ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG
TÁI ĐỊNH CƯ Ở THỊ XÃ HƯƠNG TRÀ
TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Sinh viên thực hiện: Giáo viên hướng dẫn:
Trần Thị Mộng Vân
Lớp: K44-KTCT
Niên khóa: 2010 - 2014 TS. Hà Thị Hằng
Huế, tháng 05 năm 2014
Khóa luận tốt nghiệp đại học GVHD: TS. Hà Thị Hằng
Lời Cảm Ơn
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, lời đầu
tiên, tôi xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô trường
Đại học Kinh tế - Đại học Huế, các thầy cô trong khoa
Kinh tế Chính trị là những người đã trực tiếp giảng
dạy, truyền đạt kiến thức bổ ích và kinh nghiệm quý
báu cho tôi trong suốt thời gian học tập tại trường. Đó
chính là những nền tảng cơ bản, là hành trang cho tôi
bước vào sự nghiệp trong tương lai. Đặc biệt cảm ơn
cô giáo, Tiến sĩ Hà Thị Hằng – người đã tận tình hướng
dẫn, góp ý kiến và truyền đạt kiến thức cho tôi hoàn
thành tốt đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn đến các cơ quan thị xã:
Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã, Ủy ban nhân dân
các xã phường của thị xã Hương Trà, nhất là các bác,
các anh chị phòng LĐ - TB & XH nơi tôi thực tập; các
cô chú, anh chị lao động ở các khu tái định cư Hải
Dương, Hồng Tiến…đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi
có được những thông tin và tài liệu cần thiết để phục
vụ cho đề tài.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình và
bạn bè – những người luôn động viên, quan tâm giúp
đỡ tôi trong thời gian làm đề tài.
Để thực hiện được đề tài này, bản thân tôi đã hết
sức nổ lực, cố gắng. Nhưng do hạn chế về thời gian
cũng như trình độ kiến thức nên đề tài cũng không thể
tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình nghiên cứu.
Tôi rất mong sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô cùng
bạn bè để đề tài này được hoàn thiện.
2
SVTH: Trần Thị Mộng Vân
2
Khóa luận tốt nghiệp đại học GVHD: TS. Hà Thị Hằng
Sinh viên thực hiện
Trần Thị Mộng Vân
MỤC LỤC
3
SVTH: Trần Thị Mộng Vân
3
Khóa luận tốt nghiệp đại học GVHD: TS. Hà Thị Hằng
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CHXHCN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CN – XD Công nghiệp – Xây dựng
CTR Chất thải rắn
KCN Khu công nghiệp
KT – XH Kinh tế - Xã hội
LĐNT Lao động nông thôn
LĐTB & XH Lao động thương binh và xã hội
TDP Tổ dân phố
TĐC Tái định cư
THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
UBND Ủy ban nhân dân
4
SVTH: Trần Thị Mộng Vân
4
Khóa luận tốt nghiệp đại học GVHD: TS. Hà Thị Hằng
DANH MỤC CÁC BẢNG
5
SVTH: Trần Thị Mộng Vân
5
Khóa luận tốt nghiệp đại học GVHD: TS. Hà Thị Hằng
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
6
SVTH: Trần Thị Mộng Vân
6
Khóa luận tốt nghiệp đại học GVHD: TS. Hà Thị Hằng
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc làm và giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng đối với
mỗi quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển có lực lượng lao động lớn như Việt
Nam. Tạo việc làm cho người lao động trong sự phát triển của thị trường lao động là
tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực, góp phần tích cực vào việc
hình thành thể chế kinh tế thị trường, đồng thời tận dụng lợi thế để phát triển, tiến kịp
khu vực và thế giới. Vì vậy, trong thời gian qua thì vấn đề tạo việc làm cho người lao
động luôn được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước. Trong văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI nhấn mạnh: “Tập trung giải quyết vấn đề việc làm và thu nhập cho
người lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”[10, 189].
Để Việt Nam hội nhập nền kinh tế thế giới và phấn đấu trở thành một nước công
nghiệp hiện đại. Trong những năm gần đây nhiều dự án công trình như: nhà máy, xí
nghiệp, thủy điện…được hình thành góp phần đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH đất
nước và làm thay đổi diện mạo các địa phương cũng như nâng cao chất lượng cuộc
sống cho người dân. Để có mặt bằng xây dựng cơ sở hạ tầng cho các dự án thì bên
cạnh đó các dự án di dời người dân tới các khu TĐC cũng được các cơ quan chính
quyền đặc biệt quan tâm.
Thị xã Hương Trà có vị trí nằm ở phần trung tâm của tỉnh Thừa Thiên Huế, giáp
thành phố Huế. Ngày 15/11/2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết 99/NQ-CP thành
lập thị xã Hương Trà thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế trên cơ sở toàn bộ huyện Hương Trà.
Những năm qua, Đảng bộ và nhân dân Hương Trà đã nỗ lực phấn đấu tranh thủ thời
cơ, thuận lợi; vượt qua khó khăn thử thách, tổ chức thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ
phát triển KT – XH và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, tạo chuyển biến tích
cực trên các lĩnh vực; đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH gắn với đô thị hoá. Cùng với
phát triển dịch vụ, du lịch, Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo phát triển công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp, ngành nghề; các ngành có thế mạnh và điều kiện phát triển; vùng sản
xuất công nghiệp Hương Trà tập trung nhiều ở địa bàn các phường, xã: Tứ Hạ, Hương
Văn, Hương Vân, Hương Thọ… Hiện có Khu Công nghiệp Tứ Hạ - Hương Văn, cụm
công nghiệp Tứ Hạ,…đặc biệt có hai nhà máy Thủy điện Bình Điền, Hương Điền.
SVTH: Trần Thị Mộng Vân 7
Khóa luận tốt nghiệp đại học GVHD: TS. Hà Thị Hằng
Để thực hiện được các dự án công nghiệp trên, địa phương đã triển khai giúp
hàng trăm hộ dân được di dời đến các khu TĐC mới. Trên nhiều mặt, đời sống của dân
cư trong các khu vực này được cải thiện rõ rệt. Cơ sở hạ tầng như: Điện, đường, hệ
thống cấp thoát nước, vệ sinh môi trường Với đặc điểm đa số người dân trong diện
di dời đều làm nghề nông, đời sống bấp bênh và gặp nhiều khó khăn, vì vậy khi thực
hiện các dự án TĐC thì đòi hỏi công tác giải quyết công ăn việc làm cho người dân
phải tính toán đến nhiều mặt. Tuy nhiên sau hơn 5 năm thực hiện, đời sống của người
dân ở đây còn gặp rất nhiều khó khăn. Một bộ phận dân cư vẫn còn băn khoăn về khả
năng tìm việc làm, tạo thu nhập đảm bảo mức sống, một số người chưa thích nghi
được với môi trường sống mới hoặc chưa tìm được việc làm ổn định, nảy sinh tâm lý
thiếu an tâm. Mức sống ở một bộ phận dân cư chưa ổn định nhất là số người làm các
nghề tự do đang cần tiếp tục hỗ trợ để tìm hướng giải quyết. Đây là vấn đề của không
chỉ công tác truyền thông, giáo dục mà còn là một kế hoạch phát triển kinh tế, ổn định
xã hội cả trước mắt lẫn lâu dài. Trước những thực trạng trên tôi đã chọn đề tài: “Việc
làm cho người lao động tái định cư ở thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế” làm đề
tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm vừa qua, do yêu cầu của cả lý luận và thực tiễn, đã có một số
công trình nghiên cứu trên các phương diện khác nhau về di dời, giải tỏa và TĐC. Có
thể điểm qua một số công trình tiêu biểu sau:
- Trần Hữu Toàn và Mai Văn Xuân: “Giải pháp để phát triển sản xuất cho bản
Vân Kiều ở khu TĐC xã Xuân Lộc - huyện Phú Lộc” – Tạp chí Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn. Từ thực trạng người dân TĐC gặp khó khăn trong phát triển sản xuất,
các tác giả đã khuyến nghị các giải pháp để giải quyết vấn đề này.
- Nguyễn Hoàng Long: “Giải quyết việc làm trong thời kỳ đẩy nhanh tốc độ đô
thị hóa ở Đà Nẵng” - Tạp chí Lao động và xã hội, số 218, 2003. Tác giả đánh giá tình
hình giải quyết việc làm nói chung ở thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ đẩy nhanh tốc
độ đô thị hóa, trong đó đề cập đến một số “khó khăn nhất định – nhất là ở bước đầu
trong vấn đề tìm việc làm và thích nghi với địa bàn mới”, của một số lao động trong
diện di dời đến TĐC.
SVTH: Trần Thị Mộng Vân 8
Khóa luận tốt nghiệp đại học GVHD: TS. Hà Thị Hằng
- ThS. Hà Thị Hằng: “Việc làm cho dân vạn đò sau khi định cư ở thành phố
Huế”- Luận văn thạc sĩ, Hà Nội 2007. Tác giả nêu lên thực trạng việc làm và đời sống
của người dân vạn đò sau TĐC, từ đó đưa ra những giải pháp cơ bản để giải quyết.
- TS. Nguyễn Hữu Dũng: “Giải quyết vấn đề lao động và việc làm trong quá
trình đô thị hóa, công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn”- Tạp chí Lao động - Xã hội
số 246 (từ 1-15/9/2004). Tác giả nêu lên thực trạng về lao động và việc làm ở nông
thôn trong quá trình đô thị hóa và đưa ra các giải pháp cơ bản để giải quyết vấn đề này.
Nhìn chung những công trình bài viết nói trên đã tiếp cận, nghiên cứu vấn đề
việc làm, vấn đề tác động của đô thị hóa đến việc làm của người lao động ở nhiều góc
độ, nhiều địa phương khác nhau và gợi mở ra hướng nghiên cứu mới rất bổ ích. Song
cho đến nay chưa có một công trình, nghiên cứu nào về vấn đề giải quyết việc làm cho
người lao động TĐC ở thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế. Do đó, đề tài của tôi
không trùng lặp với bất cứ ai.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở đánh giá đúng đắn thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho
người lao động TĐC ở thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế. Từ đó đề xuất những
giải pháp chủ yếu giải quyết việc làm cho bộ phận lao động này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn tập trung giải quyết các vấn đề sau:
- Phân tích hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề việc làm và giải quyết
việc làm cho người lao động TĐC
- Nghiên cứu những kinh nghiệm thực tiễn của các nước và một số địa phương
trong cả nước.
- Đánh giá thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động TĐC
thông qua số liệu sơ cấp và số liệu thứ cấp nhằm rút ra những thành tựu và hạn chế.
- Đề xuất giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho người lao động TĐC.
SVTH: Trần Thị Mộng Vân 9
Khóa luận tốt nghiệp đại học GVHD: TS. Hà Thị Hằng
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Việc làm cho người lao động TĐC ở thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Về không gian
Địa bàn thị xã Hương Trà
4.2.2. Về thời gian
Nghiên cứu từ năm 2009 – 2013
Đề ra giải pháp từ năm 2014 – 2020
4.2.3. Phạm vi của đối tượng nghiên cứu
Đề tài chủ yếu nghiên cứu các khu TĐC tập trung trên địa bàn thị xã Hương Trà
đã được quy hoạch xây dựng và sử dụng từ năm 2000 đến 2013.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Mẫu nghiên cứu: chọn 100 hộ dân TĐC.
5.1. Phương pháp chung
Đề tài đã sử dụng phương pháp nghiên cứu chung của chủ nghĩa Mác – Lênin:
Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
5.2. Phương pháp cụ thể
Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp cụ thể như:
- Phương pháp phân tổ thống kê.
- Phương pháp điều tra thu thập số liệu.
+ Số liệu thứ cấp
Lấy từ sách, báo, internet như: tạp chí Cộng Sản, báo Dân trí, báo Pháp luật, báo
Thừa Thiên Huế.
Từ các văn bản, văn kiện Đại hội Đảng, báo cáo công tác, báo cáo kinh tế - xã
hội của thị xã Hương Trà, niên giám thống kê thị xã Hương Trà năm 2009 – 2012.
+ Số liệu sơ cấp
SVTH: Trần Thị Mộng Vân 10
Khóa luận tốt nghiệp đại học GVHD: TS. Hà Thị Hằng
Quá trình quy hoạch di dời và giải phóng mặt bằng đã và đang diễn ra rộng khắp
tất cả mọi xã, phường của thị xã Hương Trà. Do quá trình di dời TĐC ở mỗi địa điểm
được tiến hành bởi những lý do khác nhau và mỗi địa bàn dân cư có những điều kiện
KT – XH khác nhau nên để mẫu khảo sát có tính đại diện cho tập hợp đối tượng trong
thực tế, nên tác giả đã chọn ra mỗi lý do là những xã phường tiêu biểu đáp ứng yêu
cầu nghiên cứu. Mỗi xã, phường được chọn một danh sách các hộ thuộc diện di dời,
giải tỏa được thành lập và áp dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên như sau:
• Tái định cư cho các hộ dân bị sạt lở và thủy diện: 50 hộ, trong đó Hải Dương 20 hộ,
Hương Hồ (khu TĐC Thọ Khương): 15 hộ, Hương Vinh: 15 hộ.
• Tái định cư cho các hộ dân bị thu hồi đất trong quá trình đô thị hóa: 50 hộ. Trong đó:
Hương Văn: 10 hộ, Hồng Tiến: 10 hộ, Bình Thành: 10 hộ, Hương Hồ (khu TĐC thôn
Chầm) 10 hộ, Hương Thọ: 10 hộ.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, phỏng vấn.
- Phương pháp khảo sát, thống kê, so sánh.
6. Đóng góp của đề tài
- Đề tài nhằm cung cấp những thông tin cơ bản về thực trạng việc làm và giải
quyết việc làm cho người lao động sau TĐC để làm tài liệu tham khảo cho những ai
quan tâm nghiên cứu về vấn đề này.
- Đề tài góp phần cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho các cơ quan, ban
ngành của thị xã nói riêng và của tỉnh Thừa Thiên Huế nói chung có thể tham khảo để
thực hiện tốt chính sách giải quyết việc làm cho người dân TĐC ở thị xã Hương Trà
trong những năm tới.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về việc làm và giải quyết việc làm cho
người lao động tái định cư
Chương 2: Thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động tái
định cư ở thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế
Chương 3: Giải pháp để giải quyết việc làm cho người lao động tái định cư ở thị
xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế
SVTH: Trần Thị Mộng Vân 11
Khóa luận tốt nghiệp đại học GVHD: TS. Hà Thị Hằng
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VIỆC LÀM VÀ
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG TÁI ĐỊNH CƯ
1.1. Tái định cư và vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động tái định cư
1.1.1. Những vấn đề chung về tái định cư và giải quyết
việc làm cho người lao động tái định cư
1.1.1.1. Quan niệm tái định cư
Di dân tái định cư được hiểu là quá trình di chuyển chổ ở của người dân đến lập
cư ở một nơi khác. Có hai dạng di dân chính: Dạng thứ nhất là việc di chuyển tự phát
của các cá nhân, gia đình hoặc thậm chí cả toàn bộ cộng đồng nhưng không có kế
hoạch và sự trợ giúp của các cơ quan nhà nước; dạng thứ hai là TĐC bắt buộc, đó là
hoạt động TĐC thuộc các chương trình dự án chính thức có kế hoạch được nhà nước
quản lý và cấp kinh phí [14, 11]. Trong thực tế cả hai dạng di dân tái định cư này đều
có thể xảy ra nhanh ở đây, trong phạm vi nghiên cứu bài khóa luận, tác giả chỉ đề cập
đến các vấn đề di dân - TĐC có sự quản lý và quy hoạch của nhà nước.
Tái định cư là việc Nhà nước lập và thực hiện các dự án TĐC trước khi thu hồi
đất để bồi thường bằng nhà ở cho người bị thu hồi đất mà phải di chuyển chổ ở. Khu
TĐC được quy hoạch chung cho nhiều dự án trên cùng một địa bàn và phải có điều
kiện phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi cũ.
Trường hợp không có khu TĐC thì người bị thu hồi đất được bồi thường bằng
tiền và được ưu tiên mua hoặc thuê nhà thuộc sở hữu của nhà nước đối với khu vực đô
thị; bồi thường bằng đất ở đối với khu vực nông thôn, trường hợp giá trị quyền sử
dụng đất ở bị thu hồi lớn hơn đất ở được bồi thường thì người bị thu hồi được bồi
thường bằng tiền đối với phần chênh lệch đó.
Theo báo cáo TĐC của ban quản lý dự án tỉnh Thừa Thiên Huế đệ trình cho ban
quản lý dự án quốc gia (tháng 12 năm 2011) thì định nghĩa thuật ngữ TĐC như sau:
“Tái định cư là tất cả các biện pháp được tiến hành để giảm thiểu bất cứ hoặc tất cả
SVTH: Trần Thị Mộng Vân 12
Khóa luận tốt nghiệp đại học GVHD: TS. Hà Thị Hằng
các tác động xấu của dự án đối với tài sản của người bị ảnh hưởng và / hoặc sinh kế,
bao gồm bồi thường, di chuyển chổ ở (ở nơi tương tự) và khôi phục cuộc sống theo
như yêu cầu”.[2, 2]
Tóm lại, TĐC cần được nhìn nhận như một quá trình thay đổi về kinh tế, văn
hóa, xã hội của một bộ phận dân cư hơn là chỉ dừng lại ở việc xem xét đây là một quá
trình thay đổi chổ ở, để từ đó có những chính sách hỗ trợ đáp ứng đúng nhu cầu và
nguyện vọng của người dân TĐC.
1.1.1.2. Quan niệm về việc làm, giải quyết việc làm
* Quan niệm về việc làm
Việc làm là một trong những vấn đề xã hội có tính chất toàn cầu, là mối quan tâm
lớn của toàn nhân loại, của hầu hết các quốc gia, nó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với
mỗi người vì khi có việc làm con người có điều kiện tạo thu nhập để đảm bảo các nhu cầu
vật chất, tinh thần của mình và các thành viên trong gia đình. Việc làm có mối liên hệ mật
thiết giữa kinh tế và xã hội, qua đó khẳng định vai trò, giá trị xã hội của mình. Đứng trên
các giác độ nghiên cứu khác nhau, người ta đã đưa rất nhiều khái niệm về việc làm.
Theo TSKH Phạm Đức Chính: “Việc làm như một phạm trù kinh tế, tồn tại ở tất
cả mọi hình thức xã hội, đó là một tập hợp những mối quan hệ kinh tế giữa con người
về việc đảm bảo chổ làm việc và tham gia của họ về hoạt động kinh tế”. [6, 311]
Đại từ điển Tiếng Việt: “Việc làm là công việc, nghề nghiệp thường ngày để sinh
sống”. [17, 1815]
Theo điều 13 của Bộ luật lao động nước CHXHCN Việt Nam năm 1994, được
sửa đổi bổ sung năm 2002, 2006, 2007 quy định rõ: “Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu
nhập không bị pháp luật cấm đều được gọi là việc làm”[7,13]. Với khái niệm trên, các
hoạt động được xác định là việc làm bao gồm:
+ Làm những công việc được trả công dưới dạng tiền hoặc hiện vật.
+ Những công việc tự làm để mang lại lợi ích cho bản thân hoặc gia đình mình
nhưng không được trả công cho công việc đó.
Quan điểm này làm cho nội dung của việc làm được mở rộng và tạo khả năng lớn
để giải phóng tiềm năng lao động, giải quyết việc làm cho người lao động.
SVTH: Trần Thị Mộng Vân 13
Khóa luận tốt nghiệp đại học GVHD: TS. Hà Thị Hằng
Theo Tổ chức Lao động quốc tế - ILO định nghĩa: “Việc làm có thể được định
nghĩa như một tình trạng trong đó có sự trả công bằng tiền hoặc hiện vật, do có sự
tham gia tích cực, có tính chất cá nhân và trực tiếp vào nỗ lực sản xuất”.
Mặc dù có những quan niệm khác nhau về việc làm rất đa dạng nhưng xét về bản
chất thì việc làm được coi là một hệ thống quan hệ bản chất giữa con người về việc
đảm bảo cho họ những chỗ làm việc và tham gia vào các hoạt động sản xuất. Có thể
phân chia việc làm thành các dạng:
- Việc làm đầy đủ
Đầy đủ ở đây không có nghĩa là việc làm chung cho tất cả mọi người, đảm bảo
chổ việc làm cho tất cả dân số có khả năng lao động. Trong quan niệm này thì việc
làm đầy đủ được hiểu như khái niệm “ việc làm tối ưu”, trong điều kiện đảm bảo phù
hợp chỗ làm việc với khả năng lao động của từng thành viên trong xã hội.
- Việc làm tạm thời
Đây là loại công việc có tính bất ổn định, người lao động phụ thuộc vào mức độ
thường xuyên của công việc và khả năng nắm bắt công việc. Đó là những công việc
theo hợp đồng hoặc khoán, được sử dụng rộng rãi trong các ngành thương mại, dịch
vụ và xây dựng.
- Việc làm theo thời vụ
Loại việc làm này gắn với điều kiện tự nhiên như: thời tiết cùng với quá trình sinh
trưởng và phát triển của cây trồng, vật nuôi đây là loại hình có tính chất phổ biến trong
nông nghiệp. Loại hình này rất phổ biến ở Việt Nam, có gần 70% lực lượng lao động
trong ngành nông nghiệp làm việc theo thời vụ với thời gian lao động từ 65 - 70%.
* Quan niệm về giải quyết việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động
sau tái định cư
Giải quyết việc làm là tạo ra cơ hội cho người lao động kiếm thêm thu nhập tạo
ra của cải vật chất cho bản thân, gia đình, cộng đồng và xã hội. Giải quyết việc làm
cần phải xem xét cả từ ba phía: người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước.
Giải quyết việc làm theo nghĩa rộng: Là tổng thể những biện pháp, chính sách
KT – XH của nhà nước, cộng đồng và bản thân người lao động tác động đến mọi mặt
của đời sống xã hội để đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động và được lao động
(có việc làm và có thu nhập).
SVTH: Trần Thị Mộng Vân 14
Khóa luận tốt nghiệp đại học GVHD: TS. Hà Thị Hằng
Giải quyết việc làm theo nghĩa hẹp: Là các biện pháp, chính sách chủ yếu hướng
vào đối tượng thất nghiệp, chưa có việc làm hoặc thiếu việc làm nhằm tạo việc làm
cho người lao động, để giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Vì vậy việc tạo việc làm đầy đủ và duy trì ổn định là một vấn đề cốt lõi, xuyên suốt
đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách cũng như các cơ quan có liên quan, các doanh
nghiệp và cả người lao động cùng nhau tham gia, phối hợp giải quyết. Điều đó được
khẳng định trong Bộ luật lao động 2012 như sau: “Nhà nước, người sử dụng lao động và
xã hội có trách nhiệm tham gia giải quyết việc làm, đảm bảo cho mọi người có khả năng
lao động đều có cơ hội có việc làm” [5, 35]. Trong giai đoạn tình hình thế giới có nhiều
biến động, đất nước đang tiến hành công cuộc đẩy mạnh CNH, HĐH thì nhu cầu việc làm
và giải quyết việc làm ngày càng trở nên bức bách hơn. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng đã nhấn mạnh: “ Giải quyết việc làm là nhân tố quyết định để
phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng
nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân”. [9, 210]
Người lao động TĐC là những người bị di dời từ nơi ở cũ sang nơi ở mới do bị thu
hồi đất giải phóng mặt bằng trong quá trình đô thị hóa; những hộ dân vạn đò lên bờ định
cư phục vụ cho công tác chỉnh trang đô thị hay những hộ dân sống ven sông, ven biển bị
sạt lở đất do sự tác động của thiên tai.
Giải quyết việc làm cho người lao động TĐC là tổng thể các biện pháp, chính
sách kinh tế, xã hội từ vi mô đến vĩ mô tác động đến người lao động tái định cư để họ
có thể có việc làm, đem lại thu nhập để nuôi sống bản thân và gia đình, đóng góp cho
cộng đồng và xã hội.
* Thiếu việc làm
Thiếu việc làm hay còn gọi là bán thất nghiệp hay thất nghiệp trá hình là hiện
tượng người lao động có việc làm ít hơn mức mà mình mong muốn. Như vậy, người
thiếu việc làm là người không có đủ việc làm theo thời gian quy định trong tuần, trong
tháng hoặc là làm những công việc quá thấp, không đảm bảo cuộc sống nên có nhu cầu
làm việc thêm để có thêm thu nhập.
Thiếu việc làm là việc làm không tạo điều kiện cho người lao động sử dụng hết thời
SVTH: Trần Thị Mộng Vân 15
Khóa luận tốt nghiệp đại học GVHD: TS. Hà Thị Hằng
gian lao động và mang lại mức thu nhập thấp cho người lao động dưới mức tối thiểu.
Thiếu việc làm tồn tại dưới 2 dạng:
Thứ nhất, thiếu việc làm vô hình tức là tình trạng làm việc đủ hoặc vượt chuẩn
quy định về số giờ làm việc, nhưng có năng suất thu nhập thấp và họ có nhu cầu kiếm
thêm hoặc tìm việc khác.
Thứ hai, thiếu việc làm hữu hình dùng để chỉ những người lao động có việc làm
nhưng số giờ làm việc ít hơn quy định chuẩn và họ có nhu cầu tìm việc làm thêm.
Người thiếu việc làm gồm: những người trong tuần lễ điều tra có tổng số giờ làm
việc làm thêm nhỏ hơn số giờ quy định, hoặc 40 giờ có nhu cầu làm thêm giờ (trừ
những người làm việc có số giờ làm việc dưới 8 giờ, có nhu cầu làm thêm mà không
tìm được việc).
* Thất nghiệp
Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, hiện tượng người lao động
không có công ăn việc làm – thất nghiệp là không tránh khỏi. Nó phản ánh thực tế nan
giải của mọi quốc gia có nền kinh tế thị trường, cho dù quốc gia đó ở trình độ kém
phát triển hay phát triển cao. Thất nghiệp đang trở thành vấn đề nóng bỏng gây sức ép
lớn về kinh tế và xã hội cho mọi quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Thất nghiệp là hiện tượng kinh tế tất yếu khách quan và bình thường. Song duy
trì tỷ lệ thất nghiệp ở mức độ cho phép tạo sự cạnh tranh lành mạnh về lao động, từ đó
tạo ra động lực kích thích tăng năng suất lao động, sử dụng nguồn lao động có hiệu
quả, góp phần tăng trưởng nền kinh tế và kiềm chế lạm phát là một vấn đề nan giải
được hầu hết mọi chính phủ quan tâm.
Theo quan niệm của tổ chức lao động quốc tế (ILO): “Thất nghiệp là tình trạng
tồn tại khi số người trong lực lượng lao động muốn làm việc nhưng không tìm được
việc làm ở mức tiền công đang thịnh hành”.
Thất nghiệp gồm có nhiều loại:
+ Thất nghiệp tạm thời: Đây là tình trạng người lao động tự nguyện bỏ việc, có
thời gian tìm việc làm mới phù hợp với khả năng, sở thích của mình.
+ Thất nghiệp cơ cấu: Đây là tình trạng phù hợp giữa ngành nghề chuyên môn và
SVTH: Trần Thị Mộng Vân 16
Khóa luận tốt nghiệp đại học GVHD: TS. Hà Thị Hằng
nghiệp vụ của lao động với quy trình công nghệ sản xuất với công cụ và phương tiện
lao động cũng như các phương pháp và đối tượng gia công, dẫn đến mức cầu về một
loại lao động nào đó tăng lên trong khi mức cầu đối với một loại lao động khác giảm
đi trong khi mức cung không được điều chỉnh nhanh chóng.
+ Thất nghiệp do thiếu cầu: Là thất nghiệp khi tổng cầu của nền kinh tế giảm,
kéo theo giảm cầu về lao động mà tiền lương và giá cả chưa kịp điều chỉnh; thất
nghiệp theo mùa vụ là thất nghiệp do cầu lao động dao động, giảm thường vào những
thời kỳ nhất định trong năm.
+ Thất nghiệp chu kỳ: Là thất nghiệp phát sinh khi mức cầu chung về lao động
thấp và không ổn định. Những giai đoạn mà cầu lao động thấp nhưng cung lao động sẽ
cao sẽ xảy ra thất nghiệp chu kì. [15, 117]
Ở Việt Nam, trong quá trình hội nhập và phát triển, do tác động mạnh mẽ của
quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế, ảnh hưởng của nền kinh tế tri thức, thất nghiệp là
điều khó tránh khỏi. Trước tình hình đó, đã đặt ra một vấn đề nóng bỏng là phải giải
quyết tình trạng thất nghiệp như thế nào. Để hạn chế thất nghiệp thông qua chính sách
việc làm, một mặt phải tạo ra những nơi làm mới, mặt khác phải tránh cho người lao
động trước nguy cơ thất nghiệp.
1.1.2. Sự cần thiết phải di dời, giải tỏa và yêu cầu giải
quyết việc làm cho người lao động sau tái định cư
1.1.2.1. Sự cần thiết phải di dời, giải tỏa thực hiện tái định cư
Từ thực tiễn nước ta trong những năm qua cho thấy CNH, HĐH và đô thị hóa tất
yếu sẽ dẫn đến một bộ phận đất đai được chuyển đổi mục đích sử dụng. Trong quá
trình đó, nhà nước phải thực hiện thu hồi đất, giải phóng mặt bằng để xây dựng các
khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng KT - XH, các công trình công cộng phục
vụ lợi ích quốc gia. Một bộ phận đất đai, trước hết là đất nông nghiệp được chuyển
sang phục vụ cho việc xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất mở rộng các khu
đô thị cũ và xây dựng các khu đô thị mới, cũng như xây dựng và phát triển kết cấu hạ
tầng và các công trình công cộng phục vụ lợi ích quốc gia.
SVTH: Trần Thị Mộng Vân 17
Khóa luận tốt nghiệp đại học GVHD: TS. Hà Thị Hằng
Hiện nay, đô thị hóa ở nước ta đang diễn ra đồng thời cả hai quá trình; đô thị hóa
theo chiều rộng và đô thị hóa theo chiều sâu. Từ nay cho đến năm 2020, khi nền kinh
tế ở nước ta cơ bản trở thành một nền kinh tế công nghiệp – đô thị hóa đã và đang tiếp
tục diễn ra với quy mô lớn theo chiều rộng. Đó là quá trình hình thành các trung tâm
công nghiệp, dịch vụ và khu đô thị mới. Do vậy việc di dời, giải tỏa thực hiện TĐC để
xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng KT – XH là một tất yếu có
vai trò quan trọng trong qua trình CNH, HĐH và đô thị hóa. Tác động này thể hiện rõ
ở những điểm sau:
Thứ nhất, nhờ có thu hồi đất, di dời và giải tỏa mới có thể xây dựng các khu công
nghiệp, khu chế xuất thu hút hàng trăm dự án đầu tư ở trong và ngoài nước.
Các khu công nghiệp, khu chế xuất thường được xây dựng ở những nơi có điều
kiện thuận lợi như: Gần đường giao thông chính, nguồn nguyên liệu…và cần một diện
tích lớn để xây dựng mặt bằng. Vì thế cần di dời các hộ dân đang ở trong khu đất của
dự án để có mặt bằng đầu tư vào hệ thống hạ tầng của KCN như: Đường giao thông,
hệ thống cấp thoát nước mưa, nước thải…làm hài lòng các nhà đầu tư từ đó thu hút
thêm nhiều nhà đầu tư mới.
Thứ hai, việc thu hồi chuyển đổi mục đích sử dụng đất làm cho quá trình đô thị
hóa được đẩy mạnh. Dưới tác động mạnh mẽ của quá trình đô thị hóa làm cho quá
trình phân công lao động cũng có những chuyển biến rõ rệt theo hướng lao động nông
nghiệp giảm dần, lao động công nghiệp và dịch vụ tăng lên nhanh chóng và sự chuyển
dịch dân cư từ nông thôn ra thành thị. Lượng lao động dư thừa sẽ bổ sung vào đội ngũ
công nhân công nghiệp và dịch vụ. Họ đòi hỏi phải có hệ thống cơ sở hạ tầng: Nhà ở,
trường học, bệnh viện…để đáp ứng nhu cầu của cuộc sống. Do đó yêu cầu mở rộng
diện tích đô thị là tất yếu.
Thứ ba, tạo điều kiện nâng cấp và xây dựng mới khá đồng bộ và tương đối hiện
đại hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển KT - XH và an ninh quốc phòng.
Nhiều khu đô thị phải di dời hàng trăm hộ dân để tiến hành xây dựng các công trình
công cộng: sân bay, cảng biển, hệ thống đường bộ…mở rộng và chỉnh trang đô thị.
Tạo điều kiện để giao lưu kinh tế trong nước và thế giới, phát triển kinh tế và xã hội.
SVTH: Trần Thị Mộng Vân 18
Khóa luận tốt nghiệp đại học GVHD: TS. Hà Thị Hằng
Thứ tư, việc hình thành các khu công nghiệp, khu đô thị mới tạo điều kiện thu
hút vốn đầu tư, giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động với thu nhập tương đối
khá, giúp họ từng bước cải thiện cuộc sống. Khi các dự án KCN, các nhà máy, xí
nghiệp xuất hiện thì nhu cầu về tuyển dụng lao động của các nhà máy, xí nghiệp cũng
lớn. Khi không có đất sản xuất họ có cơ hội thử nghiệm với những công việc mới.
Tóm lại, nếu CNH, HĐH và đô thị hóa là tất yếu khách quan đối với nước ta thì
việc di dời, giải tỏa thực hiện TĐC để phục vụ cho CNH, HĐH và đô thị hóa là vấn đề
có ý nghĩa quan trọng. Vì thế muốn quá trình CNH, HĐH và đô thị hóa diễn ra thuận
lợi và hiệu quả thì cần có biện pháp di dời, đền bù đúng đắn.
Ngoài ra việc quy hoạch khu tái định cư cho người dân bị ảnh hưởng của thiên
tai, bão lũ đối với những người dân sống ven biển, ven sông nước là rất quan trọng. Họ
cần phải di dời đến một nơi đảm bảo an toàn không bị nước biển xâm thực hay đất đai
bị sạt lở, đảm bảo cho họ có cuộc sống ổn định lâu dài.
1.1.2.2. Yêu cầu giải quyết việc làm cho người lao động sau tái định cư
* Ổn định cuộc sống
Việc thu hồi đất nông nghiệp đã ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của người nông
dân TĐC cũng như gia đình họ, chất lượng cuộc sống của một bộ phận người lao động
không còn đất sản xuất chưa thực sự ổn định. Bị di dời sang một nơi ở mới, người lao
động không phải chỉ mất đất mà còn mất cả tài sản, nhà cửa, nghề nghiệp và những giá
trị tinh thần thiêng liêng tốt đẹp trong xóm ấp nơi sinh sống cũ.
Sau khi TĐC người lao động buộc phải chuyển đổi việc làm, gây nhiều xáo trộn
trong cuộc sống mà nguyên nhân cốt lõi là họ khó tìm được một công việc mới, ổn
định và có thu nhập khá.
Nhằm tháo gỡ những khó khăn, từng bước để những người lao động TĐC ổn
định cuộc sống, giảm tỷ lệ thất nghiệp, nâng cao thu nhập đồng thời tránh những tệ
nạn xã hội có thể xảy ra cho người lao động mà nguyên nhân là do không có việc làm
gây ra. Chính vì vậy, tạo việc làm cho người lao động TĐC là một vấn đề cấp bách.
SVTH: Trần Thị Mộng Vân 19
Khóa luận tốt nghiệp đại học GVHD: TS. Hà Thị Hằng
* Giảm thất nghiệp
Vấn đề giải quyết việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động TĐC
gặp không ít khó khăn, nhất là những nông dân ở tuổi trung niên từ 35 tuổi trở lên cho
nên nhiều lao động dễ rơi vào tình trạng thất nghiệp, ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập,
đời sống của người dân TĐC.
Đối với người nông dân, đất đai cũng là tài sản quý giá nhất, nó là tư liệu sản
xuất vô cùng quan trọng, không có đất họ không thể canh tác, việc thu hồi đất, di dời
và giải tỏa sẽ làm cho lượng lớn người lao động mất tư liệu sản xuất, mất việc làm, tỷ
lệ thất nghiệp tăng. Người lao động TĐC là những lao động chân tay, trình độ học vấn
thấp, không có tay nghề, không có vốn để tổ chức việc làm, không có kinh nghiệm
cũng như điều kiện để chuyển đổi hoặc tìm việc làm mới.
Vì thế, trước khi tiến hành di dời TĐC nhà nước cần có chính sách đào tạo nghề,
hỗ trợ việc làm cho người lao động nhằm giảm tình trạng thất nghiệp.
* Xóa đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho người lao
động, góp phần thực hiện công bằng xã hội
Những người lao động TĐC phần lớn họ đều là người có trình độ học vấn thấp,
quanh năm làm nghề nông nên trình độ chuyên môn kỹ thuật không có, khi di dời sang
nơi ở mới họ trở thành người thất nghiệp, hay có việc làm tạm bợ bấp bênh. Thu nhập
từ công việc đó không đủ để nuôi sống cả gia đình, nhiều hộ rơi vào tình trạng nghèo
đói, đã làm trầm trọng thêm sự chênh lệch giàu nghèo giữa các nhóm xã hội. Từ đó,
nhà nước phải chi một khoản lớn ngân sách để ủng hộ những sẽ bền vững hơn nếu tạo
được những mô hình việc làm cho họ, đảm bảo nguồn thu nhập ổn định, chất lượng
cuộc sống ngày càng được cải thiện hơn.
* Giảm sức ép cho các thành phố lớn, các đô thị và làm giảm các tệ nạn xã hội
Không có việc làm nhiều người mang theo gia đình, con cái vào các thành phố
lớn mong tìm được việc làm nên gây sức ép lớn cho các đô thị, không chỉ về nhu cầu
nhà ở, giáo dục y tế mà còn góp phần gia tăng mức độ ô nhiễm môi trường. Những lao
động lên thành phố tìm việc dễ rơi vào những cạm bẫy của những tệ nạn: Ăn xin, ăn
cướp, mại dâm, cướp giật…
SVTH: Trần Thị Mộng Vân 20
Khóa luận tốt nghiệp đại học GVHD: TS. Hà Thị Hằng
Mục tiêu CNH, HĐH là tạo ra ngày một tốt hơn điều kiện vật chất, văn hóa tinh
thần cho cuộc sống con người. Một xã hội văn minh phát triển khi mỗi cá nhân, mỗi
gia đình văn minh hơn, ấm no và hạnh phúc hơn. Vì vậy tạo việc làm cho những người
lao động TĐC thực sự rất cần thiết. Nó thể hiện vai trò của xã hội đối với người lao
động, thể hiện sự quan tâm của xã hội đến đời sống vật chất, tinh thần của người lao
động là cầu nối trong mối quan hệ giữa xã hội với con người.
1.1.2.3. Nội dung giải quyết việc làm cho người lao động tái định cư
Tạo việc làm cho người lao động TĐC là vấn đề hết sức cấp thiết, không những
mang tính kinh tế mà còn mang tính chính trị, xã hội cao. Nội dung giải quyết việc làm
cho người lao động TĐC bao gồm các vấn đề như:
- Hỗ trợ chuyển đổi ngành nghề cho lao động tái định cư
Khi đến nơi ở mới một số người lao động không có điều kiện để làm những công
việc cũ vì họ bị mất hết tư liệu sản xuất. Họ sẽ được chính quyền địa phương giới thiệu
và hỗ trợ theo học các khóa đào tạo nghề ngắn hạn như: Trồng nấm, cơ khí, đan lát…
để chuyển đổi ngành nghề. Giúp cho người lao động TĐC có một công việc mới để
kiếm thêm thu nhập và ổn định cuộc sống.
- Đào tạo nghề cho lao động thuộc diện tái định cư
Hoàn thiện các chính sách đào tạo và đào tạo lại nghề; tư vấn nghề nghiệp đối với
học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông; gắn dạy nghề với tạo việc làm cho người lao
động…là đòi hỏi đầu tiên và tiền đề của việc tạo việc làm cho người lao động TĐC.
- Hỗ trợ vốn giải quyết việc làm
Thực hiện hỗ trợ vốn cho người lao động từ quỹ đào tạo nghề, hỗ trợ nghề của
chính quyền địa phương. Nâng cao vai trò của các quỹ tín dụng. Khuyến khích cho
vay để tạo việc làm mới, giải quyết việc làm cho người lao động TĐC.
- Phát triển sản xuất gắn với giải quyết việc làm
Chú trọng vừa phát triển các ngành kinh tế theo chiều rộng và chiều sâu. Đồng
thời, phát triển các ngành công nghiệp vừa và nhỏ, tiểu thủ công nghiệp và các ngành
nghề truyền thống để tận dụng tiềm năng sẵn có của địa phương về lao động và
nguyên liệu. Sự phát triển của các khu công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp sẽ thu hút
một lượng lớn lao động dư thừa tại địa phương, giúp giảm thiểu lao động thất nghiệp.
- Tăng cường hỗ trợ thông tin về thị trường lao động và xuất khẩu lao động
Cơ quan chính quyền thường xuyên tổ chức các sàn giao dịch việc làm để đưa
người lao động tiến gần hơn với doanh nghiệp tuyển dụng. Đẩy mạnh hoạt động xuất
SVTH: Trần Thị Mộng Vân 21
Khóa luận tốt nghiệp đại học GVHD: TS. Hà Thị Hằng
khẩu lao động không chỉ giảm bớt gánh nặng về việc làm trong nước mà còn thu về
một lượng ngoại tệ do người đi lao động gửi về cho gia đình.
- Động viên và giúp đỡ người lao động tự tạo việc làm trong các ngành nghề
thuộc khu vực kinh tế ngoài nhà nước
Nâng cao nhận thức cho người lao động về tự tạo việc làm trong khu vực kinh
tế ngoài nhà nước, đặc biệt là khu vực phi chính thức. Xác định khu vực phi chính
thức là một bộ phận hợp thành của nền kinh tế đang phát triển, có vai trò to lớn trong
việc giải quyết việc làm.
1.1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm cho người lao động tái định cư
- Trình độ phát triển kinh tế - xã hội
Tốc độ phát triển kinh tế của một quốc gia, tỉnh, huyện ảnh hưởng rất lớn đến
vấn đề việc làm của người lao động. Nếu tốc độ phát triển kinh tế cao hình thành nhiều
ngành nghề, nhiều khu công nghiệp, cụm công nghiệp làng nghề…sẽ góp phần tạo ra
nhiều cơ hội việc làm cho người lao động. Ngược lại tốc độ phát triển kinh tế thấp,
chậm sẽ không tạo được nhiều việc làm cho người lao động nhất là người lao động
TĐC có trình độ học vấn, trình độ tay nghề thấp, khả năng tự tạo việc làm và chuyển
đổi nghề khó khăn, do đó tỷ lệ thất nghiệp cao.
Ngoài ra, sự phát triển của hệ thống an sinh xã hội tốt cũng sẽ góp phần ổn định
cuộc sống cho người dân TĐC khi chuyển sang nơi ở mới.
- Sự phát triển của khu vực kinh tế không chính thức
Khu vực kinh tế không chính thức là khu vực hoạt động kinh tế của những người
lao động không đăng ký hoạt động, không đòi hỏi về trình độ cao, quy mô kinh doanh
buôn bán nhỏ, việc làm tạm thời là phổ biến… Khu vực này đã lấp được khoảng trống
thiếu hụt về việc làm và thu nhập đối với bộ phận lớn lao động nói chung và người lao
động TĐC nói riêng có trình độ học vấn, tay nghề thấp, tuổi tác lớn…vào làm việc.
Mặc dù năng suất thấp, thu nhập thấp, bấp bênh không ổn định nhưng với đặc thù là
linh hoạt, đòi hỏi ít vốn và các nguồn lực khác nên khu vực kinh tế phi chính thức đã
đóng vai trò quan trọng trong vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động TĐC. Vì
vậy cần hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách theo hướng nâng cao năng suất
lao động. Mặt khác chính quyền và các đoàn thể cần hỗ trợ về vốn, kỹ thuật để người
SVTH: Trần Thị Mộng Vân 22
Khóa luận tốt nghiệp đại học GVHD: TS. Hà Thị Hằng
lao động tự tạo việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp, đặc biệt là tạo mọi điều kiện thuận
lợi nhất để người lao động có thể tham gia các chương trình đào tạo nghề. Nếu thực
hiện tốt những vấn đề này sẽ giúp một bộ phận người lao động TĐC nâng cao thu
nhập và ổn định cuộc sống.
- Trình độ học vấn, tay nghề của người lao động
Đây là nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến khả năng có việc làm của người
lao động sau khi TĐC. Đa số người lao động TĐC là đồng bào dân tộc thiểu số, dân
vạn đò và người làm nông nên trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp.
Trong khi để có một công việc chắc chắn trong các doanh nghiệp hay các khu công
nghiệp, phần lớn yêu cầu phải có trình độ từ trung học phổ thông. Do đó, đòi hỏi
người lao động TĐC phải có trình độ học vấn và tay nghề nhất định mới có thể tìm
được việc làm và cũng là điều kiện để xóa đói giảm nghèo. Đây là một yêu cầu cấp
bách đối với lao động nói chung và lao động TĐC nói riêng.
- Chính sách của tỉnh đối với người lao động sau tái định cư
Chính sách liên quan đến hiệu quả giải quyết việc làm cho người lao động TĐC
bao gồm:
+ Chính sách đất đai (đất TĐC, đất sản xuất cho người dân bị thu hồi đất): Nếu
có chính sách hỗ trợ cho nông dân trong trường hợp phải di dời để TĐC, nhất là phải
TĐC ngoài khu vực quy hoạch, nhà nước phải thực hiện tốt công tác hỗ trợ di chuyển,
hỗ trợ trong giáo dục, học tập cho con cái họ và các hạ tầng thiết yếu cho cả cộng đồng
thì người dân mới có khả năng “an cư lạc nghiệp”.
+ Chính sách đào tạo nghề: Tác động trực tiếp cho nhu cầu của nhà tuyển dụng
và người lao động gặp nhau. Bên cạnh việc đào tạo tại các trường, trung tâm hướng
nghiệp dạy nghề thì cần chú trọng phát triển các hình thức đào tạo tại các làng nghề
truyền thống và xây dựng các tiêu chuẩn để định kỳ tổ chức cho người lao động có cơ
hội sát hạch để cấp chứng chỉ hành nghề cho lao động. Yêu cầu đặt ra cho công tác
đào tạo việc làm là phải “ăn khớp” với nhu cầu doanh nghiệp, như thế học viên sau khi
ra trường, lao động đã qua đào tạo mới có khả năng tìm kiếm việc làm. Tránh tình
SVTH: Trần Thị Mộng Vân 23
Khóa luận tốt nghiệp đại học GVHD: TS. Hà Thị Hằng
trạng lệch chuẩn đầu ra khiến người lao động vẫn chịu cảnh thất nghiệp không đáp
ứng những tiêu chí tuyển dụng của các doanh nghiệp.
+ Chính sách hỗ trợ về vốn: Hỗ trợ, cho vay vốn ưu đãi về lãi suất và các điều
khoản về tài sản thế chấp để người lao động có thể tự tạo việc làm, chuyển đổi ngành
nghề. Cho vay hỗ trợ đối với người lao động được tuyển dụng xuất khẩu lao động về
các khoản phí có liên quan.
- Vấn đề quản lý và sử dụng khoản tiền đền bù sau tái định cư
Những định hướng sử dụng đồng tiền đền bù vào những sinh kế bền vững như:
mở rộng đầu tư kinh doanh, chi phí học nghề…sẽ là cơ hội cho sự chuyển dịch kinh tế
tích cực cho người dân bị thu hồi đất. Ngược lại, nếu như các khoản tiền đền bù được
sử dụng vào những tiêu dùng lãng phí, thiếu tính toán như: xây nhà, mua xe, sắm trang
thiết bị trong gia đình…sẽ tác động tiêu cực đến thu nhập và đời sống về sau. Nếu như
người dân có thái độ ỷ lại vào chính sách hỗ trợ của nhà nước, kém chủ động trong tìm
kiếm việc làm sẽ khiến tình hình việc làm và đời sống KT - XH của vùng TĐC thêm
khó khăn và bất ổn định.
- Ảnh hưởng của phong tục, tập quán
Phong tục tập quán có ảnh hưởng rất lớn đến việc làm và lựa chọn việc làm của
người lao động TĐC. Đối với người dân vạn đò trước khi tái định cư họ quen với cuộc
sống trên sông nước và sinh hoạt trên thuyền, đò. Hay những người thuộc dân tộc thiểu
số di dời do xây dựng thủy điện, cuộc sống của họ gắn liền với rừng núi. Ở họ vẫn còn
duy trì nhiều phong tục, tập quán lạc hậu. Khi đến vùng TĐC mới họ vẫn còn duy trì lối
sống tùy tiện và lạc hậu đó. Vì thế nó trở thành rào cản ngăn họ hòa nhập với cuộc sống
mới đặc biệt trong việc chuyển đổi việc làm và tìm kiếm việc làm thích hợp.
Tóm lại, vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động TĐC ở thị xã Hương Trà
là rất cần thiết. Cần nhận rõ những khó khăn và những yếu tố (khách quan và chủ
quan) ảnh hưởng tới việc làm của người lao động TĐC để tìm ra giải pháp khắc phục.
Trong đó yếu tố chủ quan thuộc về người lao động TĐC như: Trình độ học vấn, tay
nghề; phong tục tập quán; quản lý và sử dụng tiền đền bù. Để từ đó họ phải ý thức được
rằng cần phải tham gia vào các lớp tập huấn, lớp đào tạo nghề để nâng cao trình độ học
SVTH: Trần Thị Mộng Vân 24
Khóa luận tốt nghiệp đại học GVHD: TS. Hà Thị Hằng
vấn và tay nghề, sử dụng tiền đền bù một cách hợp lý, xóa bỏ những tập quán, phong tục
lạc hậu. Đồng thời có yếu tố khách quan như: Sự phát triển việc làm ở khu vực kinh tế
không chính thức, trình độ phát triển kinh tế của tỉnh, thị xã hay cơ chế chính sách của
thị xã cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc làm của người lao động TĐC. Vì vậy, tỉnh
Thừa Thiên Huế và thị xã Hương Trà cần có sự quan tâm, tạo điều kiện để bộ phận dân
cư này có cơ hội tìm kiếm việc làm và ổn định cuộc sống của họ sau TĐC.
1.2. Kinh nghiệm giải quyết việc làm cho người lao động tái định cư của các
nước và một số địa phương trong nước
1.2.1. Kinh nghiệm của các nước về giải quyết việc làm
cho người lao động tái định cư
1.2.1.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trong thời kỳ đầu cải cách mở cửa, xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa, tốc độ công nghiệp hóa, đô thị hóa của Trung Quốc diễn ra rất nhanh chóng.
Diện tích đất canh tác ngày càng bị thu hẹp do tác động của quá trình công nghiệp hóa,
đô thị hóa, trong khi dân số tăng nhanh làm cho tỷ lệ thất nghiệp ở các vùng nông thôn
ngày càng tăng. Trong những năm 1990, ước tính Trung Quốc có 100 - 120 triệu lao
động nông thôn thiếu việc làm, hằng năm con số này lại được cộng thêm từ 6 – 7 triệu
người. Để giải quyết những khó khăn trong vấn đề việc làm cho lao động, các biện
pháp mở rộng quy mô việc làm đã được tiến hành.
- Với phương châm “rời ruộng chứ không rời làng”, chính phủ tập trung đầu tư,
phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp, các ngành nghề truyền thống. Hàng chục
vạn xí nghiệp hương trấn được hình thành ở khắp các vùng nông thôn, thu hút hàng
chục triệu lao động nông thôn, giải quyết một cách nhanh chóng nhu cầu việc làm cho
lao động bị mất đất.
- Thành lập quỹ đào tạo, bồi dưỡng nghề cho người nông dân bị thu hồi đất;
khuyến khích các đơn vị ưu tiên sắp xếp công ăn việc làm cho người lao động bị thu
hồi đất; khuyến khích nông dân lập nghiệp, tạo điều kiện cho các hộ nông dân bị thu
hồi đất vào thành phố mở doanh nghiệp và được hưởng các chính sách ưu đãi như các
đối tượng thất nghiệp ở thành phố.
SVTH: Trần Thị Mộng Vân 25