Tải bản đầy đủ (.docx) (83 trang)

Pháp luật điều chỉnh hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ của ngân hàng thương mại và hoạt động của hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (336.75 KB, 83 trang )

1

MỤC LỤC
Trang
Mục lục
Lời nói đầu

1

Chương 1: Những vấn đề về hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ tại
các ngân hàng thương mại

5

1.1.

Khái niệm, đặc điểm của hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ trong các
ngân hàng thương mại

5

1.1.1
.

Hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ

6

1.1.2
.


Đặc điểm của hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ và hoạt động của hệ
thống kiểm tra kiểm soát nội bộ

9

1.1.3
.

Các yếu tố cấu thành của hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ

9

1.1.4
.

Chức năng, nhiệm vụ của hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ

16

1.2.

Cơ cấu và yêu cầu của pháp luật điều chỉnh hệ thống kiểm tra kiểm
soát nội bộ, hoạt động của hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ

19

1.2.1
.

Nguyên tắc xây dựng pháp luật điều chỉnh hệ thống kiểm tra kiểm

soát nội bộ

19

1.2.2
.

Các bộ phận cấu thành của pháp luật điều chỉnh hệ thống kiểm tra
kiểm soát nội bộ và mối liên hệ giữa các quy định của Nhà nước và
các quy định nội bộ về hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ trong các
ngân hàng thương mại

22

Chương 2: Khảo cứu hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ tại một số
ngân hàng thương mại và kiến nghị hoàn thiện pháp luật điều chỉnh

40

2.1.

Khảo cứu hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ tại một số ngân hàng
thương mại

42

2.1.1
.

Hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng Cơng thương


42

2.1.2
.

Hệ thống kiểm tra, kiểm tốn nội bộ tại Ngân hàng Ngoại thương

48


2

2.1.3
.

Hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng Đầu tư

52

2.1.4
.

Nhận xét chung về hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ của các ngân
hàng thương mại trong giai đoạn hiện nay

55

2.1.5
.


Quy định của Ủy ban Basel và mức độ áp dụng tại Việt Nam, những
trở ngại khi áp dụng các quy định này

58

2.2.

Một số kiến nghị xây dựng và hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hệ
thống kiểm tra kiểm soát nội bộ của ngân hàng thương mại

60

2.2.1
.

Quan điểm, định hướng trong việc xây dựng hệ thống pháp luật đối
với hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ của ngân hàng thương mại,
góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của các ngân hàng
thương mại Việt Nam

60

2.2.2
.

Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện hệ thống kiểm tra kiểm soát
nội bộ của ngân hàng thương mại

63


Kết luận

77

Danh mục tài liệu tham khảo


3

LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức
thương mại thế giới (WTO), hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam nói
chung đã có những chuyển biến tích cực. Trong điều kiện hội nhập kinh tế
khu vực và thế giới ngày càng sâu rộng, các NHTM Việt Nam đang đứng
trước cơ hội lớn, đi kèm với nó cũng là những thách thức. Cơ hội đặt ra là:
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế mở ra cơ hội giao lưu và hợp tác trên
mọi mặt của đời sống kinh tế, tạo điều kiện để các NHTM có thể nhanh chóng
bắt kịp trình độ quản lý cũng như trình độ cơng nghệ của các NHTM ở các
quốc gia phát triển. Nhờ đó, các NHTM Việt Nam sẽ hoạt động an toàn, hiệu
quả hơn để không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh và tồn tại trong môi
trường mới. Sự quan tâm, giám sát của mọi chủ thể tham gia vào các hoạt
động kinh tế, tham gia các kênh lưu chuyển tiền tệ sẽ tạo ra môi trường lành
mạnh, buộc các nhà kinh doanh tiền tệ phải tính tốn đến hiệu quả, sự lành
mạnh trong các quan hệ tài chính, chú trọng đến việc quản trị rủi ro trong hoạt
động kinh doanh. Nguy cơ tiềm ẩn là nếu các NHTM Việt Nam khơng nhanh
chóng đổi mới trên mọi phương diện, sẽ không thể bắt kịp và cạnh tranh được
với các NHTM nước ngoài với rất nhiều thế mạnh, đặc biệt trong ứng dụng
khoa học cơng nghệ, quy mơ hoạt động, trình độ quản lý... Do đó, để có thể

cạnh tranh được với các ngân hàng nước ngoài, các NHTM Việt Nam đang
chịu áp lực rất lớn về mở rộng quy mô hoạt động, tốc độ tăng trưởng; tuy
nhiên nếu trình độ quản lý và năng lực kiểm sốt của mỗi ngân hàng khơng
theo kịp tốc độ phát triển trong hoạt động thì nguy cơ tổn thất là rất cao.
Vì vậy, sự phát triển bền vững và ổn định trong hoạt động kinh doanh
trở thành mục tiêu quan trọng nhất trong quản trị và điều hành của các NHTM


4

Việt Nam. Một trong những giải pháp mang tính chiến lược và cấp thiết là
việc tổ chức lại, nâng cấp hệ thống KTKSNB của mỗi NHTM. Hệ thống
KTKSNB trở thành cơ chế tự phòng chống rủi ro quan trọng nhất của NHTM.
Thực tế, hệ thống KTKSNB của NHTM mới được đề cập và áp dụng vào
thực tiễn trong một số ít năm trở lại đây, nhưng quá trình áp dụng còn nhiều
lúng túng, thiếu kinh nghiệm cả về lý luận và thực tiễn. Do vậy, tại nhiều
NHTM, hệ thống KTKSNB chưa được đặt đúng vị trí của chúng. Theo nhận
định của các chuyên gia đầu ngành trong và ngoài nước, nếu các NHTM Việt
Nam khơng nhanh chóng có được một hệ thống KTKSNB hữu hiệu, phù hợp
với tốc độ tăng trưởng như hiện nay thì nguy cơ xảy ra các tổn thất lớn hoặc
đổ vỡ mà hệ thống tài chính của các quốc gia khác đã từng gánh chịu (như
khủng khoảng tài chính khu vực hay sự sụp đổ một loạt các ngân hàng lớn
trong thời gian qua) là điều khó tránh khỏi và hồn tồn có thể dự báo trước.
Chính vì thế, cần phải có sự nghiên cứu một cách toàn diện trên cơ sở lý luận
và thực tiễn về hệ thống KTKSNB nhằm góp phần đảm bảo an tồn trong
hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam nói chung. Nhận thức được vấn đề
này, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Pháp luật điều chỉnh hệ thống kiểm tra
kiểm soát nội bộ của ngân hàng thương mại và hoạt động của hệ thống kiểm
tra kiểm soát nội bộ” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Từ trước đến nay đã có những đề tài nghiên cứu về hệ thống KTKSNB
của các TCTD dưới nhiều góc độ và mục đích khác nhau, nhằm đưa ra các
giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống KTKSNB. Đáng chú ý
nhất là đề tài: “Hoàn thiện hoạt động kiểm tra kiểm toán nội bộ trong các tổ
chức tín dụng Việt Nam” của tác giả Hồng Đình Thắng (Đề tài nghiên cứu
khoa học, Viện khoa học ngân hàng - NHNN năm 2000) đã đề cập đến thực
trạng hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ từng loại hình TCTD và đề xuất


5

các giải pháp hoàn thiện hệ thống kiểm tra, kiểm tốn nội bộ của các TCTD
Việt Nam. Ngồi ra cịn nhiều bài viết đăng trên các tạp chí khoa học hoặc
nhiều đề án nghiên cứu, luận văn, luận án khác có đề cập ít nhiều tới vấn đề
này. Các đề tài nghiên cứu đều thống nhất ở sự cần thiết phải thiết lập và nâng
cao hiệu quả hoạt động của hệ thống KTKSNB. Tuy nhiên, các đề tài nêu trên
chủ yếu nghiên cứu hệ thống KTKSNB của các TCTD dưới góc độ kinh tế;
dưới góc độ pháp lý, hệ thống KTKSNB của các NHTM chưa được nghiên
cứu, tìm hiểu một cách toàn diện và đầy đủ cả về lý luận và thực tiễn, hoặc
mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu riêng lẻ tại một NHTM hoặc một khâu
trong quy trình quản trị rủi ro của NHTM. Chính vì vậy, đặt vấn đề nghiên cứu
“Pháp luật điều chỉnh hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ của Ngân hàng
Thương mại và hoạt động của hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ” trên cơ sở
kế thừa những kết quả nghiên cứu trước đây là hồn tồn cấp thiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Để giải quyết những yêu cầu mà đề tài đặt ra, luận văn xác định cho
mình các mục đích nghiên cứu chủ yếu sau đây:
- Cơ sở lý luận và thực tiễn về hệ thống KTKSNB.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng hệ thống KTKSNB của một số NHTM
Việt Nam (NHCT; NHNT; NHĐT).

- Chỉ ra những hạn chế và đề xuất các giải pháp hoàn thiện hệ thống
KTKSNB của các NHTM Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, năng
lực quản lý, quản trị rủi ro của các NHTM Việt Nam trong tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu hệ thống lý luận liên quan đến hệ thống KTKSNB.
- Nghiên cứu thực tiễn tổ chức, hoạt động của hệ thống KTKSNB tại
các NHTM Việt Nam thông qua việc khảo sát tại một số NHTM.


6

5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Hệ thống KTKSNB của NHTM là đề tài có nội hàm nghiên cứu rộng
và phức tạp. Trong khuôn khổ của một bản luận văn thạc sĩ luật học, tác giả
tập trung nghiên cứu:
- Các quy định của Nhà nước có liên quan đến hoạt động của hệ thống
KTKSNB, như: Luật các TCTD, các quy định của NHNN Việt Nam...
- Trên cơ sở các quy định của pháp luật, các NHTM Việt Nam đã thực
hiện đến đâu nhằm đáp ứng các yêu cầu về hệ thống KTKSNB (những quy
định mà các NHTM phải thực hiện - bằng các quy chế, quy định nội bộ và
những việc tự thực hiện - Nhà nước không can thiệp).
6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện các quy định hiện
hành của Nhà nước về hệ thống KTKSNB; đánh giá, phân tích những điểm
phù hợp, đồng thời chỉ ra những hạn chế, bất cập trong thực tiễn áp dụng.
- Tạo cơ sở để hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống
KTKSNB tại các NHTM Việt Nam.
- Đề tài luận giải có cơ sở khoa học về các kiến nghị giải pháp nhằm
hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống KTKSNB của

NHTM.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận văn gồm 2 chương:
- Chương 1: Những vấn đề về hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ tại
các ngân hàng thương mại
- Chương 2: Khảo cứu hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ tại một số
ngân hàng thương mại và kiến nghị hoàn thiện pháp luật điều chỉnh


7

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ HỆ THỐNG KIỂM TRA KIỂM SOÁT NỘI BỘ
TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm, đặc điểm của hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ trong
các ngân hàng thương mại
NHTM là một trong những định chế tài chính mà đặc trưng là cung cấp
đa dạng các dịch vụ tài chính với nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền gửi, cho vay
và cung ứng các dịch vụ thanh tốn. Ngồi ra, NHTM cịn cung cấp nhiều
dịch vụ khác nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội.
Xuất phát từ vị trí đặc thù của NHTM, cũng như yêu cầu đảm bảo an
toàn trong kinh doanh mà NHTM được tổ chức theo nguyên tắc tập trung,
thống nhất. Các chi nhánh đặt ở trong nước, hoặc nước ngoài chỉ là những
đơn vị hạch toán phụ thuộc của bộ máy trung tâm. Mơ hình tổ chức đó đảm
bảo cho hoạt động ngân hàng thông suốt, nhạy bén với thông tin thị trường.
Do NHTM hoạt động trong môi trường đầy rủi ro nên ngày nay hầu hết các
nước đều thực hiện cơ chế lãnh đạo, quản trị tập thể. Tổ chức cao nhất của cơ
chế tập thể trong NHTM Nhà nước là Hội đồng quản trị (Nhà nước chiếm đa
số tỷ lệ sở hữu). Đối với các NHTM cổ phần và các quỹ tín dụng là Đại hội cổ

đơng (theo Luật doanh nghiệp và Luật chun ngành). Đại hội cổ đơng có
nhiệm vụ thống nhất chiến lược, sách lược trong kinh doanh ngân hàng từng
thời kỳ, thống nhất cơ cấu tổ chức ngân hàng, phạm vi mở rộng hoạt động,
sửa đổi điều lệ tổ chức hoạt động, phân phối thu nhập ngân hàng, bầu ra các
cơ quan đại diện cho mình để quản trị, kiểm sốt hoạt động ngân hàng.
Đại hội cổ đơng có nhiệm vụ bầu ra Hội đồng quản trị và Ban kiểm
sốt. Hội đồng quản trị có trách nhiệm vạch ra các phương án quản trị theo
nội dung nghị quyết của Đại hội cổ đông, đảm bảo cho hoạt động ngân hàng


8

đi đúng hướng, kinh doanh trong an toàn và hiệu quả. Ban kiểm sốt có nhiệm
vụ giám sát hoạt động của ngân hàng trong việc tuân thủ nghị quyết của Đại
hội cổ đông, kịp thời kiến nghị Đại hội cổ đông chấn chỉnh các hoạt động
theo định hướng; giám sát việc tổ chức kinh doanh để đảm bảo quyền lợi của
tập thể cổ đông. Đối với hầu hết các nước, trong tổ chức điều hành hoạt động
NHTM đều có thành lập hội đồng tín dụng, hội đồng đầu tư mà trong đó Tổng
giám đốc chỉ là một thành viên tham gia biểu quyết quyết định các khoản cho
vay, đầu tư lớn theo chế độ tập thể.
Tuy nhiên, tất cả các biện pháp phòng ngừa trên đây chưa thể đảm bảo
cho sự an toàn trong hoạt động ngân hàng của NHTM. Vì hoạt động ngân
hàng rất nhạy cảm với những biến động kinh tế và khơng một doanh nghiệp
nào có số lượng khách hàng khổng lồ như NHTM; một sơ suất nhỏ trong kinh
doanh ngân hàng có thể dẫn đến rủi ro mất vốn hoặc làm mất lòng tin của
khách hàng. Bởi vậy, tất cả các NHTM đều phải hình thành hệ thống
KTKSNB để tự bảo vệ mình. Thực tế, hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ
trong các NHTM đã chứng minh cho sự khơng thể thiếu nó trong hoạt động
của một NHTM.
1.1.1. Hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ

Hệ thống KTKSNB của một NHTM thực chất là sự tích hợp một loạt
các hoạt động, biện pháp, kế hoạch, chủ trương, đường lối, chính sách và nỗ
lực thực hiện của mọi thành viên trong tổ chức để đảm bảo NHTM hoạt động
hiệu quả, đúng hướng và đạt được mục tiêu đặt ra một cách hợp lý, khoa học,
quản trị và hạn chế tối đa rủi ro trong quá trình hoạt động. Trong bất cứ một
NHTM nào, ngoài vấn đề rủi ro do nguyên nhân khách quan, sự thống nhất và
xung đột quyền lợi chung - quyền lợi riêng của người sử dụng lao động với
người lao động luôn tồn tại song hành. Nhờ có hệ thống kiểm sốt nội bộ hoạt
động hiệu quả, người sử dụng lao động có thể kiểm soát tốt hơn những quyền


9

lợi riêng của người lao động có thể ảnh hưởng đến lợi ích chung của tổ chức.
Bên cạnh đó, người sử dụng lao động có thề phân quyền, ủy nhiệm, giao việc
cho cấp dưới một cách chính xác, khoa học, tránh dựa trên tiêu chí cảm tính.
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều khái niệm về hệ thống KTKSNB,
tuy nhiên nội hàm các khái niệm đều cơ bản thống nhất. Theo định nghĩa của
Viện Kiểm toán quốc tế “Hệ thống kiểm soát nội bộ là tập hợp bao gồm các
chính sách, quy trình, quy định nội bộ, các thơng lệ, cơ cấu tổ chức của ngân
hàng, được thiết lập và được tổ chức thực hiện nhằm đạt được các mục tiêu
của ngân hàng và đảm bảo phòng ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời các rủi ro
xảy ra”. Như vậy, định nghĩa này cho thấy hệ thống KTKSNB gồm cơ sở áp
dụng, hệ thống tổ chức và hoạt động thực thi KTKSNB.
Ở Việt Nam, sau khi có Luật các tổ chức tín dụng năm 1997, nhằm tăng
cường hoạt động kiểm tra, kiểm sốt, góp phần nâng cao chất lượng hoạt
động của các tổ chức tín dụng; NHNN đã ban hành Quyết định 03/1998/QĐNHNN3 ngày 03/01/1998 về việc ban hành Quy chế mẫu về tổ chức và hoạt
động kiểm tra, KTNB trong các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam (gọi
tắt là Quyết định 03), đó là cơ sở pháp lý đầu tiên đặt nền móng cho sự hình
thành và phát triển của hệ thống KTKSNB của NHTM.

Theo Quyết định 03 thì kiểm tra kiểm sốt nội bộ trong các TCTD là
việc TCTD thực hiện các phương pháp giám sát, kiểm tra và KTNB nhằm bảo
đảm thực hiện đúng các quy định pháp luật, các quy chế quản lý của Ngành
và quy định nội bộ của TCTD; hạn chế rủi ro trong hoạt động và bảo vệ an
tồn tài sản; bảo đảm tính tồn diện, và tin cậy của số liệu hạch toán.
Tuy nhiên, lúc bấy giờ do hoạt động kiểm tra kiểm sốt nội bộ cịn quá
mới mẻ, nhận thức chưa được đầy đủ, cho nên đưa ra khái niệm không chuẩn
xác, thực chất kiểm tra kiểm soát nội bộ chỉ là một nội dung hoạt động trong
hệ thống kiểm soát nội bộ của TCTD, nên định hướng không đúng đắn cho


10

hoạt động kiểm tra kiểm soát. Với khái niệm như trên, thì Quyết định 03 chưa
bao trùm tồn bộ hoạt động của hệ thống KTKSNB, có nghĩa chưa đề cập đến
chức năng đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ, hơn nữa khái niệm không
logic (kiểm tra, KTNB là thực hiện phương pháp ... kiểm tra, KTNB) và kém
chính xác (khơng có khái niệm Ngành ngân hàng; kiểm tra độ tin cậy của số
liệu chứ không phải “đảm bảo độ tin cậy”).
Đến năm 2010, khái niệm hệ thống KTKSNB mới được quy định đầy
đủ trong Luật các tổ chức tín dụng năm 2010. Theo Khoản 1/Điều 40/Luật
các tổ chức tín dụng năm 2010 thì hệ thống kiểm tra kiểm sốt nội bộ là tập
hợp các cơ chế, chính sách, quy trình, quy định nội bộ, cơ cấu tổ chức của tổ
chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngồi, được xây dựng phù hợp với
hướng dẫn của NHNN và được tổ chức thực hiện nhằm bảo đảm phòng ngừa,
phát hiện, xử lý kịp thời rủi ro và đạt được yêu cầu đề ra; hoạt động của hệ
thống kiểm tra kiểm sốt nội bộ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng
nước ngồi phải được kiểm tốn nội bộ, tổ chức kiểm toán độc lập đánh giá
định kỳ.
Hệ thống kiểm tra, kiểm sốt trong lĩnh vực ngân hàng được hình thành

và phát triển như một bộ phận không thể thiếu trong cơ cấu tổ chức cũng như
mọi lĩnh vực hoạt động của ngành ngân hàng. Khi Luật các tổ chức tín dụng
năm 1997 được ban hành thì hoạt động kiểm soát của hệ thống KTKSNB
được khẳng định rõ ràng, được hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động,
nhằm giúp cho hoạt động ngân hàng đi đúng hướng, an toàn và hiệu quả.
Theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng năm 1997, hệ thống kiểm tra,
KTNB trong lĩnh vực ngân hàng hoạt động theo mơ hình dọc từ trụ sở chính
đến các chi nhánh, đơn vị phụ thuộc của NHTM, tạo thành cơ cấu hệ thống
KTKSNB thống nhất.


11

1.1.2. Đặc điểm của hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ và hoạt động của
hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ
Thứ nhất, hệ thống KTKSNB được thiết lập ở tất cả các NHTM, là hoạt
động quản trị của NHTM và mang tính tự quản của NHTM. Khác với các loại
hình doanh nghiệp khác, có thể thiết lập hoặc không cần thiết lập hệ thống
KTKSNB, các NHTM đều xây dựng hệ thống KTKSNB nhằm kiểm tra, giám
sát và đánh giá hoạt động kinh doanh của mình. Nói chung, các bước kiểm
soát là các biện pháp được tiến hành để xem xét và khẳng định các phương
pháp, biện pháp quản lý có được tiến hành hiệu quả và thích hợp hay khơng,
có kịp thời ngăn chặn, phát hiện các sai phạm và gian lận trong kinh doanh,
có thể bảo vệ tài sản và thông tin tránh khỏi bị lạm dụng và sử dụng sai mục
đích và NHTM hoạt động có tuân thủ pháp luật và các quy chế, quy trình, quy
định nội bộ.
Thứ hai, Nhà nước thường khơng có bất cứ sự can thiệp nào vào quá
trình hình thành cũng như hoạt động của hệ thống KTKSNB. Các NHTM căn
cứ vào quy mơ hoạt động của mình, nguồn nhân lực, trình độ tổ chức... để xây
dựng hệ thống KTKSNB phù hợp, hiệu quả. Nhà nước chỉ ban hành khung

pháp lý cho việc hình thành và hoạt động của hệ thống KTKSNB.
Thứ ba, hệ thống KTKSNB phải được KTNB, tổ chức kiểm toán độc
lập đánh giá định kỳ, nhằm đánh giá tính hiệu lực hiệu quả của hệ thống
KTKSNB. Đây là quy định mang tính bắt buộc các NHTM phải thực hiện.
Việc đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả của hệ thống KTKSNB được quy định
tại nhiều văn bản pháp lý có liên quan, nhằm khẳng định vai trị của KTNB
đối với hoạt động của hệ thống KTKSNB.
1.1.3. Các yếu tố cấu thành của hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ
Hệ thống KTKSNB là tập hợp các chính sách, quy trình, thơng lệ và cơ
cấu tổ chức được thiết lập nhằm có được sự đảm bảo ở mức độ hợp lý rằng


12

NHTM sẽ đạt được các mục tiêu kinh doanh và phòng ngừa, phát hiện hoặc
khắc phục các sự việc xảy ra ngoài ý muốn (các rủi ro trong hoạt động kinh
doanh). Để thực hiện được các mục tiêu đó, theo thông lệ tốt nhất hiện nay, hệ
thống KTKSNB gồm 05 cấu phần cơ bản: Mơi trường kiểm sốt; hệ thống
quản lý và đánh giá rủi ro; hệ thống thông tin và trao đổi thơng tin; hệ thống
cơ chế, chính sách; đánh giá chất lượng hệ thống KTKSNB. Trong các yếu tố
cấu thành của hệ thống KTKSNB, để đánh giá chất lượng (hay đánh giá tính
hiệu lực, hiệu quả) của hệ thống KTKSNB, thì đa phần các NHTM hiện nay
đều giao cho bộ phận KTNB chuyên trách đảm nhận. Vì vậy, có thể nói
KTNB của NHTM là một phần của tồn bộ hệ thống KTKSNB.
a) Các bộ phận cấu thành
Thứ nhất, mơi trường kiểm sốt chung, bao gồm tồn bộ các nhân tố có
tính chất “mơi trường” tác động đến việc thiết kế, hoạt động và sự hữu hiệu
của các chính sách, thủ tục kiểm soát của đơn vị, các nhân tố này chủ yếu liên
quan đến thái độ, nhận thức và hành động của người quản lý đơn vị. Môi
trường kiểm sốt tạo ra phong thái của tồn bộ doanh nghiệp và có ảnh hưởng

tới ý thức về kiểm sốt của các nhân viên. Nó là nền móng cho các yếu tố cịn
lại của hệ thống kiểm sốt nội bộ. Mơi trường kiểm sốt bao gồm quan điểm,
cách thức điều hành và công tác kế hoạch của Ban lãnh đạo, sự tham gia của
những người chịu trách nhiệm quản trị doanh nghiệp, hiệu quả của cơ cấu tổ
chức, tính hợp lý của các kế hoạch và mức độ tin cậy của các ước tính của
Ban lãnh đạo. Hay nói cách khác, đối với NHTM, mơi trường kiểm sốt bao
gồm cơ cấu tổ chức bộ máy; cơ chế phân cấp, phân quyền, cơ chế chính sách,
nguồn nhân lực, đạo đức nghề nghiệp, năng lực quản trị và điều hành của các
cấp lãnh đạo trong NHTM.
Thứ hai, hệ thống quản lý và đánh giá rủi ro là quy trình định dạng và
phân tích mọi rủi ro liên quan đến việc hồn thành các mục tiêu của NHTM,


13

làm cơ sở cho việc xác định xem các rủi ro đó cần được quản lý, kiểm sốt
như thế nào, nó bao gồm các bước: (i) xác định mục tiêu, (ii) mức độ phù hợp
của các mục tiêu, (iii) định dạng các rủi ro liên quan, (iv) đánh giá rủi ro, và
(v) các biện pháp nhằm giảm thiểu rủi ro.
Thứ ba, hệ thống thông tin và cơ chế trao đổi thơng tin. Đây là hệ thống
hỗ trợ tồn bộ các cấu phần của hệ thống kiểm sốt nội bộ thơng qua việc
đảm bảo các thông tin được nắm bắt đầy đủ và kịp thời trong toàn ngân hàng.
Đây là một cấu phần quan trọng trong hệ thống KTKSNB. Đó là sự phối hợp
nhịp nhàng, thông suốt giữa các bộ phận, các đơn vị trong một NHTM, trong
đó hệ thống cơng nghệ thơng tin, viễn thơng đóng một vai trị hết sức quan
trọng nhằm đảm bảo các cấp quản lý (Hội đồng quản trị, ban điều hành,
trưởng các bộ phận nghiệp vụ) ln nhanh chóng nắm bắt đầy đủ thơng tin
trong hoạt động kinh doanh, để ra quyết định kịp thời, hiệu quả.
Thứ tư, hệ thống các chính sách, quy trình, thông lệ được xây dựng
nhằm đảm bảo thực hiện các kế hoạch, các yêu cầu chuyên môn nghiệp vụ, do

các cấp quản lý điều hành đặt ra và các quy trình giảm thiểu rủi ro liên quan.
Yếu tố này có thể được hiểu là tồn bộ cơ chế, chính sách, kế hoạch, các quy
định quy trình nghiệp vụ được ban hành để đảm bảo hoạt động của NHTM
thông suốt, hiệu quả.
Thứ năm, thực hiện đánh giá hoạt động kiểm tra kiểm sốt là q trình
đánh giá chất lượng hệ thống kiểm soát nội bộ do Tổng giám đốc (Giám đốc)
ngân hàng tổ chức thực hiện và do bộ phận KTNB của ngân hàng và/hoặc tổ
chức kiểm toán độc lập bên ngồi thực hiện. Việc này được thực hiện thơng
qua việc đánh giá thường xuyên, đánh giá riêng lẻ hay kết hợp cả hai hình
thức. Hội đồng quản trị và ban kiểm soát chịu trách nhiệm cuối cùng về mức
độ đầy đủ, tính hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm sốt nội bộ thơng qua
một bộ phận chun trách độc lập. Bộ phận này chính là bộ phận KTNB của


14

ngân hàng. Chức năng cơ bản của bộ phận KTNB là thực hiện đánh giá độc
lập về mức độ đầy đủ, tính hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ
của ngân hàng, đồng thời đưa ra những khuyến nghị nhằm hoàn thiện hệ
thống KTKSNB. Bên cạnh đó, hệ thống kiểm sốt nội bộ cịn được thường
xun tự đánh giá. Công việc này do Tổng giám đốc của ngân hàng chịu trách
nhiệm tổ chức thực hiện. Tự đánh giá hệ thống kiểm sốt nội bộ có tác dụng
phòng ngừa rủi ro và hỗ trợ đắc lực cho cơng tác quản lý rủi ro của ngân
hàng. Dưới góc độ nghiên cứu này thì KTNB được xem là một phần của toàn
bộ hệ thống KTKSNB.
Việc xác định các bộ phận cấu thành của hệ thống KTKSNB có ý nghĩa
pháp lý quan trọng:
Trong các thành phần của hệ thống kiểm sốt nội bộ, mơi trường kiểm
sốt là thành phần quan trọng nhất có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả của hệ
thống KTKSNB; nếu mơi trường kiểm sốt nội bộ yếu hoặc thiếu nó chắc

chắn hệ thống KTKSNB sẽ hoạt động khơng hiệu quả, bất kể cả các thành
phần cịn lại hoạt động tốt. Do đó, mơi trường kiểm sốt nội bộ cần phải được
thể chế hoá bằng các quy định của pháp luật, buộc mọi tổ chức, người sử
dụng lao động cũng như người lao động phải tuân thủ. Có nghĩa, pháp luật
quy định buộc các NHTM xây dựng hệ thống KTKSNB hoạt động hiệu quả
và đúng pháp luật về tổ chức hoạt động, ban hành cơ chế chính sách nội bộ,
nguồn nhân lực, cơ chế trao đổi thông tin giữa các bộ phận và thường xuyên
tự đánh giá và được đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả của hệ thống KTKSNB.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc thiết lập hệ thống KTKSNB trong
các NHTM trong quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường, Chính phủ và
NHNN đã sớm có chủ trương định hướng cho việc tổ chức hoạt động của hệ
thống KTKSNB, cùng với các quy định về mặt pháp lý cho việc hình thành và
phát triển của hệ thống KTKSNB, KTNB trong các NHTM ở Việt Nam.


15

Yếu tố mơi trường kiểm sốt là cơ sở, định hướng để thiết lập các yếu
tố khác của hệ thống KTKSNB. Các cấu phần khác của hệ thống KTKSNB
được hình thành và hoạt động dựa trên yếu tố môi trường kiểm sốt. Nếu yếu
tố mơi trường kiểm sốt được chú trọng và đạt chuẩn mực cao trong NHTM
thì các yếu tố khác sẽ được thiết lập và hoạt động hiệu quả.
b) Kiểm toán nội bộ trong các ngân hàng thương mại
KTNB nói chung có vai trị rất quan trọng trong hoạt động quản lý. Đối
với nhiều doanh nghiệp có quy mô hoạt động lớn, kể từ khi Việt Nam chuyển
từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, để tồn tại và phát triển, các nhà quản trị doanh nghiệp phải
quyết định, thực hiện phương pháp quản lý đúng đắn để đảm bảo cho việc
kinh doanh có hiệu quả. Một trong những công cụ giúp cho các nhà quản trị
có được các thơng tin chính xác và kịp thời để đưa ra các quyết định đúng đắn

là hệ thống KTKSNB mà bộ phận trọng tâm của nó là KTNB. KTNB là công
cụ giúp phát hiện và cải tiến những điểm yếu trong hệ thống quản lý của
doanh nghiệp. Thông qua công cụ này, Hội đồng Quản trị và Ban giám đốc
doanh nghiệp có thể kiểm sốt hoạt động tốt hơn, quản lý rủi ro tốt hơn và
tăng khả năng đạt được các mục tiêu kinh doanh.
Trên thế giới hiện có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm KTNB.
Theo các chuẩn mực hành nghề của KTNB do Viện Kiểm tốn viên nội bộ
Hoa Kỳ ban hành thì KTNB là một chức năng xác định độc lập, sắp đặt bên
trong một tổ chức để xem xét, đánh giá các hoạt động và được coi là một dịch
vụ (sự hỗ trợ) đối với tổ chức.
Như vậy, theo định nghĩa trên, KTNB là một loại hình kiểm sốt có tổ
chức mà chức năng là đo lường và đánh giá hiệu quả của những việc kiểm
sốt khác và mang tính nội kiểm. KTNB là một bộ phận cấu thành, là bộ phận


16

trọng tâm của hệ thống KTKSNB, nó hoạt động theo những nguyên tắc của
kiểm toán, thực thi mọi chức năng cơ bản của kiểm tốn.
Hiện nay có nhiều khái niệm về KTNB, nhưng chung quy lại có thể
hiểu: KTNB là một hoạt động độc lập và khách quan được thành lập bên
trong một tổ chức nhằm mang lại cho tổ chức sự đảm bảo về khả năng kiểm
soát các hoạt động của tổ chức, tư vấn cho tổ chức các giải pháp chấn chỉnh
hoạt động của mình, góp phần tạo ra giá trị gia tăng cho tổ chức. Bằng việc sử
dụng một cách tiếp cận hệ thống và có phương pháp, KTNB giúp tổ chức của
mình thơng qua việc đánh giá quy trình quản lý rủi ro, quy trình kiểm sốt và
quản trị, sau đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của
các quy trình này.
Đối với NHTM, KTNB là một bộ phận cấu thành, có vai trị quan trọng
trong tổ chức hoạt động của một NHTM nói chung và hệ thống KTKSNB nói

riêng.
Các tác giả Alvin A.Rrens và Jame K.Loebbecke trong “Giáo trình
kiểm tốn” đã nêu lên định nghĩa chung về kiểm toán như sau: Kiểm tốn là
q trình các chun gia độc lập, có thẩm quyền và có kỹ năng nghiệp vụ, thu
nhập, đánh giá các bằng chứng về các thông tin số lượng có liên quan đến một
tổ chức kinh tế cụ thể nhằm mục đích xác định và báo cáo mức độ phù hợp
giữa các thơng tin số lượng đó với các chuẩn mực đã xây dựng [11, tr. 16).
Theo Khoản 1,2/Điều 2/Quyết định số 37/2006/QĐ-NHNN ngày
01/08/2006 của Thống đốc NHNN ban hành về Quy chế KTNB của TCTD:
KTNB là hoạt động kiểm tra, rà soát, đánh giá một cách độc lập, khách quan
đối với hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ; đánh giá độc lập về tính thích hợp
và sự tn thủ các chính sách, thủ tục quy trình đã được thiết lập trong tổ chức
tín dụng, thơng qua đó đơn vị thực hiện KTNB đưa ra các kiến nghị, tư vấn
nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các hệ thống, các quy trình,


17

quy định, góp phần đảm bảo tổ chức tín dụng hoạt động an toàn, hiệu quả,
đúng pháp luật; Bộ phận KTNB là đơn vị chuyên trách thực hiện hoạt động
KTNB của tổ chức tín dụng.
Theo Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 ngày 16 tháng 6 năm
2010: Tổ chức tín dụng phải thành lập KTNB chuyên trách thuộc Ban kiểm
sốt, thực hiện KTNB tổ chức tín dụng; KTNB thực hiện rà soát, đánh giá độc
lập, khách quan đối với hệ thống kiểm soát nội bộ; đánh giá độc lập về tính
thích hợp và sự tuân thủ quy định, chính sách nội bộ, thủ tục, quy trình đã
được thiết lập trong tổ chức tín dụng; đưa ra kiến nghị nhằm nâng cao hiệu
quả của các hệ thống, quy trình, quy định, góp phần bảo đảm tổ chức tín dụng
hoạt động an toàn, hiệu quả, đúng pháp luật.
c) Mối quan hệ giữa kiểm toán nội bộ với kiểm soát nội bộ trong

ngân hàng thương mại
KTNB khác kiểm soát nội bộ ở những điểm cơ bản: (i) Kiểm toán chỉ
tiến hành sau khi các nghiệp vụ kinh tế đã được hoàn tất; (ii) Kiểm tốn
khơng nằm trong quy trình tác nghiệp, nó là một hoạt động tách ra khỏi quy
trình, đứng bên ngồi để soi vào một cách khách quan quy trình này đang vận
hành như thế nào; (iii) Kiểm tốn có bộ phận chun mơn với tính độc lập
tương đối cùng kỹ thuật viên giỏi nghề ngân hàng mới có thể làm tốt cơng
việc KTNB.
Tuy nhiên, giữa KTNB và kiểm sốt nội bộ NHTM có mối quan hệ mật
thiết: (i) Đều có thể tiến hành theo hình thức gián tiếp trên cơ sở các tài liệu,
báo cáo, hoặc bằng hình thức trực tiếp với đối tượng cần kiểm tra, kiểm toán;
(ii) Có thể kết hợp với nhau tiến hành theo định kỳ, hoặc đột xuất, hoặc
thường xuyên do một người hoặc một nhóm người thực hiện; (iii) Có mục
đích chung là giám sát hoạt động ngân hàng tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc,


18

chống lại các hành vi lừa đảo, hạn chế rủi ro, duy trì hoạt động ngân hàng
trong an tồn, hiệu quả theo đường lối đã định.
1.1.4. Chức năng, nhiệm vụ của hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ
Hệ thống KTKSNB được thiết lập và hoạt động để đảm bảo cho hoạt
động của NHTM an toàn, hiệu quả và tuân thủ pháp luật. Vì vậy hệ thống
KTKSNB có những chức năng cơ bản sau:
Thứ nhất, hệ thống KTKSNB được thiết lập và hoạt động nhằm ngăn
ngừa các sai phạm, hạn chế và kiểm sốt những rủi ro có thể phát sinh trong
quy trình nghiệp vụ và hoạt động của NHTM: Tại các NHTM, cơ chế kiểm
soát nội bộ được thiết lập do nhu cầu kiểm soát các hoạt động quản lý, điều
hành, tác nghiệp trong hoạt động kinh doanh để nhằm ngăn chặn các sai phạm
đáng tiếc, các rủi ro có thể cản trở đến hoạt động của NHTM. Các rủi ro, hạn

chế trong quá trình hoạt động của NHTM có rất nhiều và thường trực như:
Các sai phạm về quy chế, quy trình nghiệp vụ cho vay, đầu tư; chế độ quản lý
kho quỹ, bảo quản tài sản có giá; kiểm soát đăng ký chữ ký và bảo quản ký
hiệu mật; quy trình quản lý và sử dụng thẻ ATM, thẻ thanh toán... Nếu hệ
thống KTKSNB được thiết lập và hoạt động hiệu quả sẽ góp phần ngăn chặn
đáng kể các vi phạm, qua đó hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro trong hoạt
động của NHTM.
Thứ hai, hệ thống KTKSNB được thiết lập nhằm phát hiện các sai sót:
Đó là việc xem xét, đối chiếu và đánh giá tính tuân thủ của các hoạt động
nghiệp vụ, các quyết định, chính sách được ban hành... so với luật và các qui
định của cơ quan quản lý nhà nước. Từ việc kiểm tra, kiểm sốt mà có thể
tìm ra các hành vi gian lận, lạm dụng nhiệm vụ, quyền hạn của các nhân viên
tác nghiệp, những nguyên nhân dẫn đến các sai phạm, thiếu sót. Cũng chính
qua đây có thể làm sáng tỏ vai trò và trách nhiệm của các cá nhân, tập thể
trong những hành vi sai trái đó. Kiểm soát để phát hiện gồm những hoạt động


19

kiểm tra thông qua các tài liệu nguyên bản, báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh; các bút toán trong sổ sách kế tốn; trong hồ sơ tín dụng; các sai phạm
trong sử dụng máy điện toán, trong các số liệu kế toán cũng như các sổ sách
khác của NHTM...
Thứ ba, vai trò của KTNB trong hệ thống KTKSNB. Như đã nghiên
cứu ở phần trên, trong tổng thể hệ thống KTKSNB thì KTNB là một bộ phận
cấu thành có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động của hệ thống KTKSNB
nói riêng và hoạt động của NHTM nói chung. KTNB có hai chức năng cơ
bản, bao gồm:
- Chức năng kiểm tra và thẩm định: Xác định độ tin cậy của các số liệu
và thông tin đã được công bố của NHTM; xác định tính đúng đắn và trung

thực và hợp pháp của các thơng tin phản ánh tình hình tài chính và hoạt động
kinh doanh của NHTM.
- Chức năng tư vấn rủi ro: Trên cơ sở những phát hiện trong quá trình
kiểm tra và thẩm định, KTNB đưa ra nhận xét về tính an tồn và hiệu quả
trong hoạt động kinh doanh cũng như những rủi ro tiềm ẩn, qua đó KTNB đề
xuất và tư vấn các giải pháp để khắc phục sai sót, cải tiến và hồn thiện hệ
thống KTKSNB, giúp NHTM đạt được mục tiêu của mình.
Để thực hiện các chức năng đó, kiểm tra KTNB phải thực hiện được
các nhiệm vụ:
- Kiểm tra và đánh giá tính phù hợp, tính hiệu lực và hiệu quả của hệ
thống kiểm soát nội bộ trong NHTM.
- Kiểm tra và xác nhận chất lượng, độ tin cậy của thông tin kinh tế, tài
chính của báo cáo tài chính, báo cáo kế tốn quản trị doanh nghiệp trước khi
trình duyệt và công bố.


20

- Kiểm tra và đánh giá sự tuân thủ các nguyên tắc hoạt động, quản lý
kinh doanh, đặc biệt là sự tuân thủ luật pháp, chính sách chế độ tài chính, kế
tốn, chính sách nghị quyết của Hội đồng quản trị, của Ban điều hành.
- Phát hiện những sơ hở, yếu kém, gian lận trong quản lý, trong bảo vệ
tài sản của NHTM; đề xuất các giải pháp nhằm cải tiến, hoàn thiện hệ thống
quản lý, điều hành kinh doanh của NHTM.
Để thực hiện được đầy đủ các nhiệm vụ trên, cần thiết phải có những
quy định về mặt pháp lý đối với tổ chức và hoạt động của KTNB của NHTM
đảm bảo khoa học theo những nguyên tắc cơ bản về tổ chức bộ máy và kiểm
toán viên, trên cơ sở đó xác định các mơ hình tổ chức trong hàng hoạt các mối
liên hệ bên trong và bên ngồi hệ thống kiểm tốn. Các ngun tắc cần phải
được quy định là: (i) Xây dựng đội ngũ KTV đủ về số lượng và đảm bảo yêu

cầu chất lượng, phù hợp với quy mô hoạt động của NHTM; (ii) Phải tạo ra
những mối liên hệ giữa các yếu tố, các phân hệ của KTNB với hệ thống
KTNB; giữa bản thân hệ thống KTNB với các bộ phận nghiệp vụ khác và với
mơi trường kiểm sốt (như đã nghiên cứu ở trên); (iii) Nguyên tắc tập trung
dân chủ: KTNB được tổ chức trong từng NHTM cụ thể, do NHTM lập ra theo
yêu cầu quản trị nội bộ và thực hiện nền nếp, kỷ cương quản lý; KTNB hoạt
động vì lợi ích của NHTM và mục tiêu chung của NHTM; mỗi tổ chức KTNB
của NHTM đều có các phân hệ, bộ phận chịu sự quản lý điều hành trực tiếp
của trưởng kiểm toán.
Tại Việt Nam, hoạt động kiểm soát nội bộ và KTNB tại các NHTM còn
nhiều bất cập so với các ngân hàng có quy mơ lớn, tổ chức khoa học trên thế
giới và so với các chuẩn mực kiểm soát và KTNB nói chung. Phần lớn ở các
NHTM hiện nay, chất lượng của cán bộ làm công tác kiểm tra, kiểm tốn cịn
nhiều bất cập, chưa đánh giá đúng vị trí vai trị của cơng tác này cũng như
phát triển nguồn nhân lực; nhiều ngân hàng cịn thiếu quy trình hướng dẫn



×