MỤC LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công tác thi hành án nói chung và thi hành án dân sự nói riêng có ý
nghĩa hết sức quan trọng trong đời sống xã hội. Điều 106 Hiến pháp năm
1992 sửa đổi 2013 đã quy định rõ: “Bản án, quyết định của Toà án nhân
dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ
quan, tổ chức, cá nhân hữu quan nghiêm chỉnh chấp hành”. Với ý nghĩa là
hoạt động đưa bản án, quyết định về dân sự của Tòa án, Trọng tài thương
mại, Hội đồng xử lý việc cạnh tranh ra thi hành trên thực tế, bảo đảm cho
bản án, quyết định, quyết định của Tòa án được chấp hành, góp phần bảo
đảm tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo
đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và lợi ích của nhà nước,
góp phần giữ vững ổn định chính trị-xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả
của bộ máy nhà nước trong những năm qua Đảng, Nhà nước ta đã quan tâm
ban hành nhiều chủ trương, chính sách và pháp luật, cũng như hỗ trợ và tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho công tác thi hành án dân sự (thi hành án dân
sự) như Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1989, Pháp lệnh thi hành án dân
sự năm 1993, Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004.
Đặc biệt, ngày 14/11/2008, Quốc hội nước ta thông qua Luật thi hành
án dân sự và Nghị quyết thi hành Luật này, có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/7/2009. Luật Thi hành án dân sự được ban hành có nhiều nội dung mới,
phù hợp với yêu cầu cải cách Tư pháp, đồng thời đáp ứng đòi hỏi cấp thiết
của thực tiễn công tác thi hành án trong giai đoạn hiện nay. Trong lĩnh vực
thi hành án dân sự, phần lớn các nghĩa vụ thi hành án gắn liền với yếu tố tài
sản, các đương sự trong vụ việc thi hành án thường không tự nguyện thi
hành án, có tâm lý chây ỳ, trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ trong Bản án,
quyết định nên rất dễ dẫn đến những hành vi tẩu tán, huỷ hoại tài sản nhằm
2
làm mất đi điều kiện thi hành án. Xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn, với
mục đích bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi
hành án, khẳng định rõ hơn quyền hạn của chấp hành viên, nhằm nâng cao
hiệu quả của công tác thi hành án dân sự, giảm tình trạng án tồn đọng, Luật
thi hành án dân sự đã dành một mục tại chương 4 với 3 biện pháp bảo đảm
thi hành án, gồm: Phong toả tài khoản; Tạm giữ tài, giấy tờ của đương sự;
Tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sơ hữu, sử dụng, thi hành ány đổi
hiện trạng tài sản. Đây là một trong những điểm mới mang tính bước ngoặt
của Luật thi hành án dân sự năm 2008.
Với việc qui định các biện pháp bảo đảm thi hành án, Luật thi hành án
dân sự đã kịp thời bổ sung cho các chấp hành viên những quyền hạn nhất
định. Thực tế cho thấy nước ta sau 5 năm thực hiện các biện pháp bảo đảm
thi hành án đã mang lại những khởi sắc nhất định trong công tác thi hành
án dân sự. Tuy nhiên, đây cũng là công việc, quyền hạn, nhiệm vụ thực sự
mới đối với các Chấp hành viên. Các biện pháp này vẫn còn những hạn
chế, khó khăn nhất định, bộc lộ nhiều vấn đề cần nghiên cứu, làm rõ thêm
nên cần phải nghiên cứu kỹ để việc áp dụng các biện pháp bảo đảm được
thuận lợi, có hiệu quả và chính xác hơn. Đây chính là vấn đề của cả nước
nói chung và của tỉnh Quảng Bình nói riêng. Do đó, tác giả lựa chọn đề tài
“Các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự - Thực tiễn tại Quảng Bình”
làm đề tài khóa luận của mình với mục đích làm sáng tỏ hơn tầm quan
trọng, ý nghĩa và cơ sở pháp lý, trình tự, thủ tục trong việc áp dụng các
biện pháp bảo đảm thi hành án.
2. Tình hình nghiên cứu
Biện pháp bảo đảm được hiểu là những chế tài theo quy định của pháp
luật do chấp hành viên tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của đương
sự áp dụng nhằm ngăn chặn hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh
thực hiện nghĩa vụ thi hành án. Đây là một nội dung hoàn toàn mới được
quy định trong Luật thi hành án dân sự. Trước khi Luật thi hành án dân sự
3
được ban hành, pháp luật thi hành án dân sự chưa quy định về vấn đề này.
Đối với biện pháp phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án, trước
đây được Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 quy định là một biện
pháp cưỡng chế thi hành án. Chỉ đến khi Luật thi hành án dân sự được ban
hành thì chế định các biện pháp bảo đảm thi hành án mới được quy định
một cách đầy đủ, cụ thể. Do đó, cho đến nay, chỉ có một số ít công trình
nghiên cứu khoa học pháp lý đề cập đến đề tài này như:
- "Luật Thi hành án dân sự Việt Nam những vấn đề lí luận và thực
tiễn" do Ts. Nguyễn Công Bình (chủ biên), do Nhà xuất bản Công an nhân
dân xuất bản, năm 2007;
- "Những điểm mới của Luật Thi hành án dân sự 2008", Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2010.
- "Những vướng mắc từ thực tiễn thi hành Luật Thi hành án dân sự",
của Nguyễn Thị Khanh, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 05/2010.
- "Bản chất pháp lí của biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự theo
Luật Thi hành án dân sự",Trần Anh Tuấn, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số
16/2009.
- "Vài suy nghĩ về thời hạn áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án",
của Hồ Quân Chính,Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề về thi
hành án dân sự 7/2011.
- "Biện pháp bảo đảm thi hành án-Bước ngoặt của pháp luật về thi
hành án dân sự", của Lê Thị Kim Dung, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Số
chuyên đề Thi hành án dân sự và vấn đề xã hội hóa, năm 2009.
Tuy nhiên, do mục đích và phạm vi nghiên cứu, các công trình nghiên
cứu này cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ nêu mục đích, cơ sở áp dụng và
giới thiệu về nội dung các quy định về biện pháp bảo đảm thi hành án dân
sự mà chưa nghiên cứu, phân tích một cách toàn diện, tổng thể về các nội
dung liên quan đến vấn đề này. Tuy nhiên, đây vẫn là những tài liệu
4
nghiên cứu quan trọng được tác giả lựa chọn tham khảo khi thực hiện việc
nghiên cứu đề tài khóa luận của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của khóa luận là làm rõ một số vấn đề lý luận về
biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự, nội dung của chế định biện pháp
bảo đảm thi hành án dân sự; nhận diện được những hạn chế, bất cập của
chế định này và các tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện chúng tại
tỉnh Quảng Bình. Từ đó, đưa ra một số kiến nghị nhằm khắc phục những
hạn chế, bất cập, vướng mắc, tồn tại đó, góp phần giải quyết các khó khăn,
vướng mắc đặt ra trong công tác thi hành án dân sự hiện nay.
Với mục đích nghiên cứu như vậy, nhiệm vụ nghiên cứu được xác
định trên những khía cạnh sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về biện pháp bảo đảm thi hành án
dân sự như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, cơ sở của biện pháp bảo đảm thi
hành án dân sự.
- Phân tích, đánh giá những quy định của Luật thi hành án dân sự về
biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự.
- Khảo sát tình hình thực hiện các biện pháp bảo đảm thi hành án dân
sự trong thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình hiện nay.
- Tìm ra được một số giải pháp nhằm hoàn thiện và thực hiện pháp
luật về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự trong cả nước nói chung và ở
Quảng Bình nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về biện pháp
bảo đảm thi hành án dân sự, là các quy định của pháp luật về biện pháp
bảo đảm thi hành án dân sự và thực trạng thực hiện các biện pháp này trong
hoạt động thi hành án dân sự hiện nay.
Nội dung nghiên cứu đề tài bao gồm nhiều vấn đề khác nhau. Tuy
vậy, do giới hạn của một khóa luận, việc nghiên cứu chỉ tập trung vào
5
những vấn đề cơ bản nhất thuộc nội dung đề tài như khái niệm, đặc điểm,
nội dung và ý nghĩa của biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự; cơ sở của
việc pháp luật quy định biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự; nội dung
các quy định của Luật thi hành án dân sự về biện pháp bảo đảm thi hành án
dân sự và thực tiễn thực hiện chúng trong những năm qua.
Phạm vi nghiên cứu về không gian: Khóa luận tập trung nghiên cứu
nội dung các quy định của Luật thi hành án dân sự về biện pháp bảo đảm
thi hành án dân sự và thực tiễn thực hiện chúng trong những năm qua tại
tỉnh Quảng Bình.
Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Khóa luận nghiên cứu thực tiễn thực
hiện thi hành án dân sự từ năm 2009 ( luật thi hành án dân sự 2008 có hiệu
lực) đến năm 2013.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài.
Khóa luận được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác-
Lênin, phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, quan điểm của
Đảng, Nhà nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Đồng
thời, trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học truyền thống như phương pháp phân tích, phương
pháp so sánh, phương pháp tổng hợp và phương pháp thực tiễn.
6. Những điểm mới của khóa luận
Khóa luận là công trình đầu tiên nghiên cứu có tính hệ thống những
vấn đề liên quan đến biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự, thể hiện ở các
nội dung cơ bản sau đây:
- Hoàn thiện khái niệm về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự.
- Làm rõ được đặc điểm, ý nghĩa, nội dung của biện pháp bảo đảm thi
hành án dân sự và cơ sở của việc quy định biện pháp này.
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng các quy định của Luật thi hành án
dân sự về bảo đảm thi hành án dân sự và thực tiễn thực hiện ở Quảng Bình.
6
- Đề xuất được những kiến nghị, giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện và
thực hiện những quy định của pháp luật về bảo đảm thi hành án dân sự.
7
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu thi hành ánm khảo,
nội dung của khóa luận gồm có: 02 chương
Chương 1: Những vấn đề lý luận về biện pháp bảo đảm thi hành án
dấn sự.
Chương 2: Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về biện
pháp bảo đảm thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Bình. Một số kiến
nghị,giải pháp.
8
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP
BẢO ĐẢM THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và những nội dung cơ bản của biện pháp
bảo đảm thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự
Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những quy định của pháp lệnh Thi
hành án dân sự năm 2004 và tổng kết thực tiễn công tác thi hành án dân sự,
Luật Thi hành án dân sự đã được ban hành có nhiều nội dung mới, phù hợp
với yêu cấu cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước đặt ra, đồng thời đáp
ứng đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn công tác thi hành án trong giai đoạn hiện
nay. Một trong những điểm mới của Luật Thi hành án dân sự là việc quy
định các biện pháp bảo đảm thi hành án. Trước đây, Pháp lệnh thi hành án
2004 mới chỉ dừng lại ở quy định các biện pháp cưỡng chế nếu người thi
hành án không tự nguyện thi hành thì nay Luật Thi hành án đã bổ sung
nhóm biện pháp mang tính ngăn chặn, phòng ngừa nhằm đảm bảo cho quá
trình thi hành án đạt kết quả, đó là nhóm biện pháp bảo đảm thi hành án
dân sự.
Luật thi hành án dân sự đã dành hẳn Mục I Chương IV, bao gồm các
điều: từ Điều 66 đến Điều 69 để quy định về các biện pháp bảo đảm thi
hành án dân sự gồm: phong tỏa tài sản; tạm giứ tài sản, giấy tờ của đương
sự; tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sỡ hữu, sử dụng, thay đổi hiện
trạng tài sản.
Theo từ điển Tiếng Việt thì bảo đảm là làm cho chắc chắn thực hiện
được, giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết. Như vậy, có thể
hiểu bảo đảm thi hành án là làm cho quá trình thi hành án được thực hiện
một cách chắc chắn hơn, đạt kết quả cao hơn.
9
Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự là biện pháp pháp lý được
Chấp hành viên áp dụng theo một trình tự, thủ tục luật định trong quá trình
tổ chức thực hiện việc thi hành án, đặt tài sản của người phải thi hành án
trong tình trạng bị hạn chế hoặc tạm thời bị cấm sử dụng, định đoạt, chuyển
dịch, thay đổi hiện trạng nhằm bảo toàn điều kiện thi hành án, ngăn chặn
người phải thi hành án thực hiện việc tẩu tán, hủy hoại, thay đổi hiện trạng
về tài sản trốn tránh việc thi hành án, làm cơ sở cho việc áp dụng biện pháp
cưỡng chế thi hành án dân sự trong trường hợp người phải thi hành án
không tự nguyện thi hành án.
Các biện pháp bảo đảm thi hành án giữ vai trò quan trọng, hỗ trợ đắc lực
quá trình thi hành án, góp phần bảo vệ các quyền và nghĩa vụ dân sự được ghi
nhận trong bản án, quyết định của cơ quan nhà bước có thẩm quyền.
1.1.2. Đặc điểm của các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự
Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự có các đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, đối tượng bị áp dụng biện pháp bảo thi hành án dân sự là
tài sản, tài khoản. Trong lĩnh vực thi hành án dân sự, ngoài các nghĩa vụ
mang tính nhân thân như buộc công khai xin lỗi, buộc nhận người lao động
trở lại làm việc…thì phần lớn các nghĩa vụ thi hành án gắn liền với yếu tố tài
sản. Các nghĩa vụ có tính chất tài sản chỉ được thực hiện nếu người mang
nghĩa vụ có tài sản để thi hành. Để việc thi hành án được thuận lợi, biện
pháp bảo đảm thi hành án được Chấp hành viên áp dụng đối với đối tượng là
các tài sản, tài khoản được cho là của người phải thi hành án. Tài sản đó có
thể đang do người phải thi hành án hoặc do người khác chiếm giữ.
Thứ hai, biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự được áp dụng linh
hoạt, tại nhiều thời điểm, nhiều địa điểm khác nhau trong quá trình thi hành
án nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại, trốn tránh việc thi hành án. Biện
pháp bảo đảm thi hành án dân sự có thể được áp dụng ngay tại thời điểm ra
quyết định thi hành án và trong thời hạn tự nguyện thi hành án và cũng có
thể được áp dụng tại thời điểm trước hoặc trong quá trình cưỡng chế thi
10
hành án nếu xét thấy cần phải ngăn chặn ngay hành vi tẩu tán, hủy hoại tài
sản hoặc trốn tránh việc thi hành án của đương sự. Biện pháp bảo đảm thi
hành án dân sự có thể được Chấp hành viên áp dụng trong trường hợp ủy
thác thi hành nghĩa vụ liên đới.
Thứ ba, biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự được thực hiện với
trình tự, thủ tục linh hoạt, gọn nhẹ, ít tốn kém, có thời gian áp dụng ngắn,
có tác dụng thúc đẩy nhanh việc thi hành án.Việc áp dụng các biện pháp
bảo đảm thi hành án dân sự được thực hiện một cách khá linh hoạt, xuất
phát từ yêu cầu của người được thi hành án hoặc do Chấp hành viên chủ
động áp dụng trong trường hợp cần thiết. Việc áp dụng biện pháp bảo đảm
chỉ nhằm để ngăn chặn hành vi tẩu tán, thay đổi hiện trạng, chuyển dịch
hoặc hủy hoại tài sản của người phải thi hành án mà chưa cần phải huy
động lực lượng để thực hiện việc cưỡng chế nên thời gian thực hiện nhanh
gọn, ít tốn kém kinh phí. Mặt khác, khi áp dụng biện pháp bảo đảm thi
hành án dân sự, Chấp hành viên không bắt buộc phải thực hiện việc xác
minh và thông báo trước cho đương sự. Để đảm bảo tính nhanh chóng, kịp
thời, linh hoạt, nhằm ngăn chặn đương sự tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn
tránh việc thi hành án thì Chấp hành viên không cần thực hiện việc xác
minh và thông báo trước cho đương sự biết. Tùy theo từng loại tài sản mà
Chấp hành viên sẽ ban hành quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi
hành án dân sự tương ứng.
Hiện nay, Việt Nam đang xây dựng và phát triển một nền kinh tế thị
trường lành mạnh có sự hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới, các giao
dịch thương mại, dân sự ngày càng đa dạng và sôi động. Quá trình chuyển
dịch tài sản diễn ra rất nhanh chóng đôi khi chỉ là cái nhấp chuột và không
bó hẹp trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, do đó, để giám sát được quá trình
này cũng là vấn đề khá phức tạp. Hơn nữa, các đương sự trong các vụ việc
thi hành án thường không tự nguyện thi hành, có tâm lý chây lười, trốn
tránh việc thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định nên rất dễ có hành vi
11
tẩu tán, hủy hoại tài sản nhằm làm mất đi điều kiện thi hành án. Để ngăn
chặn những hành vi đó, cơ quan thi hành án dân sự cần áp dụng biện pháp
phù hợp, cụ thể là biện pháp bảo đảm thi hành án. Nếu áp dụng biện pháp
cưỡng chế thi hành án thì nhược điểm lớn nhất là sự chậm trễ trong áp
dụng, phức tạp về thủ tục sẽ tạo cơ hội, điều kiện để người phải thi hành án
có thời gian tẩu tán. Với đặc điểm nhanh chóng về thời gian, đơn giản về
thủ tục nên kịp thời ngăn chặn hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản, đảm bảo cơ
quan thi hành án có điều kiện áp dụng các biện pháp cưỡng chế.
Thứ tư, biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự khi được áp dụng chưa
làm thay đổi, chuyển dịch về quyền sở hữu, sử dụng tài sản của chủ sở hữu,
chủ sử dụng.Với mục đích ngăn chặn người phải thi hành án thực hiện
hành vi tẩu tán, thay đổi hiện trạng hoặc hủy hoại tài sản, nhằm bảo toàn tài
sản đó, đảm bảo điều kiện thi hành án, biện pháp bảo đảm thi hành án dân
sự chưa làm mất đi quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản của chủ sở hữu,
chủ sử dụng mà mới chỉ làm hạn chế quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản
đó của chủ sở hữu, chủ sử dụng tài sản.
Thứ năm, biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự có thể được Chấp
hành viên tự mình ra quyết định áp dụng hoặc theo yêu cầu của đương sự
và người yêu cầu phải chịu trách nhiệm về việc áp dụng.Trong quá trình tổ
chức thực hiện việc thi hành án, Chấp hành viên có quyền tự mình áp
dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự hoặc ra quyết định áp dụng
theo yêu cầu bằng văn bản của đương sự. Trường hợp đương sự yêu cầu áp
dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự không đúng mà gây thiệt hại
cho người bị áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự hoặc cho người
thứ ba thì phải bồi thường. Trường hợp Chấp hành viên tự mình áp dụng
biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự không đúng hoặc Chấp hành viên ra
quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự vượt quá, không
đúng theo yêu cầu của đương sự mà gây ra thiệt hại thì Chấp hành viên có
trách nhiệm phải bồi thường.
12
Thứ sáu, việc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự được thể
hiện thông qua việc ban hành quyết định của Chấp hành viên.Chỉ Chấp
hành viên mới có quyền được áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân
sự. Ngoài Chấp hành viên thì các chủ thể khác trong Cơ quan thi hành án
dân sự không có quyền ra quyết định áp dụng các biện pháp này. Mặt khác,
việc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự chỉ có hiệu lực pháp lý
khi được Chấp hành viên quyết định dưới hình thức văn bản quyết định.
Thứ bảy, Khiếu nại đối với quyết định áp dụng biện pháp bảo thi hành
án dân sự được giải quyết một lần và có hiệu lực thi hành.Quyết định áp
dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự có tác dụng làm hạn chế quyền
sở hữu, sử dụng tài sản mà không có tính chất làm thay đổi, chuyển dịch
về quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản đó. Vì vậy, khiếu nại đối với
quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự chỉ được xem
xét, giải quyết một lần và có hiệu lực thi hành.
Nhìn chung, các biện pháp bảo đảm thi hành án vừa mang những đặc
điểm của biện pháp cưỡng chế như tác động trực tiếp đến quyền định đoạt
tài sản của người phải thi hành án và vừa mang đặc điểm của biện pháp
khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự như sự đơn giản về thủ tục, nhanh
chóng về thời gian áp dụng. Tuy nhiên, về mức độ thì biện pháp bảo đảm
thi hành án chỉ dừng ở việc hạn chế quyền tự định đoạt mà chưa tước
quyền tự định đoạt tài sản của người phải thi hành án như biện pháp cưỡng
chế thi hành án.
1.1.3. Nội dung của áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự
Về bản chất, biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự được ví như là
biện pháp khẩn cấp tạm thời của hoạt động thi hành án dân sự. Theo đó,
biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự giữ vai trò hỗ trợ cho việc thi hành
các bản án, quyết định nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn
tránh nghĩa vụ thi hành án, đảm bảo hiệu lực thi hành của các bản án, quyết
định, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích
13
hợp pháp của công dân. Tùy từng trường hợp cụ thể mà biện pháp bảo đảm
thi hành án dân sự tương ứng sẽ được Chấp hành viên áp dụng để tổ chức
việc thi hành án. Xuất phát từ định hướng về mục tiêu, bản chất, đặc điểm
của biện pháp bảo đảm thi hành án, để đảm bảo hiệu quả của việc áp dụng
biện pháp này, pháp luật phải quy định tất cả các nội dung liên quan đến
biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự. Các nội dung này bao gồm: Các
biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự được áp dụng, người có quyền yêu
cầu và người có thẩm quyền áp dụng, thủ tục áp dụng. Biện pháp bảo đảm
thi hành án dân sự bao gồm: Phong tỏa tài khoản; tạm giữ tài sản, giấy tờ
của đương sự và tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng
về tài sản. Phong tỏa tài khoản áp dụng trong trường hợp người phải thi
hành án phải thi hành khoản nghĩa vụ trả tiền và các thông tin về điều kiện
thi hành án cho thấy người đó đang có tiền trong tài khoản tại ngân hàng
hoặc tổ chức tín dụng, tài chính khác. Việc áp dụng biện pháp phong tỏa tài
khoản nhằm ngăn chặn người phải thi hành án thực hiện việc rút toàn bộ
tiền hay một khoản tiền tương ứng với nghĩa vụ phải thi hành án. Theo đó,
mọi giao dịch đầu ra tài khoản của chủ tài khoản sẽ không thực hiện được
hoặc bị hạn chế thực hiện. Việc áp dụng biện pháp này nhằm ngăn chặn
việc người phải thi hành án rút hết tiền trong tài khoản nhằm tẩu tán tiền,
trốn tránh việc thi hành án. Tuy nhiên, cần hiểu đúng về biện pháp này là
không ngăn chặn đối với các dòng tiền chuyển vào tài khoản mà chỉ ngăn
chặn đối với giao dịch đầu ra tương ứng với ng hĩa vụ thi hành án của
đương sự chứ không phải là ngăn chặn, cấm giao dịch đối với toàn bộ tiền
trong tài khoản. Tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự áp dụng nhằm tạm
giữ các tài sản, giấy tờ của đương sự để ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại
đối với các tài sản, giấy tờ này. Đây là biện pháp mang tính cấp bách và
linh hoạt, nhằm tạo điều kiện và cơ sở pháp lý cho tác nghiệp nghiệp vụ khi
phát hiện đương sự có tài sản, giấy tờ để thi hành án và áp dụng trong bất
cứ giai đoạn nào trong quá trình tổ chức thi hành án. Tạm dừng việc đăng
14
ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản áp dụng nhằm ngăn chặn
đương sự có hành vi hoặc có thể thực hiện hành vi đăng ký, chuyển quyền
sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng về tài sản mà pháp luật quy định phải
đăng ký quyền sở hữu, sử dụng để trốn tránh nghĩa vụ thi hành án. Khi áp
dụng biện pháp này, mọi đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng đối với
tài sản không được công nhận và không có giá trị pháp lý.
Các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự chính là cơ sở cho việc áp
dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự trong trường hợp người
phải thi hành án không tự nguyện thi hành. Vì vậy, biện pháp bảo đảm thi
hành án dân sự phải được quyết định áp dụng nhanh chóng để kịp thời ngăn
chặn việc tẩu tán, hủy hoại, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án của người phải
thi hành án. Trong trường hợp, khi đã có đủ thông tin về điều kiện thi hành
án của đương sự thì Chấp hành viên không bắt buộc phải thực hiện việc xác
minh hay thông báo trước về việc sẽ áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành
án mà có thể ra ngay quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm. Chấp hành
viên có thể quyết định theo yêu cầu của đương sự hoặc tự mình quyết định
áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự.
Xuất phát từ việc nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn
tránh nghĩa vụ thi hành án của người phải thi hành án mà thời gian áp dụng
các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự cũng được quy định rất ngắn,
trong một thời hạn nhất định, Chấp hành viên phải quyết định áp dụng
tiếp biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự đối với đương sự hoặc chấm
dứt việc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự đã thực hiện.
1.2. Cơ sở và ý nghĩa của việc quy định biện pháp bảo đảm thi
hành án dân sự
1.2.1. Cơ sở lý luận
Việc pháp luật thi hành án dân sự quy định về biện pháp bảo đảm thi
hành án dân sự xuất phát từ những cơ sở lý luận sau đây:
15
Thứ nhất, từ yêu cầu của việc áp dụng kết hợp giữa biện pháp tự
nguyện thi hành án dân sự và cưỡng chế thi hành án dân sự. Chấp hành
viên ra quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án nhằm bảo đảm
cho công tác thi hành án hiệu quả. Sau khi áp dụng biện pháp bảo đảm, nếu
người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án thì cơ quan thi hành án
sẽ ra quyết định cưỡng chế thi hành nhằm buộc người phải thi hành thực
hiện các nghĩa vụ của họ. Biện pháp bảo đảm thục hiện trước biện pháp
cưỡng chế. Như vậy, biện pháp bảo đảm là tiền đề, là cơ sở để thực hiện
biện pháp cưỡng chế. Cụ thể như: Khoản 3 điều 62 Luật thi hành án dân sự
2008 quy định “ Trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định
phong tỏa tài khoản, Chấp hành viện phải áp dụng biện pháp cưỡng chế
quy định tại điều 67 Luật này”
Thứ hai, từ yêu cầu của việc đa dạng hóa các biện pháp tổ chức thi
hành án dân sự và sự khác nhau giữa biện pháp bảo đảm thi hành án dân
sự và biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự. Theo đó, điều kiện để áp
dụng biện pháp bảo đảm khi có đủ 3 căn cứ: Bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật của Tòa án; quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án; Chấp
hành viên chủ động áp dụng khi thấy người phải thi hành án có dấu hiệu
tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh thực hiện nghĩa vụ của họ hoặc đương
sự có đơn yêu cầu.
Còn điều kiện để áp dụng biện pháp cưỡng chế khi có đủ các căn cứ:
Bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật; có quyết định thi hành án; và
sau khi người phải thi hành án nhận được hoặc được thông báo hợp lệ sau
15 ngày, người phải thi hành án có đủ điều kiện thi hành mà không thi hành
thì cơ quan Thi hành án sẽ ra quyết định cưỡng chế thi hành. Khi áp dụng
biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự, Chấp hành viên chỉ đặt tài sản của
người phải thi hành trong tình trạng hạn chế sử dụng, định đoạt vì vậy
không cần phải báo trước cho đương sự. Trong khi đó, biện pháp cưỡng
chế thi hành án là tước bỏ quyền sở hữu của người thi hành án đối với tài
16
sản thi hành án, trừ trường hợp tài sản phải thi hành án có giá trị lớn hơn
nghĩa vụ mà người phải thi hành thì họ vẫn được sở hữu phần lớn hơn.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
Trong thực tiễn thi hành án dân sự, khi người phải thi hành án không
tự nguyện thi hành thì sẽ bị Chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế
thi hành án dân sự. Tuy nhiên, để áp dụng được biện pháp cưỡng chế thi
hành án dân sự thì Chấp hành viên phải tuân thủ một quy trình, thủ tục rất
chặt chẽ với sự phối hợp của nhiều cơ quan liên quan, đòi hỏi phải giải
quyết nhiều về vấn đề và mất thời gian. Chính đây là thời gian mà đương
sự có thể lợi dụng để thực hiện việc tẩu tán, chuyển dịch, thay đổi hiện
trạng về tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án. Đặc biệt với tình
hình kinh tế xã hội như hiện nay, việc bùng nổ công nghệ, thông tin càng là
“môi trường” thuận lợi để các đương sự thuân lợi cho việc tẩu tán, trốn
tránh nghĩa vụ mà họ phải thi hành bằng nhiều cách thức. Do đó, thực tiễn
đòi hỏi khi chưa thực hiện ngay được biện pháp cưỡng chế thi hành án dân
sự thì pháp luật cần có quy định để Chấp hành viên có cơ chế ngăn chặn
việc tẩu tán, định đoạt tài sản của người phải thi hành án để thông qua đó
có thể bảo toàn điều kiện thi hành án của đương sự.
Như vậy, biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự được quy định là cần
thiết, có ý nghĩa quan trọng, vừa góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các đương sự vừa góp phần giáo dục nâng cao ý thức pháp luật
của họ và đảm bảo được tính nghiêm minh của pháp luật trong công tác thi
hành án dân sự.
1.2.3. Ý nghĩa của biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự
Với vai trò đảm bảo điều kiện thi hành án của người phải thi hành án,
các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự có ý nghĩa hết sức to lớn, đóng
vai trò quan trọng đối với kết quả tổ chức thi hành các bản án, quyết định
có hiệu lực pháp luật, cụ thể như sau:
17
Thứ nhất, biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự góp phần bảo vệ các
quyền và lợi ích dân sự hợp pháp trong bản án, quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Quyền và lợi ích dân sự hợp pháp của đương sự được
ghi nhận trong bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nếu
không được tổ chức thi hành thì cũng chỉ là các quyền và lợi ích trên giấy.
Thi hành dứt điểm bản án, quyết định là cách thức bảo vệ thiết thực nhất
các quyền, lợi ích dân sự hợp pháp của đương sự. Nhìn chung, tất cả các
hoạt động tác nghiệp do chấp hành viên tiến hành kể từ khi thụ lý, ra quyết
định thi hành án đến việc thông báo, xác minh, cưỡng chế thi hành án…đều
vì một mục đích là tổ chức thi hành được bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật. Pháp luật quy định là vậy nhưng trên thực tế trong lĩnh vự thi
hành án dân sự thi không phải lúc nào các bản án, quyết định cũng được
các đương sự tôn trọng thực hiện.
Về nguyên tắc, các quyền và nghĩa vụ được ghi nhận trong bản án,
quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan nhà nước, tổ
chức, cá nhân tôn trọng thực hiện. Điều 106 Hiến pháp 1992 sửa đổi 2013
quy định: “Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật
phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân
hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Hiện nay, chế tài về hành vi
không thi hành bản án, quyết định đã được quy định cụ thể tại Chương VII
Luật thi hành án dân sự và nghị định 60/2009/ NĐ-CP ngày 23/9/2009 của
Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp
và điều 304 bộ luật Hình sự nhưng xử lý thật không dễ. Trong thời gian qua
số lượng đương sự trong thi hành án bị khởi tố theo Điều 304 bộ luật Hình
sự rất ít do tâm lý e ngại của cơ quan thi hành án không muốn làm trầm
trọng thêm quá trình thi hành án hoặc có đề nghị truy cứu nhưng không
được giải quyết.
Xuất phát từ sự thiếu kiên quyết của cơ quan có thẩm quyền trong việc
xử lý các hành vi cản trở của đương sự dẫn đến nhiều đương sự trong các
18
vụ việc thi hành án có hành vi chống đối lực lượng cưỡng chế thi hành án,
tẩu tán, hủy hoại tài sản nhằm trốn tránh nghãi vụ thi hành án…Hoặc nhiều
trường hợp Chấp hành viên phụ trách vụ việc có thông tin người phải thi
hành án có tài sản để thi hành nhưng đến khi áp dụng biện pháp cưỡng chế
thì thì tài sản không còn. Để khắc phục những trường hợp này Luật thi
hành án dân sự đã quy định nhóm các biện pháp bảo đảm thi hành án dân
sự nhằm hạn chế quyền tự định đoạt tài sản của đương sự, nhằm bảo toàn
điều kiện thi hành án của đương sự, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt
động thi hành án dân sự.
Thứ hai, biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự đã góp phần nâng cao
ý thức pháp luật của đương sự trong thi hánh án.Ý thức pháp luật là một
khái niệm trừu tượng, mang tính chủ quan và phụ thuộc rất nhiều vào các
yếu tố như trạng thái tâm lý, thái độ, trình độ nhận thức, hoàn cảnh sống
của đương sự, các tác động từ phía cơ quant hi hành án…Quá trình thi hành
án sẽ gặp nhiều thuận lợi và đạt kết quả cao nếu các đương sự có ý thức
pháp luật, có tinh tần hợp tác để thi hành bản án, quyết định. Biện pháp bảo
đảm thi hành án dân sự tuy không làm chấm dứt quyền định đoạt tài sản
của người phải thi hành án, song đối với người bị áp dụng biện pháp bảo
đảm thi hành án dân sự phải gánh chịu những ảnh hưởng đáng kể về tinh
thần, uy tín và bị hạn chế về quyền tự định đoạt tài sản. Biện pháp bảo đảm
chỉ được áp dụng trong một thời gian nhất định. Sau thời hạn đó nếu đương
sự không tự nguyện thi hành án thì cơ quan thi hành án đưa tài sản đó ra
cưỡng chế để thi hành án. Do đó, việc người phải thi hành án lựa chọn biện
pháp tự nguyện thi hành án được xem như là giải pháp có lợi hơn cả, uy tín
của họ không bị ảnh hưởng do không bị cơ quan thi hành áp dụng biện
pháp cưỡng chế và không phải nộp chi phí cưỡng chế thi hành án.
Hơn nữa, trong kinh doanh uy tín là tài sản rất quan trọng, thậm chí
quyết định đến vận mệnh của cơ sở kinh doanh. Nếu bị phong tỏa tài sản,
người bị phong tỏa tài sản không thể dung tài khoản đó để giao dịch với
19
các đối tác, gây khó khăn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh…Bên cạnh
đó, việc tài khoản của người phải thi hành bị phong tỏa cũng đồng nghĩa
với việc uy tín của cá nhân, tổ chức đó trong hoạt động sản xuất kinh doanh
bị giảm sút, các đối tác trong quan hệ làm an sẽ không tin tưởng vào cá nhân
tổ chức, có thái độ thận trọng trong làm ăn, kinh doanh là điều không thể
tránh khỏi, gây tổn thất to lớn cho bản thân nói riêng và cả công ty, doanh
nghiệp nói chung. Do đó, người phải thi hàn án sẽ tự nguyện thi hành
nghiêm chỉnh bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, hạn chế các thiệt hại.
Thứ ba, biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự đẩy nhanh quá trình thi
hành án, làm giảm thiểu các chi phí không đáng có. Đặt trong bối cảnh các
cơ quan thi hành án đang ngày một quá tải do số lượng công việc quá nhiều
thì việc giải quyết nhanh gọn các vụ việc phải thi hành có ý nghĩa hết sức
to lớn cả về kinh tế và công tác quản lý nhà nước.
Thứ tư, Biện pháp bảo đảm thi hành án có ý nghĩa to lớn về kinh tế -
xã hội. Việc thi hành nhanh chóng bản án, quyết định sẽ làm lành mạnh hóa
các quan hệ dân sự, kinh tế, lao động, thương mại, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các đương sự. Hiện nay, số lượng án tồn động hàng năm còn
chiếm tỷ lệ lớn, nhiều vụ việc chưa thi hành được do người phải thi hành án
chưa có điều kiện thi hành. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình
trạng án tồn động là do người phải thi hành án có hành vi tẩu tán tài sản,
trốn tránh nghĩa vụ phải thi hành. Những giá trị kinh tế xã hội do biện pháp
bảo đảm thi hành án đem lại có thể kể đến như:
Khi phát hiện người phải thi hành án có tài khoản hoặc có tài sản để
thi hành, Chấp hành viên áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án nhằm
ngăn chặn hành vi tẩu tán tài sản, hủy hoại hoặc trốn tránh thực hiện nghĩa
vụ, tạo điều kiện cho quá trình cưỡng chế diễn ra thuận lợi hơn. Mục đích
làm cho việc tổ chức thi hành án có hiệu quả, các cơ quan thi hành án sẽ
tiết kiệm được thời gian, công sức, chi phí.
20
Mặt khác, như đã phân tích ở trên, do tâm lý e ngại, ảnh hưởng đến danh
dự, uy tín nên người phải thi hành án sẽ tự nguyện thi hành, góp phần ổn định
các quan hệ xã hội, nâng cao ý thức pháp luật, đảm bảo trật tự xã hội.
1.3. Nội dung các quy định của pháp luật hiện hành về biện pháp
bảo đảm thi hành án dân sự
1.3.1. Biện pháp phong tỏa tài khoản
Phong tỏa tài khoản là một biện pháp nghiệp vụ làm cho mọi hoạt
động “tiền ra” từ một tài khoản nhất định bị hạn chế và kiểm soát. Đây là
thuật ngữ nghành tài chính. Tức là tài khoản đó hoàn toàn không được hoạt
động nhận tiền chuyển vào, rút ra. Số phát sinh nợ, có, tồn cuối kỳ ( tại thời
điểm cơ quan chức năng công bố phong tỏa ) được giữ nguyên hiện trạng.
Như vậy, việc phong tỏa tài khoản sẽ ảnh hưởng đến các giao dịch đầu ra
của chủ tài khoản thông qua tài khoản đó. Trước đây, đã có cách hiểu chưa
đúng về việc phong tỏa tài khoản để thi hành án là phong tỏa hoàn toàn tài
khoản đó, dừng mọi hoạt động “ tiền ra” và “ tiền vào”, chính điều này đã
ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của người phải thi hành án và tự làm bó
hẹp khả năng thi hành ánnh toán nợ của chủ tài khoản. Trong xu thế phát
triển chung của nền kinh tế đất nước và chính sách hạn chế thanh toán bằng
tiền mặt của nhà nước, thì biện pháp phong tỏa tài khoản sẽ ngày càng
được áp dụng phổ biến hơn. Việc nghiên cứu thấu đáo biện pháp phong tỏa
tài khoản là yêu cầu đặt ra đối với Chấp hành viên để có thể vận dụng vào
giải quyết các vụ việc thi hành án mà đương sự là các cá nhân, tổ chức kinh
tế trong và ngoài nước.
Luật Thi hành án dân sự 2008 quy định phong tỏa tài khoản là biện
pháp bảo đảm thi hành án. Biện pháp phong tỏa tài khoản được quy định tại
Điều 67 Luật thi hành án dân sự 2008 và được hướng dẫn thi hành tại Điều
11 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP.
21
“Điều 67. Phong tỏa tài khoản
1. Việc phong toả tài khoản được thực hiện trong trường hợp cần ngăn
chặn việc tẩu tán tiền trong tài khoản của người phải thi hành án.
2. Khi tiến hành phong toả tài khoản, Chấp hành viên phải giao quyết
định phong toả tài khoản cho cơ quan, tổ chức đang quản lý tài khoản của
người phải thi hành án.
Cơ quan, tổ chức đang quản lý tài khoản phải thực hiện ngay quyết
định của Chấp hành viên về phong toả tài khoản.
3.Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định phong toả
tài khoản, Chấp hành viên phải áp dụng biện pháp cưỡng chế quy định tại
Điều 76 của Luật này
Kế thừa và phát triển từ quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự
năm 2004, biện pháp phong tỏa tài khoản được quy định nhằm đáp ứng và
phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường với sự phong phú, đa dạng
về hình thức thanh toán trong các hoạt động kinh tế, trong đó có hình thức
thanh toán chuyển khoản; đồng thời, cũng như Pháp lệnh thi hành án dân
sự năm 2004, Luật thi hành án dân sự quy định về biện pháp phong tỏa tài
khoản nhằm tác động đến tài khoản của người phải thi hành án, thông qua
đó kiểm soát, ngăn chặn được hành vi tẩu tán tiền trong tài khoản của
đương sự nhằm đảm bảo việc thi hành án được thuận lợi, bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của người được thi hành án. Tuy nhiên, khi nghiên cứu, so
sánh quy định tại Điều 37 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 và Điều
67 Luật thi hành án dân sự về biện pháp phong tỏa tài khoản, chúng ta nhận
thấy có một số khác biệt cơ bản như sau:
Thứ nhất, nếu như Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 quy định
phong tỏa tài khoản là một trong sáu biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự
(khoản 3 Điều 37 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004) thì Luật thi hành
án dân sự lại quy định phong tỏa tài khoản chỉ là một biện pháp bảo đảm thi
hành án dân sự. Thứ hai, nếu như Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 và
22
các văn bản hướng dẫn thi hành quy định về trình tự, thủ tục phong tỏa tài
khoản của người phải thi hành án chỉ mới mang tính chất sơ khai, chưa đầy
đủ, cụ thể thì đến Luật thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành,
biện pháp phong tỏa tài khoản đã được quy định một cách chi tiết, cụ thể và
đầy đủ về về trình tự, thủ tục áp dụng, thời hạn thực hiện.
1.3.1.1. Đối tượng, quyền yêu cầu, quyền áp dụng và thẩm quyền áp
dụng biện pháp phong tỏa
Về đối tượng: Biện pháp phong tỏa tài khoản được áp dụng đối với tài
khoản của người phải thi hành án khi có đủ căn cứ xác định được người
phải thi hành án có tài khoản tại ngân hàng, kho bạc nhà nước hoặc tổ chức
tín dụng, tài chính nhằm ngăn chặn việc tẩu tán tiền trong tài khoản của
người phải thi hành án ( khoản 1 điều 67 Luật thi hành án dân sự)
Theo quy định tại Điều 66, Điều 67 Luật thi hành án dân sự thì việc áp
dụng biện pháp phong tỏa tài khoản được Chấp hành viên tự mình áp dụng
hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của người được thi hành án.
Tuy nhiên, để thực hiện được biện pháp này, cần đáp ứng được hai
điều kiện cụ thể sau đây:
Về điều kiện cần: khi người phải thi hành án có tài khoản tại ngân
hàng, kho bạc hoặc các tổ chức tín dụng khác và tài khoản đó có số dư để
đảm bảo thi hành án.
Về điều kiện đủ: khi người được thi hành án nhận thấy cần ngăn chặn
việc tẩu tán tiền trong tài khoản đó và có văn bản đề nghị hoặc Chấp hành
viên tự mình phát hiện ra thông tin về tài khoản và nhận thấy cần phải ra
quyết định phong tỏa tài khoản để ngăn chặn việc tẩu tán tiền trong tài
khoản. Rõ ràng đây là quyền hoàn toàn chủ động của các Chấp hành viên
trong việc phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án và phải chịu
trách nhiệm về quyết định của mình, trừ trường hợp đương sự yêu cầu với
một mục đích duy nhất là nhằm ngăn chặn kịp thời việc tẩu tán tiền dưới
mọi hình thức trong tài khoản của người phải thi hành án.
23
1.3.1.2. Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản
Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản được quy
định trong Luật thi hành án dân sự 2008 khá tinh gọn, tạo thuận lợi cho
Chấp hành viên có thể thực hiện ngay việc phong tỏa tài khoản.
Thứ nhất: thu thập thông tin về tài khoản của người phải thi hành án
tại ngân hàng, tổ chức tín dụng, Kho bạc nhà nước. Luật thi hành án dân sự
không quy định việc thu thập thông tin về tài khoản của người phải thi
hành án, nhưng tại điều 11 nghị định số 58/2009/ NĐ – CP quy định, “
Quyết định phong tỏa tài khoản phải xác định rõ số tiền bị phong tỏa”. Vì
vậy, để ra quyết định phong tỏa tài khoản chính xác, khả thi cần phải tiến
hành các hoạt động thu thập thông tin như: chủ tài khoản, số dư trong tài
khoản đó. Chấp hành viên do thiếu thông tin hoặc thông tin không chính
xác, đầy đủ và vội vàng ra quyết định phong tỏa tài khoản không đúng đối
tượng hoặc phong tỏa cả những tài khoản không còn số dư…là không đúng
quy định của pháp luật về thi hành án dân sự. Việc thu thập thông tin về tài
khoản của người phải thi hành án có thể do người yêu cầu áp dụng biện
pháp cũng có thể do chấp hành viên thực hiện. Thông tin về tài khoản của
người phải thi hành có thể có từ nhiều nguồn khác nhau. Việc xác định
người đó có tài khoản hay không có thể căn cứ vào một trong các căn cứ
như; lĩnh vực, ngành nghề hoạt động của người phải thi hành án, các hợp
đồng của người phải thi hành án với đối tác, đăng ký kinh doanh…Nhiều
trường hợp thông qua việc phân tích, nghiên cứu bản án, nhất là các bản án
kinh doanh thương mại, Chấp hành viên cũng có được những thông tin cần
thiết về tài khoản của người phải thi hành án. Người được thi hành án,
người có quyền, nghĩa vụ liên quan cũng có thể cung cấp thông tin về tài
khoản của người phải thi hành cho Cơ quan thi hành án.
Chấp hành viên có thể thu thập thông tin về tài khoản của người phải
thi hành án qua đường công văn hoặc gặp gỡ trực tiếp các tổ chức nơi
người phải thi hành án có tài khoản. Các thông tin về tài khoản của người
24
phải thi hành án cần làm rõ như: số tài khoản, ngày mở, người đứng tên tài
khoản, số liệu về số tài khoản như số dư, số nợ…Pháp luật quy định nghĩa
vụ cung cấp thông tin của ngân hàng, tổ chức tín dụng và Kho bạc nhà
nước theo yêu cầu của chấp hành viên, cụ thể tại điểm d khoản 4 điều 5
nghị định 70 NĐ – CP ngày 21/11/2000 của chính phủ về việc giữ bí mật,
lưu trữ và cung cấp thông tin liên quan đến tiền gửi và tài sản gửi của
khách hàng và Điều 176 Luật thi hành án dân sự 2008 cũng quy định rõ
trách nhiệm của ngân hàng, tổ chức tín dụng và Kho bạc nhà nước trong thi
hành án dân sự.
Thứ hai, ra quyết định và thực hiện quyết định phong tỏa tài khoản.
Khoản 2 Điều 67 Luật thi hành án dân sự quy định: “ Khi tiến hành phong
tỏa tài khoản, Chấp hành viên phải giao quyết định phong tỏa cho cơ
quan, tổ chức đang quản lý tài khoản của người phải thi hành án”. Như
vậy, việc phong tỏa tài khoản được thể hiện dưới hình thức quyết định, sau
khi có thông tin về tài khoản của người phải thi hành án, để ngăn chặn việc
tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án của người phải thi hành
án, Chấp hành viên tự mình hoặc theo yêu cầu của người được thi hành ra
quyết định phong tỏa tài khoản. Chấp hành viên là người duy nhất có thẩm
quyền ra quyết định phong tỏa tài khoản và quyết định này được giao cho
cơ quan, tổ chức quản lý tài khoản của người phải thi hành án. Quyết định
phong tỏa cần ghi đầy đủ thông tin liên quan đến chủ tài khoản, số tài
khoản, số tiền bị phong tỏa và căn cứ phong tỏa, thời hạn và hậu quả pháp
lý xảy ra nếu cơ quan, tổ chức cá nhân đó không thực hiện yêu cầu của
chấp hành viên.
Thứ ba, xử lý tài khoản bị phong tỏa. Theo quy định tại khoản 3 điều
67 Luật thi hành án dân sự thì thời hạn phong tỏa tài khoản là 05 ngày làm
việc. Hết thời hạn phong tỏa tài khoản, Chấp hành viên phải áp dụng biện
pháp cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản. Như vậy, sau thời hạn 05
ngày làm việc kể từ ngẩy quyết định phong tỏa tài khoản Chấp hành viên
25