hàng thịt - Lưu Quang Vũ)
8
9
Phân tích nhân vật người lái đị sơng Đà qua đoạn trích (tùy bút
Người lái đị Sông Đà - Nguyễn Tuân)
IV. KẾT QUẢ
35
V. ĐIỀU KIỆN VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
36
VI. KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN
36
2
1. Tên sáng kiến.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đặc biệt là Nghị quyết Trung
ương số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, giáo dục phổ thông trong
phạm vi cả nước đang thực hiện đổi mới đồng bộ các yếu tố: mục tiêu, nội dung,
phương pháp, hình thức tổ chức, thiết bị và đánh giá chất lượng giáo dục. Để phù hợp
với định hướng đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá theo định hướng
phát triển năng lực học sinh, thì yêu cầu đổi mới nội dung đề thi của các mơn thi trong
các kì thi là điều tất yếu.
Kì thi THPTQG năm nay – năm học 2020 - 2021 - Bộ GD&ĐT đã công bố đề
thi minh họa. Nhìn vào cấu trúc đề thi có thể thấy khơng có nhiều thay đổi giữa các
phần, số câu, số điểm giành cho các kĩ năng đọc hiểu, nghị luận xã hội, nghị luận văn
học. Tuy nhiên, sự thay đổi trong đề minh họa năm nay nằm ở hướng ra đề phần nghị
luận văn học, phần thi chiếm 50% số điểm trong bài thi. Đó là yêu cầu phân tích, cảm
nhận về hình tượng nhân vật Sơng Hương trong một đoạn văn thuộc bài kí “ Ai đã đặt
tên cho dịng sơng”. Từ đó chúng tơi nhận thấy kiểu bài phân tích, cảm nhận về một
nhân vật, một đoạn văn trong tác phẩm truyện ngắn và kí rất quan trọng. Mặt khác việc
tuyên truyền, tập huấn của Sở GD&ĐT, cũng như của các nhà trường phổ thông nhấn
mạnh vào việc ôn tập bám sát đề minh họa. Từ đây vấn đề đặt ra: làm thế nào để giúp
cho việc dạy và học, ôn luyện và thi cử đạt kết quả? Điều này khiến cho nhiều giáo
viên trăn trở.
Là những giáo viên dạy môn Ngữ văn trong nhà trường THPT đặc biệt là giáo
viên đang trực tiếp giảng dạy lớp 12 và đang ôn luyện cho các em bước vào kì thi
THPTQG, trước sự thay đổi về đề thi, chúng tơi đã gặp phải những khó khăn nhất
định:
Về phía HS: do tâm lí “ngại như văn” cho nên phần lớn những HS không chọn
môn văn để xét tổ hợp tuyển sinh Đại học và những HS học lực yếu đều ngại và lười
học văn; việc phân tích tác phẩm văn học vốn đã khó, đặc biệt là yêu cầu phân tích
một. Bên cạnh đó, nhiều HS chọn tổ hợp xét tuyển Đại học có mơn văn và có lực học
khá, nhưng trước sự thay đổi đề thi của năm học này thì q trình ơn tập và thực hành
vẫn gặp phải nhiều khó khăn.
Về phía GV: Mặc dù đã lĩnh hội chủ trương của Bộ GD&ĐT về việc thay đổi đề
thi, nhưng do việc tiếp cận với đề thi tham khảo diễn ra gần đây, cho nên quá trình
giảng dạy và ơn luyện cho HS vẫn cịn gặp lúng túng như: việc ơn tập tác phẩm kí,
truyện chưa chuyển hẳn sang dạy kĩ năng phân tích đoạn, việc ra đề và làm đáp án còn
3
hạn chế; thời gian dành cho ôn tập bộ môn khơng nhiều nên việc rèn kĩ năng lphân tích
một đoạn văn hay một vấn đề trong đoạn văn thuộc tác phẩm kí, truyện chưa thường
xun, chưa thực sự có hiệu quả.
Xuất phát từ thực trạng trên và dựa vào kết quả khảo sát, tìm tịi nghiên cứu
những giải pháp khắc phục khó khăn, chúng tơi đề xuất sáng kiến: RÈN KĨ NĂNG
LÀM VĂN DẠNG ĐỀ PHÂN TÍCH NHÂN VẬT QUA MỘT ĐOẠN TRÍCH
TRONG TÁC PHẨM VĂN XI (CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12) THEO CẤU
TRÚC ĐỀ THAM KHẢO.
2. Giải pháp cũ thường làm.
Giảng dạy ôn tập cho HS lớp 12 bước vào kì thi THPTQG là việc làm thường
niên và là một nhiệm vụ hết sức quan trọng đối với mỗi nhà trường. Cách thức ôn tập
của GV bộ môn Ngữ Văn chúng tôi trong mấy năm gần đây như sau:
Trước hết căn cứ vào kế hoạch chuyên môn, kế hoạch ôn tập chung của nhà
trường, nhóm trưởng xây dựng kế hoạch ơn tập của bộ mơn từ đó GV triển khai đến
từng lớp, có thay đổi linh hoạt phù hợp với từng đối tượng HS, nhưng nhìn chung vẫn
hướng tới:
Thứ nhất: Củng cố lại nội dung kiến thức cơ bản đã được học trên lớp cho HS
như kiến thức về tác giả, tác phẩm văn học, về giai đoạn tiến trình lịch sử văn học hay
các kiến thức về lí luận văn học, về Tiếng việt và Phong cách ngôn ngữ v.v…
Thứ hai: Rèn luyện các kĩ năng làm bài của từng phần trong đề thi THPTQG
như: kĩ năng đọc hiểu văn bản, kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội, kĩ năng làm văn
nghị luận văn học với các dạng đề (nghị luận về một đoạn thơ bài thơ, nghị luận về
một tác phẩm một đoạn trích văn xuôi, nghị luận về một ý kiến bàn về văn học và dạng
đề so sánh)
Thứ ba: Luyện đề tổng hợp chung. Căn cứ vào cấu trúc các đề minh họa của Bộ
GD, GV hướng dẫn làm các đề thi với cấu trúc và kiểu dạng tương tự.
Như vậy theo như giải pháp cũ thường làm, tính hiệu quả và khoa học tương đối
tốt so với năm học trước đây và một số năm trước đó. Nhưng nếu áp dụng với kế
hoạch ôn tập bộ môn Ngữ văn đối với HS lớp 12 trong năm học này (2020 - 2021) thì
tính hiệu quả sẽ không cao, biểu hiện ở chỗ:
Phần rèn kĩ năng làm văn nghị luận văn học dạng đề phân tích đoạn văn trong
tác phẩm văn xi chưa được chú ý đến, nếu có sẽ khơng có tính hệ thống, khoa
học…Từ đây dẫn đến việc: HS hoang mang không biết học từ đâu, tâm lí của HS cho
rằng việc học hành thi cử hiện nay là quá tải diễn ra rất nặng nề, vì thế có kiểu học đối
phó, trông chờ, ỉ lại…; GV cũng rất lúng túng khi biên soạn đề đáp án theo form này
đối với các tác phẩm kí, truyện trong q trình ơn tập cho HS, các dạng đề minh họa
đưa ra không phong phú, khơng có tính hệ thống.
4
3. Giải pháp mới cải tiến.
Lĩnh hội tinh thần chung về việc đổi mới nội dung của đề thi THPTQG trong
năm học này, tổ nhóm chuyên đã xây dựng kế hoạch ơn tập cho HS lớp 12, trong đó có
đặc biệt chú ý đến việc rèn kĩ năng làm văn nghị luận văn học dạng đề phân tích nhân
vật trong đoạn văn trong tác phẩm kí, truyện. Căn cứ vào kế hoạch chung của tổ nhóm
chúng tơi triển khai nội dung này với những giải pháp cụ thể sau:
3.1. Tiếp tục triển khai những giải pháp cũ có hiệu quả:
Thứ nhất: Củng cố nội dung kiến thức cơ bản cho HS như kiến thức về tác giả,
tác phẩm văn học, về giai đoạn tiến trình lịch sử văn học hay các kiến thức về lí luận
văn học, về Tiếng việt và Phong cách ngôn ngữ v.v…
Thứ hai: Rèn luyện kĩ năng làm bài của từng phần trong đề thi Tốt nghiệp như: kĩ
năng đọc hiểu văn bản, kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội, kĩ năng làm văn nghị
luận văn học với các dạng đề (nghị luận về một đoạn thơ bài thơ, nghị luận về một tác
phẩm, một nhân vật trong TP văn xuôi, nghị luận về một ý kiến bàn về văn học và
dạng đề so sánh)
Thứ ba: Luyện đề tổng hợp chung – theo cấu trúc và đề tham khảo của Bộ GD
năm nay.
3.2. Chú trọng và triển khai những giải pháp mới: Rèn kĩ năng làm văn dạng đề
phân tích nhân vật trong đoạn trích ở tác phẩm văn xi thuộc chương trình ngữ
văn 12.
3.2.1 Phân loại nhân vật trong tác phẩm văn xuôi (trong chương trình Ngữ văn 12).
Có rất nhiều tiêu chí phân loại nhân vật trong tác phẩm văn xuôi
- Căn cứ vào vai trị vị trí của nhân vật có thể chia: nhân vật chính, nhân vật phụ
- Căn cứ vào phẩm chất nhân vật: nhân vật chính diện, nhân vật phản diện
- Căn cứ vào đặc điểm của nhân vật: nhân vật thiên về hành động, nhân vật thiên về
tâm lý, nhân vật thiên về nhận thức, nhân vật kết hợp. Trong phạm vi đề tài chúng tôi
xin bàn sâu về tiêu chí phân loại này như sau:
PHÂN LOẠI NHÂN VẬT CĂN CỨ VÀO ĐẶC ĐIỂM
Kiểu
Nhân vật thiên
Nhân vật thiên Nhân vật thiên
Nhân vật
nhân vật về hành động, lời nói
về tâm lý
về nhận thức
kết hợp
Đặc
- Nhân vật được khắc - Không chú ý - Chủ yếu khắc - Nhân vật
điểm
họa rất chi tiết qua nhiều đến ngoại họa nhân vật được miêu tả
ngoại hình, cử chỉ, lời hình hành động, thơng qua hành qua cả hành
nói, hành động
chủ yếu khai thác trình quan sát, động, lời nói,
suy nghĩ cảm xúc khám phá, nhận nội tâm, nhận
5
Nhận
diện kiểu
nhân vật
trong TP
Ngữ văn
12
nội tâm của nhân
vật
Nhân vật Mị (Vợ
chồng A Phủ)
Nhân vật bà cụ
tứ (Vợ nhặt - Kim
Lân)
thức
thức…
Hình tượng con sơng
Nhân vật Phùng Nhân
vật
Đà (Người lái đị
(Chiếc thuyền Tràng
(Vợ
sơng Đà - Nguyễn
ngồi xa - nhặt - Kim
Tn)
Nguyễn Minh Lân)
Nhân vật người lái đị
Châu)
sơng Đà (Người lái
đị sơng Đà - Nguyễn
Tuân)
Nhân vật người vợ
nhặt (Vợ nhặt - Kim
Lân)
Nhân vật Người đàn
bà hàng chài (Chiếc
thuyền ngoài xa Nguyễn Minh Châu)
Chúng tôi đã căn cứ vào đặc điểm và việc nhận diện nhân vật trong bảng trên để
hướng dẫn học sinh tìm kiếm, phân tích dẫn chứng, rút ra những nhận định chính xác
về phẩm chất, tính cách của nhân vật.
3.2.2 Những lưu ý khi làm dạng bài phân tích nhân vật trong đoạn trích văn xi.
Kiểu bài phân tích nhân vật trong đoạn trích thuộc tác phẩm văn xi vừa u
cầu đặt nhân vật trong tồn bộ tiến trình tác phẩm, lại vừa làm bật những đặc điểm về
số phận, tính cách, tâm lý, nhận thức…của nhân vật trong đoạn trích đề bài yêu cầu.
Hơn nữa, phải cho thấy những thay đổi của nhân vật thể hiện trong đoạn văn trong
tương quan với các nhân vật khác. Đồng thời cần chỉ ra vai trò của nhân vật trong
việc thể hiện tư tưởng chủ đề, tài năng miêu tả khắc họa của nhà văn. Về cơ bản,
kiểu bài phân tích nhân vật trong đoạn văn cũng giống với phân tích nhân vật trong tác
phẩm, tuy nhiên phạm vi hẹp hơn, yêu cầu cụ thể hơn, đòi hỏi người viết phải sâu sắc
hơn.
Về kiểu bài này, học sinh thường mắc các lỗi sau:
- Nhầm sang phân tích nhân vật ở cả tác phẩm, viết lan man, quá nhiều về nhân
vật trong toàn tác phẩm mà ít chú ý đến đoạn trích.
- Phân tích nhân vật ở đoạn trích nhưng khơng biết vận dụng kiến thức của toàn
tác phẩm như so sánh nhân vật với các giai đoạn trước và sau, không biết bám vào giá
trị nội dung tư tưởng, nghệ thuật kể chuyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật….nên bài
viết sơ sài, chưa tạo được điểm nhấn.
6
- Dạng đề này, trong đề bài ngoài yêu cầu phân tích/cảm nhận nhân vật, thơng
thường sẽ xuất hiện một yêu cầu phụ như bình luận về quan điểm đất nước, bình luận
về tư tưởng nhân đạo, làm rõ quan niệm về cái Đẹp, chỉ rõ những nhận thức về cuộc
sống con người….của nhà văn. Học sinh thường mải mê phần trên mà qn mất hoặc
khơng cịn thời gian trả lời câu hỏi phụ khiến bài viết bị mất điểm; hoặc trái lại quá chú
trọng về thời lượng cho phần này cũng khiến bài viết bị trừ điểm, kết quả khơng cao.
Vì là một bài nghị luận nên bố cục một bài văn phân tích nhân vật trong đoạn
trích văn xi cũng có 3 phần: mở bài, thân bài và kết bài. Tuy nhiên chức năng cụ thể
của từng phần lại có những điểm khác biệt so với kiểu bài phân tích nhân vật trong
tồn bộ tác phẩm. Dàn ý khái quát của kiểu bài này như sau:
MỞ BÀI:
- Dẫn dắt giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu khái quát về nhân vật, đặc biệt nhấn mạnh nhân vật trong đoạn trích
- Giới thiệu u cầu phụ (nếu có)
THÂN BÀI:
1. Bước 1:
- Khái quát ngắn gọn nội dung tác phẩm, nhận xét ngắn gọn về nhân vật trong phần
truyện trước đó (bước này cần có kĩ năng tóm tắt tác phẩm, dẫn dắt nhận xét về nhân
vật từ sự kiện trước đến đoạn cần phân tích).
+ Giới thiệu khái quát về nhân vật: lai lịch, đặc điểm về số phận tính cách
+ Tóm tắt sự kiện chính liên quan đến nhân vật từ đầu đến đoạn trích cần phân tích
- Giới thiệu vị trí, nội dung, vai trị đoạn trích
+ Nằm ở phần nào của tác phẩm, kể về sự việc gì
2. Bước 2
- Phân tích nhân vật trong đoạn trích (bước này cần vận dụng kết hợp các thao tác phân
tích, bình luận, chứng minh, so sánh).
+ Phân tích chi tiết về hồn cảnh xuất thân, lai lịch ngoại hình
+ Phân tích chi tiết về bối cảnh nhân vật xuất hiện (không gian, thời gian), để ý đến
những thay đổi về bối cảnh trong đoạn trích so với đoạn trước đó tác động hoặc biểu
hiện gì về nhân vật.
+ Đặc biệt chú ý phân tích lời nói, cử chỉ điệu bộ, hành động, cảm xúc, suy
nghĩ…của nhân vật trong đoạn trích, rút ra đặc điểm về số phận, tính cách.
(Lưu ý khi phân tích cần đặt những yếu tố trên trong sự liên hệ đối chiếu với đoạn
trước để thấy được sự thay đổi của nhân vật; đối chiếu với những nhân vật khác để tìm
ra đặc điểm riêng của nhân vật cần phân tích)
3. Bước 3: Nhận xét chung
7
- Nhân vật trong đoạn trích góp phần thể hiện khắc sâu tư tưởng chủ đề của tác phẩm
như thế nào?
- Nhân vật trong đoạn trích góp phần thể hiện tài năng nghệ thuật của tác giả ra sao?
4. Giải quyết yêu cầu phụ:
- Ghi rõ ra giấy nháp trong dàn ý từ đầu tránh quên, dành một thời lượng phù hợp,
không quá ngắn gọn sơ lược nhưng cũng không quá dài dòng lan man
- Cần bám sát vào phần phân tích/cảm nhận nhân vật để triển khai yêu cầu này sâu sắc
mạch lạc.
KẾT BÀI
- Đánh giá chung về nhân vật.
- Nêu những tác động của nhân vật đối với thế giới quan và nhân sinh quan của
bản thân.
3.2.3. Các dạng đề và dàn ý chi tiết cho kiểu bài phân tích nhân vật trong đoạn trích
thuộc tác phẩm văn xi (chương trình Ngữ văn 12)
TÁC PHẨM VỢ NHẶT – KIM LÂN
Đề bài 1
Trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân có đoạn:
…Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn
hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai ốn vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình.
Chao ơi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những
mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Cịn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà
rỉ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng chúng nó có ni nổi nhau sống qua được cơn
đói khát này không.
Bà lão khẽ thở dài ngửng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt xuống,
tay vân vê tà áo đã rách bợt. Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó
khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…
Thơi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con… May ra mà qua khỏi
được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông
giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được ?
Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với “nàng dâu mới” :
- Ừ, thơi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…
Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi. Hắn ho khẽ một tiếng, bước từng
bước dài ra sân. Bà cụ Tứ vẫn từ tốn tiếp lời:
8
- Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may
mà ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời ? Có ra thì rồi
con cái chúng mày về sau”.
Bà lão đăm đăm nhìn ra ngồi. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngồi xa dịng
sơng sáng trắng uốn khúc trong cánh đồng tối. Mùi đốt đống rấm ở những nhà có
người chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài. Bà lão nghĩ đến
ông lão, nghĩ đến đưa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của
mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia
không?...
- Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân.
Bà lão nhìn người đàn bà, lịng đầy thương xót. Nó bây giờ là dâu là con trong nhà
rồi. Người đàn bà khẽ nhúc nhích, thị vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ. Bà lão hạ
thấp giọng xuống thân mật:
- Kể ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người
ta chấp nhặt chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm
nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương q…
Bà cụ nghẹn lời khơng nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống rịng rịng.
(Trích Vợ nhặt, Kim Lân, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục, 2013,tr 28-29)
Cảm nhận của anh/chị về tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích trên.
Từ đó, rút ra nhận xét về tấm lòng nhân đạo của nhà văn Kim Lân.
DÀN Ý CHI TIẾT
1. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: đề tài cái đói - khẳng định thành công của truyện ngắn
Vợ nhặt trong mảng đề tài chung
Tôi may mắn không phải sinh ra trong thời khắc đen tối nhất của lịch sử dân tộc,
khi mà nạn đói tràn đến đã cướp đi sinh mạng của hơn hai triệu người dân trên đất
nước. Tôi cũng may mắn không phải chân lấm tay bùn trong kiếp đời nông dân khổ
cực. Nhưng mỗi lần đọc “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân tơi như thấy mình đang sống
với biết bao nỗi sợ hãi, xót thương, nỗi buồn lo khắc khoải cùng những con người lao
động đói khổ mà nặng tình nặng nghĩa.
- Giới thiệu nhân vật bà cụ Tứ , đặc biệt ấn tượng trong đoạn trích (nêu nội dung đoạn
trích)
Tơi vẫn ln nhớ một anh cu Tràng ngờ nghệch mà tốt bụng, một chị con dâu đói
rách nhiều khát khao và đặc biệt, tôi cứ ấn tượng mãi với hình ảnh bà cụ Tứ - một
người mẹ nghèo khổ mà nhân hậu vô cùng. Dường như, bao nhiêu tình cảm yêu
9
thương, trân trọng, nhà văn đều gửi gắm vào nhân vật bà cụ Tứ qua những đoạn diễn tả
tâm trạng đầy xúc động khi Tràng nhặt về một cô vợ trong những ngày đói rách tả tơi:
“ Bà cụ cúi đầu nín lặng… nước mắt chảy xuống rịng rịng”
2. THÂN BÀI
a. Giới thiệu về tác giả, xuất xứ, vị trí của tác phẩm
b. Tóm lược sự việc chính dẫn đoạn trích nói về tâm trạng của bà cụ Tứ
+ Tràng nhặt được vợ trong nạn đói, dẫn người vợ nhặt về giới thiệu với mẹ:
+ Bà cụ tứ rất ngạc nhiên, sau đó mới hiểu ra cơ sự, tâm trạng hành động lời nói thể
hiện rõ tấm lịng người mẹ nghèo nhân hậu yêu thương con.
c. Phân tích tâm trạng bà cụ Tứ qua đoạn trích
- Cử chỉ cúi đầu nín lặng:
Một cử chỉ nói lên biết bao nỗi niềm đau đớn xót xa của người mẹ. “Cúi đầu” khơng
chỉ thể hiện sự bế tắc trong tâm trạng, sự trốn tránh thực tại mà còn là giây phút bà tự
vấn lịng mình, một nỗi niềm bà khơng thể thổ lộ hay chia sẻ cùng ai và cũng khơng
muốn ai nhìn thấy, không muốn ai chứng kiến nỗi tủi hờn của mình. Giống như cái
phút đứng lặng trong bóng tối của Mị (Vợ chồng A Phủ - Tơ Hồi), cái cúi đầu nín
lặng của bà cụ Tứ là những giây phút nhận thức về sự sống và cái chết.
- Tâm trạng vừa ai ốn xót xa, buồn tủi thương lo, vui mừng hạnh phúc
+ Thương con trai, tủi phận mình: Bà xót thương cho số kiếp đứa con mình.” Nhà
văn đã dùng rất chính xác từ “ai ốn”, xót thương” để diễn tả tâm trạng của bà cụ lúc
này. Rất chân thật. Lịng bà lão nghèo khổ ốn trách số phận hẩm hiu, tạo hóa trêu
ngươi, để con bà có được vợ vào đúng lúc đói khổ quay quắt thế này. n trách bao
nhiêu thì xót xa cho số kiếp của con mình bấy nhiêu. Nó thua thiệt đủ đường. “Người
ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi. Cịn mình thì…” Lịng
người cha người mẹ nào mà chẳng muốn sắm sanh cho con một đám cưới đàng hoàng,
tươm tất để mở mày mở mặt với xóm làng? Bà trách cứ chính mình khơng lo nổi cho
con “người ta dựng vợ gả chồng trong lúc ăn nên làm nổi, cịn mình thì…”. Bà lão
nghẹn ngào, trong kẽ mắt kèm nhèm rỉ xuống những giọt nước mắt xót xa. “Biết rằng
chúng nó có ni nổi nhau sống qua được cơn đói khát này khơng.”
+ Thương con dâu: bà lão “khẽ thở dài ngửng lên”, “đăm đăm nhìn người đàn bà”.
Đó hồn tồn khơng phải là cái nhìn soi mói, cái nhìn xét nét hành vi của người khác,
trái lại, bà nhìn thấu suốt cả cuộc đời người đàn bà trước mặt với tấm lịng cảm thơng
chia sẻ đầy nhân hậu. “Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói
khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…” Đó là suy
nghĩ của một con người nhận thức rõ may mắn của con trai mình, nhận thức rõ tình
10
cảnh đáng thương của thị và hơn hết, đó là tấm lòng bao dung, thương người như thể
thương thân của bà cụ. Cũng lo lắng lắm, nhưng cố gắng chắt chiu lấy niềm vui, niềm
hi vọng dẫu mong manh để sống: “Thơi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng
được cho con… May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có
vợ, nó yên bề nó”.
Mỗi câu độc thoạt nội tâm của bà cụ đều chất chứa một nỗi chua xót đắng cay,
một sự bế tắc nhưng vẫn luôn thấm đượm tình người. Xem cách bà cụ phản ứng với tin
Tràng có vợ, độc giả càng thấm thía vẻ đẹp của nếp sống, nếp suy nghĩ nặng tình nặng
nghĩa của những con người dân quê mộc mạc. Thế mới biết, chỉ có tấm lịng người mẹ
thương con, chỉ có tình người ấm áp mới đủ bao dung mở lòng cưu mang những kiếp
người bên bờ vực của tuyệt vọng như thị. Và có bị thử thách trong hồn cảnh bĩ cực
ấy, ta mới thấy cái nhìn đầy tin yêu của nhà văn dành cho những con người lao động
lam lũ.
- Lời nói thể hiện thái độ với con trai và con dâu:
+ Đồng ý, chúc phúc:
Bà lão nhẹ nhàng nói với “nàng dâu mới”: “ Ừ, thơi thì các con đã phải duyên phải
kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…”. Bà lão khơng chỉ chấp nhận nàng dâu ‘nhặt”, mà
cịn rưng rưng niềm hạnh phúc “U cũng mừng lòng”. Bà cụ khiến người con dâu ấy
hiểu rằng sự xuất hiện của thị mang lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho ngôi nhà rúm ró
xiêu vẹo ấy của mẹ con bà, Câu chuyện nhặt vợ của Tràng vô cùng bẽ bàng qua tấm
lòng người mẹ đã trở thành duyên kiếp trăm năm, rất đáng trân trọng. Một câu nói
ngắn gọn mà giá trị vơ cùng! Ngạn ngữ Nhật có câu: “ Một lời nói thiện ý có thể sưởi
ấm cả ba tháng mùa đơng”. Lời nói của bà cụ Tứ cũng vậy, đó khơng phải chỉ là lời
nói chấp nhận nàng dâu mới giải tỏa tâm lí căng thẳng, thấp thỏm lo âu, đem đến niềm
hạnh phúc ngập tràn cho Tràng mà còn hướng đên sự đồng cảm, bênh vực nàng dâu
mới, khiến thị khơng cịn thấy ngượng ngùng bởi hành động theo khơng tủi hổ của
mình.
+ An ủi, phân trần về gia cảnh:
Bà cụ phân trần về gia cảnh: “Nhà ta thì nghèo con ạ.” Khun bảo con tu chí làm ăn
“Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn.”, nhen nhóm trong các con niềm tin
tưởng, lạc quan vào tương lai phía trước. “Rồi ra may mà ơng giời cho khá… Biết thế
nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau”.
+ Chăm sóc ân cần với con dâu:
Từ suy nghĩ, lời nói đến cử chỉ, hành động của bà cụ Tứ đều cho thấy sự nhân
hậu bao dung. Bà lão đang cố gắng kéo gần khoảng cách giữa người con dâu tội
nghiệp với mình: “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân.” Bà có thêm
11
bổn phận phải lo lắng, yêu thương người đàn bà đói rách ấy, bởi “nó bây giờ là dâu là
con trong nhà rồi.”
- Nghĩ về tương lai, nghẹn ngào xót thương
“Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá”…Bà muốn nói thật nhiều, nhưng nghẹn
ngào khơng nói được nữa, “nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng.” Lại một lần nữa bà
khóc, đó là giọt nước mắt của tình u thương.
d. Đánh giá chung về nhân vật
+ Cuộc sống khốn cùng bi thảm
+ Vẻ đẹp nhân cách ngời sáng tấm lòng nhân hậu, tình mẩu tử thiêng liêng
e. Nhận xét về tấm lòng nhân đạo của nhà văn
- Thể hiện tấm lịng nhân đạo của nhà văn: đồng cảm xót thương, trân trọng ngợi
ca con người: tấm lòng nhân đạo của Kim Lân khơng chỉ thể hiện qua nỗi xót thương
cho số phận người nơng dân mà cịn gửi gắm qua hình ảnh bà cụ Tứ một niềm tin
mãnh liệt vào sức mạnh của tình người. Nếu bát cháo hành của thị Nở có thể kéo Chí
từ con quỷ dữ về với xã hội lồi người thì chính sự cưu mang nhân từ của bà cụ Tứ đã
cứu vớt cả cuộc đời thị. Quả thực, trong xã hội này, chỉ có tình người mới làm nên điều
kì diệu trong cuộc sống.
- Thể hiện tài năng nghệ thuật của nhà văn qua nghệ thuật tạo tình huống, giọng kể
chân tình mộc mạc mà duyên dáng, nghệ thuật khắc họa chân dung nhân vật
3. KẾT BÀI
- Đánh giá chung về nhân vật, tấm lòng nhân đạo của nhà văn
- Khẳng định sức sống của nhân vật
Đề bài 2:
Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái
lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hơm nay hắn vẫn cịn
ngỡ ngàng như khơng phải.
Hắn chắp hai tay sau lưng lững thững bước ra sân. Ánh nắng buổi sáng mùa hè
sáng lố xói vào hai con mắt cịn cay sè của hắn. Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái, và
bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà
cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần
áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong.
Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác
mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch.
Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn
quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn
12
giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy
hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ
cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn
vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên
người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy
ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà.
Bà cụ Tứ chợt thấy con giai đã dậy, bà lão nhẹ nhàng bảo nàng dâu:
- Anh ấy dậy rồi đấy. Con đi dọn cơm ăn chẳng muộn.
- Vâng.
Người đàn bà lẳng lặng đi vào trong bếp. Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là
người đàn bà hiền hậu đúng mực khơng cịn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần
Tràng gặp ở ngồi tỉnh. Khơng biết có phải vì mới làm dâu mà thị tu chí làm ăn
khơng? Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u
ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa. Hình như ai
nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp cửa nhà cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời họ có thể
khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn.
(Trích Vợ nhặt, Kim Lân, Ngữ văn 12, tập hai, Nxb GD,2008, tr 30)
Cảm nhận của Anh/Chị về tâm trạng của nhân vật Tràng trong đoạn trích trên.
Từ đó, nhận xét về nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của nhà văn Kim Lân.
1. MỞ BÀI
-
Giới thiệu tác giả Kim Lân và tác phẩm Vợ nhặt
-
Giới thiệu vấn đề nghị luận: Nhân vật Tràng
-
Giới hạn phạm vi dẫn chứng: Trích dẫn đoạn văn
Nhà giáo Trần Đồng Minh từng có nhận xét rất tinh tế về tác phẩm Vợ nhặt của
nhà văn Kim Lân: “Nhà văn dùng Vợ nhặt để làm cái địn bẩy để nâng con người kê
trong tình nhân ái. Câu chuyện nhặt vợ đầy bóng tối nhưng từ trong đó đã lóe lên
những tia sáng ấm lịng”. Phải chăng “những tia sáng ấm lịng ấy là tình u thương, là
sức sống mãnh liệt của các nhân vật bị đẩy tới ranh giới mong manh giữa sự sống và
cái chết nhưng lại biết cách tỏa sáng để nâng tầm giá trị con người. Bằng khả năng
quan sát tinh tế và tấm lòng nhân văn cao cả, Kim Lân đã xây dựng thành cơng hình
tượng nhân vật Tràng trong tình huống đầy éo le, bất ngờ, thú vị ở truyện ngắn Vợ
nhặt. Đặc biệt, người đọc thực sự xúc động cùng những cảm xúc, tâm trạng của Tràng
được thể hiện qua đoạn trích: “Buổi sáng … căn nhà.”
2. THÂN BÀI
a. Khái quát chung về tác giả, tác phẩm
13
b. Khái quát sự việc dẫn đến tâm trạng Tràng trong đoạn trích
- Giới thiệu ngắn gọn về nhân vật Tràng: anh nơng dân nghèo hèn, xấu xí thơ kệch,
làm nghề kéo xe bị th ni mẹ già
- Sự việc xảy đến với nhân vật:
+ Sau vài câu nói bơng đùa tầm phơ tầm phào, Tràng được người đàn bà theo
không về nhà.
+ Tràng đắc ý dẫn vợ về qua xóm ngụ cư trong sự ngạc nhiên, vui mừng và cả nỗi
lo của những người dân xóm ngụ cư.
+ Về nhà, Tràng trịnh trọng giới thiệu với mẹ về người vợ nhặt. Khi được bà cụ
chấp nhận, Tràng thở phào nhẹ nhõm.
+ Đêm tân hôn của đôi vợ chồng trẻ diễn ra trong khung cảnh chết chóc ảm đạm
nhưng khiến Tràng vơ cùng hạnh phúc.
- Nội dung đoạn trích: Đoạn văn là những dòng miêu tả hết sức chân thực, xúc động
những cảm xúc, tâm trạng của Tràng trong buổi sáng đầu tiên kể từ khi Tràng và người
đàn bà nên vợ nên chồng.
c. Cảm nhận về tâm trạng nhân vật Tràng qua đoạn trích
(Các ý: - Sự thay đổi của bối cảnh: thời gian
- Những cảm nhận bên trong của nhân vật
- Những cảm nhận của Tràng về sự thay đổi quang cảnh quanh nhà
- Những thay đổi trong cảm xúc, nhận thức và hành động của Tràng)
- Sự thay đổi về bối cảnh thời gian
+ Thời gian chiều chạng vạng đến buổi sáng hôm sau khi mặt trời tỏa chiếu ánh nắng
rực rỡ. Đó là sự vận động từ thời gian u ám ảm đạm của buổi chiều cuối ngày đến sự
khởi đầu tươi mới trong buổi sáng hơm sau, diễn tả một sự sinh khí mới trong tâm hồn
Tràng.
- Những cảm giác bên trong của Tràng:
Tràng tỉnh dậy vào buổi sáng hôm sau, một cảm giác lạ đang ngập tràn trong anh.
Tràng thấy trong người êm ái lửng lơ như từ giấc mơ đi ra. Việc có vợ diễn ra qua
nhanh chóng bất ngờ, khiến Tràng dù là người trong cuộc vẫn cảm giác như không
phải. Hạnh phúc như một thứ men say làm anh lâng lâng.
- Những cảm nhận của Tràng về sự thay đổi quang cảnh quanh nhà
+ Sự thay đổi trong dáng vẻ của Tràng: Những bước đi mệt mỏi ngật ngưỡng hàng
ngày giờ đây khơng cịn nữa. Thay vào đó là dáng vẻ đàng hoàng, tỉnh táo, thư thái,
14
khoan thai: hắn chắp hai tay sau lưng lững thững bước ra sân. Ánh nắng sáng lóa của
buổi sáng mùa hè làm hắn “cay xè hai con mắt”.
+ Tràng nhận thấy xung quanh nhà mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà
cửa, sân vườn hôm nay được quét tước, thu dọn sạch sẽ, gọn gàng. Đống quần áo rách
như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang
nước khơ cong dưới gốc cây ổi đã kín nước đầy ăm sắp. Đống rác mùn tung hoành
ngay giữa lối đi đã được hót sạch…
+ Một cảnh tượng hết sức bình dị hiện ra trước mắt Tràng: “Ngồi vườn, người mẹ
đang lúi húi dẫy những búi cỏ dại. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn
sạt trên mặt đất”.
Những hình ảnh cụ thể đó là hình ảnh của sự sống, của luồng sinh khí mới mẻ
của một gia đình thực sự mà lần đầu tiên Tràng cảm nhận được. Đặc biệt, đặt trong
hoàn cảnh mà cái đói, cái chết đang bủa vây, rình rập khắp mọi nơi thì khung cảnh
bình dị ấy chính là những tia sáng ấm áp thắp lên niềm vui, niềm hạnh phúc, niềm tin
vào tương lai tươi sáng.
-Thay đổi trong cảm xúc, nhận thức và hành động:
+ Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại thật thấm thía, cảm
động. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu, gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Một
nguồn vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng.
->Niềm vui, niềm hạnh phúc giản dị, đời thường nhưng vô cùng thiêng liêng đã đem
đến sự đổi thay kì diệu trong cảm xúc, trong tâm hồn Tràng. Căn nhà khơng cịn vắng
teo, rúm ró mà đã mang sinh khí của sự sống với hơi ấm của một gia đình, là nơi chở
che, bao bọc cho thành viên với sự ấm áp, u thương. Hạnh phúc gia đình với Tràng
giờ đây khơng còn là giấc mơ nữa mà anh đã được chạm vào những cảm xúc thiêng
liêng trần thế nhất của đời người. Hạnh phúc khiến anh cu Tràng cục mịch, vô tư ngờ
nghệch thường ngày bỗng sâu sắc hơn trong cảm xúc.
+ Hạnh phúc khiến Tràng trưởng thành trong nhận thức. Tràng ý thức được bổn phận,
trách nhiệm của người đàn ông với gia đình: bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn
thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này… Đây thực sự là những suy
nghĩ, ý thức của một người đàn ông trưởng thành, là sự thay đổi quan trọng nhất, có ý
nghĩa nhất của nhân vật được nhà văn khám phá, thể hiện một cách tinh tế, chân thực.
+ Từ sự thay đổi cảm xúc, ý thức dẫn đến sự thay đổi trong hành động: “Hắn xăm xăm
chạy ra sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”. Hai chữ
“xăm xăm” chỉ một dáng đi mạnh mẽ, hào hứng của một con người vừa tìm được hạnh
phúc. So với dáng đi “ngật ngưỡng” ở mở đầu tác phẩm, hành động “xăm xăm” của
15
Tràng là một đột biến tạo bước ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách của Tràng, từ
đau khổ sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức. Có thể nói
Tràng đã phục sinh tâm hồn nhờ hạnh phúc.
+Lần đầu tiên trong đời Tràng thấy mình nên người. Nên người là điều cực kì quan
trọng đối với những ai bị cuộc sống đẩy vào tình cảnh khơng được làm người.
d. Nhận xét về nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của Kim Lân
- Đặt nhân vật trong những tình huống đặc biệt để thấy được tâm trạng, tính cách
- Tác giả đã phân tích cho ta thấy được sự vận động trong trạng thái cảm xúc, tâm lý
nhân vật một cách tinh tế, sắc sảo.
- Ngôn ngữ để khắc họa tâm lý nhân vật giản dị, sinh động, tinh tế
e. Đánh giá – Bình luận, mở rộng
(- Đánh giá về đoạn trích, về nhân vật Tràng
- Đánh giá về giá trị của tác phẩm, tài năng và tấm lòng của tác giả)
Đoạn văn trên là một trong những đoạn đặc sắc nhất của truyện ngắn Vợ nhặt, góp
phần hồn thiện một cách xuất sắc hình tượng nhân vật Tràng với đầy đủ diện mạo,
tính cách, hành động và đặc biệt là những diễn biến tâm lí logic của nhân vật bằng ngịi
bút chân thực nhưng vô cùng sắc sảo; đồng thời khẳng định tài năng của nhà văn Kim
Lân trong nghệ thuật viết truyện ngắn. Dù ngoại hình xấu xí, thơ kệch, dù sự ám ảnh
của cái đói in hằn cả ở dáng vẻ, ở bước chân đầy mỏi mệt lúc chiều về thì bên trong
Tràng vẫn là một chàng trai tốt bụng, hào phóng, giàu lịng nhân hậu và đặc biệt là
ln có khát vọng hạnh phúc mãnh liệt, có niềm tin mạnh mẽ vào tương lai.
3. KẾT BÀI
- Đánh giá chung về nhân vật, tấm lòng nhân đạo của nhà văn
- Khẳng định sức sống của nhân vật
TÁC PHẨM CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA - NGUYỄN MINH CHÂU
ĐỀ 1: Cảm nhận về nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn văn sau
Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng
biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một
đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ. Người đàn ông đi sau.
Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ
bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ
độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới
ướt sũng của người đàn bà..
16
Hai người đi qua trước mặt tôi. Họ đi đến bên chiếc xe rà phá mìn. Người đàn bà
đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngồi mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thống, rồi
đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại bng thõng
xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân.
Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt
lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết,
chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng
quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng
nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau
đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”.
Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục khơng hề kêu một tiếng, khơng
chống trả, cũng khơng tìm cách trốn chạy.
Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ
đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh
xuống đất chạy nhào tới.
Bóng một đứa con nít lao qua trước mặt tôi. Tôi vừa kịp nhận ra thằng Phác - thằng
bé trên rừng xuống vừa nằm ngủ với tôi từ lúc nửa đêm. Thằng bé cứ chạy một mạch,
sự giận dữ căng thẳng làm nó khi chạy qua khơng nhìn thấy tơi. Như một viên đạn trên
đường lao tới đích đã nhắm, mặc cho tơi gọi nó vẫn khơng hề ngoảnh lại, nó chạy tiếp
một quãng ngắn giữa những chiếc xe tăng rồi lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông.
…Người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn - vừa đau đớn vừa vô cùng
xấu hổ, nhục nhã.
- Phác, con ơi!
Miệng mếu máo gọi, người đàn bà ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó
rồi lại bng ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy. Thằng nhỏ cho đến lúc
này vẫn chẳng hề hé răng, như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang
xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rỏ xuống những dòng nước mắt…
( Trích “Chiếc thuyền ngồi xa” - Nguyễn Minh Châu)
Từ đó chỉ ra những nhận thức sâu sắc của Nguyễn Minh Châu về cuộc sống, về con
người và việc sáng tạo nghệ thuật.
1. MB
- Giới thiệu tác giả tác phẩm:
+ Nguyễn Minh Châu là nhà văn luôn đau đáu về số phận con người và sứ mệnh của
người nghệ sỹ “Tôi không thể nào tưởng tượng nổi một nhà văn mà lại khơng mang
nặng trong mình tình u cuộc sống và nhất là tình yêu thương con người”
17
+ Truyện ngắn Chiếc thuyền ngồi xa ….cảm thơng day dứt niềm tin vẻ đẹp con người.
Hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài ám ảnh day dứt khôn nguôi trong đoạn
văn miêu tả chị bước xuống khi con thuyền đánh cá vào bờ.
- Giới thiệu nhân vật, đoạn trích
2. TB
a. Giới thiệu thêm về tác giả, tác phẩm
b. Dẫn dắt sự việc dẫn đến đoạn trích
+ Câu chuyện kể hành trình săn ảnh người nghệ sỹ Phùng cho bộ ảnh lịch năm mới.
Sau nhiều ngày lăn lộn phục kích bất ngờ bắt gặp cảnh đắt trời cho: con thuyền lưới vó
ngồi xa trong màn hịa phối tuyệt diệu của sương sớm và nắng mai trên mặt biển. Bức
ảnh nghệ thuật tuyệt đẹp cảnh đắt trời cho thời khắc vàng của nghệ thuật điện ảnh
đường nét ánh sáng hài hịa, tồn bích. Khoảnh khắc ấy đạt đến nghệ thuật chân chính,
tồn thiện tồn mỹ, rung cảm đẹp đẽ thánh thiện.
+ Nhưng hình ảnh con người bước xuống chiếc thuyền gần bờ xóa nhịa, triệt tiêu tất
cả những rung cảm lãng mạn đắm say trong trái tim người nghệ sỹ. Những gì diễn ra
sau đó với người đàn bà hàng chài quả thật không chỉ mang đến những bất ngờ kinh
ngạc mà còn khiến ta suy tư day dứt cũng như cảm phục hơn về số phận cũng như vẻ
đẹp của chị.
c. Cảm nhận về nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích
- Số phận khốn khổ đáng thương.
+ Ngoại hình
++ Bước xuống từ con thuyền ngư phủ đẹp như mơ, dáng ngồi im phăng phắc trên
mũi thuyền tạo khn hình đắt giá cho bức ảnh nghệ thuật là người đàn bà xấu xí, thơ
kệch. Ơng trời khơng ban phát cho chị diện mạo dễ nhìn, cho chị chút ưu thế vốn có
người phụ nữ.
+ Cùng với ngoại hình xấu xí là cuộc sống nghèo khổ lam lũ
++ Tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới toát lên vẻ lam lũ, đói nghèo, cơ cực, khn
mặt mệt mỏi tái ngắt sau một đêm thức trắng kéo lưới. Cuộc sống bấp bênh trên một
con thuyển chật chội, đông con và những chuỗi ngày lao động cực nhọc mưu sinh trên
biển khơi.
+ Nạn nhân bạo hành
+ + Luôn bị đe dọa, chửi bới: ánh mắt độc dữ của người chồng, nhìn dán vào
lưng áo bạc phếch và rách rưới của người đàn bà. Tấm lưng người đàn bà là nơi phải
hứng chịu mọi đe dọa.
++ Người chồng rút chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người vợ, hai hàm
răng nghiến ken két….mỗi nhát quất dồn hết sức bình sinh, trút tất cả bực tức giận dữ
như lửa cháy vào tấm lưng người đàn bà, vừa đánh đập vừa la hét chửi rủa.
18
+ Điều ngạc nhiên thái độ cam chịu nhẫn nhục của người đàn bà:
++ Hành động “ đưa cánh tay định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại bng
thóng xuống”, cánh tay bng thõng ấy báo hiệu sự cam chịu buông xuôi chấp nhận tất
cả
++ Khi bị đánh đập, người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục không hề
kêu một tiếng, không chống trả, cũng khơng tìm cách trốn chạy.
++ Ngay cả với đứa con: bật khóc, vái lấy vái để con, van xin quỳ lạy con, nước
mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt trên khuôn mặt. số phận khốn khổ đáng
thương.
- Nguyễn Minh Châu cũng đã khám phá ra vẻ đẹp tâm hồn của người đàn bà hàng chài,
đằng sau vẻ cam chịu nhẫn nhục là tấm lịng vị tha, tình u thương con vô bờ bến.
+ Chị lẳng lặng đi về phía bãi xe rà phá mìn, tìm đến một góc khuất để cho chồng đánh
vì khơng muốn để các con phải chứng kiến cảnh tượng đau lòng. Cam chịu những trận
địn roi khơng phải chị ngu dốt khơng biết đến cái quyền tối thiểu của con người, mà là
một sự lựa chọn để duy trì kế sinh nhai cho một đàn con nhỏ.
+ Bởi vậy nên chị đã cắn răng chịu đựng những trận địn, khơng kêu lên một tiếng.
+ Bật khóc cảm thấy “ xấu hổ” khi biết con đã chứng kiến tất cả. Sự xấu hổ của chị là
xấu hổ khi cảnh tượng bi kịch đớn đau của chị không thể giấu nổi và bị phơi bày trước
mắt đứa con trai mà chị hết mực thương yêu ấy.
+ Bật khóc vì “đau đớn” khi nhìn thấy con đánh lại cha để bảo vệ mẹ. Đau đớn không
phải khi tấm lưng chị run lên, từng thớ thịt chị như bị rạch nát bởi những nhát quất
xuống hằn học mà đó là lúc chị thấy đứa con trai nhỏ của mình lao đến với vận tốc của
một viên đạn, giằng lấy chiếc thắt lưng từ tay cha, dướn người lấy hết sức bình sinh
quật vào khn ngực trần rám nắng của người cha để bảo vệ mẹ. Chị biết rằng nó đang
bị tổn thương nghiêm trọng, tâm hồn trẻ thơ của nó đã ngập tràn những cảnh tượng bạo
lực, đơi mắt của nó đã khơng cịn nhìn thấy những điều tốt đẹp của cuộc đời nữa,
tương lai sau này con chị sẽ vĩnh viễn khơng cịn giữ được nụ cười và niềm tin vào con
người nữa. Thậm chí, nhân cách của nó sẽ khó tránh khỏi bị méo mó biến dạng, và có
nguy cơ biến thành kẻ dữ tợn vũ phu giống cha mình. Và dịng nước mắt của người mẹ
là giọt nước mắt mặn chát đớn đau bất lực khi không bảo vệ được tâm hồn và sự
trưởng thành của con.
+ Liên hệ so sánh mở rộng với chi tiết giọt nước mắt của bà cụ Tứ trong truyện ngắn
Vợ nhặt - Kim Lân
++ bà cụ tứ khóc khi anh con trai ngờ nghệch của mình nhặt về một cơ vợ rách
rưới trong những ngày đói rách tả tơi. Giọt nước mắt lo âu tương lai của đôi vợ chồng
trẻ nhưng cũng chứa đựng niềm hạnh phúc con mình có vợ, nó yên bề gia thất.
19
++ Giống nhau: Những giọt nước mắt của người mẹ đều biểu hiện tấm lòng người
mẹ rất mực yêu thương con, tình mẫu tử thiêng liêng trân quý.
++ Khác nhau: Nhưng nếu trong giọt nước mắt của bà cụ Tứ ngồi sự thương lo
vẫn cịn ánh lên niềm vui niềm hy vọng vào tương lai, thì giọt nước mắt của người đàn
bà hàng chài chỉ là giọt nước mắt đau đớn dằn vặt lo âu, nhìn về tương lai của con chỉ
thấy một màu u tối.
d.Nhận xét chung về nhân vật
- Người đàn bà bất hạnh đáng thương nhưng tấm lịng nhân hậu vị tha u thương con
vơ hạn
- Nghệ thuật: tạo tình huống độc đáo
Nghệ thuật miêu tả khắc họa nhân vật
- Qua hình tượng nhân vật, Nguyễn Minh Châu thể hiện sự thương cảm day dứt xót xa,
trân trọng yêu thương.
e.Nhận thức sâu sắc về cuộc sống, con người, về việc sáng tạo nghệ thuật
- Nhận thức về cuộc sống, con người:
+ Bản chất của cuộc sống không hề đơn giản xuôi chiều mà vô cùng phức tạp đa
chiều, cái đẹp k phải bao giờ cũng thống nhất với cái Thiện, khơng phải bao giờ cái
bên ngồi cũng là sự thể hiện bản chất thật bên trong. Có những cái bề ngồi đẹp đẽ
óng ánh lừa mị nhưng lại che đậy bản chất xấu xa bên trong. Ngược lại có những điều
tưởng xấu xí xù xì gai góc nhưng lại ẩn chứa nhiều vẻ đẹp tiềm ẩn. Đằng sau vẻ lam lũ
thất học đáng thương là sự từng trải, sự hiểu đời hiểu người và tấm lòng vị tha cao đẹp
của người đàn bà hàng chài.
Muốn hiểu đúng về bản chất cuộc sống, con người phải có cái nhìn thấu đáo, tồn
diện, sâu sắc từ nhiều góc độ, không thể nhận xét đánh giá đơn giản dễ dãi xi chiều
căn cứ vào kết quả cảm tính của cái nhìn hời hợt dễ dãi nơng cạn bên ngồi sự vật.
- Nhận thức về sứ mệnh của người nghệ sỹ
+ Nghệ thuật phải gắn với đời sống, không thể tách rời nghệ thuật với hiện thực đời
sống. Nhà văn không chỉ cần có tư chất nghệ sỹ biết rung động trước cái đẹp mà cịn
phải có tấm lịng nhân ái, gắn bó với cuộc sống và quan tâm số phận của con người, có
cái nhìn đa chiều, thâm nhập vào chiều sâu của cuộc sống với muôn măt đa chiều phức
tạp và hấp dẫn của nó. Nghệ nghệ sỹ phải là người biết trăn trở cho số phận con người,
có đủ sự sắc sảo, tinh tế để nhìn ra những mảng khuất tối trong cuộc sống, có sự dũng
cảm và bản lĩnh trung thực để khám phá và phản ánh những hiện thực dẫu là tàn nhẫn
đối với con người, có tấm lịng thiết tha kiếm tìm những bí ẩn muôn màu khuất lấp sau
những mảnh đời, những số phận.
20
ĐỀ 2: Cảm nhận về nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn văn sau. Từ đó nhận
xét về tấm lòng nhân đạo của nhà văn Nguyễn Minh Châu
Nhưng người đàn bà để lộ ra cái vẻ sắc sảo chỉ đến thế, chỉ vừa đủ để kích thích
trí tị mị của chúng tơi. Mụ đưa cặp mắt đầy vẻ mệt mỏi nhìn ra ngồi bờ phá bên kia
con đường chính của phố huyện ở đấy, thiếu nữ mặc áo tím vẫn ngồi đợi mụ trên chiếc
mủng.
Trong phút chốc, ngồi trước mặt chúng tôi lại vẫn là một người đàn bà lúng túng, đầy
sợ sệt, nhưng có vẻ thơng cảm với chúng tôi hơn. Mụ bắt đầu kể:
- Từ nhỏ tuổi tôi đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt, sau một bận lên đậu mùa. Hồi
bấy giờ nhà tơi cịn khá giả, nhà tơi trước ở trong cái phố này. Cũng vì xấu, trong phố
khơng ai lấy, tơi có mang với một anh con trai một nhà hàng chài giữa phá hay đến
nhà tôi mua bả về đan lưới. Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng
hiền lành lắm, khơng bao giờ đánh đập tôi.
Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình:
- Giá tơi đẻ ít đi hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách
mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hàng
tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối... cũng nghèo
khổ, túng quẫn đi vì trốn lính - bỗng mụ đỏ mặt - nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở
thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật…
- Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị khơng? - Tôi hỏi.
- Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác
uống rượu... Giá mà lão uống rượu... thì tơi cịn đỡ khổ... Sau này con cái lớn lên, tôi
mới xin được với lão... đưa tôi lên bờ mà đánh...
- Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! - Đẩu và tơi cùng một lúc thốt
lên.
- Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi
vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền khơng có đàn ông...
- Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, - bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua chát, trên thuyền phải có một người đàn ơng... dù hắn man rợ, tàn bạo?
- Phải - Người đàn bà đáp - Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú?
Lát lâu sau mụ lại mới nói tiếp:
- Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tơi
cần phải có người đàn ơng để chèo chống phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng
một sắp con, nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ
con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền
chúng tôi phải sống cho con chứ khơng thể sống cho mình như ở trên đất được! Mong
các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó! - Lần đầu tiên trên
21
khn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười - vả lại, ở trên chiếc
thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tơi sống hịa thuận, vui vẻ.
- Cả đời chị có một lúc nào thật vui khơng? Đột nhiên tơi hỏi.
- Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tơi chúng nó được ăn no…
( Trích “Chiếc thuyền ngồi xa”, Nguyễn Minh Châu, Ngữ văn 12)
Cảm nhận về nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn văn sau. Từ đó nhận xét về
tấm lịng nhân đạo của nhà văn Nguyễn Minh Châu
* Phân tích nhân vật người đàn bà trong đoạn trích
- Đằng sau vẻ bề ngồi cam chịu nhẫn nhục có vẻ thất học ẩn chứa sự sắc sảo, từng
trải, hiểu đời hiểu người, sống sâu sắc
+ Thấu hiểu người chồng, hiểu nguyên nhân trận đòn roi
++ Trước hết, phải nói rằng, khơng ai hiêu thấu người đàn ông vũ phu ấy hơn
chính người vợ - nạn nhân của trận đòn roi nảy lửa của hắn. Trong cách chị kể lại cho
Phùng và Đẩu nghe những chuyện về người chồng, ta nhận thấy có rất nhiều sắc thái
tình cảm được biểu hiện, chị biết ơn vì hắn đã chấp nhận một đứa con gái xấu xí như
chị “từ nhỏ tơi đã là một đứa con gái xấu xí, lại rỗ mặt”.
++ Lý giải từ những yếu tố khách quan biến người chồng “hiền lành không bao
giờ đánh đập vợ” trở thành một gã chồng tàn bạo vũ phu. “Giá tơi đẻ ít đi hoặc chúng
tơi sắm được một con thuyền rộng hơn”, rồi “cũng nghèo khổ đi vì trốn lính” “có
những tháng trời làm biển động, cả nhà chỉ ăn xương rồng luộc chấm muối”…Từng
lời kể của chị như đang tái hiện lại những tháng năm cơ cực nhọc nhằn, bao nhiêu đêm
thức trắng kéo lưới mà vẫn không đủ ăn, không đủ nuôi một đàn con nheo nhóc trên
một con thuyền chật chội, lênh đênh. Cuộc sống lam lũ vất vả đói nghèo, lại thất học
nên gã đàn ông ấy mới sinh ra bế tắc, phẫn uất. Chỉ có người vợ ấy mới biết đánh vợ
chính là cách mà lão đàn ông khốn nạn nhưng cũng khốn khổ ấy giải tỏa những uất ức
dài dặc trong cuộc đời “cứ lúc nào thấy khổ quá là lão lại lôi tôi ra đánh” “như những
“người đàn ông trên thuyền khác uống rượu”. Chị hiểu điều đó, và hơn ai hết, chị tỏ ra
cảm thơng cho tình cảnh đáng thương của người chồng.
- Hiểu về các giải pháp trong cuộc sống
+ nguyên nhân sâu xa của bi kịch gia đình chị là ở cái đói, sự cùng quẫn, thất học. Sinh
kế duy nhất của những gia đình hơn chục người là cái thuyền lưới vó, mọi được mất
phó mặc cho trời, biển động sóng lớn thì cả tháng trời đứt bữa. Đàn con được ăn no trở
thành giây phút hiếm hoi. Chị nhận ra rằng giải pháp ly dị chồng chỉ giải thốt cho bản
thân chị, chứ khơng thể giúp giải quyết căn nguyên bi kịch gia đình chị “mong các chú
cách mạng thông cảm cho cái sự lạc hậu, các chú đừng bắt tơi bỏ nó”
22
- Hiểu về sự cần thiết của người chồng đối với gia đình
+ Với cơng việc truy cầu kế sinh nhai cho cả gia đình giữa biển khơi đầy sóng gió,
hắn có vai trị quan trọng khơng thể thiếu. Chị khơng thể hình dung mình sẽ xoay sở
như thế nào trên một con thuyền khơng có đàn ơng “các chú không phải là đàn bà”,
chị phân trần với Phùng và Đẩu “nên các chú không thể hiểu nổi nỗi vất vả của một
người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ơng”, nhất là khi “biển động sóng
gió”. Dù đó là một người đàn ơng man rợ tàn bạo thì cũng vơ cùng quan trọng đối với
cái nghề thuyền chài đêm ngày lênh đênh trên biển đầy sóng gió ấy.
* Vẻ đẹp diệu kì nhất, cảm động nhất là tấm lịng vị tha, đức hy sinh, tình u thương
con vô bờ bến
- Nguồn sức mạnh lớn nhất giúp chị nhẫn nhục, cam chịu những trận đòn roi dữ dằn
của chồng chính là đàn con. Bỏ chồng, nghĩa là một gia đình tan nát, là đàn con nheo
nhóc. “Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình
được”, cái lý do rất đơn giản ấy ẩn chứa biết bao nhẫn nhục hy sinh của người mẹ.
Người đàn bà ấy đâu sống cho riêng mình mà sống cho những đứa con. Trong cuộc
sống nghèo khổ, chật vật và ngày ngày phải nuôi đủ cho mười miệng ăn trên chiếc
thuyền ọp ẹp, người đàn bà ấy là hiện thân của một sự hy sinh lặng thầm mà cao đẹp.
- Nụ cười, niềm hạnh phúc của chị đều cuất phát từ con. Trong nghiệt ngã khổ đau
chị vẫn chắt chiu hạnh hạnh phúc nhỏ nhoi. Chị trân trọng từng phút giây hòa thuận
vui vẻ của gia đinh, niềm hạnh phúc lớn nhất của người mẹ tội nghiệp ấy là những lúc
“ngồi nhìn đàn con được ăn no”. Cái nụ cười bất giác ửng sáng lên trên khuôn mặt xấu
xí của chị khi nói về đàn con đã nói lên tất cả. Sống cho con chứ khơng phải sống cho
mình, mọi căn ngun, mọi bí ẩn đã trở nên sáng tỏ từ lời bộc bạch thành thực ấy.
* Đánh giá về nhân vật
- Người đàn bà bất hạnh đáng thương nhưng tấm lòng nhân hậu vị tha yêu thương con
vô hạn
- Nghệ thuật: Một phương diện rất thành công trong nghệ thuật miêu tả khắc họa nhân
vật là cách chọn điểm nhìn trần thuật. Nhà văn trao điểm nhìn trần thuật cho nhân vật
Phùng, Phùng kể chuyện mình trực tiếp chứng kiến, trực tiếp tham gia vào biến cố câu
chuyện, trò chuyện nghe lời giãi bày với người đàn bà nên câu chuyện hiện lên rất
chân thật, khám phá bất ngờ sâu sắc, đưa đến những suy tư thấm thía day dứt.
+ Chọn chi tiết, xây dựng lời thoại giản dị nhưng khơi gợi suy tư sâu sắc.
* Đánh giá về tấm lòng nhân đạo của nhà văn
- Đó là tấm lịng đồng cảm xót thương cho số phận bất hạnh của con người trong hành
trình mưu sinh nhọc nhằn trăm đắng ngàn cay.
23
- Đó là tấm lịng nâng niu trân trọng những vẻ đẹp khuất lấp trong tâm hồn con người
và niền tin vào sức mạnh của con người sẽ vượt qua những khó khăn thử thách, gian
trn sóng gió bằng tình yêu và lòng trắc ẩn.
TÁC PHẨM HỒN TRƯƠNG BA DA HÀNG THỊT – LƯU QUANG VŨ
Đề bài:
Hồn Trương Ba: Nhập vào xác cu Tị? Tơi?
Đế Thích: Chứ sao! Ơng với anh hàng thịt là hai người xa lạ, cịn ơng với thằng cu Tị
đã từng quấn quýt quý mến nhau, ông sống trong thân thể thằng bé chắc sẽ ổn...
Hồn Trương Ba: Ơng cho tơi suy nghĩ một lát đã... Việc này bất ngờ quá! (ngồi xuống,
nghĩ ngợi) Nhập vào cu Tị... (lẩm bẩm) Tôi, một ông già gần 80, cu Tị thì cịn chưa bắt
đầu cuộc đời, cịn đang tuổi ăn, tuổi lớn, chạy nhảy vơ tư... có ổn khơng nhỉ? (nhắm
mắt lại) Thử hình dung xem nào... sẽ phải giải thích cho chị Lụa: Tơi khơng phải là
con chị, chị ấy sẽ khơng ngi thương nhớ con... Có khi tơi cịn phải sang nhà chị Lụa
ở... Rồi cịn hàng xóm, lí trưởng, trương tuần... Bao nhiêu sự rắc rối. Bà vợ tôi, các
con tôi sẽ nghĩ ngợi, xử sự thế nào, khi chồng mình, bố mình mang thân một thằng bé
lên 10? Làm trẻ con không phải dễ! Mà cái Gái nhà tơi, nó sẽ nghĩ thế nào nhỉ?
Đế Thích: Chắc nó sẽ thích. Nó thân với cu Tị mà.
Hồn Trương Ba: (lắc đầu) Sợ chỉ càng oái oăm rắc rối hơn. Trẻ con phải ra trẻ con,
người lớn phải ra người lớn. Thằng cu Tị bỗng thành ông nội, con bé đời nào chịu. Tôi
đã lường trước thấy bao sự khơng ổn, ơng Đế Thích ạ.
Đế Thích: Trong thân một đứa bé, ơng sẽ có cả cuộc đời trước mặt.
Hồn Trương Ba: Để rồi, chẳng bao lâu nữa, bà nhà tôi, bạn bè cùng lứa với tôi như
bác Trưởng Hoạt lần lượt nằm xuống, mình tơi vẫn phải sống suốt bao năm tháng
dằng dặc. Mình tơi giữa đám người hậu sinh. Những gì chúng thích thì tơi ghét, những
gì tơi thích chúng chẳng ưa. Tơi sẽ như ông khách ngồi dai ở nhà người ta, mọi khách
khứa đã về cả rồi, mình vẫn dầm dề nán lại. Tôi sẽ bơ vơ lạc lõng, hoặc sẽ trở nên
thảm hại đáng ghét như kẻ tham lam, một kẻ lí ra phải chết từ lâu mà vẫn cứ sống, cứ
trẻ khoẻ, cứ ngang nhiên hưởng thụ mọi thứ lộc trời! Vơ lí lắm! Khơng!
Tơi khơng thể cướp cái thân thể non nớt của cu Tị… Tơi đã nghĩ kĩ... (nói chậm và khẽ)
Tơi khơng nhập vào hình thù ai nữa! Tơi đã chết rồi, hãy để tơi chết hẳn!
…Đế Thích: Khơng! Ơng phải sống, dù với bất cứ giá nào...
Hồn Trương Ba: Không thể sống với bất cứ giá nào được, ơng Đế Thích ạ! Có những
cái giá đắt q, khơng thể trả được... Lạ thật, từ lúc tơi có đủ can đảm đi đến quyết
định này, tôi bỗng cảm thấy mình lại là Trương Ba thật, tâm hồn tơi lại trở lại thanh
thản, trong sáng như xưa...
24
Đế Thích: Ơng có biết ơng quyết định điều gì khơng? Ơng sẽ khơng cịn lại một chút
gì nữa, khơng được tham dự vào bất cứ nỗi vui buồn gì! Rồi đây, ngay cả sự ân hận về
quyết định này, ông cũng không có được nữa.
Hồn Trương Ba: Tôi hiểu. Ông tưởng tôi không ham sống hay sao? Nhưng sống thế
này, cịn khổ hơn là cái chết. Mà khơng phải chỉ một mình tơi khổ! Những người thân
của tơi sẽ cịn phải khổ vì tơi.
(Lưu Quang Vũ, Hồn Trương Ba,da hàng thịt, Ngữ văn 12, tập hai, NXB Giáo
dục - 2008, tr.151-152)
Cảm nhận của anh/chị về nhân vật hồn Trương Ba trong đoạn trích trên. Từ đó chỉ
ra thơng điệp về lẽ sống mà nhà viết kịch Lưu Quang Vũ muốn gửi gắm.
1. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Lưu Quang Vũ – nhà viết kịch tài năng, người đã
đem đến ngọn gió mới mẻ, khuấy động nền kịch trường Việt Nam những năm 80 của
thế kỷ XX. Trong những vở kịch được dàn dựng, “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” đã
gây được tiếng vang lớn trong nước và quốc tế
- Giới thiệu nhân vật, đoạn trích:
b. THÂN BÀI
a. Khái quát về tác giả, vở kịch
- Tác giả: LQV được biết đến trước hết với tư cách một nhà thơ sau đó mới là nhà viết
kịch. Chỉ 10 năm chuyên tâm sáng tác kịch, LQV đã để lại 50 vở kịch, hầu hết đều
được công diễn, chiếm lĩnh kịch trường VN những năm 80 của thế kỷ XX. Khát vọng
được tham dự trực tiếp vào dòng chảy mãnh liệt của cuộc sống thời kì đổi mới, được
trao gửi và dâng hiến, khát vọng cổ vũ cho cái Đẹp cái thiện lên án cái xấu và chiến
đấu chống lại cái Ác, khát vọng góp sức vào sự hồn thiện nhân cách con người chính
là nguồn nhiệt hứng tạo nên sự thăng hoa cho tài năng Lưu Quang Vũ.
- Tác phẩm: Hồn Trương Ba, da hàng thịt là vở kịch được Lưu Quang Vũ viết năm
1981, công diễn lần đầu tiên năm 1984, sau đó được diễn lại nhiều lần trong và ngoài
nước. Từ cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng lại thành một vở kịch nói
hiện đại và lồng vào đó nhiều triết lí nhân văn về cuộc đời và con người.
b. Dẫn dắt đến đoạn trích cần phân tích
- Giới thiệu nhân vật: Trương Ba là một ơng lão gần 60 tuổi, thích làm vườn, yêu cái
đẹp, tâm hồn thanh nhã, giỏi đánh cờ, sống nhân hậu yêu thương vợ con.
- Sự việc
25