Tải bản đầy đủ (.pdf) (241 trang)

Sự hình thành và phát triển của luật đầu tư nước ngoài trong hệ thống pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (833.44 KB, 241 trang )

1

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng,
sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xớng và lÃnh đạo đà giành
đợc những thắng lợi quan trọng trên nhiều lĩnh vực. Đời sống
chính trị, kinh tế, văn hóa, xà hội của đất nớc đà có nhiều
khởi sắc, đợc nhân dân ta và quốc tế đánh giá cao.
Chủ trơng hợp tác đầu t với nớc ngoài nhằm tranh thủ
vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý và thị trêng thÕ giíi
phơc vơ sù nghiƯp c«ng nghiƯp hãa, hiƯn đại hóa (CNH, HĐH)
đà đợc xác định và cụ thể hóa trong các văn kiện của Đảng.
Thể chế hóa chủ trơng của Đảng, Luật Đầu t nớc ngoài tại Việt
Nam đợc ban hành năm 1987, mở đầu cho việc thu hút có
hiệu quả và sử dụng nguồn vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài
theo phơng châm đa dạng hóa, đa phơng hóa các quan hệ
kinh tế đối ngoại, góp phần thực hiện chủ trơng phát huy nội
lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế.
Trong gần mời lăm năm qua, đầu t trực tiếp nớc ngoài
đà đạt đợc những thành tựu quan trọng, đóng góp ngày
càng lớn vào tăng trởng kinh tế, thúc đẩy việc chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hớng CNH, HĐH, mở rộng thị trờng xuất
khẩu, tạo việc làm và tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nớc.
Khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài là một bộ
phận của nền kinh tế đang kinh doanh năng động, hiệu
quả, tạo ra nhiều sản phẩm có hàm lợng trí tuệ và chất lợng
cao, tạo thêm thế và lực cho Việt Nam chủ động hội nhập với
kinh tÕ khu vùc vµ thÕ giíi.



2
Trong các thành tựu nói trên, pháp luật đầu t nớc ngoài
có sự đóng góp to lớn. Pháp luật đầu t nớc ngoài đà tạo dựng
đợc khung pháp lý cơ bản, điều chỉnh hoạt động đầu t trực
tiếp nớc ngoài phù hợp với đờng lối, chính sách của Đảng về
mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, đáp ứng về cơ bản yêu
cầu của thực tiễn, ngày càng phù hợp hơn với thông lệ quốc tế
và có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu t nớc ngoài.
Tuy nhiên, nhu cầu tiếp tục đổi mới toàn diện nền kinh
tế, đẩy mạnh CNH, HĐH, chủ động hội nhập quốc tế trong
giai đoạn mới đà và đang đặt ra nhiệm vụ phải tiếp tục
hoàn thiện pháp luật đầu t nớc ngoài hiện hành. Bên cạnh
đó, chính sách nhất quán thu hút đầu t trực tiếp nớc ngoài
tại Việt Nam đà đợc khẳng định lại tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng: "Tiếp tục chính sách mở cửa và chủ
động hội nhập kinh tế để phát triển" [27, tr. 330].
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài "Sự hình thành và
phát triển của Luật Đầu t nớc ngoài trong hƯ thèng
ph¸p lt ViƯt Nam" hiƯn nay mang tÝnh cÊp thiết, không
những về lý luận, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động đầu t trực tiếp nớc ngoài tại
Việt Nam. Thuật ngữ "Luật Đầu t nớc ngoài" trong luận án này
đợc hiểu là pháp luật đầu t nớc ngoài, trong đó đạo luật về
đầu t nớc ngoài (năm 1987 và năm 1996) là văn bản pháp lý
quan trọng nhất.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua, một số tác giả đà có các công trình
nghiên cứu về Luật Đầu t nớc ngoài tại Việt Nam, nh: tác giả
Hoàng Phớc Hiệp có Luận án Tiến sĩ luật học năm 1996 về
"Cơ chế điều chỉnh pháp luật trong lĩnh vực đầu t trực



3
tiếp nớc ngoài tại Việt Nam; tác giả Lê Mạnh Tuấn có Luận án
Tiến sĩ luật học năm 1996 về "Cơ sở khoa học của việc hoàn
thiện khung pháp luật đầu t trực tiếp nớc ngoài tại Việt Nam;
tác giả Nguyễn Hải Hà có Luận án Tiến sĩ luật học năm 2000
tại Pháp về "Luật Đầu t nớc ngoài tại Việt Nam; Bộ Kế hoạch và
Đầu t cho in tập bài giảng năm 2000: Những vấn đề cơ bản
về quản lý đầu t trực tiếp nớc ngoài tại Việt Nam; Bộ T pháp
có Dự án VIE/94-03 năm 1998 - Tập II - Phần I: Pháp luật về
các loại hình doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp có
vốn đầu t nớc ngoài; Bộ Kế hoạch và Đầu t có Dự án VIE/97016 năm 1997: Tăng cờng môi trờng pháp lý cho hoạt động
kinh doanh, trong đó có đề tài nhánh về doanh nghiệp có
vốn đầu t nớc ngoài...
Tuy nhiên, các công trình nói trên chỉ đề cập đến
khía cạnh cơ chế điều chỉnh pháp luật đầu t nớc ngoài,
pháp luật đầu t nớc ngoài hoặc quản lý nhà nớc đối với các
doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài tại Việt Nam... Cha có
công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện
về sự hình thành và phát triển của Luật Đầu t nớc ngoài
trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tợng và phạm vi
nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu của luận án
Mục đích của luận án là trên cơ sở nghiên cứu một
cách có hệ thống sự hình thành và phát triển của pháp luật
đầu t nớc ngoài, đánh giá đúng thực trạng, dự báo xu hớng
phát triển và kiến nghị phơng hớng, nội dung hoàn thiện
pháp luật đầu t nớc ngoài trong hệ thống pháp luật Việt Nam

thời gian tới.


4
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để đạt đợc mục đích trên, việc nghiên cứu luận án có
các nhiệm vụ sau:
- Làm sáng tỏ các khái niệm: Đầu t nớc ngoài, pháp luật
đầu t nớc ngoài tại Việt Nam; đặc điểm của pháp luật đầu
t nớc ngoài và vai trò, vị trí của nó trong hệ thống pháp luật
Việt Nam.
- Phân tích, làm rõ sự hình thành và phát triển của
pháp luật đầu t nớc ngoài qua từng thời kỳ lịch sử; đánh giá
thực trạng của pháp luật đầu t nớc ngoài về cả u điểm và
hạn chế.
- Dự báo xu hớng phát triển của pháp luật đầu t nớc
ngoài và từ đó, kiến nghị các giải pháp hoàn thiện pháp luật
đầu t nớc ngoài tại Việt Nam.
Đối tợng nghiên cứu của luận án
Luận án nghiên cứu sự hình thành và phát triển của
pháp luật đầu t nớc ngoài trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đề tài đợc nghiên cứu dới góc độ lý luận chung về Nhà
nớc và pháp luật. Thuật ngữ "Luật Đầu t nớc ngoài" đợc hiểu
theo nghĩa rộng gồm ba bộ phận: thứ nhất, đạo luật về đầu
t trực tiếp nớc ngoài (đợc Quốc hội ban hành năm 1987 và
1996 cũng nh các đạo luật sửa đổi, bổ sung hai đạo luật
này) và các văn bản trực tiếp hớng dẫn thi hành; thứ hai, các
chế định điều chỉnh hoạt động đầu t trực tiếp nớc ngoài
đợc quy định trong các đạo luật khác nh chế định phá sản

trong Luật Phá sản doanh nghiệp, chế định lao động trong
Bộ luật Lao động...; thứ ba, các điều ớc quốc tế mà ViÖt nam


5
ký kết hoặc gia nhập điều chỉnh hoạt động đầu t trực tiếp
nớc ngoài tại Việt Nam.
Về thời gian, luận án nghiên cứu những vấn đề về
đầu t trực tiếp nớc ngoài từ năm 1975 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận án là quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta về xây dựng
Nhà nớc và pháp luật, đờng lối, chính sách của Đảng và Nhà
nớc về mở cửa, hội nhập kinh tÕ qc tÕ trong nỊn kinh tÕ
thÞ trêng, cã sù quản lý của Nhà nớc, theo định hớng xà hội
chủ nghĩa (XHCN) ở nớc ta; những thành tựu của các khoa
học: triết học, kinh tế học, luật học và đặc biƯt cđa khoa
häc quan hƯ kinh tÕ qc tÕ...
Ln ¸n đợc trình bày dựa trên cơ sở nghiên cứu các
Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng về đầu t nớc ngoài, các văn
bản pháp luật đầu t nớc ngoài của Nhà nớc, các báo cáo tổng
kết về tình hình đầu t trực tiếp nớc ngoài tại Việt Nam của
Chính phủ và các cơ quan của Chính phủ; các công trình
nghiên cứu về pháp luật đầu t nớc ngoài của các nớc trong khu
vực và trên thế giới.
Trên cơ sở phơng pháp luận duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử của triết học Mác - Lênin, luận án sử dụng các phơng pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống, so sánh pháp luật,
dự báo để nghiên cứu những vấn đề đầu t trùc tiÕp níc
ngoµi ë ViƯt Nam trong thêi gian qua.
5. Những đóng góp mới của luận án

Đây là luận án Tiến sĩ luật học đầu tiên ở Việt Nam
nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về sù h×nh


6
thành và phát triển của pháp luật đầu t nớc ngoài trong hệ
thống pháp luật Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả dự báo xu hớng phát triển và kiến nghị phơng hớng, nội dung hoàn thiện
pháp luật đầu t nớc ngoài hiện hành. Có thể xem những nội
dung sau đây là những đóng góp mới của luận án:
1. Làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm của pháp luật
đầu t nớc ngoài ở Việt Nam và vai trò, vị trí của nó trong hệ
thống pháp luật Việt Nam.
2. Trình bày quá trình hình thành và phát triển của
pháp luật đầu t nớc ngoài tại Việt Nam qua các giai đoạn lịch
sử từ năm 1975 đến nay.
3. Đánh giá thực trạng của pháp luật đầu t nớc ngoài
hiện hành xét trong tổng thể hệ thống pháp luật Việt Nam,
phân tích những u điểm và hạn chế của nó và dự báo xu hớng phát triển của pháp luật đầu t nớc ngoài.
4. Đề cập các nguyên tắc hoàn thiện pháp luật đầu t nớc ngoài, đồng thời dự báo lộ trình và nội dung hoàn thiện
pháp luật đầu t nớc ngoµi trong thêi gian tíi.
6. ý nghÜa lý ln vµ thực tiễn của luận án
Thông qua những kết quả nghiên cứu và kiến nghị của
luận án, tác giả mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của
mình vào sự phát triển của kho tàng lý luận và thực tiễn về
hoạt động đầu t trực tiếp nớc ngoài tại Việt Nam nói chung
và pháp luật đầu t nớc ngoài nói riêng. Với việc dự báo xu hớng
và đề xuất các giải pháp phát triển pháp luật đầu t nớc ngoài
hiện hành, tác giả hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ cơ sở
khoa học cho việc đổi mới pháp luật đầu t nớc ngoài trong
khuôn khổ đổi mới hệ thống pháp luật nãi chung cđa ViƯt



7
Nam, theo hớng tạo môi trờng đầu t thông thoáng, hấp dẫn
hơn đối với các nhà đầu t nớc ngoài, tạo sức cạnh tranh cao
hơn trong việc thu hút đầu t trực tiếp nớc ngoài so với các nớc
trong khu vực. Vì vậy, luận án có thể đợc sử dụng làm tài
liệu tham khảo trong việc nghiên cứu, giảng dạy về lý luận
pháp luật đầu t nớc ngoài cũng nh đào tạo cán bộ chuyên
ngành về pháp luật đầu t nớc ngoài thuộc các ngành Kế
hoạch và Đầu t, T pháp, Tài chính, Địa chính, Hải quan, Thơng mại...
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm 187 trang. Ngoài phần mở đầu, kết luận,
danh mục tài liệu tham khảo, luận ¸n cã 3 ch¬ng, 9 mơc.


8

Chơng 1
Một số vấn đề lý luận về sự hình thành và phát triển
pháp Luật Đầu t nớc ngoài tại Việt nam

1.1. sự cần thiết phải có pháp Luật Đầu t nớc ngoài trong
hệ thống pháp luật Việt Nam

1.1.1. Tính tất yếu khách quan của việc thu hút
đầu t nớc ngoài
Trong lịch sử thế giới, đầu t trực tiếp nớc ngoài đà xuất
hiện từ thế kỷ thứ XVI. Các nớc t bản phát triển nhất thời kỳ
đó nh Anh, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha đà đầu t vốn

vào các nớc châu á, châu Phi... để mở đồn điền, khai thác
khoáng sản, cung cấp nguyên liệu cho các ngành công nghiệp
ở chính quốc. Chủ nghĩa t bản càng phát triển thì hoạt
động đầu t trực tiếp nớc ngoài của các nớc công nghiệp phát
triển ngày càng có phạm vi, quy mô lớn hơn với những hình
thức ngày càng phong phú hơn.
Trong thế kỷ thứ XIX, các nớc t bản phát triển đà tích
lũy đợc những khoản t bản khổng lồ. Đó là tiền đề quan
trọng cho việc xuất khẩu t bản. Theo nhận định của V.I.
Lênin trong tác phẩm "Chủ nghĩa đế quốc - Giai đoạn tột
cùng của chủ nghĩa t bản", thì xuất khẩu t bản là một trong
năm đặc điểm kinh tế của chủ nghĩa t bản hiện đại, tức
chủ nghĩa t bản độc quyền. V.I. Lênin cho rằng, "chủ nghĩa
t bản tăng thêm lợi nhuận bằng cách xuất khẩu t bản ra nớc
ngoài vào những nớc lạc hậu. Trong các nớc lạc hậu này, lợi
nhuận thờng cao, vì t bản hÃy còn ít, giá đất đai tơng đối
thấp, tiền công hạ, nguyên liệu rẻ" [45, tr. 456].


9
Khoa học kinh tế đà chỉ ra rằng, đó là một hiện tợng
kinh tế mang tính tất yếu khách quan. Khi quá trình tích tụ
và tập trung t bản đạt đến một mức độ nhất định, sẽ xuất
hiện nhu cầu đầu t ra nớc ngoài. Đây chính là quá trình
phát triển của sức sản xuất xà hội, đến độ vợt ra khái khu«n
khỉ chËt hĐp cđa mét qc gia, theo quy luật sẽ hình thành
quy mô sản xuất xuyên quốc gia. Để tăng thêm lợi nhuận, các
nhà t bản ở các nớc phát triển phải thực hiện đầu t ra nớc
ngoài, thời gian đầu thờng là vào các nớc lạc hậu hơn, vì ở
đó các yếu tố đầu vào của sản xuất còn rẻ, lợi nhuận thu đợc

thờng cao hơn.
Khi đa ra "Chính sách kinh tế mới" V.I. Lênin đà cho
rằng, những ngời cộng sản phải biết lợi dụng những thµnh
tùu kinh tÕ vµ khoa häc kü tht cđa chđ nghĩa t bản thông
qua hình thức "t bản nhà nớc". Theo quan điểm này, nhiều
nớc đà "chấp nhận" phần nào sự bóc lột của chủ nghĩa t bản
để phát triển kinh tế, vì nh thế có thể đi nhanh hơn là tự
thân vận động hay đi vay vốn để mua lại kỹ thuật của các
nớc công nghiệp phát triển. Mặt khác, mức độ "bóc lột" của
các nớc t bản cũng còn tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chính
trị, xà hội của các nớc tiếp nhận t bản. Nếu nh trớc đây, hoạt
động xuất khẩu t bản của các nớc đế quốc chỉ phải tuân
theo pháp luật của chính họ, thì ngày nay, các nớc nhận đầu
t đà là các quốc gia độc lập có chủ quyền, hoạt động đầu t
trực tiếp nớc ngoài phải tuân theo pháp luật, sự quản lý của
chính phủ nớc sở tại và thông lệ quốc tế.
Một khó khăn lớn của hầu hết các nớc đang phát triển
trong đó có nớc ta là thiếu vốn đầu t. Có thể nói, vốn đầu t
là yếu tố quyết định để các nớc này đẩy nhanh tốc độ


1
0
phát triển kinh tế, cải thiện đời sống vật chất của nhân
dân. ở các nớc đang phát triển, nguồn lao động và tài
nguyên thiên nhiên thờng cha đợc sử dụng hết hoặc không đợc sử dụng vì thiếu các điều kiện vật chất cho quá trình lao
động, sản xuất. Bản thân các nớc đang phát triển lại ít có
khả năng tự tích lũy vì năng suất lao động thấp, sản xuất
hầu nh không đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nớc. Trong
hoàn cảnh nh vậy, nguồn vốn từ bên ngoài sẽ có ý nghĩa quan

trọng đối với bớc phát triển ban đầu của các nớc này. Đặc
biệt, trong xu thÕ qc tÕ hãa ®êi sèng kinh tÕ thÕ giíi hiện
nay, các nớc đang phát triển bị đặt vào tình huống phải tạo
đợc tốc độ phát triển nhanh để đuổi kịp các nớc phát triển
và từng bớc hội nhập với nền kinh tế thế giới. Nguy cơ tụt hậu
không cho phép các nớc đang phát triển đợc chậm trễ hay có
cách lựa chọn nào khác. Trong điều kiện thế giới và khu vực
có nhiều quốc gia có nhu cầu đầu t ra nớc ngoài, thì các nớc
đang phát triển có cơ cơ hội tranh thủ nguồn vốn và kỹ
thuật của nớc ngoài để phát triển kinh tế.
Ngoài các đặc điểm chung của một quốc gia đang
phát triển, Việt Nam còn có những đặc thù riêng của một
đất nớc đà phải trải qua nhiều năm chiến tranh ác liệt. Nền
kinh tế sau chiến tranh đà bị tàn phá nặng nề, lại vấp phải
những sai lầm nghiêm trọng trong quản lý và điều hành cả
trên tầm vĩ mô và vi mô của thời kỳ tập trung, quan liêu, bao
cấp, nên đà rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng. Trong thời
gian dài trớc năm 1990, ViƯt Nam kh«ng cã tÝch lịy tõ trong
néi bé nền kinh tế. Một phần lớn tích lũy phải dựa vào vay nợ
và viện trợ chủ yếu của Liên Xô, các nớc XHCN Đông Âu trớc
đây, sau này là từ nhiều chính phủ và các tổ chức trên thế
giới.


1
1
Để đẩy mạnh tăng trởng kinh tế, Việt Nam phải tranh
thủ vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nớc
ngoài. Đây là điểm nút để nớc ta thoát ra khỏi cái vòng luẩn
quẩn của sự nghèo đói. Thực tiƠn vµ kinh nghiƯm cđa nhiỊu

níc cho thÊy, qc gia nào thực hiện chiến lợc kinh tế mở cửa
với bên ngoài, biết tranh thủ và phát huy tác dụng của nhân
tố bên ngoài, biến nó thành nhân tố bên trong, thì quốc gia
đó tạo đợc tốc độ tăng trởng kinh tế cao. Có thể nói rằng, ở
đâu và nớc nào thu hút đợc nhiều vốn đầu t trực tiếp nớc
ngoài, thì ở nớc đó, nền kinh tế đạt đợc tốc độ phát triển
nhanh chóng. Vì vậy, trên thế giới đang diễn ra một cuộc
cạnh tranh gay gắt nhằm thu hút vốn đầu t trực tiếp nớc
ngoài.
Trong điều kiện cụ thể của nớc ta, nơi có những tiềm
năng to lớn về lao động, tài nguyên... nhng không có điều
kiện khai thác và sử dụng, thì việc thu hút đầu t trực tiếp nớc ngoài lại càng mang tính tất yếu khách quan và có ý nghĩa
vô cùng quan trọng. Muốn đạt đợc mục đích thu hút nhiều
vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài, kinh nghiệm quý báu của
nhiều nớc cho thấy, Việt Nam cần phải tạo lập môi trờng đầu
t hấp dẫn, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu t nớc
ngoài, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định chính trị
và thực hiện cải cách nền kinh tế để từng bớc hội nhập vào
quỹ đạo phát triển kinh tế thế giới.
1.1.2. Sự cần thiết phải điều chỉnh hoạt động
đầu t nớc ngoài bằng pháp luật
Trong xà hội, pháp luật là một phơng tiện quan trọng
bậc nhất không thể thay thế để điều chỉnh các quan hệ xÃ
hội, tổ chức, quản lý đời sống xà hội, bảo đảm cho x· héi æn


1
2
định, phát triển, phù hợp với những mục đích mà Nhà nớc và
xà hội đặt ra. Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001

của Quốc hội nớc Cộng hòa xà hội chủ nghÜa ViƯt Nam khãa X,
kú häp thø 10 vỊ viƯc sửa đổi, bổ sung một số điều của
Hiến pháp nớc Cộng hòa xà hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1992, tại Điều 2 quy định: "Nhà nớc Cộng hòa xà hội chủ
nghĩa Việt Nam là Nhà nớc pháp quyền xà hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân" và Điều 12 Hiến
pháp năm 1992 quy định: "Nhà nớc quản lý xà hội bằng pháp
luật và không ngừng tăng cờng pháp chế XHCN ".
Quản lý kinh tế nói chung, quản lý hoạt động đầu t
trực tiếp nớc ngoài nói riêng, là chức năng cơ bản hàng đầu
của Nhà nớc trong điều kiện lịch sử hiện nay. Để thực hiện
chức năng này, Nhà nớc phải nhận thức đúng đắn các quy
luật khách quan của sự vận động kinh tế - xà hội, xây dựng
chiến lợc thu hút đầu t trực tiếp nớc ngoài, khai thác có hiệu
quả các nguồn lực của đất nớc và các điều kiện quốc tế, sử
dụng đồng bộ và hợp lý các công cụ kế hoạch, chính sách và
các đòn bẩy kinh tế. Trong hệ thống các công cụ và biện
pháp để Nhà nớc điều chỉnh hoạt động đầu t trực tiếp nớc
ngoài, pháp luật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Sự cần
thiết phải điều chỉnh hoạt động đầu t trực tiếp nớc ngoài
bằng pháp luật đợc thể hiện ở một số nội dung sau đây:
Thứ nhất, pháp luật là công cụ quản lý của Nhà nớc, luôn
luôn gắn liền với Nhà nớc và chỉ Nhà nớc mới sử dụng công cụ
pháp luật. Nhà nớc điều chỉnh các quá trình xà hội và hành
vi hoạt động của con ngời, trong đó có hoạt động đầu t trùc
tiÕp níc ngoµi b»ng qun lùc nhµ níc. Qun lực nhà nớc
khác với các quyền lực khác ở chỗ, nó đợc thực hiện bằng một


1

3
cơ chế thực thi pháp luật. Nhờ có quyền lực nhà nớc, giai cấp
thống trị thực hiện những lợi ích của mình, buộc cả xà hội
phải tuân theo và phục tùng ý
chí của mình bằng cách đề ra pháp luật và thực hiện pháp
luật trên thực tế. V.I. Lênin cho r»ng: "ý chÝ, nÕu nã lµ ý chÝ
cđa Nhµ níc, thì phải đợc biểu hiện dới hình thức một đạo
luật do chính quyền đặt ra, nếu không thì hai tiếng ý chí
chỉ là một sự rung động không khí do những âm thanh
rỗng tuếch gây nên" [112, tr. 429]. Trong hoạt động đầu t
trực tiếp nớc ngoài, điều đó có nghĩa, chỉ có điều chỉnh
hoạt động đầu t trực tiếp nớc ngoài bằng pháp luật, thì
quyền lực nhà nớc mới có ý nghĩa và mới đem lại hiệu quả
thiết thực.
Tuy nhiên, ý chí của Nhà nớc thể hiện trong pháp luật,
xét đến cùng, không phải do ý chí chủ quan của một ngời
nào, mà chính nó đợc hình thành một c¸ch kh¸ch quan do
c¸c quan hƯ kinh tÕ kh¸ch quan quy định. Nói pháp luật là
sự thể hiện quyền lực và ý chí của Nhà nớc cũng có nghĩa là
khẳng định tính bị quy định một cách khách quan của
pháp luật. Ph. Ăngghen cho rằng, ý chí đợc đề lên thành luật
là ý chí có nội dung do những điều kiện sinh hoạt vật chất
của giai cấp quyết định [59, tr. 42].
Qua việc phân tích sự cần thiết phải điều chỉnh hoạt
động đầu t trực tiếp nớc ngoài bằng pháp luật cũng có thể
khẳng định, pháp luật đầu t nớc ngoài ra đời từ nhu cầu
bảo vệ lợi ích của nhân dân, trớc hết là lợi ích kinh tế và lợi
ích chính trị. Ph. Ăngghen cho rằng: "Tất cả hiện tợng pháp
lý đều lấy bản chất chính trị làm cơ sở" [59, tr. 635]. V.I.
Lênin khẳng định: "Một đạo luật là một biện pháp chính



1
4
trị, là chính trị" [111, tr. 129]. Nội dung và mục tiêu của
biện pháp chính trị đó là kinh tế, lợi ích kinh tế và địa vị
thống trị của nhân dân lao động nớc ta.
Thứ hai, để điều chỉnh hoạt động đầu t trực tiếp nớc
ngoài, Nhà nớc có thể và cần phải sử dụng nhiều công cụ,
biện pháp và hình thức khác nhau. Đó là các chính sách, kế
hoạch đầu t trực tiếp nớc ngoài, đòn bẩy kinh tế, pháp luật
đầu t nớc ngoài... Tuy nhiên, trong số các công cụ, biện pháp
đó, việc điều chỉnh hoạt động đầu t trực tiếp nớc ngoài
bằng pháp luật đà trở thành thiết yếu và cấp bách hiện nay,
bởi lẽ với những đặc điểm riêng của mình, pháp luật có khả
năng triển khai những chủ trơng, chính sách của Nhà nớc
một cách nhanh nhất, đồng bộ và có hiệu quả nhất trên quy
mô toàn xà hội. Chính vì vậy, chúng tôi hoàn toàn tán thành
ý kiến của GS.TSKH Đào Trí úc: "Nhà nớc chỉ có thể thể hiện
đợc ý chí phổ biến và uy quyền công khai của mình qua
một loại đại lợng có tính phổ biến, có tính bắt buộc chung.
Đó là pháp luật" [84, tr. 205].
Thứ ba, trong nền kinh tế thị trờng, sự tồn tại của pháp
luật là một nhu cầu khách quan bắt nguồn từ những đòi hỏi
của các quan hệ kinh tế. Đây là điểm khác biệt so víi thêi kú
quan liªu, bao cÊp. ë thêi kú này, sự tồn tại của pháp luật nh
quan điểm của PGS.TS Chu Hồng Thanh, là: "một nhu cầu
chủ quan bắt nguồn từ những đòi hỏi của Nhà nớc, là một
phơng tiện trong tay Nhà nớc để kìm hÃm, xóa bỏ những
quan hệ kinh tế nào đó một cách duy ý chí" [79, tr. 29].

Đối với hoạt động đầu t trực tiếp nớc ngoài, pháp luật
đầu t nớc ngoài đợc hình thành trên cơ sở những đòi hỏi
của quan hệ đầu t trực tiếp nớc ngoài, tồn tại nh một quan


1
5
hệ nội tại của sự vận động, phát triển kinh tế đối ngoại. Pháp
luật đầu t nớc ngoài là hệ thống các quy phạm, chuẩn mực,
mà dựa vào đó các nhà đầu t nớc ngoài tìm đợc "sân chơi",
các nhà quản lý có phơng tiện để điều khiển "cuộc chơi".
Pháp luật đầu t nớc ngoài là mực thớc để phân định đúng,
sai, kiểm nghiệm và điều chỉnh hoạt động đầu t trực tiếp
nớc ngoài cho phù hợp với nhu cầu xà hội.
Sự điều chỉnh hoạt động đầu t trực tiếp nớc ngoài
bằng pháp luật phải bảo đảm cho hoạt động đầu t vận
động theo đúng những quy luật khách quan, không thể áp
đặt và thay thế các quy luật khách quan ấy. Bằng pháp luật,
Nhà nớc tạo môi trờng và hành lang pháp lý để chủ thể quan
hệ đầu t nớc ngoài có thể tự chủ sản xuất kinh doanh, tự bảo
vệ lợi ích của mình, đồng thời không làm tổn hại đến lợi
ích của các chủ thể khác và toàn xà hội. Bằng pháp luật, Nhà
nớc xác định địa vị pháp lý của các doanh nghiệp có vốn
đầu t trực tiếp nớc ngoài, thẩm quyền của các cơ quan quản
lý nhà nớc về đầu t trực tiếp nớc ngoài và thẩm quyền của
các cơ quan có chức năng giải quyết các tranh chấp phát sinh
trong hoạt động đầu t trực tiếp nớc ngoài.
Thứ t, trong việc điều chỉnh quan hệ đầu t trực tiếp
nớc ngoài, pháp luật quy định cho các bên tham gia các quan
hệ đó có một số quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định,

đồng thời thiết lập cả những điều kiện để đảm bảo cho
các quyền và nghĩa vụ pháp lý đó đợc thực hiện. Vì vậy,
khi tham gia vào các quan hệ đầu t trực tiếp nớc ngoài do
pháp luật điều chỉnh, các chủ thể phải có hành vi phù hợp với
các yêu cầu của pháp luật. Tuy nhiên, việc điều chỉnh hoạt
động đầu t trực tiếp nớc ngoài bằng pháp luật, không chỉ


1
6
tác động tới các hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ
đầu t trực tiếp nớc ngoài, mà còn tác động về t tởng đối với
toàn xà hội nói chung.
Thứ năm, đối với sự điều chỉnh hoạt động đầu t trực
tiếp nớc ngoài bằng pháp luật, sự tồn tại của pháp luật đầu t
nớc ngoài phụ thuộc vào nhận thức và ý chí của Nhà nớc. Tuy
nhiên, sau khi pháp luật đầu t nớc ngoài đà đợc ban hành, các
cơ quan nhà nớc phải triệt để tuân thủ trong quá trình thực
hiện chức năng quản lý đầu t trực tiếp nớc ngoài. Đây cũng
là một trong những nội dung cơ bản của quá trình xây dựng
Nhà nớc pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay.
1.2. Khái niệm và đặc trng cơ bản của Pháp Luật Đầu t nớc ngoài tại Việt Nam

1.2.1. Khái niệm pháp luật đầu t nớc ngoài
Để có thể làm sáng tỏ khái niệm pháp luật đầu t nớc
ngoài, trớc hết cần làm rõ khái niệm đầu t nớc ngoài, các
hình thức, phơng thức của đầu t nớc ngoài.
Việc nghiên cứu các tài liệu ở một số nớc trên thế giới
cho thấy, thuật ngữ "đầu t" đợc hiểu khác nhau, phụ thuộc
vào các điều kiện kinh tế - xà hội nhất định. Trớc đây, Hội

đồng tơng trợ kinh tế (SEV) đà đa ra khái niệm đầu t nớc
ngoài nh sau: "đầu t nớc ngoài đợc hiểu là tất cả những loại
giá trị vật chất mà nhà đầu t đa từ nớc ký kết này sang nớc
ký kết hữu quan theo pháp luật của nớc sử dụng đầu t" [110,
tr. 19]. ở khái niệm này, đầu t nớc ngoài đợc hiểu với nghĩa
rất hẹp chỉ bao gồm các giá trị vật chất, còn các loại tài sản
vô hình thì lại cha đợc đề cập đến. Trong tài liệu Hội thảo
về thơng mại và phát triển của Tổ chức hợp tác và phát triển


1
7
kinh tế (OECD), khái niệm đầu t trực tiếp nớc ngoài đợc hiểu
rộng hơn khái niệm trên: "Đầu t với mục đích thiết lập các
quan hệ kinh tế bền vững với một công việc kinh doanh,
đem lại khả năng thực hiện một ảnh hởng có hiệu quả đối với
quản lý của việc đầu t ấy" [106, tr. 17]. Trong báo cáo của
Ngân hàng thế giới năm 1996: "Đầu t thơng mại và các thỏa
thuận chính sách quốc tế", không đa ra khái niệm đầu t,
nhng có đa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm đầu t trực
tiếp nớc ngoài: "là một khoản đầu t liên quan đến các quan
hệ dài hạn và phản ánh một lợi ích lâu dài và sự kiểm soát
một thực thể trong một nền kinh tế (nhà đầu t nớc ngoài hay
công ty mẹ) thông qua mét doanh nghiƯp thc vỊ mét nỊn
kinh tÕ kh¸c, nền kinh tế của nớc có nhà đầu t trực tiếp nớc
ngoài" [108, tr. 219-220].
Dới góc độ khoa học, khái niệm đầu t đợc hiểu trong
mối quan hệ với các khái niệm khác thuộc phạm trù kinh tế thị
trờng. Cuốn Từ điển kinh doanh xuất bản bằng tiếng Anh tại
Luân Đôn năm 1982 đà đa ra các khái niệm khác nhau về

đầu t (investment) nh: "đó là việc dùng tiền để nhận đợc
thu nhập hoặc lợi nhuận; đó là tiền đợc đầu t" [105, tr.
255].
ở nớc ta, ngay từ năm 1977, khái niệm đầu t nớc ngoài
đà chính thức đợc ghi nhận trong Điều lệ Đầu t của nớc ngoài
ở nớc Cộng hòa XHCN Việt Nam đợc ban hành kèm theo Nghị
định số 115/CP ngày 18/4/1977 (sau đây gọi tắt là Điều lệ
Đầu t nớc ngoài năm 1977):
Đợc coi là đầu t của nớc ngoài ở Việt Nam việc
đa vào sử dụng ở Việt Nam những tài sản và vốn sau


1
8
đây, nhằm xây dựng những cơ sở mới hoặc đổi
mới trang bị kỹ thuật, mở rộng các cơ sở hiện có:
- Các loại thiết bị, máy móc, dụng cụ (gồm cả
những thứ dùng cho việc thí nghiệm), phơng tiện
vận tải, vật t kỹ thuật cần thiết cho mục đích nói
trên;
- Các quyền sở hữu công nghiệp, bằng sáng
chế, phát minh, phơng pháp công nghệ, bí mật kỹ
thuật (know - how), nhÃn hiệu chế tạo
- Vốn bằng ngoại tệ hoặc vật t có giá trị ngoại
tệ, nếu phía Việt Nam thấy cần thiết;
- Vốn bằng ngoại tệ để chi lơng cho nhân viên
và công nhân làm việc ở các cơ sở hoặc tiến hành
những dịch vụ theo quy định của Điều lệ này [18,
tr. 66].
Nh vậy, trong khái niệm trên, không phải bất cứ sự vận

động vốn (t bản) nào từ nớc ngoài vào Việt Nam đều là đầu
t nớc ngoài, mà chỉ việc đa vào sử dụng ở Việt Nam những
tài sản và vốn đà đợc quy định tại Điều 2 Điều lệ đầu t nớc
ngoài ở Việt Nam mới đợc coi là đầu t nớc ngoài.
Trong Luật Đầu t nớc ngoài tại Việt Nam đợc ban hành
năm 1987, khái niệm đầu t nớc ngoài đà đợc ghi nhận tại
khoản 3 Điều 2 nh sau: "Đầu t nớc ngoài là việc các tổ chức,
cá nhân nớc ngoài trực tiếp đa vào Việt Nam vốn bằng tiền
nớc ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào đợc Chính phủ Việt Nam
chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc
thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc xí nghiệp 100% vốn nớc
ngoài theo quy định của luật này". Có thể nói, với quy định


1
9
mới này, khái niệm đầu t nớc ngoài đà đợc mở rộng hơn so với
khái niệm đầu t nớc ngoài trong Điều lệ đầu t nớc ngoài năm
1977.
Trong Hiệp định thơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ, khái
niệm đầu t đợc hiểu một cách rộng hơn: "là mọi hình thức
đầu t trên lÃnh thổ của một Bên do các công dân hoặc công
ty của Bên kia sở hữu hoặc kiểm soát trực tiếp hay gián tiếp,
bao gồm các hình thức: một công ty hoặc một doanh
nghiệp; cổ phần, cổ phiếu và các hình thức góp vốn khác,
trái phiếu, giấy ghi nợ và các quyền lợi đối với các khoản nợ dới
các hình thức khác trong công ty; các quyền theo hợp đồng
nh quyền theo các hợp đồng chìa khóa trao tay, hợp đồng
xây dựng hoặc hợp đồng quản lý, các hợp đồng sản xuất
hoặc hợp đồng phân chia doanh thu, tô nhợng hoặc các hợp

đồng tơng tự khác; tài sản hữu hình, gồm cả bất động sản
và tài sản vô hình, gồm cả các quyền nh giao dịch thuê, thế
chấp, cầm cố và quyền lu giữ tài sản; quyền sở hữu trí tuệ,
gồm quyền tác giả và các quyền có liên quan, nhÃn hiệu hàng
hóa, sáng chế, thiết kế bố trí, mạch tích hợp, tín hiệu vệ
tinh mang chơng trình đà đợc mà hóa, thông tin bí mật (bí
mật thơng mại, kiểu dáng công nghiệp và quyền với giống
cây trồng và các quyền theo quy định của pháp luật nh các
giấy phép và sự cho phép".
Dới góc độ khoa học, theo quan điểm của chúng tôi,
đầu t (investment) là việc sử dụng vốn vào quá trình tái sản
xuất xà hội nhằm tạo ra năng lực sản xuất lớn hơn. Dới góc độ
của doanh nhân hoặc doanh nghiệp, đầu t là việc đa vốn
vào một hoạt động nào đó nhằm mục ®Ých thu lỵi nhn.


2
0
Vốn đầu t bao gồm tiền và các tài sản khác nh động sản,
bất động sản, tài sản hữu hình, tài sản vô hình
Nh vậy, ngoài những khái niệm về đầu t nớc ngoài đÃ
đợc trình bày ở trên, về mặt lý luận, có thể đa ra khái niệm
đầu t nớc ngoài nh sau: đầu t nớc ngoài là việc nhà đầu t
của nớc này đa vốn bằng tiền hoặc tài sản khác vào nớc khác
để thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
nhằm thu lợi nhuận.
Trong khái niệm này, yếu tố nớc ngoài trong đầu t nớc
ngoài đợc thể hiện ở hai dấu hiệu đặc trng chÝnh, mét lµ:
cã sù tham gia cđa chđ thĨ níc ngoµi vµ hai lµ: cã sù di
chun vèn tõ níc này sang nớc khác.

Đầu t nớc ngoài đợc phân làm hai loại: đầu t nớc ngoài
trực tiếp và đầu t nớc ngoài gián tiếp. Đầu t trực tiếp nớc
ngoài là loại hình kinh doanh, trong đó nhà đầu t nớc ngoài
tự bỏ vốn thiết lập ra cơ sở sản xuất, kinh doanh cho riêng
mình, tự đứng ra làm chủ sở hữu, tự quản lý hoặc thuê ngời
quản lý cơ sở này (đầu t 100% vốn), hoặc hợp tác với một
hay nhiều doanh nghiệp của nớc sở tại thành lập một doanh
nghiệp liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh, cùng
làm chủ sở hữu, cùng quản lý cơ sở sản xuất, kinh doanh này.
Đầu t gián tiếp nớc ngoài là loại hình đầu t, trong đó nhà
đầu t nớc ngoài bỏ vốn vào hoạt động sản xuất, kinh doanh
của cơ sở kinh tế, nhng không tham gia điều hành cơ sở
kinh tế đó.
Vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài (FDI) chỉ là một trong
bốn nguồn tài chính nớc ngoài đổ vào một quốc gia, đó là:
1) Viện trợ phát triển chÝnh thøc (ODA) vµ phi chÝnh phđ
(NGO); 2) TÝn dơng thơng mại; 3) Tín phiếu, trái phiếu, cổ


2
1
phiếu; 4) Vốn đầu t trực tiếp. Viện trợ phát triển chính thức
thờng do các Chính phủ cấp không hoặc cho vay u đÃi nhằm
tạo dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xà hội cần thiết cho hoạt
động thơng mại, đầu t. Tín dụng thơng mại là nguồn vốn
chủ yếu nhằm hỗ trợ cho các hoạt động thơng mại, xuất nhập
khẩu và xét đến cùng cũng là hỗ trợ cho đầu t. Tín phiếu là
nguồn vốn mà Chính phủ c¸c níc mn thu vỊ b»ng c¸ch b¸n
cỉ phiÕu, tr¸i phiếu, công trái cho ngời nớc ngoài. Vốn đầu t
trực tiếp chủ yếu là nguồn vốn t nhân đầu t vào quốc gia

khác nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Bốn nguồn vốn này có mối
quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau. Nếu một nớc kém
phát triển không nhận đợc vốn ODA đủ mức cần thiết để
hiện đại hóa kết cấu hạ tầng kinh tế - xà hội, thì khó có thể
thu hút đợc nguồn vốn FDI và các ngn vèn tÝn dơng kh¸c.
Nhng nÕu chØ chó träng ngn vốn ODA, mà không tìm cách
thu hút nguồn vốn FDI và các nguồn vốn tín dụng khác, thì
Chính phủ sẽ không thể có thu nhập để trả nợ cho vốn ODA.
Hình thức đầu t
Trên thế giới, các hình thức đầu t rất đa dạng từ hình
thức doanh nghiệp 100% vốn nớc ngoài, hình thức liên
doanh, hình thức công ty cổ phần, công ty quản lý vốn, chi
nhánh công ty nớc ngoài, đến hình thức gia công, lắp ráp...
Còn ở nớc ta, theo pháp luật đầu t nớc ngoài hiện hành, đầu
t trực tiếp nớc ngoài bao gồm ba hình thức:
- Doanh nghiệp 100% vốn nớc ngoài là loại hình đầu t,
trong đó nhà đầu t nớc ngoài tự bỏ vốn thành lập cơ sở sản
xuất, kinh doanh ở nớc sở tại và có t cách pháp nhân của nớc
sở tại.


2
2
- Doanh nghiệp liên doanh là loại hình đầu t, trong đó
nhà đầu t nớc ngoài và nhà đầu t trong nớc cùng góp vốn
thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh có t cách pháp nhân
theo pháp luật Việt Nam.
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh là loại hình đầu t, trong
đó nhà đầu t nớc ngoài và nhà ®Çu t trong níc cïng bá vèn
kinh doanh theo mét hợp đồng, mỗi bên giữ t cách pháp nhân

riêng, không thành lập pháp nhân mới.
Phơng thức đầu t
Ngoài khái niệm các hình thức đầu t, còn có khái niệm
phơng thức đầu t. Phơng thức đầu t là cách tổ chức đa vốn
vào kinh doanh của nhà đầu t nớc ngoài. Hiện nay, theo pháp
luật đầu t nớc ngoài tại Việt Nam có các phơng thức sau:
- BOT (Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao)
là phơng thức nhà đầu t nớc ngoài ký kết với cơ quan nhà nớc
có thẩm quyền của Việt Nam để xây dựng công trình kết
cấu hạ tầng, tự kinh doanh để thu hồi vốn, lợi nhuận trong
thời hạn nhất định, sau thời hạn đó chuyển giao công trình
đó cho Nhà nớc Việt Nam [5, tr. 4].
- BTO (Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh)
là phơng thức nhà đầu t nớc ngoài ký kết với cơ quan nhà nớc
có thẩm quyền của Việt Nam để xây dựng công trình kết
cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu t nớc ngoài
chuyển giao công trình đó cho Nhà nớc Việt Nam. Nhà nớc
Việt Nam dành cho nhà đầu t quyền kinh doanh công trình
đó trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn và lợi
nhuận [5, tr. 4].


2
3
- BT (Hợp đồng xây dựng - chuyển giao) là phơng thức
nhà đầu t ký kết với cơ quan nhà nớc có thẩm quyền của
Việt Nam để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi
xây dựng xong, nhà đầu t nớc ngoài chuyển giao công trình
đó cho Nhà nớc Việt Nam. Nhà nớc Việt Nam tạo điều kiện
cho nhà đầu t nớc ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn

đầu t và lợi nhuận [5, tr. 4].
- Khu chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất
hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng
xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác
định do Chính phủ thành lập hoặc cho phép thành lập [5,
tr. 4].
- Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công
nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp
do Chính phủ thành lập hoặc cho phép thành lập [5, tr. 4].
Trên cơ sở khái niệm đầu t nớc ngoài, các hình thức
đầu t, phơng thức đầu t nớc ngoài, cần làm sáng tỏ khái
niệm pháp luật đầu t nớc ngoài ở Việt Nam.
HiƯn nay, khoa häc ph¸p lý cđa níc ta thèng nhất nhận
thức rằng, pháp luật đầu t nớc ngoài là mét bé phËn trong hƯ
thèng ph¸p lt ViƯt Nam. Tuy nhiên, xung quanh khái niệm
pháp luật đầu t nớc ngoài còn có các quan điểm trái ngợc
nhau sau đây:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, pháp luật đầu t nớc
ngoài là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật
Việt Nam, vì nó có đối tợng, phơng pháp, điều chỉnh riêng.
Quan điểm thứ hai cho rằng, pháp luật đầu t nớc ngoài
là một bộ phận của ngành T pháp quốc tÕ, bëi lÏ quan hÖ


2
4
đầu t nớc ngoài là một loại quan hệ có yếu tố nớc ngoài. Đây
là quan điểm đợc thừa nhận ở Liên bang Nga và Luật Đầu t nớc ngoài đợc viết thành một chơng trong Giáo trình Luật T
pháp quốc tế.
Quan điểm thứ ba cho rằng, pháp luật đầu t níc ngoµi

lµ mét bé phËn cđa Lt Kinh tÕ. Đây là quan điểm phổ
biến đợc thừa nhận trong các giáo trình Luật Kinh tế của Trờng Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia
Hà Nội, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh. Vấn đề địa vị
pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài đợc viết
thành một chơng trong các giáo trình đó.
Quan điểm thứ t cho rằng, pháp luật đầu t nớc ngoài
không thuộc một ngành luật nào. Việc điều chỉnh các quan
hệ xà hội phát sinh trong hoạt động đầu t nớc ngoài có sự
tham gia của nhiều ngành luật, trong đó các ngành luật nh
Luật Kinh tế, Luật T pháp quốc tế, Luật Dân sự, Luật Lao
động, Luật Đất đai... đóng vai trò rất quan trọng. Nói cách
khác, pháp luật đầu t nớc ngoài là nơi giao thoa của nhiều
ngành luật khác nhau nh Luật Kinh tế, Luật T pháp quốc tế,
Luật Dân sự, Luật Lao động, Luật Đất đai...
Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ t, bëi lÏ:
Thø nhÊt, quan ®iĨm thø nhÊt thiÕu tÝnh thut phục,
bởi lẽ nếu giả định pháp luật đầu t nớc ngoài là một ngành
luật độc lập, thì nó phải có đối tợng, phơng pháp, điều
chỉnh đặc thù và phải tồn tại trong một thời gian dài. Tuy
nhiên, phơng pháp điều chỉnh của pháp luật đầu t nớc ngoài
thực chất cũng là phơng pháp điều chỉnh của Luật Kinh tế
hoặc T pháp quốc tế... mặc dù việc sử dụng có khác nhau về
cấp độ, cho nên không thể nói có đặc thù hoàn toàn riêng.


2
5
Mặt khác, pháp luật đầu t nớc ngoài không thể tồn tại lâu
dài, bởi lẽ trong xu thế của tiến trình hội nhập kinh tế quốc
tế, đầu t nớc ngoài và đầu t trong nớc ngày càng xích lại gần

nhau và sẽ có mặt bằng pháp lý chung. Nói cách khác, trong tơng lai gần, ở nớc ta có thể sẽ không tồn tại pháp luật đầu t
nớc ngoài mà chỉ có pháp luật khuyến khích đầu t nớc ngoài
hoặc pháp luật đầu t chung cho cả đầu t trong nớc và đầu
t nớc ngoài. Hiện tại, do nớc ta đang rất cần vốn đầu t nớc
ngoài, kết cấu hạ tầng thấp kém so với các nớc trong khu vực,
nền kinh tế đang trong quá trình hội nhập, nên nớc ta vẫn
phải có cả Luật Đầu t nớc ngoài và Luật Khuyến khích đầu t
trong nớc. Nếu so sánh với các nớc phát triển nh Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ, Cộng hòa Pháp, Cộng hòa Liên bang Đức... thì ở
các nớc này không có pháp luật đầu t nớc ngoài mà chỉ có
pháp luật đầu t chung cho cả trong nớc và nớc ngoài với nhiều
tên gọi khác nhau, thí dụ: Hợp chủng quốc Hoa Kỳ gọi là Luật
Công ty, Cộng hòa Liên bang Đức gọi là Luật Kinh doanh. Các
nớc trong khu vực tơng đối phát triển nh Singapore, Hàn
Quốc... cũng không có Luật Đầu t nớc ngoài mà chỉ có Luật
Khuyến khích đầu t nớc ngoài.
Mặt khác, pháp luật đầu t nớc ngoài tại Việt Nam không
chỉ thuần túy là Luật Đầu t nớc ngoài tại Việt Nam đợc ban
hành năm 1987, 1996 và các văn bản hớng dẫn trực tiếp mà
còn là các quy định trong các đạo luật khác nh Luật Phá sản
doanh nghiệp, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự... cũng nh
trong các Điều ớc quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia.
Với sự phân tích nh vậy, rõ ràng, quan điểm coi pháp luật
đầu t nớc ngoài là một ngành luật độc lập là không hợp lý,
thiếu cơ sở khoa học và c¬ së thùc tiƠn.


×